Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

một số giải pháp nâng cao chất lượng giảng dạy Giáo dục chính trị

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (178.65 KB, 12 trang )

MỘT SỐ PHƯƠNG PHÁP NHẰM NÂNG CAO
CHẤT LƯỢNG GIẢNG DẠY CÁC HỌC PHẦN CHUNG Ở
TRƯỜNG TRUNG CẤP LUẬT ĐỒNG HỚI
Cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng từng nói: “Nghề dạy học là nghề cao quý vào
bậc nhất trong những nghề cao quý, là nghề sáng tạo bậc nhất trong những nghề
sáng tạo….vì nó sáng tạo ra những con người sáng tạo”. Quả đúng như vậy, nghề
dạy học là một nghề hết sức đặc biệt không giống như những ngành nghề khác – đó là
nghề trồng người và sản phẩm của nghề dạy học chính là con người. Và nếu người kĩ
sư vui mừng nhìn thấy cây cầu của mình vừa mới xây xong, người nông dân mỉm
cười nhìn đồng lúa của mình mới trồng thì người GV vui sướng nhìn thấy HS của
mình trưởng thành lớn lên. GV là những người được đào tạo để giáo dục con người.
Giáo dục để HS trở thành những người có đủ Trí - Đức - Thể - Mỹ. Vì vậy, bản thân
mỗi nhà giáo phải là một tấm gương sáng cho HS noi theo. Để có được cái nhìn
ngưỡng mộ tôn trọng của HS trước tiên đối với người thầy cần không ngừng trau dồi
chuyên môn nghiệp vụ, có một năng lực sư phạm tốt. Ở bài tham luận này chúng tôi
xin phép được trao đổi về một số phương pháp nâng cao chất lượng giảng dạy các học
phần chung của Khoa Giáo dục chính trị, thể chất văn hóa.
1. Khái quát chung về các học phần chung giảng dạy ở Trường Trung cấp
Luật Đồng Hới
Các học phần chung bao gồm các học phần bắc buộc là Giáo dục chính trị, Tin
học và Tiếng Anh; Các học phần điều kiện là Giáo dục Quốc phòng - An ninh và Giáo
dục thể chất; Các học phần tự chọn: Kỹ năng điều hành công sở và giao tiếp công vụ
và Khởi tạo doanh nghiệp. Cho nên, bài tham luận của Khoa GDCTTCVH hôm nay
chỉ bàn về một số phương pháp nâng cao chất lượng giảng dạy các học phần mà Khoa
có GV đảm nhận.
Đặc điểm các học phần chung: Cung cấp kiến thức nền tảng cơ bản cho HS trước
vào học các môn chuyên ngành; Các học phần chung hầu như được giảng dạy vào học
kỳ 01; Khung chương trình các học phần chung không chỉ là áp dụng cho riêng đào
tạo chương trình trung cấp Luật mà là khung chương trình áp dụng cho tất cả các
chương trình đào tạo trình độ trung cấp chuyên nghiệp được quy định theo Thông tư
số 16/2010/TT-BGDĐT Ban hành Quy định về chương trình khung trung cấp chuyên


nghiệp của Bộ Giáo dục và Đào tạo ngày 28/6/2010.
2. Thực trạng dạy và học các học phần chung những năm qua có những vấn
đề sau
2.1. Thuận lợi:
- Hiện nay, phần lớn các GV trong Khoa đã tích cực soạn giáo án, bài giảng,
powerpoint, biên soạn tài liệu theo các môn được phân công hợp lý theo sở trường
chuyên môn của từng GV.
- Hầu như các học phần chung đều đã có GV của Khoa đảm nhận, đặc biệt là học
phần Giáo dục chính trị và Tiếng Anh đã có nhiều GV cùng đảm nhận giảng dạy đảm
bảo được chất lượng giảng dạy.
1


- Bên cạnh đội ngũ GV cơ hữu của Khoa, Nhà trường còn được cộng tác với đội
ngũ GV thỉnh giảng có kinh nghiệm trên địa bàn tỉnh Quảng Bình.
2.2. Khó khăn
- Nội dung chương trình nhiều, dung lượng kiến thức lớn. Số tiết các học phần
chung là 435 tiết – 22 đơn vị học trình. Sự phân bổ thời lượng giảng dạy cho các học
phần hầu như không đáp ứng được kiến thức phải truyền tải cho HS. Đây là khó khăn
không chỉ riêng các học phần chung gặp phải, mà là khó khăn chung của tất cả học
phần đào tạo trung cấp Luật. Do đó, trong 22 đơn vị học trình có 15 đơn vị học trình
là lý thuyết và 5 đơn vị học trình là thực hành, để đảm bảo về mặt thời gian thì GV
vẫn sử dụng thời gian thực hành sang lý thuyết để hoàn thành được nội dung môn học.
- Phương pháp giảng dạy của GV còn nhàm chán. Thời gian ít, khối lượng kiến
thức nhiều, thuyết trình là phương pháp tối ưu nhất được sử dụng trong giảng dạy các
học phần chung. Bên cạnh đó, nhiều GV đã sử dụng những phương pháp dạy học tích
cực như thảo luận nhóm, nêu tình huống, đóng vai.... Nhưng thực tế quá trình dạy học
cho thấy chủ yếu GV là người truyền thụ tri thức, là trung tâm của quá trình dạy học
còn HS tiếp thu thụ động những tri thức được quy định sẵn. Quá trình dạy học ít khi
có sự hợp tác, trao đổi nếu có thì chỉ dừng lại ở những tiết dự giờ mang tính đối phó.

- Cách thức đánh giá kết quả học tập của HS. Tiêu chí đánh giá được xây dựng
chủ yếu là dựa trên sự ghi nhớ và tái hiện nội dung đã học. Những câu hỏi chỉ dừng
lại ở việc học thuộc yêu cầu HS phải trình bày một nội dung đã học, ít có nội dung
vận dụng các tình huống trong thực tiễn.
- Trình độ nhận thức của HS. HS là người DTTS chiếm tỷ lệ cao trong số học
viên, HS của Trường, hơn nữa, còn có nhiều HS học hệ THCS. Cho nên, nhìn chung
trình độ dân trí của HS Trường TCLĐH còn thấp, đặc biệt là các HS là người DTTS
vốn từ tiếng việt hạn chế, khả năng sử dụng tiếng việt còn thấp. Điều này ảnh hướng
rất lớn đến chất lượng đào tạo của Trường nói chung và chất lượng giảng dạy các học
phần chung nói riêng.
- Đội ngũ GV của Khoa còn mỏng. Ngoài môn Tiếng Anh và GDCT thì những
môn còn lại cũng chỉ có một GV phụ trách (môn GDQP không có GV đảm nhậm
giảng dạy) gây khó khăn trong công tác phân công giảng dạy cũng như trao đổi
kinh nghiệm bộ môn,
Qua thực tiễn giảng dạy và quá trình nghiên cứu, Khoa GDCTTCVH chia sẻ
kinh nghiệm cũng như đề xuất một số ý kiến nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy các
học phần chung như sau:
3.Một số phương pháp nâng cao chất lượng giảng dạy các học phần
chung
3.1. Thiết kế giáo án, bài giảng phù hợp với đối tượng
Trước hết, khi thiết kế giáo án, bài giảng phải gắn liền với đặc thù chuyên
ngành đào tạo của Trường. Trường Trung cấp Luật Đồng Hới có chức năng đào
tạo các cán bộ pháp lý, các học phần chung được dạy ở học kỳ 1 khi HS vừa mới
bắt đầu vào học. Do đó, GV giảng dạy cần phải thiết kế giáo án, bài giảng có gắn
2


kết với chuyên ngành Luật, tạo bước nền cho HS học các môn Luật sau này, có
liên hệ thực tiễn với ngành nghề HS sau này ra trường làm việc.
Bên cạnh đó, đối tượng học của các trường trung cấp chuyên nghiệp cũng rất

khác nhau và đa dạng, cho nên để cho giáo án, bài giảng phù hợp với đối tượng,
GV cần chú ý đến khả năng, trình độ tiếp thu của người học để mở rộng hay thu
hẹp mức độ nông, sâu của bài học. Chẳng hạn như HS Trường Trung cấp Luật
Đồng Hới, đa số HS đào tạo chính quy tại trường là các em HS vừa mới tốt
nghiệp THCS và THPT có cùng độ tuổi, cùng trình độ kiến thức và kinh nghiệm
sống. Nhưng ở các lớp ngoài trường hay hệ vừa làm vừa học thì HS đa dạng về
tuổi tác, khác nhau về nghề nghiệp, lĩnh vực chuyên môn, về kiến thức và kinh
nghiệm, động cơ học tập cũng không giống nhau. Đặc biệt, Nhà trường còn đào
tạo HS Lào nên ngôn ngữ, văn hóa học tập cũng mang đặc trưng riêng.
3.2. Cải tiến phương pháp giảng dạy theo hướng kết hợp nhiều phương
pháp khác nhau nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS
3.2.1. Khai thác yếu tố tích cực của phương pháp giảng dạy thuyết trình
Hiện nay, phương pháp giảng dạy các học phần chung chủ yếu vẫn là thuyết
trình, độc thoại trên lớp. Đây là phương pháp truyền thống, đã trở nên quen thuộc
đối với hầu hết các GV. Phương pháp này có mặt ưu và nhược điểm nhất định.
Đặc điểm cơ bản nổi bật của phương pháp thuyết trình là thông báo - tái hiện.
Phương pháp này chỉ rõ tính chất thông báo bằng lời của thầy và tính chất tái hiện khi
lĩnh hội của trò. Phương pháp này thể hiện vai trò chủ động của GV, tập trung vào
hoạt động của GV. GV nghiên cứu tài liệu, sách giáo khoa, chuẩn bị bài giảng và trực
tiếp điều khiển thông báo luồng thông tin tri thức đến HS. HS tiếp nhận những thông
tin đó bằng việc nghe, nhìn, cùng tư duy theo lời giảng của thầy, hiểu, ghi chép và ghi
nhớ.
Phương pháp này không khuyến khích vai trò chủ động của người học. Sự thụ
động làm hạn chế khả năng học và khả năng tập trung của người học; không khuyến
khích trao đổi thông tin đa chiều; GV truyền đạt thông tin một chiều và phải luôn nổ
lực tìm hiểu những khó khăn mà người học gặp phải trong việc tiếp thu nội dung bài
giảng. Phương pháp truyền thống này không phát huy tính tích cực, học tập của HS
trong việc tham gia xây dựng bài, không khuyến khích người học phát triển kỹ năng
tổ chức và tổng hợp nội dung, HS đạt điểm cao nếu như có cách làm bài giống trong
sách hay của GV đưa ra, GV độc quyền đánh giá và cho điểm cố định, đánh giá theo

sự ghi nhớ thông tin.
Bên cạnh, mặt nhược điểm trên, phương pháp truyền thống này cũng có nhiều ưu
điểm nhất định như sau:
Thứ nhất, việc sử dụng phương pháp này cho phép GV truyền đạt những nội
dung lý thuyết tương đối khó, phức tạp, chứa đựng nhiều thông tin mà HS tự mình
không dễ dàng tìm hiểu được một cách sâu sắc. Ví dụ như, môn GDCT là một trong
những môn học nặng về lý luận và tính chính trị-xã hội trực tiếp, mang tính trừu
tượng và khái quát cao. Bên cạnh những tri thức khoa học với nhiều khái niệm,
thuật ngữ, phạm trù, quy luật cần phải được giải thích rõ, môn học này còn phải
chuyển tải đến người học nhiều nội dung quan trọng trong những nguyên lý của
3


chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối của Đảng Cộng sản Việt
Nam, chính sách, pháp luật của Nhà nước và con đường, phương pháp để thực hiện
các nội dung đó vào thực tiễn cách mạng Việt Nam.
Thứ hai, giúp HS nắm được hình mẫu về cách tư duy logic, cách đặt và giải
quyết vấn đề khoa học, cách sử dụng ngôn ngữ để diễn đạt những vấn đề khoa học
một cách chính xác, rõ ràng, xúc tích thông qua cách trình bày của GV.
Thứ ba, tạo điều kiện thuận lợi để GV tác động mạnh mẽ đến tư tưởng, tình cảm
của HS qua việc trình bày tài liệu với giọng nói, cử chỉ, điệu bộ thích hợp và diễn
cảm.
Thứ tư, tạo điều kiện thuận lợi để phát triển năng lực chú ý và kích thích tính
tích cực tư duy của HS, vì có như vậy HS mới hiểu được lời giảng của GV và mới ghi
nhớ được bài học.
Do đó, chúng ta chưa thể “chia tay” với phương pháp thuyết trình truyền
thống mà nên khai thác những yếu tố tích cực của phương pháp này và cải tiến
bằng cách kết hợp nó với các phương pháp khác nhằm tích cực hóa hoạt động
nhận thức của HS.
Cụ thể, thuyết trình không phải GV “nói và nói” mà thuyết trình phải gắn với

từng câu chuyện cụ thể, những bài thơ, những ví dụ cụ thể.
Ví dụ, khi giảng về Các chuẩn mực đạo đức cách mạng cơ bản theo tư tưởng Hồ
Chí Minh, GV sau khi giảng mỗi chuẩn mực: Trung với nước hiếu với dân; Cần,
kiệm, liêm, chính, chí công vô tư; Yêu thương con người; Tinh thần quốc tế trong
sáng thì GV trích dẫn các câu nói, bài viết của Bác Hồ, kể các câu chuyện về tấm
gương đạo đức Hồ Chí Minh để minh họa cho mỗi chuẩn mực đó. (Câu chuyện về
Bác viết Di chúc; Chuyện về chiếc áo kaki, đôi dép cao su của Bác Hồ; Chuyện về
những món quà và Cuốn sổ tiết kiệm của Bác Hồ).
Qua đó, giúp HS nắm được các luận điểm cơ bản của Chủ tịch Hồ Chí Minh về
các chuẩn mực đạo đực Hồ Chí Minh, giúp HS thấy yêu mến, quý trọng Bác Hồ hơn.
Như vậy, bằng một câu chuyện GV đã làm giờ học Giáo dục chính trị trở thành giờ kể
chuyện, vẫn hay bổ ích cho người học vẫn truyền đạt hết nội dung bài học. Thực tế
bản thân tôi đã áp dụng và HS rất hào hứng, háo hức với bài học. Tuy nhiên, việc sử
dụng phương pháp kể chuyện thì GV phải cẩn thận, tính toán kỷ lưỡng, không lạm
dụng, không lan man nội dung bài học. Mỗi GV phải không ngừng tự học, sưu tầm
trong thực tế, trên mạng internet, trong sách nhiều mẫu chuyện hay để cung cấp cho
người học và đặc biệt kể chuyện thì không phải ai kể cũng hay cho nên GV phải rèn
luyện kỹ năng đọc thơ, kể chuyện.
Mặt khác, khi giảng dạy, GV nên kết hợp phương pháp thuyết trình với các
phương pháp khác nhằm tích cực hóa hoạt động nhận thức của HS. Với kinh
nghiệm của mình trong thực tiễn giảng dạy, chúng tôi cho rằng trong giờ lên lớp,
GV nên kết hợp nhiều phương pháp giảng dạy khác nhau tuỳ thuộc vào nội dung
bài giảng, điều kiện lớp học và đối tượng HS. Sự kết hợp này cùng một lúc phát
huy được những ưu điểm và khắc phục được những hạn chế của từng phương
pháp, hạn chế tính thụ động, ỷ lại trong việc tiếp thu kiến thức của HS, buộc
người học phải tập trung vào bài giảng, phải suy nghĩ, đóng góp ý kiến xây dựng
4


bài học. Sự kết hợp này đòi hỏi cả thầy và trò phải nỗ lực cao, phải đầu tư nhiều

thời gian và công sức cho bài giảng.
Trong khả năng nghiên cứu và kinh nghiệm của cá nhân, tôi đề xuất một số
phương pháp giảng dạy tích cực kết hợp với phương pháp thuyết trình cho các
học phần chung.
3.2.2. Tăng cường sử dụng phương pháp thảo luận nhóm
Thảo luận nhóm là một hình thức để khắc phục hạn chế của phương pháp dạy
học truyền thống. Quá trình chuẩn bị nội dung thảo luận HS phải nghiên cứu bài
giảng, tìm tư liệu và xử lý thông tin trước khi đưa nội dung ra trước tập thể lớp, quá
trình này làm cho HS không những nắm được kiến thức cơ bản mà còn mở rộng và
nâng cao sự hiểu biết về nội dung tri thức của môn học. Tổ chức thảo luận là cơ hội để
HS trình bày chính kiến, học hỏi lẫn nhau, cùng nhau đối thoại để giải quyết một vấn
đề lý luận hoặc thực tiễn. Như vậy, thảo luận nhóm sẽ nâng cao năng lực tự học, rèn
luyện cho HS kỹ năng giao tiếp, kỹ năng giải quyết vấn đề kỹ năng trình bày vấn đề
khoa học, góp phần nâng cao bản lĩnh chính trị của HS.
Để tổ chức tốt giờ thảo luận đòi hỏi GV phải nâng cao trình độ chuyên môn,
năng lực sư phạm, khả năng am hiểu thực tế,… để phục vụ cho công tác giảng dạy.
Trong phương pháp tổ chức thảo luận, người học - đối tượng của hoạt động “dạy”,
đồng thời là chủ thể của hoạt động “học” - được cuốn hút, tham gia vào các hoạt động
học tập do GV tổ chức và chỉ đạo.. Hình thức thảo luận phát huy tính tự tin, tích cực,
chủ động, sáng tạo của HS không có nghĩa là vai trò của người thầy sẽ lu mờ, trái lại
để thực sự đóng vai trò là người tổ chức thực hiện, hướng dẫn HS trong hoạt động học
tập vai trò của người GV phải được nâng cao, có như vậy mới thực sự là người định
hướng hoạt động học tập của HS.
Ví dụ, để áp dụng phương pháp này trong giảng dạy phần tư tưởng Hồ Chí
Minh, GV tiến hành các bước sau:
Bước 1: Xác định chủ đề cho các nhóm làm việc và thảo luận
Trên cơ sở nội dung theo chương trình khung Bộ GD&ĐT ban hành, GV lựa
chọn các chủ đề để các nhóm chuẩn bị. Các chủ đề phải đảm bảo nội dung tri thức của
bộ môn, phù hợp với đối tượng HS và gắn liền với thực tiễn sâu sắc. Đối với phần Tư
tưởng Hồ Chí Minh, GV có thể xác định các chủ đề sau:

Chủ đề 1: Đối tượng, nhiệm vụ nghiên cứu và ý nghĩa học tập tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Chủ đề 2: Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh.
Chủ đề 3: Những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền
với chủ nghĩa xã hội.
Chủ đề 4: Những luận điểm cơ bản của Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng trong
sạch, vững mạnh.
Chủ đề 5: Những quan điểm của Hồ Chí Minh về xây dựng Nhà nước của dân,
do dân, vì dân.
5


Chủ đề 6: Nội dung và hình thức tổ chức khối đại đoàn kết dân tộc và đoàn kết
quốc tế theo quan điểm của Hồ Chí Minh.
Chủ đề 7: Những quan điểm của Hồ Chí Minh về văn hóa - đạo đức?
Bước 2: GV chia lớp học thành các nhóm và hướng dẫn HS cách thức hoạt động
nhóm
Trên cơ sở xác định được chủ đề trên, GV tiến hành phân chia nhóm ngẫu nhiên
hay có chủ định, được duy trì ổn định hay thay đổi từng phần của tiết học, được giao
cùng một nhiệm vụ hay những nhiệm vụ khác nhau, làm sao cho mỗi thành viên trong
nhóm thảo luận đều được phân công và có trách nhiệm ở trong nhóm. Nhóm tự bầu
nhóm trưởng nếu thấy cần. Trong nhóm có thể phân công mỗi người một phần việc.
Trong nhóm nhỏ, mỗi thành viên đều phải làm việc tích cực, không thể ỷ lại vào một
vài người hiểu biết và năng động hơn. Các thành viên trong nhóm giúp đỡ nhau tìm
hiểu vấn đề nêu ra trong không khí thi đua với các nhóm khác. Kết quả làm việc của
mỗi nhóm sẽ đóng góp vào kết quả học tập chung của cả lớp. Để trình bày kết quả làm
việc của nhóm trước toàn lớp, nhóm có thể cử ra một đại diện hoặc phân công mỗi
thành viên trình bày một phần nếu nhiệm vụ giao cho nhóm là khá phức tạp. GV có
thể tùy vào độ phức tạp của vấn đề mà yêu cầu các nhóm chuẩn bị trước ở nhà hay chỉ
tiến hành làm việc ở lớp.

Ví dụ:
Để thảo luận chủ đề số 2: Cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh, GV chia lớp
thành 3 nhóm với 3 nội dung cụ thể:
Nhóm 1: Trình bày hoàn cảnh lịch sử hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh?
Nhóm 2: Trình bày những tiền đề tư tưởng – lý luận hình thành tư tưởng Hồ Chí
Minh?
Nhóm 3: Trình bày các phẩm chất, năng lực của Hồ Chí Minh?
Mỗi nhóm sẽ có 3 đến 5 phút thảo luận, chuẩn bị nội dung trình bày.
Bước 3: Tổ chức thực hiện thảo luận
* Báo cáo nội dung vấn đề thảo luận: GV yêu cầu HS trong nhóm trình bày
những yêu cầu của nội dung câu hỏi. Các thành viên trong nhóm bổ sung để hoàn
chỉnh nội dung trả lời. Đồng thời, yêu cầu các nhóm khác chuẩn bị các câu hỏi để chất
vấn, làm rõ vấn đề của nhóm trình bày đó.
* Thảo luận: Sau khi nhóm báo cáo đã trình bày hoàn chỉnh nội dung, nhóm
nghe báo cáo sẽ chất vấn, yêu cầu làm rõ một số vấn đề trong nội dung báo cáo hoặc
đưa ra tình huống giả định,…cho nhóm báo cáo, nhóm báo cáo có trách nhiệm trả lời
các vấn đề trong nội dung bài học. Đây là một hoạt động rất sôi nổi, tạo nên không khí
thoải mái trong lớp học cũng như tính cạnh tranh trong học tập, tạo ra một động lực
lớn trong quá trình tiếp nhận tri thức. Hoặc GV có thể đưa thêm vấn đề yêu cầu các
nhóm thảo luận, đưa ra quan điểm của mỗi nhóm. Ví dụ như, khi thảo luận chủ đề
“cơ sở hình thành tư tưởng Hồ Chí Minh”, GV đưa ra vấn đề "cơ sở nào đóng vai trò
quyết định đến bản chất tư tưởng Hồ Chí Minh", HS thường có hai quan điểm khác
nhau:
6


Quan điểm thứ nhất cho rằng, chính nhân tố chủ quan Hồ Chí Minh với khả năng
tư duy và trí tuệ cùng với phẩm chất đạo đức và năng lực hoạt động thực tiễn đã giúp
Người đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, khám phá ra lý luận cách mạng thuộc địa trong
thời đại mới, trên cơ sở đó xây dựng một hệ thống quan điểm lý luận toàn diện, sâu

sắc và sáng tạo về cách mạng Việt Nam, kiên trì chân lý và định ra các quyết sách
đúng đắn, sáng tạo để đưa cách mạng đến thắng lợi.
Quan điểm thứ hai cho rằng, những tiền đề về tư tưởng lý luận (cơ sở khách
quan) là yếu tố mang tính quyết định đến quá trình hình thành và phát triển tư tưởng
Hồ Chí Minh. Chủ nghĩa Mác - Lênin chính là yếu tố quyết định đến quá trình hình
thành và bản chất cách mạng và khoa học của tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong quá trình các nhóm thảo luận GV có thể đưa ra những câu hỏi để hướng
HS vào những vấn đề trọng tâm của bài học, hoặc đưa họ vào các tình huống có vấn
đề để giải quyết, làm sao để HS phát huy tính mạnh dạn, sự đối thoại và trao đổi với
nhau, khuyến khích HS tìm kiếm, nắm bắt tri thức một cách chủ động, sáng tạo.
* Tổng kết
+ GV đưa ra hệ thống kiến thức chuẩn cho những tranh luận và ý kiến phát biểu
của HS. Trên cơ sở ví dụ trên, GV khẳng định tính đúng đắn của quan điểm cho rằng
"Chủ nghĩa Mác -Lênin chính là cơ sở quyết định đến bản chất tư tưởng Hồ Chí
Minh". Chủ nghĩa Mác - Lênin là cơ sở thế giới quan và phương pháp luận của tư
tưởng Hồ Chí Minh, Người đã tiếp thu lý luận của Mác - Lênin theo phương pháp
mácxít, nắm lấy cái tinh thần, cái bản chất. Người vận dụng lập trường, quan điểm,
phương pháp biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin để giải quyết những vấn đề thực
tiễn của cách mạng Việt Nam. Chính vì vậy, Hồ Chí Minh khẳng định: "Bây giờ học
thuyết nhiều, chủ nghĩa nhiều, nhưng chủ nghĩa chân chính nhất, chắc chắn nhất, cách
mệnh nhất là chủ nghĩa Lênin"; "Chính là do cố gắng vận dụng những lời dạy của
Lênin, nhưng vận dụng một cách sáng tạo, phù hợp với thực tế Việt Nam ngày nay,
mà chúng tôi đã chiến đấu và giành được thắng lợi to lớn". Quá độ từ CNTB sang
CNXH là xu thế khách quan của thời đại, xu thế này quy định con đường cứu nước và
giải phóng dân tộc của các dân tộc bị áp bức trên toàn thế giới. Độc lập cho đất nước,
hạnh phúc cho nhân dân không chỉ là nguyện vọng của Hồ Chí Minh mà đó là nguyện
vọng của toàn thể nhân dân Việt Nam lúc bấy giờ. Vì vậy, lựa chọn con đường đi lên
CNXH là một sự lựa chọn phù hợp với sự phát triển khách quan của thời đại và
nguyện vọng của dân tộc Việt Nam. Hồ Chí Minh đã nhận thức được quy luật tất yếu
khách quan của lịch sử, Người đã vận dụng sáng tạo vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể

của Việt Nam, từng bước đưa cách mạng Việt Nam đến thắng lợi.
Bước 5: GV nhận xét và đánh giá cho điểm các nhóm
GV nhận xét kết quả báo cáo, trả lời câu hỏi, đưa ra tình huống của các nhóm.
Đánh giá và cho điểm hoạt động của HS trong giờ thảo luận làm cơ sở để cộng
vào điểm giữa kỳ.
Để có một giờ thảo luận có hiệu quả GV cần lưu ý một số vấn đề sau:
+ Giờ thảo luận chỉ phát huy hiệu quả khi tất cả HS đều tham gia vào tiến trình
chung của giờ học. Vì vậy, việc chuẩn bị các yêu cầu của giờ học là rất cần thiết, đây
chính là nền tảng quan trọng nhất để tổ chức thảo luận thành công.
7


+ Để đảm bảo cho HS được tham gia trình bày, tranh luận trong giờ thảo luận, sĩ
số của mỗi lớp thảo luận không quá 40 HS.
+ Nội dung thảo luận gồm rất nhiều vấn đề, trong khi thời gian dành cho hoạt
động lại có hạn, vì thế GV phải thực sự giữ thế chủ động trong quá trình điều hành.
+ Trong quá trình thảo luận HS sẽ trình bày chủ đề có tính ngẫu hứng nhất định
theo cách hiểu của các em, có thể sẽ xuất hiện những vấn đề, những luận điểm không
phù hợp với chủ đề của buổi thảo luận, hoặc xuất hiện những tranh luận giữa các
nhóm HS. Đây chính là thời điểm thể hiện vai trò quan trọng của người thầy trong
việc định hướng hoạt động nhận thức của HS. Để đáp ứng được yêu cầu đó đòi hỏi
GV phải nâng cao năng lực sư phạm, thường xuyên bồi dưỡng về kiến thức lý luận và
thực tiễn.
Ở đây cần lưu ý là tùy vào nội dung bài giảng, tùy vào đối tượng, số lượng HS
GV sử dụng phương pháp này cho phù hợp. Không nhất thiết lúc nào cũng phân chia
lớp ra làm 3 hay 4 nhóm, có lúc nhóm cũng chỉ cần 2 bạn ngồi gần nhau cũng mang
lại những hiệu quả nhất định. Ví dụ như môn Tiếng Anh, GV của Khoa thường hay
yêu cầu HS làm việc theo cặp. Như là khi dạy phần Practice của Unit 9, GV đưa ra
các hình ảnh đồng hồ hiển thị các giờ khác nhau và yêu cầu các cặp thảo luận đưa ra
câu trả lời chính xác. Việc phân HS theo cặp sẽ giúp HS đều được tham gia vào quá

trình thảo luận trả lời câu hỏi, không bỏ sót HS nào.
Việc sử dụng phương pháp thảo luận nhóm được ví như “con dao hai lưỡi”, nếu
GV không nắm vững bản chất của phương pháp này thì việc sử dụng chỉ mang tính
hình thức, đối phó. Còn nếu GV nắm vững bản chất thì quá trình dạy học sẽ mang lại
nhiều tích cực.
3.2.3. Phát huy tính tự học của HS
Có thể khẳng định một trong những nguyên nhân lớn nhất dẫn đến kết quả học
tập còn hạn chế của HS Trường Trung cấp Luật Đồng Hới hiện nay là các em chưa có
ý thức tự giác trong quá trình học tập, một phần khác là do các em chưa được định
hướng một cách cụ thể trong hoạt động tự học của bản thân. Do vậy, vai trò của người
GV trong việc phát triển kỹ năng tự học của HS nhằm góp phần nâng cao chất lượng
dạy và học ở trường ta là hết sức quan trọng.
Tự học hiểu theo đúng bản chất là tự mình động não, suy nghĩ, sử dụng các
năng lực trí tuệ (quan sát, so sánh, phân tích, tổng hợp…) và có khi cả cơ bắp (sử
dụng các phương tiện) cùng các phẩm chất, cả động cơ, tình cảm, cả nhân sinh quan,
thế giới quan, không ngại khó, ngại khổ, kiên trì, nhẫn nại, lòng say mê… để chiếm
lĩnh một lĩnh vực khoa học nào đó, biến lĩnh vực đó thành sở hữu của mình.
Trong vấn đề giáo dục nói chung và việc học nói riêng thì tự học có một vai trò
hết sức quan trọng. Tự học giúp người học hiểu sâu, mở rộng, củng cố và ghi nhớ bài
học một cách vững chắc nhờ vào khả năng tự phân tích, tổng hợp tài liệu, từ đó có
khả năng vận dụng các tri thức đã học vào việc giải quyết những nhiệm vụ học tập
mới. Đồng thời, tự học giúp người học hình thành được tính tích cực, độc lập tự giác
trong học tập cũng như nề nếp làm việc khoa học. Từ đó quyết định sự phát triển các
phẩm chất nhân cách và quyết định chất lượng học tập của HS.. Do đó, để phát huy
8


được tính tích cực của HS trong học tập, GV nên rèn luyện cho HS kỹ năng tự học
này.
Những việc GV cần làm để phát triển kỹ năng tự học cho HS:

Thứ nhất, muốn HS có ý thức tự học thì trước hết HS phải yêu thích môn học đó.
Vì vậy GV cần tạo cho HS niềm say mê môn học. GV có thể dùng tiết dạy để giới
thiệu về môn học, về những giá trị của môn học trong thực tiễn bằng những ví dụ
minh họa cụ thể nhằm kích thích động cơ học tập ở các em. Ở đây đỏi hỏi mỗi GV
phải tâm huyết với nghề, vận dụng được những phương pháp giảng dạy tích cực thu
hút được HS học tập.
Thứ hai, GV cần hướng dẫn cho HS cách xây dựng kế hoạch học tập từ ban đầu.
Ngay từ tiết học đầu tiên của môn học, GV không cần phải dạy ngay mà cần giới thiệu
sơ lược về chương trình, nội dung và phương pháp học một cách khái quát nhất để HS
hiểu và từ đó, tự xây dựng cho mình kế hoạch học tập phù hợp. GV phải làm cho HS
hiểu rõ: mọi kế hoạch phải được xây dựng dựa trên mục tiêu chung và mục tiêu cụ thể
và HS hoàn toàn có thể phấn đấu thực hiện được từng mục tiêu nếu có kế hoạch thời
gian được xây dựng chi tiết. Chẳng hạn, trong quá trình giảng dạy mỗi chương, GV sẽ
cung cấp nội dung và thời gian học và kiểm tra để HS nắm rõ. Đồng thời, GV có thể
cho HS đánh dấu vào trong sách bài nào học ngày nào, đến tiết nào sẽ kiểm tra. Muốn
HS tự xây dựng kế hoạch học tập thì GV phải là người cung cấp đầy đủ kế hoạch dạy
và học của bộ môn.
Thứ ba, GV hướng dẫn cho HS cách tìm và đọc sách hoặc tài liệu liên quan đến
môn học. GV cần nhấn mạnh cho HS thấy rằng, kiến thức môn học không chỉ gói gọn
trong nội dung giáo trình, trong bài giảng của GV mà đến từ nhiều nguồn khác nhau.
Do đó, GV cần giới thiệu cho HS những cuốn sách hay, những tài liệu bổ ích liên
quan đến môn học và khuyến khích các em tự tìm kiếm, tự phân tích và tổng hợp kiến
thức. GV cũng có thể giới thiệu địa chỉ một số trang web, hoặc các trang diễn đàn trao
đổi kinh nghiệm học tập để HS tham khảo thêm.
Thứ tư, GV nên dạy cho HS cách ghi chép và nghe giảng vì đây là những kỹ
năng học tập vô cùng quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến quá trình học tập của HS.
Trình độ nghe và ghi chép của người học ở mỗi môn học khác nhau là khác nhau, tùy
thuộc vào đặc thù của từng môn học và phương pháp giảng dạy của từng GV. HS
thường mang lối học thụ động, quen tách việc nghe và ghi chép ra khỏi nhau, thậm chí
nhiều HS chỉ chờ GV đọc mới có thể ghi chép được nội dung bài học, nếu ngược lại

thì bỏ trống vở. Điều này khiến HS có tâm lí ức chế, ảnh hưởng đến quá trình tiếp
nhận kiến thức. Đặc biệt, HS Trường Trung cấp Luật Đồng Hới kỹ năng sử dụng tiếng
Việt còn rất hạn chế, nhiều HS “đọc chưa thông, viết chưa thạo”, cho nên GV khi
giảng dạy cần lưu ý vấn đề ghi chép của HS. Để khắc phục vấn đề này này, GV nên
hướng dẫn HS đối với các vấn đề mà HS còn chưa rõ, có thể đánh dấu để hỏi lại GV
hoặc tìm hiểu thêm. Khi GV đọc kiến thức cho HS ghi chép, cần phải bao quát lớp để
hướng dẫn, đôn đốc, rèn giũa khả năng ghi chép cho HS trước hết là ghi chép đúng
chính tả và sau là rèn luyện cho HS cách ghi chép nhanh bằng các hình thức gạch
chân, tóm lược bằng sơ đồ hình vẽ những ý chính. Đối với các vấn đề quan trọng, GV
cần nhấn mạnh, lặp lại nhiều lần để HS tiếp thu dễ dàng hơn.
9


Thứ sáu, GV cần giao nhiệm vụ cụ thể cho HS ở tiết học tiếp theo. Để phát huy
tối đa năng lực tự học và thúc đẩy HS tận dụng hết thời gian tự học, GV cần giao
nhiệm vụ cụ thể cho HS. Có như thế, các em mới định hướng được cụ thể các nhiệm
vụ mình cần làm tiếp theo. Sau khi đã tiếp nhận được kiến thức cũ, các em có thể tìm
hiểu kiến thức mới. Khi có sự chuẩn bị trước ở nhà, việc học trên lớp sẽ trở nên có
hiệu quả hơn rất nhiều.
Ví dụ như phần TTHCM của môn GDCT có thể áp dụng phương pháp này như
sau:
Trước tiên, GV yêu cầu HS trực tiếp tìm hiểu các bài viết, bài nói của Hồ Chí
Minh theo gợi ý của một hệ thống các câu hỏi, bài tập cho trước. Bằng biện pháp này
HS tự tìm đến và độc lập cảm nhận được các luận điểm trong tư tưởng Hồ Chí Minh
mà không thông qua sự áp đặt nhận thức trong bài giảng của GV cũng như trong bài
viết của tác giả viết giáo trình. Đây là một biện pháp khá hiệu quả trong việc phát huy
tính tích cực tìm tòi, nghiên cứu của HS và nếu thực hiện tốt HS sẽ có được vốn kiến
thức phong phú về tư tưởng Hồ Chí Minh đồng thời rèn luyện được kỹ năng phân tích
và nắm bắt tư tưởng.
Sau khi yêu cầu HS tìm hiểu bài học trước ở nhà, đầu mỗi buổi học trên lớp dành

một khoảng thời gian để HS trình bày kết quả tự học ở nhà. Biện pháp này, HS có thể
tham gia thực hiện qua các dạng bài tập sau:
Bài tập siêu tốc: Trong vòng 30 giây cá nhân phải trả lời ngắn gọn bài tập được
chỉ định;
Bài tập tình huống: Trả lời tình huống hoặc câu hỏi suy luận;
Bài tập slide: tập tóm tắt nội dung cốt lõi nhất trong một văn bản để thuyết trình
trước lớp. Hoặc bình luận, hùng biện đoạn phim, chuỗi hình ảnh về Hồ Chí Minh qua
các thời kỳ hoạt động để làm nổi bật được tư tưởng, tấm gương và những công lao mà
Người đã đóng góp cho cách mạng và dân tộc;
Bài tập chính kiến: trình bày ý kiến riêng của mình về một vấn đề mở, trong 1 - 2
phút;
Bài tập tiếp sức đồng đội: do lớp trưởng một lớp điều hành, các HS khác làm
phản biện. Khi HS thứ nhất trả lời xong (GV chưa đánh giá) thì phải “chuyển” micrô
cho HS thứ hai cùng lớp (để trả lời tiếp hoặc bổ sung, hoặc phát hiện chỗ sai, chỗ
thiếu…) GV sẽ quyết định khi nào ngừng dây chuyền trả lời này, để đưa ra nhận xét
và kết luận cho cả lớp.
Tất nhiên, ở biện pháp học tập qua các bài tập trên của HS đòi hỏi có sự hướng
dẫn của GV. GV tác động vào quá trình tự thể hiện này của HS bằng nhiều cách:
Hướng dẫn phương pháp tiếp nhận văn bản Hồ Chí Minh, khẳng định những ý kiến
đúng, biểu dương những ý kiến sáng tạo, sắc sảo, gợi ý cách đọc hiểu, đọc sâu sau khi
đã đọc biết, lưu ý nhận thức sai, nhắc nhở ý lạc đề… hoặc cung cấp thêm những hoàn
cảnh, sự kiện lịch sử để hiểu đúng luận điểm của Hồ Chí Minh và thấy được giá trị to
lớn của luận điểm đó; giúp HS thực hiện văn hoá tranh luận trong quá trình học tập tư
tưởng Hồ Chí Minh.

10


Hay môn Kỹ năng giao tiếp, khi thực hành phần Kỹ năng thuyết trình, tôi yêu
cầu học sinh chuẩn bị bài thuyết trình trước ở nhà với chủ đề tự chọn. Tiết sau yêu cầu

học sinh lên thuyết trình (lưu ý không được cầm vở đọc) và cho điểm đánh giá định
kỳ. Đây cũng là cách thức giúp học sinh phải tự học ở nhà.
Vấn đề tự học ở HS là một vấn đề không hề đơn giản. Muốn hoạt động học tập
đạt kết quả cao, đòi hỏi HS phải tự giác, không ngừng tìm tòi học hỏi. Ngoài ra, sự
định hướng của người thầy đóng vai trò quyết định thúc đẩy sự thành công trong việc
chiếm lĩnh tri thức của người học.
3.2.4. Phương pháp đóng vai
Phương pháp đóng vai trong giờ học là hình thức hoạt động đặt HS vào thế hoàn
toàn chủ động, có thể bộc lộ hết trình độ nhận thức, kỹ năng, và tình cảm xã hội chính trị của họ. Thành công của GV khi giảng dạy không chỉ được đánh giá qua
lượng kiến thức mà HS tiếp thu được, mà còn được đánh giá qua kỹ năng giao tiếp và
xử lý tình huống thực tế của HS. Phương pháp đóng vai là một trong những cách hiệu
quả để rèn luyện được kỹ năng này. Đóng vai là phương pháp tổ chức cho HS thực
hành một số cách ứng xử nào đó trong một tình huống giả định. Đối với các học phần
chung, các học phần Tiếng Anh và Kỹ năng giao tiếp áp dụng được phương pháp này.
Qua thực tiễn áp dụng, tôi nhận thấy để phát huy được mặt tích cực của phương pháp
này, GV cần lưu ý những vấn đề sau:
Phương pháp đóng vai có thể tiến hành theo các bước sau: - GV chia nhóm, giao
tình huống đóng vai cho từng nhóm và quy định rõ thời gian chuẩn mực, thời gian
đóng vai. - Các nhóm thảo luận chuẩn bị đóng vai. - Các nhóm lên đóng vai. - GV
phỏng vấn HS đóng vai: + Vì sao em lại ứng xử như vậy? + Cảm xúc, thái độ của em
khi thực hiện cách ứng xử? - Lớp thảo luận, nhận xét: Cách ứng xử của các vai diễn
phù hợp hay chưa phù hợp? Chưa phù hợp ở điểm nào? Vì sao?
- Tình huống nên để mở, không cho trước “ kịch bản”, lời thoại. - Phải dành thời
gian phù hợp cho các nhóm chuẩn bị đóng vai. - Người đóng vai phải hiểu rõ vai của
mình trong bài tập đóng vai để không lạc đề. - Nên khích lệ cả những HS nhút nhát
tham gia. - Nên hoá trang và có đạo cụ đơn giản để tăng tính hấp dẫn của trò chơi
đóng vai.
3.2.5. Tổ chức các trò chơi học tập
Đây là phương pháp mà theo tôi tất cả các học phần đều áp dụng được. Ưu điểm
của phương pháp này là giúp HS nắm vững được những kiến thức cơ bản nhất của bài

học như khái niệm, các luận điểm. Tuy nhiên, đối với phương pháp này HS sẽ không
có nhiều cơ hội để tìm hiểu sâu nội dung của bài học. Vì vậy, tổ chức trò chơi chỉ
thích hợp với giai đoạn đầu của bài giảng, khi GV bắt đầu hướng dẫn những kiến thức
cơ bản, nền tảng cho HS và giai đoạn cuối bài giảng, khi GV củng cố lại các kiến thức
đã học.
Ví dụ như: Trong môn GDCT, GV đưa ra một ô chữ về Hồ Chí Minh yêu cầu
HS tham gia trả lời hoặc đưa ra một câu hỏi trắc nghiệm mức độ khó với các phương
án trả lời… ai trả lời đúng sẽ được nhận danh hiệu Nhà thông thái buổi học đó. GV bộ
môn Tiếng Anh của Khoa khi giảng dạy cũng thường đưa ra các trò chơi như “luky
11


number”, “slap the board”, “matching”, “who is the millionaire”… giúp HS củng cố
từ vựng, ôn lại kiến thức ngữ pháp, nâng cao khả năng giao tiếp bằng tiếng Anh.
Hai biện pháp 3.2.3 và 3.2.4 có hiệu quả tâm lý sư phạm rất quan trọng: HS tự
biểu hiện, tự đánh giá; HS dạy HS, HS học hỏi lẫn nhau; khuyến khích sự hợp tác,
cộng đồng trong học tập; phát hiện biểu dương, khen thưởng kịp thời các HS tích cực,
có ý thức đúng với môn học; tạo thi đua trong học tập; tăng tình cảm yêu thích với các
môn học… Qua đó, đánh giá được ý thức và tính tích cực của HS một cách chính xác.
III. PHẦN KẾT LUẬN
Tóm lại, có thể nói đi liền với việc đổi mới phương thức đào tạo đòi hỏi có sự
đổi mới về phương pháp giảng dạy của giáo viên và phương pháp học tập học sinh.
Muốn học sinh thực hiện các biện pháp học tập tích cực nói trên nhất thiết cần có sự
hướng dẫn và chỉ đạo tích cực, khoa học của giáo viên. Lâu nay, thuyết trình vẫn là
phương pháp cơ bản trong giảng dạy, giáo dục, tuyên truyền tư tưởng Hồ Chí Minh.
Phương pháp này vẫn có vai trò quan trọng nhất định. Qua đó, người giảng có thể
nhanh chóng truyền đạt nội dung tư tưởng, dễ dàng biểu đạt tình cảm, linh hoạt trong
mọi ngữ cảnh, mọi đối tượng. Tuy nhiên, phương pháp này dùng nhiều thì dễ gây ra
nhàm chán, thầy nói - trò ghi, thầy thường phải độc thoại, người học chỉ được nghe
một chiều, tiếp thu một cách thụ động, máy móc, chưa tích cực chủ động, nên có

những hạn chế trong tiếp thu, thường thì khó nhớ, mau quên; nội dung bài học chưa
được thảo luận, tranh luận, bàn bạc một cách sâu sắc; người giảng dạy, tuyên truyền
chưa biết được ý kiến phản hồi từ phía người học, người nghe để làm cơ sở cho việc
bổ sung, điều chỉnh nội dung, phương pháp giảng dạy, truyền đạt của mình.
Vì vậy, đổi mới phương pháp giảng dạy, học tập đặc biệt tăng cường sử dụng
phương pháp giảng dạy tích cực phần tư tưởng Hồ Chí Minh là một yêu cầu bức thiết.
Để nâng cao chất lượng giảng dạy môn GDCT, mỗi giáo viên cần nhận thức sâu sắc
hơn nữa vị trí, vai trò của môn học; tích cực nâng cao chất lượng bài giảng; thực hiện
đổi mới nội dung chương trình; cải tiến phương pháp giảng dạy; để đáp ứng những
yêu cầu mới của sự nghiệp giáo dục và đào tạo. Mỗi giáo viên phải có kế hoạch tự
phấn đấu để nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn, nghiệp vụ, ngoại ngữ, tin học và
khả năng sử dụng các phương tiện hiện đại phục vụ cho việc giảng dạy và nghiên cứu
khoa học.

12



×