Tải bản đầy đủ (.pdf) (10 trang)

Phát triển hoạt động môi giới của công ty chứng khoán ở việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (180.05 KB, 10 trang )

LỜI MỞ ĐẦU
 Sự cần thiết của đề tài
Môi giới chứng khoán là hoạt động cơ bản mà hầu hết mọi công ty chứng khoán đều
tham gia. Là trung gian giao dịch, hoạt động môi giới của công ty chứng khoán có vai trò
quan trọng trong việc tăng tính thanh khoản của thị trường, hỗ trợ cho các nhà đầu tư
trong giao dịch, từ đó làm tăng hiệu quả đầu tư của các nhà đầu tư cũng như hiệu quả
hoạt động của thị trường chứng khoán.
Mặc dù đã vận hành được hơn 11 năm, hoạt động môi giới của công ty chứng khoán vẫn
chưa phát triển, chất lượng hiệu quả môi giới thấp, không có sự gắn kết quyền lợi, trách
nhiệm chặt chẽ giữa công ty chứng khoán và khách hàng. Hoạt động môi giới của các
công ty chứng khoán ở Việt Nam hiện nay chưa thực sự đúng với hoạt động môi giới vẫn
thường thấy trên các thị trường chứng khoán thế giới. Để thu hút được đông đảo nhà đầu
tư và trở thành một hoạt động có uy tín và chất lượng, hoạt động môi giới cần được đổi
mới và phát triển hơn nữa. Với lý do đó, tác giả đã lựa chọn đề tài “Phát triển hoạt động
môi giới của Công ty chứng khoán ở Việt Nam” để nghiên cứu cho luận văn thạc sỹ của
mình.
 Mục đích nghiên cứu của đề tài
-Hệ thống hóa những vấn đề lý luận cơ bản về phát triển hoạt động môi giới của CTCK.
-Phân tích thực trạng hoạt động môi giới của CTCK ở Việt Nam. Từ đó đánh giá kết quả,
phân tích các nguyên nhân làm hạn chế sự phát triển hoạt động môi giới của các CTCK ở
Việt Nam giai đoạn 2008-2010.
-Đề xuất hệ thống giải pháp thúc đẩy sự phát triển hoạt động môi giới của CTCK ở Việt
Nam trong thời gian tới.
 Phương pháp nghiên cứu
Để thực hiện mục tiêu nghiên cứu, trên cơ sở phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử, tác giả đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như
phương pháp thống kê, so sánh, phân tích,tổng hợp, nghiên cứu tình huống và phương
pháp chuyên gia để luận giải vấn đề nghiên cứu.
CHƯƠNG 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CƠ BẢN VỀ
PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1 Tổng quan về Công ty chứng khoán


1.1.1 Khái niệm


Các công ty chứng khoán là tổ chức tài chính trung gian thực hiện các nghiệp vụ trên thị
trường chứng khoán. Trong giai đoạn hiện nay khi mà thị trường chứng khoán Việt Nam
đã đi vào hoạt động được 11 năm, thị trường còn tiềm ẩn rất nhiều rủi ro, thông tin còn
thiếu thì việc tham gia của các công ty chứng khoán trên thị trường là điều tất yếu khách
quan và cần có cơ chế khuyến khích đối với tổ chức trung gian này.
Công ty chứng khoán có những đặc điểm sau: là một tổ chức tài chính thực hiện trung
gian giao dịch, thông tin, rủi ro, kỳ hạn, vốn và thanh toán; vốn - tài sản; các sản phẩm
dịch vụ liên tục thay đổi, dễ bắt chước và không có bản quyền; tính độc lập tương đối về
mô hình tổ chức và hoạt động; dễ xảy ra xung đột lợi ích.
Có 3 loại hình tổ chức CTCK cơ bản là: công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn
và công ty cổ phần.
Các hoạt động chính của công ty chứng khoán gồm:
 Môi giới chứng khoán: là hoạt động trung gian hoặc đại diện bên mua hoặc bên bán
thực hiện giao dịch để hưởng hoa hồng. Theo đó các công ty chứng khoán đại diện cho
khách hàng tiến hành giao dịch thông qua Sở giao dịch chứng khoán hoặc thị trường
OTC mà chính khách hàng phải chịu trách nhiệm đối với các kết quả giao dịch mà mình
đã quyết định.
 Tư vấn chứng khoán: là việc công ty chứng khoán thông qua hoạt động phân tích để
đưa ra các lời khuyên, phân tích các tình huống và có thể thực hiện một số công việc khác
liên quan đến phát hành, đầu tư và cơ cấu tài chính cho khách hàng. Nội dung tư vấn
chứng khoán bao gồm: tư vấn chiến lược và kỹ thuật giao dịch và cung cấp kết quả phân
tích chứng khoán và thị trường chứng khoán.
 Tự doanh chứng khoán: là việc công ty chứng khoán tự tiến hành các giao dịch mua
bán các chứng khoán cho chính mình. Ở hoạt động này các công ty chứng khoán đóng
vai trò là các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán nhằm mục đích thu lợi cho chính
công ty và tự gánh chịu mọi rủi ro từ việc đầu tư của chính mình.
 Bảo lãnh và đại lý phát hành chứng khoán: Đây là hoạt động hỗ trợ cho công ty phát

hành hay chủ sở hữu chứng khoán trong việc phân phối chứng khoán thông qua thoả
thuận mua chứng khoán và để bán lại.
 Các hoạt động phụ trợ: lưu ký chứng khoán; quản lý thu nhập của khách hàng (quản lý
cổ tức); cho vay ký quỹ.
Tóm lại, các hoạt động của công ty chứng khoán có mối quan hệ mật thiết, bổ trợ nhau
giúp cho hoạt động kinh doanh của công ty vận hành tốt. Từ hoạt động bảo lãnh và tư vấn


chứng khoán, công ty chứng khoán đã gia tăng thêm hàng hóa cho thị trường giúp nhà
đầu tư và bản thân công ty có nhiều cơ hội lựa chọn hàng hóa tốt, tích cực tham gia thị
trường, sử dụng dịch vụ môi giới nhiều hơn. Hoạt động môi giới muốn thu hút được
nhiều nhà đầu tư thì lại cần đến rất nhiều hoạt động phụ trợ như cho vay ký quỹ, ứng
trước tiền bán chứng khoán, tư vấn đến từng khách hàng ...để tăng tính cạnh tranh so với
các đối thủ. Như vậy một công ty chứng khoán muốn tạo được vị thế của mình thì cần sự
kết hợp nhuần nhuyễn giữa các hoạt động.
1.1 Hoạt động môi giới của công ty chứng khoán
Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh chứng khoán trong đó một công ty
chứng khoán đại diện cho khách hàng tiến hành giao dịch thông qua cơ chế giao dịch cơ
chế giao dịch tại Sở giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC mà chính khách hàng
phải chịu trách nhiệm đối với hậu quả kinh tế của việc giao dịch đó.
Hoạt động môi giới giúp thu hút khách hàng và đa dạng hoá sản phẩm dịch vụ, đem lại
nguồn thu nhập lớn tăng tính cạnh tranh của công ty. Chính hoạt động này đã góp phần
cung cấp thông tin, giảm chi phí giao dịch và kết nối giao dịch trên thị trường chứng
khoán và hình thành nền văn hóa đầu tư.
Hoạt động môi giới trên TTCK gồm môi giới trên Sở giao dịch được thực hiện qua ba
hình thức: môi giới giao dịch, môi giới chuyên gia, môi giới hoạt động độc lập hay “môi
giới hai đô la” và hoạt động môi giới trên OTC.
Quy trình của hoạt động môi giới gồm tìm kiếm khách hàng, tiếp cận nhà đầu tư để thực
hiện tư vấn, sau đó là mở tài khoản, nhận lệnh, thực hiện lệnh xác nhận kết quả và thanh
toán bù trừ giao dịch.

1.2 Phát triển hoạt động môi giới của công ty chứng khoán
Về cơ bản, phát triển hoạt động môi giới của CTCK cũng có thể được hiểu đó là sự biến
đổi theo chiều hướng gia tăng về lượng của hoạt động môi giới cũng như sự đa dạng về
hình thức tiến hành và nâng cao chất lượng của hoạt động môi giới. Do đó, phát triển
hoạt động môi giới của CTCK trên phương diện quy mô như số lượng tài khoản, doanh
số giao dịch, thị phần môi giới; phát triển về đối tượng bằng việc tăng số lượng tài khoản
của tổ chức và cá nhân nước ngoài; phát triển về phạm vi, phương thức như triển khai các
sản phẩm dịch vụ trực tiếp - hỗ trợ nhiều hơn cho hoạt động giao dịch; nâng cao chất
lượng vả hiệu quả bằng việc tăng doanh thu.


Chỉ tiêu phản ánh sự phát triển hoạt động môi giới CTCK gồm: số lượng tài khoản được
mở tại các CTCK; thị phần môi giới; doanh thu môi giới; sự đa dạng hóa các sản phẩm
dịch vụ của CTCK.
Phát triển hoạt động môi giới của công ty chứng khoán chịu ảnh hưởng của các nhân tố:
vĩ mô và vi mô. Trong đó, các nhân tố vĩ mô gồm sự phát triển và thực trạng của nền kinh
tế; sự phát triển của thị trường chứng khoán; môi truờng pháp lý; Uỷ ban Chứng khoán
Nhà nước; hiệp hội kinh doanh chứng khoán Việt Nam. Các nhân tố vi mô gồm thu nhập,
kiến thức và thói quen đầu tư của công chúng; nhân tố con người; cơ sở vật chất và trình
độ công nghệ; mô hình tổ chức của các công ty chứng khoán; kiểm soát nội bộ.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI CHỨNG
KHOÁN CỦA CÁC CÔNG TY CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM
2.1. Giới thiệu khái quát về công ty chứng khoán ở Việt Nam
2.1.1 Quá trình hình thành và phát triển
Sự phát triển mạnh trải theo bề rộng của công ty chứng khoán, sự gia tăng số lượng
CTCK trong giai đoạn 2000-2010 đã giúp thị trường chứng khoán thăng hoa và sẽ tạo đà
cho sự phát triển của công ty chứng khoán trong thập kỷ sắp tới nếu tìm được đúng điểm
nhấn. Về mặt lượng, TTCK Việt Nam đã có 105 CTCK nhưng về mặt chất thì lại có một
bộ phận không nhỏ các công ty đang càng càng bộc lộ sự yếu kém về quản trị và năng lực
kinh doanh. Trong hai, ba năm tới, cuộc đua công ty chứng khoán sẽ chứng kiến sự đăng

quang của những gương mặt mới. Sự phát triển về mặt lượng và chất của các CTCK liên
quan tới loại hình sở hữu của CTCK, mạng lưới hoạt động, quy mô vốn và điều kiện
thành lập CTCK ở Việt Nam.
Các công ty chứng khoán thực hiện chủ yếu các hoạt động như hoạt động môi giới; hoạt
động tư vấn đầu tư; hoạt động tự doanh; hoạt động bảo lãnh và đại lý phát hành
Cơ cấu tổ chức và bộ máy hoạt động được chia làm 3 khối: Front office, Middle office,
hoặc chia theo các cấp thẩm quyền gồm đại hội đồng cổ đông; hội đồng quản trị; ban
kiểm soát; ban Tổng giám đốc.
Mô hình công ty chứng khoán với bốn chức năng môi giới, tư vấn tài chính, bảo lãnh
phát hành, tự doanh được hầu hết các công ty áp dụng. Một vài công ty nhỏ chỉ có chức
năng môi giới, hoặc tư vấn. Tất cả đều giống nhau, vận hành theo cùng một quy trình, đi
theo cùng một đường. Đứng trước tình hình cạnh tranh khốc liệt, sự đào thải xóa sổ hàng
loạt công ty chứng khoán tới đây là việc khó tránh khỏi. Có thể chỉ khoảng 30-40 công ty
duy trì hoạt động. Song, ngay cả trong số đó, cuộc thanh lọc vẫn chưa ngừng lại. Những


công ty sống sót, vươn lên vững mạnh sẽ là những đơn vị biết chuyển hoạt động theo mô
hình mới. Trong 11 năm qua, các công ty chứng khoán đã không tạo được một sự phát
triển và nâng cấp sự khác biệt với chính mình. Các công ty chứng khoán cần chuyển sang
một mô hình dịch vụ mới theo hướng chuyên sâu và bài bản hơn.
Cũng giống như các doanh nghiệp khác, CTCK ra đời nhằm mục đích kinh doanh thu lại
lợi nhuận và góp phần phát triển thị trường chứng khoán Việt Nam. Quá trình phát triển
hoạt động môi giới chứng khoán cũng có những thuận lợi và khó khăn:
 Thuận lợi: tình hình kinh tế xã hội phát triển; quá trình cổ phần hoá các doanh nghiệp
nhà nước đang diễn ra mạnh mẽ trong các năm vừa qua; thị trường chứng khoán Việt
Nam đã đi vào hoạt động trong điều kiện nền kinh tế đang trong giai đoạn tăng trưởng và
thị trường chứng khoán trên thế giới đã phát triển mạnh; CTCK đã đa dạng hoá hoạt động
của mình, hệ thống mạng lưới khách hàng phát triển; đội ngũ nhân viên dần được đào tạo
chuyên nghiệp.
 Khó khăn: kênh huy động vốn đang còn ở giai đoạn mới hình thành; môi trường pháp

lý còn thiếu hoàn chỉnh và chưa đồng bộ; cơ sở vật chất còn thiếu thốn; thiếu nguồn nhân
lực có kỹ năng.
2.2 Thực trạng phát triển hoạt động môi giới của CTCK ở Việt Nam
 Số lượng tài khoản khách hàng mở tại các công ty chứng khoán.
Tốc độ phát triển và tiềm năng của hoạt động môi giới được thể hiện qua số lượng tài
khoản tăng, song có một điều đáng báo động là số tài khoản hoạt động thường xuyên (tài
khoản active) phổ biến tại các công ty chứng khoán (CTCK) lớn cũng chỉ đạt 20 - 35%.
Ngoài ra, số tài khoản "ảo", tài khoản “chết” chiếm một phần đáng kể. Thanh khoản trên
TTCK ngày càng suy giảm. Số lượng tài khoản chứng khoán mở ngày một nhiều nhưng
số tài khoản có giao dịch rất ít.
 Thị phần môi giới: được tính dựa trên giá trị giao dịch của từng công ty chứng khoán
so với giá trị giao dịch của toàn thị trường. Qua các số liệu về thị phần của các CTCK
cho thấy các CTCK tiến bộ trong tốp 10 đang phát triển theo hai chiến lược. Thứ nhất,
các CTCK có sự bứt phá mạnh mẽ đang phát triển theo hướng đẩy mạnh hoạt động tư
vấn từ môi giới, đòn bẩy tài chính tập trung ở nhóm khách hàng VIP cũng được các công
ty này triển khai mạnh. Thứ hạng thị phần được cải thiện nhanh chóng theo tốc độ vòng
quay của tiền nhiều hơn là số tài khoản được mở. Ở hướng thứ hai, một số CTCK phát
triển theo hướng bền vững, chắc chắn và đồng bộ hơn, từ nhân sự, công nghệ tới quản trị
rủi ro. Một số công ty có định hướng sẽ xác lập vị thế ổn định trong vài năm tới. Ở nhóm


này, các CTCK có sự tham khảo kỹ những mô hình thành công và kinh nghiệm từ nước
ngoài.
 Doanh thu môi giới
Môi giới là mảng được xem như “linh hồn” trong hoạt động kinh doanh của công ty
chứng khoán. 10 CTCK lớn lại nắm gần 50% thị phần môi giới, nên 95 CTCK còn lại
gần như “trắng tay”. Doanh thu môi giới cần được xem xét với tổng doanh thu. Trong
giai đoạn từ năm 2008- 2010, doanh thu từ hoạt động môi giới của các CTCK chỉ chiếm
từ 12-22%, trong tổng doanh thu. Ngoài ra, doanh thu môi giới không nên xét rời với
doanh thu khác – vốn bao gồm các khoản thu nhập từ lãi tiền gửi, cung cấp các dịch vụ

cho nhà đầu tư như đòn bẩy, repo. Với giá trị giao dịch trung bình thấp, sản phẩm hạn
chế, mức phí giao dịch lại được quy định tương đối thấp so với các nước trong khu vực
Đông Nam Á, việc hòa vốn trong giai đoạn này cũng đã là một mục tiêu khó khăn.
 Các sản phẩm dịch vụ khác: nhằm gia tăng cơ hội và tiện ích cho nhà đầu tư các các
công ty chứng khoán đã đa dạng hóa sản phẩm. Các hình thức hỗ trợ này được CTCK đặc
biệt là các công ty nhỏ mới đi vào hoạt động để thu hút khách hàng đem lại thành công,
chia sẻ những giá trị tốt nhất cho khách hàng.
2.3 Đánh giá thực trạng phát triển hoạt động môi giới của CTCK ở Việt Nam
 Những kết quả đạt được
- Hoạt động nghiệp vụ của công ty chứng khoán phát triển mạnh. Hoạt động môi giới đã
dần chuyên nghiệp và bài bản hơn, góp phần đem lại doanh thu ngày càng cao.
- Mạng lưới, quy mô hoạt động của các công ty chứng khoán ngày càng được mở rộng.
- Số lượng tài khoản giao dịch chứng khoán liên tục.
- Về quản trị điều hành, nhìn chung các công ty chứng khoán đã tăng cường công tác
quản trị, quản lý rủi ro, đảm bảo các hoạt động tuân thủ theo quy định pháp luật và dần
đi vào hoạt động theo thông lệ quốc tế.
- Đội ngũ nhân viên môi giới ở các công ty chứng khoán được nâng lên cả về số lượng
lẫn chất lượng.
Tuy nhiên công ty chứng khoán cũng gặp phải một số hạn chế sau:
- Qui mô, phạm vi hoạt động môi giới nhỏ.
- Tiềm lực tài chính của các công ty chứng khoán chưa mạnh dẫn đến phạm vi hoạt động
bị hạn chế, nguồn thu hạn hẹp nên phải tìm mọi cách lách luật để tồn tại.
- Đối tượng hạn hẹp, đặc biệt là người đầu tư tổ chức.


- Phương thức đơn điệu: hoạt động môi giới mới chỉ dừng lại ở mức độ đơn giản là nhận
và truyền lệnh cho các nhà đầu tư, chưa thu hút được nhà đầu tư tổ chức, hình thức đặt
lệnh qua điện thoại và Internet của nhà đầu tư vẫn còn nhiều hạn chế.
- Chất lượng hiệu quả không cao: hoạt động môi giới chưa kết hợp tư vấn.
Hạn chế này bắt nguồn từ những nguyên nhân sau:

 Nguyên nhân vĩ mô
Sự bất ổn của kinh tế vĩ mô và diễn biến không thuận lợi của TTCK; môi trường pháp lý
thiếu đồng bộ và chưa hoàn chỉnh; áp lực cạnh tranh ngày càng lớn giữa các CTCK.
 Nguyên nhân vi mô
Thiếu tính chủ động, năng động của bộ phận môi giới trong việc tìm kiếm và chăm sóc
khách hàng của các CTCK; hoạt động tiếp thị, quảng cáo chưa được chú trọng; hệ thống
công nghệ thông tin chưa đáp ứng yêu cầu, thiếu đồng bộ và không an toàn; trình độ,
năng lực quản trị, nhất là quản trị rủi ro còn yếu; số lượng nhân viên vừa thiếu về số
lượng vừa yếu về chuyên môn; cơ cấu tổ chức bộ máy chưa hợp lý; thiếu chiến lược kinh
doanh dài hạn; CTCK chưa thực hiện tốt công tác quản lý chi phí, cũng như tái cấu trúc
mạnh mẽ cơ cấu nguồn vốn và sản phẩm nhằm nâng cao tính an toàn và hiệu quả trong
hoạt động.
CHƯƠNG 3: GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG MÔI GIỚI
CỦA CÔNG TY CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM
3.1. Định hướng phát triển hoạt động môi giới của CTCK ở Việt Nam
Việc phát triển TTCK nói chung và phát triển hoạt động của các CTCK nói riêng ở Việt
nam đã có hướng đi rõ ràng và dài hạn. Trong đó, phát triển hoạt động của các CTCK
cũng là một trong những nội dung được đề cập trong quyết định 128. Theo đó, các CTCK
phát triển theo hướng: tăng số lượng hợp lý, nâng cao chất lượng hoạt động và năng lực
tài chính cho các công ty chứng khoán. Đa dạng hoá các loại hình dịch vụ cung cấp trên
thị trường, nâng cao tính chuyên nghiệp và chất lượng các dịch vụ; đảm bảo tính công
khai, minh bạch và bình đẳng trên thị trường.
Định hướng phát triển công ty chứng khoán trong giai đoạn tới vì vậy, vừa phải kế thừa
những nội dung tốt nhằm duy trì sự phát triển, mặt khác, phải xác định các điểm đột phá
nhằm thúc đẩy sự phát triển theo một định hướng mới căn bản hơn, phù hợp hơn với
thông lệ quốc tế, đáp ứng nhu cầu thị trường và nhu cầu của cả nền kinh tế; hướng tới
mô hình CTCK đa năng toàn phần.


Với định hướng phát triển các CTCK theo mô hình công ty chứng khoán đa năng toàn

phần, lấy môi giới làm trọng tâm, hoạt động này sẽ được chú trọng phát triển mạnh cả về
chiều rộng và chiều sâu, cả về chất và về lượng.
- Kiện toàn hoạt động môi giới, thu hút thêm nhà đầu tư mở tài khoản giao dịch tại công
ty chú trọng hơn đến các nhà đầu tư nước ngoài và nhà đầu tư có tổ chức.
- Nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ cung cấp cho khách hàng, đảm bảo tuân thủ
đúng quy định của pháp luật.
- Hoàn thiện các cơ chế, chính sách quy trình hoạt động.
- Duy trì ổn định, tăng doanh số và đạt mức thu phí hoạt động cao hơn tính trên chi phí
bỏ ra. Phấn đấu để doanh thu môi giới chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng doanh thu
của công ty.
-Có cơ chế lương thưởng khuyến khích người lao động.
3.2 Giải pháp phát triển hoạt động môi giới của CTCK ở Việt Nam
Trước hết ,CTCK cần xây dựng chiến lược tìm kiếm, chăm sóc khách hàng: đây là bước
đầu dẫn đến thành công của hoạt động môi giới cũng như công ty chứng khoán. Đặc biệt
trong giai đoạn TTCK sụt giảm cả về chỉ số lẫn khối lượng giao dịch như hiện nay, đòi
hỏi các CTCK cần phải xây dựng chiến lược tìm kiếm, chăm sóc khách hàng.
Bên cạnh đó, CTCK phải có kế hoạch cho hoạt động marketing, tiếp thị tới từng nhà đầu tư.
Hoạt động tiếp thị và quan hệ công chúng rất quan trọng đối với CTCK nhằm đưa hình ảnh
của CTCK gắn liền với hoạt động đầu tư chứng khoán đến nhà đầu tư, đồng thời đưa vị thế
của CTCK ngang tầm khu vực và quốc tế.
Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực: nhân viên môi giới vừa giỏi nghiệp vụ vừa có đạo
đức nghề nghiệp sẽ phát huy sức mạnh của mình để chiếm được lòng tin của khách hàng
từ đó góp phần nâng cao uy tín của công ty và góp phần làm tăng tính hiệu quả hoạt động
của nghiệp vụ môi giới.
Từng bước nâng cấp cơ sở vật chất – kỹ thuật: để thu hút người đầu tư, các công ty chứng
khoán phải đầu tư khá tốt cơ sở vật chất cho hoạt động môi giới như xây dựng hệ thống
sàn giao dịch rộng rãi với đầy đủ các thiết bị công bố thông tin như bảng giao dịch điện
tử, bảng công bố thông tin, xây dựng website để giúp người đầu tư tiếp cận thông tin mọi
lúc mọi nơi.
Xây dựng nền tảng tài chính vững chắc: nền tảng tài chính vững chắc giúp tăng khả năng

cạnh tranh và phát triển hoạt động môi giới của công ty. Với tiềm lực tài chính vững
chắc, các công ty chứng khoán có thể đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật, trang thiết bị hiện


đại, hệ thống phần mềm ưu việt, tiện ích, tạo thuận lợi cho giao dịch của khách hàng. Các
CTCK có thể tăng thêm vốn theo nhiều cách khác nhau và kết hợp các hình thức huy
động để đáp ứng được nhu cầu về vốn đồng thời đảm bảo được cơ cấu vốn an toàn cho
công ty.
Nâng cao chất lượng và đa dạng hóa sản phẩm dịch vụ: theo nhu cầu thực tế của khách
hàng, các công ty chứng khoán cần chủ động tìm kiếm các hình thức dịch vụ phù hợp
cung ứng cho khách hàng trên nguyên tắc tuân thủ các qui định pháp luật liên quan tới
hoạt động kinh doanh chứng khoán, từng bước nâng cao chất lượng dịch vụ để thu hút
khách hàng đầu tư bằng các tiện ích phục vụ cho hoạt động đầu tư của khách hàng.
Quản trị rủi ro: CTCK cần phải xây dựng được quy trình quản lý rủi ro gồm các bước:
nhận dạng rủi ro; ước tính, định lượng rủi ro; đánh giá tác động của rủi ro; đánh giá năng
lực của người thực hiện chương trình bảo hiểm rủi ro; lựa chọn công cụ và quản lý rủi ro
thích hợp.
Đổi mới mô hình hoạt động: viễn cảnh không tốt đẹp của các CTCK ngoài việc xuất phát từ
sự lao dốc của thị trường thì một nguyên nhân khá quan trọng là chính từ sự cạnh tranh gay
gắt của các công ty trong ngành. Do vậy, việc tái cấu trúc, sáp nhập để nâng cao năng lực,
hiệu quả hoạt động hoặc một số công ty buộc phải phá sản là điều không thể tránh khỏi.
CTCK cần là người cung cấp thông tin tin cậy cho nhà đầu tư: thị trường chứng khoán sôi
động là nhờ có thông tin. Hoạt động công bố thông tin thị trường chiếm vị trí khá quan trọng
trong việc xây dựng một thị trường chứng khoán công khai, minh bạch. Công ty chứng
khoán có trách nhiệm thông báo kịp thời, đầy đủ cho khách hàng về những quyền lợi phát
sinh liên quan đến chứng khoán trong tài khoản giao dịch của khách hàng; gửi cho khách
hàng bảng sao kê tài khoản giao dịch theo phương thức và thời gian được thỏa thuận bằng
văn bản với khách hàng.
3.3 Kiến nghị với cơ quan quản lý nhà nước
Để tạo điều kiện cho hoạt động môi giới, Bộ Tài chính cần thúc đẩy cổ phần hoá, chú

trọng chất lượng hàng hóa trên thị trường chứng khoán; ưu đãi thuế cho hoạt động chứng
khoán.
Đồng thời, UBCKNN cần: hoàn thiện khung pháp lý cho hoạt động của thị trường chứng
khoán nói chung và công ty chứng khoán nói riêng; tuyên truyền và đào tạo kiến thức
chứng khoán và thị trường chứng khoán


KẾT LUẬN
Thực tế qua các giai đoạn hoạt động và trưởng thành công ty chứng khoán nói riêng và
thị trường chứng khoán Việt Nam nói chung đã đạt được những kết quả đáng khích lệ
nhưng cũng còn tồn tại không ít những khó khăn. Về tình hình cạnh tranh, hiện nay có
105 công ty chứng khoán tham gia hoạt động trên thị trường. Vì vậy, sự cạnh tranh trong
lĩnh vực môi giới trên thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay đang ngày càng sôi
động.
Công ty chứng khoán còn non trẻ, ít kinh nghiệm, kỹ năng còn mỏng và hoạt động trong
một khuôn khổ pháp lý còn đơn giản. Song, cùng với sự phát triển của thị trường thì cơ
cấu tổ chức, điều kiện vật chất – kỹ thuật, cũng như kỹ năng hành nghề của CTCK và đội
ngũ nhân viên môi giới cần được nâng cấp để hoạt động môi giới chứng khoán có thể
đảm nhiệm được những chức năng đích thực và đóng góp nhiều hơn cho sự phát triển của
thị trường chứng khoán Việt Nam.
Có thể nói, TTCK Việt Nam đã có những bước phát triển tuy không tạo được những
bước đột phá nhưng là sự phát triển vững chắc đều đặn, trong đó hoạt động môi giới của
các công ty chứng khoán đã từng bước song hành với hoạt động giao dịch trên thị
trường. Hoạt động môi giới của các CTCK cũng đã bộc lộ một số những hạn chế mà
nguyên nhân xuất phát ở cả tầm vi mô tới vĩ mô. Do vậy, việc tìm ra những giải pháp
khắc phục những hạn chế trên là hết sức cần thiết để giúp các CTCK ở Việt Nam ngày
càng phát triển.




×