Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

Nội dung cơ bản của quyền tự do thành lập doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.74 KB, 18 trang )

ĐỀ BÀI SỐ : 3
Nội dung cơ bản của quyền tự do thành lập doanh nghiệp
theo pháp luật hiện hành


MỤC LỤC.
Trang.
A. MỞ ĐẦU.....................................................................................2
B. NỘI DUNG..................................................................................2
I./ Cơ sở lý luận............................................................................3
II. Cơ sở thực tiễn.........................................................................4
1. Về chủ thể thành lập doanh nghiệp theo pháp luật
hiện hành .........................................................................................4
2. Về đăng kí, lựa chọn ngành, nghề kinh doanh...............7
3. Địa điểm thành lập doanh nghiệp và mô hình
kinh doanh..........................................................................................10
4. Về thủ tục thành lập doanh nghiệp và đăng kí
kinh doanh .........................................................................................11
III./ Nhận xét chung........................................................................16
C. KẾT LUẬN....................................................................................17
D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................18

A. MỞ ĐẦU.


Trong bất kỳ nền kinh tế hàng hóa nào cũng tồn tại nhu cầu tự do kinh
doanh. Quyền tự do kinh doanh là một bộ phận hợp thành trong hệ thống các
quyền tự do của công dân. Trong đó có quyền tự do thành lập doanh nghiệp là
nội dung cơ bản thể hiện sự bình đẳng của các cá nhân, tổ chức trong vấn đề
kinh doanh. Đó là động lực tạo điều kiện cho nền kinh tế phát triển theo xu
hướng kinh doanh bình đẳng, cạnh tranh lành mạnh. Vì vậy để hiểu hơn phần


nào về vấn đề tự do kinh doanh nói chung và tự do thành lập doanh nghiệp nói
riêng. Em xin đi vào tìm hiểu đề tài: “ Nội dung cơ bản của quyền tự do thành
lập doanh nghiệp thao pháp luật hiện hành”.
B. NỘI DUNG.
I. Cở lý luận.
Quyền tự do thành lập Doanh nghiệp là nội dung cơ bản của quyền tự do
kinh doanh. Là tiền đề để thực hiện các quyền khác thuộc nội dung của quyền
tự do kinh doanh. Đó là một trong những quyền cơ bản của con người thể hiện
sự tự do, bình đẳng trong hoạt động kinh doanh góp phần phát triển nền kinh tế
thị trường.
+ Về nguyên tắc:
Hoạt động kinh doanh chỉ có thể thực hiện với tính chất nghề nghiệp, khi
các chủ thể kinh doanh (mà chủ yếu là doanh nghiệp) tiến hành. Để thực hiện
quyền tự do kinh doanh, các nhà đầu tư trước hết phải xác lập tư cách pháp lý
cho chủ thể kinh doanh của mình. Để tạo cơ sở và tổ chức cho việc kinh doanh
thì việc đầu tiên các nhà kinh doanh cần phải làm đó là thành lập doanh nghiệp.
Đây là một trong những nội dung chính, những bước căn bản đầu tiên để tiến
hành kinh doanh.
=>Vì vậy có thể nói việc thành lập doanh nghiệp là một yếu của quyền tự do
kinh doanh. Khi thành lập Doanh nghiệp các nhà đầu tư có khả năng quyết định
lựa chọn mô hình kinh doanh, và lĩnh vực nghành nghề kinh doanh thích hợp


với khả năng thực tế và của vốn điều lệ cũng như nhu cầu của thị trường. Đó là
cơ sở để tiến hành hoạt động kinh doanh đạt hiệu quả cao.
+ Về mặt lý luận.
Thành lập Doanh nghiệp được xem là nội dung pháp lý quan trọng về địa vị
pháp lý của Doanh nghiệp. Nó có ý nghĩa xác định tư cách pháp lý và sự thành
lập của Doanh nghiệp. Với nguyên tắc tự do kinh doanh trong nền kinh tế thị
trường định hướng Xã Hội Chủ Nghĩa việc thành lập Doanh nghiệp được coi là

quyền cơ bản của nhà đầu tư. Tuy nhiên việc thành lập Doanh nghiệp có ảnh
hưởng không nhỏ đến lợi ích toàn xã hội. Vì vậy việc thành lập Doanh nghiệp
phải được thực hiện trong khuôn khổ pháp luật. Các quy định của pháp luật về
thành lập Doanh nghiệp một mặt phải bảo đảm quyền tự do kinh doanh của nhà
đầu tư. Mặt khác phải đáp ứng yêu cầu quản lý của Nhà nước đối với Doanh
nghiệp.
=>Trên tinh thần đó pháp luật hiện hành đã ghi nhận và bảo đảm ở mức độ nhất
định quyền tự do thành lập Doanh nghiệp. Điều đó được thể hiện ở những nội
dung cơ bản sau:
II/. Cơ sở thực tiễn.
1. Về chủ thể thành lập Doanh nghiệp thao pháp luật hiện hành.
Trong quá trình sử đổi bổ sung và hoàn thiện bộ luật nước ta đã có những quy
định được sửa đổi bổ sung trong các bộ luật theo từng giai đoạn vầ chủ thể
thành lập Doanh nghiệp thao pháp luật hiện hành.
• Theo luật Hợp tác xã 1996.
Mọi công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hộ gia đình có
thể trở thành thành viên hợp tác xã. Được quy định cụ thể tại Điều 22 Luật hợp
tác xã năm 1996.
Luật hợp tác xã 1996 đã bước đầu thể hiện quyền tự do trong hoạt động kinh
doanh nhưng vẫn đang ở mức độ nhất định vì: Luật hợp tác xã 1996 không có
những điều kiện riêng biệt cụ thể cho các sáng lập viên, mà chỉ quy định “ mọi


công dân Việt Nam có năng lực hành vi dân sự đầy đủ, hộ gia đình có thể trở
thành thành viên hợp tác xã”. Theo đó thì những chủ thể có đủ điều kiện từ 18
tuổi trở lên, hoặc những hộ gia đình đều có thể trở thành xã viên hợp tác xã, đều
có thể là sáng lập viên của hợp tác xã. Luật hợp tác xã năm 1996 chỉ nói chung
chung về chủ thể thành lập Doanh nghiệp mà chưa chỉ ra các đối tượng bị hạn
chế thành lập Doanh nghiệp.
=> Tuy nhiên đây là văn bản pháp luật đầu tiên đã phần nào thể hiện sự tự do

trong hoạt động kinh doanh.



Đối với chủ thể thành lập Doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài. Lần
đầu tiên đã được quy định tại Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam
( được sửa đổi bổ sung năm 2000).

Theo đó thì các chủ thể có quyền thành lập Doanh nghiệp có vốn đầu tư nước
ngoài tại Việt Nam như Doanh nghiệp liên doanh và Doanh nghiệp 100% vốn
đầu tư nước ngoài bao gồm:
- Các tổ chức, cá nhân nước ngoài (không phân biệt quốc tịch).
- Các Doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh tế.
Như vậy ở đây đã mở rộng chủ thể thành lập Doanh nghiệp có thể là tổ chức,
cá nhân nước ngoài, và các Doanh nghiệp Việt Nam thuộc mọi thành phần kinh
tế.
• Với sự ra đời của Luật Doanh nghiệp năm 1999 các vấn đề pháp lý về
chủ thể thành lập Doanh nghiệp (thuộc lĩnh vực dân doanh) đã có những đổi
mới đáng kể. Luật Doanh nghiệp đã thể hiện rõ tư tưởng của Nhà nước pháp
quyền Xã Hội Chủ Nghiã Việt Nam, coi việc thành lập Doanh nghiệp là quyền
tự do của công dân và có cơ chế đẻ bảo đảm quyền này một cách hợp lý.
+ Theo điều 9 Luật doanh nghiệp năm 1999 mọi tổ chức cá nhân đều có thể
thành lập Doanh nghiệp trừ những tổ chức cá nhân sau:


“1.Cơ quan Nhà nước, đơn vị thuộc lực lượng vũ trang nhân dân sử dụng tài
sản của Nhà nước và công quỹ để thành lập Doanh nghiệp kinh doanh thu lợi
riêng cho cơ quan, đơn vị mình.
2.Cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ công chức.
3.Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng

trong các cơ quan đơn vị thuộc quân đội nhân dân, sĩ quan, hạ sĩ quan chuyên
nghiệp trong các cơ quan đơn vị thuộc Công an nhân dân.
4.Cán bộ lãnh đạo quản lý nghiệp vụ trong các Doanh nghiệp Nhà nước, trừ
những người được làm đại diện để quản lý phần vốn góp của Nhà nước tại
doanh nghiệp khác.
5.Người chưa thành niên, người thành niên bị hạn chế hoặc mất năng lực
hành vi dân sự.
6.Người đang bị truy cứu trách nhiệm hình sự hoặc đang phải chấp hành
hình phạt tù, hoặc bị Tòa án tước quyền hành nghề vì phạm các tội buôn lậu,
làm hàng giả , kinh doanh trái phép , trốn thuế, lừa dối khách hàng và các tội
khác theo quy định của pháp luật.
7.Chủ doanh nghiệp tư nhân, thành viên hợp danh, giám đốc (Tổng giám
đốc), chủ tịch và các thành viên hội đồng quản trị, hội đồng thành viên của
doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản không được quyền thành lập Doanh nghiệp,
không được làm người quản lý Doanh nghiệp trong thời hạn từ 1 đến 3 năm, kể
từ ngày Doanh nghiệp tuyên bố phá sản, trừ các trường hợp quy định tại Luật
phá sản doanh nghiệp.
8.Tổ chức, cá nhân nước ngoài không thường trú tại Việt Nam”.
=>Việc quy định đối tượng có quyền thành lập doanh nghiệp theo phương pháp
loại trừ của Luật doanh nghiệp năm 1999 đã phần nào phù hợp với những quy
chế thị trường lúc bấy giờ.
Trên đây là những quy định về chủ thể có quyền thành lập doanh nghiệp trong
các bộ luật trước đây. Vậy trong pháp luật hiện hành chủ thể thành lập doanh


nghiệp được quy định ra sao? Điều 13 Luật doanh nghiệp năm 2005 đã có
những quy định cụ thể.
Theo quy định tại khoản 1 Điều 13 thì “ tổ chức, cá nhân Việt Nam, tổ chức, cá
nhân nước ngoài có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp tại Việt Nam
theo quy định của luật này”. Ở đây ta thấy Luật doanh nghiệp năm 2005 đã quy

định chủ thể bao gồm cả tổ chức, cá nhân và đặc biệt là có cả tổ chức, cá nhân
nước ngoài. Nhưng pháp luật hiện hành đã quy định rõ không phải mọi tổ chức,
cá nhân đều có quyền thành lập doanh nghiệp. Điều đó được thể hiện qua khoản
2 Điều 13 quy định những trường hợp loại trừ không có quyền thành lập doanh
nghiệp đó là:
“a. Cơ quan nhà nước, đơn vị lực lượng vũ trang nhân dân Việt Nam sử
dụng tài sản nhà nước để thành lập doanh nghiệp kinh doanh thu lợi riêng cho
cơ quan, đơn vị mình;
b. Cán bộ, công chức theo quy định của pháp luật về cán bộ công chức;
c. Sĩ quan, hạ sĩ quan, quân nhân chuyên nghiệp, công nhân quốc phòng
trong các cơ quan đơn vị thuộc Quân đội nhân dân Việt Nam; sĩ quan, hạ sĩ
quan chuyên nghiệp trong các cơ quan, đơn vị thuộc Công an nhân dân Việt
Nam;
d. Cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiệp vụ trong các doanh nghiệp 100% vốn sở
hữu nhà nước, trừ những người được cử làm đại diện theo ủy quyền để quản lý
phần vốn góp của Nhà nước tại doanh nghiệp khác;
đ. Người chưa thành niên; người bị hạn chế năng lực hành vi dân sự hoặc bị
mất năng lực hành vi dân sự;
e. Người đang chấp hành hình phạt tù hoặc đang bị Tòa án cấm hành nghề
kinh doanh;
g. Các trường hợp khác theo quy định của pháp luật về phá sản”.
Việc cấm một số đối tượng thành lập doanh nghiệp được xuất phát từ yêu
cầu bảo vệ lợi ích của Nhà nước, của xã hội cũng như lợi icahs của chính bản


thân các nhà đầu tư. Quy định này hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế. Điều
13 Luật doanh nghiệp vẫn loại trừ một trường hợp không có quyền thành lập
doanh nghiệp. Nhưng ta thấy những đối tượng cấm thành lập doanh nghiệp vẫn
có quyền góp vốn vào doanh nghiệp như khoản 3 Điều 13 Luật doanh nghiệp
2005 quy định:

“ Tổ chức , cá nhân có quyền mua cổ phần của công ty cổ phần, góp vốn vào
công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty hợp danh theo quy định của Luật này, trừ
trường hợp quy định tại khoản 4 Điều này”.
Các quy định hiện hành cho thấy pháp luật nước ta ghi nhậ một phạm vi rất
rộng các đối tượng được quyền tham gia và góp vốn vào doanh nghiệp (bất cứ
tổ chức, cá nhân nào nếu không bị pháp luật cấm đều có thể trở thành nhà kinh
doanh). Chủ thể thành lập doanh nghiệp có thể là cá nhân, pháp nhân, tổ chức
cá nhân, các cơ quan nhà nước. Việc mở rộng phạm vi chủ thể có quyền thành
lập doanh nghiệp tạo ra sự bình đẳng trong hoạt động kinh doanh của công
dân, đồng thời nhằm huy động tối đa mọi nguồn vốn đầu tư cho hoạt động kinh
doanh. Đây là biểu hiện đầu tiên và quan trọng nhất của tự do kinh doanh mà
pháp luật Việt Nam đã ghi nhận, là sự mở rộng một cách đáng kể thành phần
các chủ thể được phép tham gia thành lập doanh nghiệp.
2. Về đăng kí và lựa chọn ngành nghề kinh doanh.
Đây là một thủ tục quan trọng nằm trong nội dung giấy đề nghị đăng kí kinh
doanh và nội dung điều lệ công ty. Vì nó là nghành nghề hoạt động chính của
doanh nghiệp sau khi được thành lập.
Muốn trở thành nhà kinh doanh hợp pháp ( có tư cách pháp lý) các nhà doanh
nghiệp phải tiến hành đăng kí kinh doanh(để công nhận tư cách pháp lý), thì lúc
đó họ mới có tư cách của nhà kinh doanh mới được phép tiến hành các hoạt
động kinh doanh như sản xuất, trao đổi, mua bán thực hiện các dịch vụ. Như
vậy quyền tự do thành lập và đăng kí kinh doanh là cơ sở để cá nhân, pháp nhân
được Nhà nước công nhận là chủ thể kinh doanh hợp pháp, là tiền đề để họ tiến


hành các hoạt động kinh doanh khác. Nói đến quyền tự do thành lập doanh
nghiệp chúng ta hiểu đây là quyền của cá nhân, hay pháp nhân trong việc tạo
lập tư cách pháp lý thông qua thủ tục thành lập và đăng kí kinh doanh. Không ai
có quyền can thiệp, ngăn cản trái phép quyền thành lập doanh nghiệp và đăng kí
kinh doanh của họ.

Để các nhà doanh nghiệp có thể thuận lợi hơn trong việc thành lập doanh
nghiệp và đăng kí kinh doanh, pháp luật nước ta đã giảm bớt những thủ tục
thành lập doanh nghiệp. Đó là cơ sở tạo điều kiện cho các nhà doanh nghiệp có
thể thực hiện quyền tự do kinh doanh của mình.
Ngoài ra quyền tự do thành lập doanh nghiệp còn được thể hiện ở khía cạnh đó
là quyền tự do lựa chọn ngành nghề kinh doanh. Theo quy định của pháp luật
thì một công ty được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh khi có đủ các
điều kiện sau:
- “Nghành nghề kinh doanh không thuộc danh mục ngành nghề cấm kinh
doanh”.
Pháp luật hiện hành quy định về ngành nghề kinh doanh tại Điều 7 Luật doanh
nghiệp năm 2005.
“1.Doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế có quyền kinh doanh các
ngành, nghề mà pháp luật không cấm.
2. Đối với ngành, nghề mà pháp luật về đầu tư và pháp luật có liên quan quy
định phải có điều kiện thì doanh nghiệp chỉ được kinh doanh ngành nghề đó khi
có đủ điều kiện theo quy định.
3. Cấm các hoạt động kinh doanh gây phương hại đến quốc phòng, an ninh
trật tự an toàn xã hội, truyền thống lịch sử, văn hóa đạo đức, thuần phong mỹ
tục Việt Nam và sức khỏe của nhân dân, làm hủy hoại tài nguyên, phá hủy môi
trường” .
=> Qua đây ta thấy pháp luật hiện hành đã nêu cụ thể những điều kiện đối với
việc lựa chọn ngành, nghề kinh doanh. Theo đó thì các nhà kinh doanh có thể tự


do lựa chọn ngành, nghề kinh doanh theo nhu cầu của thị trường và theo khả
năng thực tế cũng như định hướng sau khi thành lập doanh nghiệp, miễn là
ngành, nghề đó không thuộc danh mục ngành, nghề pháp luật cấm và gây
phương hại đến lợi ích của Nhà nước và của nhân dân. Pháp luật hiện hành đã
ghi nhận một phạm vi rộng rãi các ngành, nghề kinh doanh. Về nguyên tắc các

nhà đầu tư có quyền tự do lựa chọn bất cứ lĩnh vực kinh doanh nào mà pháp
luật không cấm.
Ở đây ta thấy pháp luật quy định quyền tự do thành lập doanh nghiệp, tự do
lựa chọn ngành, nghề kinh doanh. Nhưng sự tự do lựa chon đó vẫn nằm trong
khuôn khổ pháp luật. Điều đó nhằm tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối
với lĩnh vực kinh doanh của đất nước, đồng thời cũng đặt các doanh nghiệp vào
môi trường kinh doanh lành mạnh.
Với nhu cầu ngày càng phát triển của xã hội thì ngành, nghề kinh doanh ngày
càng đa dạng. Các chủ doanh nghiệp có quyền tự do lựa chọn ngành, nghề họ
kinh doanh không ai có quyền can thiệp vào quyền này của họ, bởi lẽ người
chịu trách nhiệm về những kết quả kinh doanh chính là bản thân họ - các chu
doanh nghiệp.
Ngành, nghề kinh doanh hiện nay rất phong phú có nhiều ngành nghề liên
quan đến những lĩnh vực khác nhau như công nghiệp, nông nghiệp, ngân hàng,
dịch vụ.
Việc quy định rõ ngành, nghề kinh doanh theo phương pháp loại trừ thể hiện
tại Điều 7 Luật doanh nghiệp năm 2005 đã khẳng định tính “minh bạch” của
pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư tiến hành thành lập doanh
nghiệp.
3. Địa điểm kinh doanh và mô hình kinh doanh.
Cùng với việc thể hiện qua khía cạnh chủ thể và ngành, nghề kinh doanh, nội
dung cơ bản của quyền tự do thành lập doanh nghiệp còn được thể hiện qua
việc tự do lựa chọn địa điểm và mô hình kinh doanh của các chủ doanh nghiệp.


+ Về địa điểm:
Đây là một quyền tự do không kém phần quan trong của các nhà đầu tư trong
quá trình thành lập doanh nghiệp. Địa điểm để thành lập doanhy nghiệp chính là
cơ sở để tiến hành hoạt động kinh doanh, đó là nơi đặt trụ sở chính và chi nhánh
của các doanh nghiệp, địa bàn hoạt hoạt động của doanh nghiệp. Nó không chỉ

phản ánh tính không gian của hoạt động kinh doanh mà tự nó còn có ý nghĩa
pháp lý nhất định. Pháp luật không quy định việc doanh nghiệp phải phân bố ở
đâu và như thế nào. Do đó việc lựa chọn địa điểm thành lập doanh nghiệp do
các chủ doanh nghiệp lựa chọn sao cho phù hợp với hoạt động kinh doanh của
mình. Điều đó tạo ra sự phân bố doanh nghiệp trên các vùng miền của đất nước.
Thực tế đất nước đã chứng minh điều đó. Hiện nay các doanh nghiệp không chỉ
có ở thành thị mà còn có cả ở nông thôn, vùng núi.
+ Về mô hình kinh doanh.
Pháp luật hiện hành đã thiết kế nhiều mô hình tổ chưc kinh doanh. Theo đó
thì các nhà đầu tư có thể lựa chọn mô hình kinh doanh thích hợp với khả năng
và điều kiện cụ thể của mình để tiến hành hoạt động kinh doanh. Các mô hình
tổ chưc hoạt động kinh doanh theo pháp luật hiện hành bao gồm: Doanh nghiệp
nhà nước, hợp tác xã, công ty hợp danh, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty
trách nhiệm hữu hạn một thành viên, công ty cổ phần, doanh nghiệp tư nhân,
doanh nghiệp của các tổ chức chính trị xã hội, doanh nghiệp liên doanh, doanh
nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài, hộ kinh doanh cá thể, tổ hợp tác. Việc mở
rộng mô hình kinh doanh tạo điều kiện cho các nhà doanh nghiệp lựa chọn mô
hình kinh doanh phù hợp với vốn điều lệ của mình và ngành, nghề kinh doanh.
Đó là cơ sở quan trọng đẻ các nhà kinh doanh xem xét lựa chọn, hạn chế khả
năng kinh doanh thua lỗ cho các doanh nghiệp. Việc tự do lựa chọn địa điểm và
quy mô kinh doanh chính là những khâu tiếp theo thể hiện quyền tự do trong
thử tục thành lập doanh nghiệp của các nhà đầu tư theo pháp luật hiện hành.
4. Về thủ tục thành lập doanh nghiệp và đăng kí kinh doanh.


Đáp ứng yêu cầu của quyền tự do kinh doanh mà trực tiếp là quyền tự do
thành lập doanh nghiệp, pháp luật hiện hành đã quy định thủ tục thành lập
doanh nghiệp theo hướng đơn giản hóa và đề cao trách nhiệm của nhà đầu tư.
Về cơ bản việc thành lập doanh nghiệp do các nhà đầu tư tự quyết định và tiến
hành. Nhà nước chỉ can thiệp vào quá trình thành lập donh nghiệp ở giai đoạn

đăng kí kinh doanh. Hồ sơ đăng kí kinh doanh chủ yếu là giấy tờ tài liệu do nhà
đầu tư xây dựng.
Về thủ tục thành lập doanh nghiệp được thể hiện qua các biểu hiện của từng
thời kí như sau:
• Theo luật hợp tác xã năm 1996
Khi muốn thành lập hợp tác xã các sáng lập viên cùng nhau chuẩn bị các điều
kiện cần thiết để đăng kí kinh doanh. Công việc chuẩn bị đó có thể là tuyên
truyền, vận động, tổ chức hội nghị thành lập hợp tác xã, xây dựng và thông qua
điều lệ hợp tác xã, xây dựng hồ sơ đăng kí kinh doanh. Sau khi hoàn tất công
việc các sáng lập viên nộp hồ sơ đăng kí kinh doanh của hợp tác xã đến Uỷ ban
nhân dân có thẩm quyền. Trong thời hạn do pháp luật quy định Uỷ ban nhân
dân có thẩm quyền xem xét và cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh cho
hợp tác xã.
+ Về nguyên tắc:
Sau khi có đủ điều kiện theo quy định của pháp luật tại Điều 16 Luật hợp tác
xã thì Uỷ ban nhân dân cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh cho hợp tác xã.
“ Điều 16 để được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh, hợp tác xã phải có
đủ các điều kiện sau đây:
1. Có đủ hồ sơ đăng kí kinh doanh hợp lệ theo quy định tại khoản 1 Điều 15
của luật này.
2. Có số lượng xã viên của hợp tác xã không ít hơn số xã viên tối thiểu quy
định trong điều lệ mẫu đối với từng loại hình hợp tác xã.
3. Mục đích hoạt động rõ ràng


4. Có vốn điều lệ đối với hợp tác xã kinh doanh ngành, nghề theo quy định
của Chính phủ phải có vốn pháp định thì vốn điều lệ không được thấp hơn vốn
pháp định.
5. Có trụ sở được Uỷ ban nhân dân cấp xã nơi dự định đặt trụ sở xác nhận.
* Luật đầu tư nước ngoài năm 1996 (sửa đổi bổ sung năm 2000).

Đã có sự đổi mới đáng kể trong việc quy định thủ tục thành lập doanh
nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài. Các doanh nghiệp thỏa mãn những điều kiện
nhất định sẽ được áp dụng thủ tục đăng kí cấp giấy phép đầu tư.
Với thủ tục đăng kí cấp giấy phép đầu tư, quyền tự do của cá nhân, pháp
nhân nước ngoài thành lập doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài có thể được
tiến hành thành lập nhanh chóng đỡ tốn kém chi phí cả về thời gian lẫn tiền bạc
cho các nhà đầu tư.
• Luật doanh nghiệp năm 2005.
Đã thể hiện bước tiến bộ rõ rệt trong các quy định về thủ tục thành lập doanh
nghiệp so với luật Hợp tác xã năm 1996, luật đầu tư nước ngoài năm 1996 ( sửa
đổi bổ sung năm 2000), luật công ty và luật doanh nghiệp tư nhân trước đây.
Pháp luật hiện hành đã bãi bỏ thủ tục xin phép thành lập doanh nghiệp vốn
trước đây đã gây rất nhiều phiền hà, tốn kém cho các nhà đầu tư. Theo luật
doanh nghiệp khi muốn thành lập doanh nghiệp người thành lập doanh nghiệp
chỉ cần xây dựng hồ sơ đăng kí kinh doanh. Điều này được quy định cụ thể tại
Điều 16, 17, 18, 19, 20 Luật doanh nghiệp năm 2005. Theo đó hồ sơ đăng kí
kinh doanh về cơ bản do người thành lập doanh nghiệp tự kê khai bao gồm
những nội dung chính như sau:
“1. Giấy đề nghị đăng kí kinh doanh theo mẫu thống nhất do cơ quan đăng
kí kinh có thẩm quyền quy định.
2. Dự thảo điều lệ doanh nghiệp, danh sách thành viên của doanh
nghiệp( nếu là công ty)”.


Ngoài ra doanh nghiệp kinh doanh những ngành, nghề đòi hỏi vốn pháp định thì
cần có thêm văn bản xác nhận vốn pháp định của cơ quan, tổ chức có thẩm
quyền. Trường hợp doanh nghiệp kinh doanh ngành, nghề yêu cầu có chứng chỉ
nghề thì trong hồ sơ đăng kí kinh doanh phải có chứng chỉ hành nghề của giám
đốc, tổng giám đốc, hoặc của thành viên tùy thuộc vào ngành, nghề kinh doanh.
Vì hồ sơ đăng kí kinh doanh do người thành lập doanh nghiệp tự kê khai do

đó họ phải tự chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xá của nội dung hồ sơ
đăng kí kinh doanh.
Khoản 1, 2, 3 Điều 15 Luật doanh nghiệp năm 2005 quy định:


1. Người thành lập doanh nghiệp nộp đủ hồ sơ đăng kí kinh doanh theo

quy định tại luật này tại cơ quan đăng ki kinh doanh có thẩm quyền, và phải
chịu trách nhiệm về tính chung thực, chính xác của nội dung hồ sơ đăng kí kinh
doanh.
2. Cơ quan đăng kí kinh doanh có trách nhiệm xem xét hồ sơ đăng kí kinh
doanh và cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh trong thời hạn làm việc 10
ngày kể từ ngày nhận hồ sơ, nếu từ chối cấp giấy chứng nhậ đăng kí kinh
doanh thì thông báo bằng văn bản cho người thành lập doanh nghiệp biết.
Thông báo phải nêu rõ lý do và các yêu cầu sửa đổi bổ sung.
3. Cơ quan đăng kí kinh doanh xem xét và chịu trách nhiệm về tính hợp lệ của
hồ sơ khi cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh; không được yêu cầu người
thành lập doanh nghiệp nộp thêm các giấy tờ khác theo quy định của luật này.”
Khoản 1, 2, 3 Điều 15 của luật này đã thể hiện tính công khai, minh bạch trong
việc cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh của cơ quan nhà nước có thẩm
quyền. Thể hiện qua việc “ nếu từ chối cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh
doanh thì thông báo bằng văn bản cho người thành lập doanh nghiệp biết.
Thông báo phải nêu rõ lý do và các yêu cầu sử đổi bổ sung”.
Điều này cũng quy định rõ các cơ quan đăng kí kinh doanh không chịu trách
nhiệm về nội dung kê khai trong hồ sơ đăng kí kinh doanh mà chỉ chịu trách


nhiệm về tính hợp lệ của hồ sơ. Cơ quan đăng kí kinh doanh không có quyền
yêu cầu người thành lập doanh nghiệp nộp thêm giấy tờ, hồ sơ khác ngoài hồ sơ
theo quy định của Luật doanh nghiệp cho từng loại hình doanh nghiệp. Thời

gian xem xét giải quyết việc đăng kí kinh doanh là 15 ngày kể từ ngày nhận
được hồ sơ. Khi xem xét để cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh cho doanh
nghiệp cơ quan đăng kí kinh doanh phải dựa trên những điều kiện do pháp luật
quy định. Nếu người thành lập doanh nghiệp có đủ điều kiện được cấp giấy
chứng nhận đăng kí kinh doanh theo quy định của pháp luật thì cơ quan đăng kí
kinh doanh không có quyền từ chối cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh.
Điều kiện cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh doanh bao gồm:
- Ngành nghề kinh doanh không thuộc danh mục ngành, nghề pháp luật
cấm kinh doanh.
- Tên doanh nghiệp được đặt phù hợp với quy định của pháp luật.
- Hồ sơ đăng kí kinh doanh hợp lệ.
- Người thành lập doanh nghiệp nộp đủ lệ phí đăng kí kinh doanh.
Khi được cấp giấy chúng nhận đăng kí kinh doanh, doanh nghiệp được ghi tên
vào sổ đưng kí kinh doanh kể từ ngày được cấp giấy chứng nhận đăng kí kinh
doanh. Doanh nghiệp có tư cách chủ thể kinh doanh và có quyền tiến hành các
hoạt động kinh doanh. Nếu doanh nghiệp kinh doanh những ngành, nghề kinh
doanh có điều kiện thì doanh nghiệp được quyền kinh doanh những ngành,
nghề đó kể từ ngày được cơ quan Nhà nước có thẩm quyền cấp giấy phép kinh
doanh.
Sau khi được cấp giấy chứng hận đăng kí kinh doanh doanh nghiệp phải công
bố công khai nội dung đăng kí kinh doanh. Việc công bố được thực hiện thông
qua đăng báo, hoặc trên các phương tiện thông tin đại chúng. Những thông tin
vầ doanh nghiệp công bố trên báo chí có ý nghĩa quan trọng đối với hoạt động
quản lý Nhà nước về doanh nghiệp, đồng thời cũng mang lại lợi ích nhất định
cho bản thân doanh nghiệp.


=>Với thủ tục thành lập đơn giản như trên, pháp luật Việt Nam hiện hành ở
mức độ nhất định đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư thành lập doanh
nghiệp. Tuy nhiên thủ tục thành lập đơn giản không có nghĩa là buoong lỏng

quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp. Trái lại nó là tiền đề để bảo đảm
tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước đối với doanh nghiệp.
Có thể nói luật doanh nghiệp 2005 được coi là cuộc cách mạng về cải cách thủ
tục hành chính trong việc thành lập và đăng kí kinh doanh.
III/. Nhận xét chung.
Qua những nội dung cơ bản thể hiện quyền tự do thành lập doanh nghiệp
như trên ta có thể hiểu: quyền tự do thành lập doanh nghiệp là một bộ phận của
quyền tự do kinh doanh trong đó bao gồm quyền tự do lựa chon ngành, nghề,
địa điểm, mô hình kinh doanh. Đó là một trong các quyền cơ bản của công dân,
thể hiện sự bình đẳng, tự do sản xuất kinh doanh cho các chủ thể, tổ chúc có ý
định thành lập doanh nghiệp. Với những nội dung trên ta thấy pháp luật hiện
hành đã thể hiện cụ thể và ghi nhận địa vị pháp lý của các chủ doanh nghiệp.
Nhằm đáp ứng kịp thời với yêu cầu bức thiết của nền kinh tế thị trường cũng
như mong muốn tự do sản xuất kinh doanh của các chủ thể, pháp luật nước ta
đã và đang trong quá trình sửa đổi bổ sung, nhằm tạo những điều kiện pháp lý
vững chắc và đơn giản nhất cho quá trình thành lập doanh nghiệp của các chủ
thể. Thực tê đã cho thấy từ khi có những sử đổi bổ sung trong quy định về thành
lập doanh nghiệp thì số lượng các doanh nghiệp được thành lập được thành lập
ở các vùng miền trên cả nước ngày càng nhiều, với những quy mô khác nhau,
số lượng ngành, nghề kinh doanh đa dạng hơn và đáp ứng được yêu cầu thực tế
của đất nước. Điều đó được thực hiện là nhờ thủ tục đăng kí kinh doanh ngày
càng đơn giản hóa. Theo điều tra của phòng thương mại và công nghiệp Việt
Nam thì: thời gian trung bình cần thiết đẻ thành lập một doanh nghiệp trước
năm 2000 là 98 ngày nay rút xuống còn 7 ngày, có nơi rút xuống còn 2 ngày.
Chi phí bằng tiền để thành lập doanh nghiệp trước năm 2000 là hơn 8 triệu


(có trường hợp cá biệt là 380 triệu đồng), nay giảm xuống chỉ còn 550.000
đồng/ doanh nghiệp.
=> Như vậy nhờ đơn giản hóa thủ tục thành lập doanh nghiệp và đăng kí kinh

doanh đã tạo điều kiện cho các nhà đầu tư có điều kiện để tiến hành hoạt động
kinh doanh của mình được thuận lợi hơn. Chính vì điều đó nên số lương doanh
nghiệp ở nước ta ngày càng tăng lên nhanh chóng thể hiện sự phát triển của nền
kinh tế thị trường. Cùng với việc giảm các thủ tục thành lập doanh nghiệp đã
tiết kiệm được số lượng tài chính tương đối lớn trong thời gian qua. Việc khảo
sát thực tế cho thấy có không ít người muốn thành lập doanh nghiệp từ những
năm trước nhưng đã không làm được điều đó bởi họ không xin được giấy phép
thành lập doanh nghiệp, hoặc xin được giấy phép thành lập doanh nghiệp lại
không xin được giấy phép kinh doanh khác. Điều này đã chứng minh rằng nếu
sự can thiệp của nhà nước vào hoạt động kinh doanh được thực hiện ở mức độ
cần thiết, và hợp lý thì quyền tự do kinh doanh sẽ được bảo đảm, sẽ khơi dậy
nguồn hứng khởi và nhiệt huyết cho các nhà daonh nghiệp.

C. KẾT LUẬN.
Những vấn đề trên đây đã thể hiện rõ quyền tự do thành lập doanh
nghiệp trong pháp luật hiện nay, nó thể hiện qua những nội dung cơ bản mà một
doanh nghiệp muốn có tư cách pháp lý và đi vào hoạt động bình thường đều cần
đến. Đó là những vấn đề về chủ thể, về ngành, nghề kinh doanh, quy mô, địa
điểm và những thủ tục cần thiết để tiến hành đăng kí kinh doanh. Qua sự sử đổi
bổ sung của các bộ luật pháp luật hiện hành đã quy định rõ nội dung của quyền
tự do thành lập doanh nghiệp, đó là cơ sở quan trọng để các chủ thể căn cứ vào
đó cho quá trình thành lập doanh nghiệp của mình. Đồng thời việc thể hiện


quyền tự do thành lập doanh nghiệp theo pháp luật hiện hành đã và đang thể
hiện ở khía cạnh nào đó quyền tự do, bình đẳng của con người.

D. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO.
1. Luật Doanh nghiệp năm 2005
( Đã được sử đổi bổ sung năm 2009) NXB Lao động.

2. Luật doanh nghiệp năm 1999.
3. Luật hợp tác xã năm 1996.
4. TS Bùi Ngọc Cường. Một số vấn đề về quyền tự do kinh doanh trong pháp
luật kinh tế hiện hành. NXB Chính tri quốc gia 2004.
5. Giaó trình luật thương mại modul 1.
Trường đại học Luật Hà Nội _ NXB Công an nhân dân



×