Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

Khái niệm tiền lương? Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thỏa thuận điều khoản tiền lương trong hợp đồng lao động

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (165.05 KB, 16 trang )

Đề bài số 11:
1.
Khái niệm tiền lương? Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thỏa thuận điều
khoản tiền lương trong hợp đồng lao động?
2.
Năm 2005, anh A và công ty X có ký với nhau một HĐLĐ thời hạn 2
năm. Hết thời hạn HĐ hai bên lại ký tiếp tục một hợp đồng thứ hai cũng có thời
hạn là hai năm. Hợp đồng sẽ kết thúc vào ngày 15.8.2009. Hết ngày 15.8.2009 do
không thấy NSDLĐ thông báo gì nên anh A tiếp tục làm việc bình thường và được
người phụ trách vẫn giao việc cho A. Ngày 30.8.2009, NSDLĐ thông báo chấm
dứt HĐ với A với lý do HĐLĐ hết hạn. NLĐ không đồng ý vì cho rằng sau khi
HĐ thứ hai hết hạn, NLĐ vẫn làm việc thì HĐ đã ký trở thành HĐ vô thời hạn.
NSDLĐ cho rằng trong thời hạn 30 ngày công ty có quyền ký tiếp hay chấm dứt
theo Điều 27 BLLĐ.
a)
Việc chấm dứt HĐLĐ của công ty đối với A là đúng hay sai? Tại sao?
b)
A có thể gửi đơn đến cơ quan tổ chức nào để yêu cầu giải quyết bảo vệ
quyền lợi của mình.
c)
Hãy giải quyết quyền lợi của A theo quuy định của pháp luật hiện
hành?
d)
Giả sử công ty đưa quyết định chấm dứt HĐ với A, A không có ý kiến
gì và ký nhận vào bản thanh lý HĐ đồng thời nhận các khoản tiền lương, trợ cấp…
thì việc thỏa thuận chấm dứt có được coi là trường hợp đương nhiên chấp dứt HĐ
do hai bên thỏa thuận không? Tại sao?

BÀI LÀM
1



Lao động là hoạt động quan trọng nhất của con người nhằm tạo ra các của cải vật
chất và tinh thần cho xã hội. Sức lao động sẽ được đánh giá phần nào qua tiền
lương. Hệ thống tiền lương tốt sẽ cho phép doanh nghiệp tuyển dụng các nhân viên
mới với mức lương thỏa đáng, tăng mức lương phù hợp cho nhân viên và hình
thành một con đường sự nghiệp cho các cá nhân. Để thực hiện được tất cả các công
việc này, cần phải có một hệ thống tiền lương và tiền công có tổ chức hợp lý. Mục
đích của một hệ thống tiền lương và tiền công là đảm bảo rằng những người thực
hiện các nhiệm vụ được coi là có giá trị như nhau sẽ nhận được mức thù lao như
nhau.Thù lao bao hàm tất cả các hình thức thu nhập mà các cá nhân nhận được cho
phần lao động của họ.
Chính vì tầm quan trọng của vấn đề, bài tập này sẽ nghiên cứu đề tài “Khái niệm
tiền lương? Các yêu tố ảnh hưởng tới việc thỏa thuận điều khoản tiềng lương
trong hợp đồng lao động” và giải quyết một tình huống về tranh chấp lao động
cá nhân.
1. Khái niệm tiền lương? Các yếu tố ảnh hưởng tới việc thỏa thuận điều
khoản tiền lương trong hợp đồng lao động
1.1. Khái niệm tiền lương
Tiền lương là một phạm trù vừa mang tính kinh tế vừa mang tính pháp lý.
Dưới góc độ kinh tế, tiền lương được nghiên cứu chủ yếu với tư cách là một bộ
phận của chi phí sản xuất kinh doanh, là giá cả của hàng hóa sức lao động. Dưới
góc độ pháp lý tiền lương, tiền lương chủ yếu được xem xét với tư cách là chế định
của luật lao động là tương quan pháp lý giữa NSDLD và NLD trong lĩnh vực trả
công lao động. Với tư cách là chế định của luật lao động, tiền lương bao gồm tổng
thể các quy định pháp luật về nguyên tắc, chế độ, hình thức trả lương; hệ thống
thang, bảng lương, chế độ phụ cấp lương, chế độ tiền thưởng; việc trả lương trong
các trường hợp đặc biệt; quyền và nghĩa vụ của NLĐ, NSDLĐ…Còn với tư cách
2



là tương quan pháp lý giữa NLĐ và NSDLĐ, tiền lương thể hiện các quyền và
nghĩa vụ pháp lý của mỗi bên với mục đích đảm bảo sự công bằng và bảo vệ quyền
lợi của người làm công.
Vậy tiền lương là gì? Mục đích nghiên cứu lí luận về tiền lương dù xuất phát
từ phương diện nào cũng cần làm rõ vấn đề này.
-

Các nhà kinh tế học cổ điển ( như: Adam Smith, Stain, Simon,

Proudhon…) quan niệm tiền lương không chỉ là sự bù đắp cho lao động mà còn là
thu nhập của người nghèo và do đó không những phải đủ để duy trì trong khi lao
động mà cả trong trường hợp khi ngừng lao động. Durkheim (nhà xã hội học nổi
tiếng của Pháp) coi tiền lương như quan hệ kinh tế xã hội đặc trưng cho xã hội
công nghiệp hiện hiện đại. Những quan điểm này dường như nghiêng về khẳng
định vị trí vai trò của tiền lương hơn là câu hỏi cho tiền lương là gì.
Theo từ điển Tiếng Việt thì “tiền lương” là “công trả định kỳ
hàng tháng, cho công nhân, viên chức” Ưu điểm của định nghĩa này là chỉ ra được
đối tượng hưởng lương và chỉ một trong những đưac điểm cơ bản của tiền
lương( lương trả theo định kỳ thời gian) Tuy nhiên, các tác giả này đã sử dụng khái
niệm tương đồng và điều đó dẫn tới hệ quả là chưa thực sự trả lời được câu hỏi
“tiền lương là gì”
Điều 1 Công ước số 95 (1949) về bảo vệ tiền lương có quy định:
“…từ “tiền lương” là “sự trả công hoặc thu nhập, bất luận tên gọi hay cách tính
mà có thể biểu hiện bằng tiền và được ấn định bằng sự thỏa thuận giữa NSDLĐ và
NLĐ, hoặc bằng pháp luật quốc gia, do NSDLĐ phải trả choNLĐ theo một hợp
đồng thuê mướn lao động, bằng viết hoặc bằng miệng, cho một công việc thực
hiện hãy sẽ phải thực hiện, hoặc cho những dịch vụ đã làm hay sẽ phải làm”. Với
định nghĩa này, ILO đã đưa ra dấu hiệu cơ bản nhận biết tiền lương, bao gồm:
(i)Tiền lương là sự trả công lao động; (ii)Hình thức biểu hiện tiền lương là bằng
tiền mặt; (iii)Tiền lương được ấn định bằng sự bằng sự thỏa thuận của các bên


3


hoặc bằng pháp luật quốc gia; (iv) Lí do mà NSDLĐ phải trả cho NLĐ. Về phương
diện pháp lý, có thể thấy đây là là định nghĩa khá toàn diện về tiền lương. Pháp luật
lao động của nhiều quốc gia đã vận dụng định nghĩa này một cách linh hoạt, phù
hợp với điều kiện kinh tế- xã hội của quốc gia mình.
Trong ba cách hiểu trên, có thể thấy cách hiểu, cách định nghĩa về “tiền
lương” của tổ chức ILO là hợp lý hơn cả. Việt Nam cũng đã vận dụng linh hoạt
vào điều kiên kinh tế - xã hội của nước ta. Điều 55 BLLĐ đã sửa đổi bổ sung ở
nước ta quy định : “tiền lương của người lao động do hai bên thỏa thuận trong
hợp đồng lao động và được trả theo năng suất lao động, chất lượng và hiệu quả
công việc. Mức lương của người lao động không được thấp hơn mức lương tối
thiểu do nhà nước quy định”
Tóm lại, dưới góc độ pháp luật lao động, “tiền lương được hiểu là số tiền mà
người sử dụng lao động phải trả cho người lao động căn cứ vào năng suất lao
động, chất lượng, hiệu quả công việc và điều kiện lao động, được xác định theo sự
lao động, chất lượng hiệu quả công việc và điều kiện lao động, được xác định theo
sự thỏa thuận hợp pháp hai bên trong hợp đồng lao động hoặc theo quy định của
pháp luật.”
Định nghĩa trên đã bao quát tiền lương với các bộ phận cấu thành cơ bản của
nó, bao gồm: Lương cơ bản (lương chính), phụ cấp lương và tiền thưởng. Trong đó
lương cơ bản là phần tính đủ số lượng, chất lượng lao động đạt được trong điều
kiện lao động trung bình. Phụ cấp lương là khoản bổ sung cho lương cơ bản, bù
đắp cho NLĐ phải làm việc trong điều kiện lao động không bình thường hoặc phải
thực hiện các công việc yêu cầu trách nhiệm cao hơn mức bình thường. Tiền
thưởng là phần trả cho những yếu tố mới nảy sinh trong quá trình lao động, như:
tăng năng suất lao động, nâng cao chất lượng sản phẩm, sáng kiến hay…


4


Tiền lương biểu hiện ở hai khía cạnh cơ bản: tiền lương danh nghĩa là tiền
lương thực tế. Tiền lương danh nghĩa là số tiền mà NSDLĐ trả cho NLĐ do cung
ứng dịch vụ lao động theo mức ghi trong hợp đồng hoặc quy định trong thnag
lương, bảng lương hay bất kì một mức nào do các bên thỏa thuận không trái luật.
Tiền lương thực tế biểu hiện qua số lượng (và chất lượng) hàng hóa, dịch vụ mà
NLĐ có thể mua được từ tiền lương danh nghĩa để phục vụ cho cuộc sống của bản
than và gia đình. Khi giá cả sinh hoạt tăng lên, tiền lương thực tế sẽ bị giảm sút và
đời sống của người hưởng lương sẽ bị ảnh hưởng. Từ đó đặt ra yêu cầu cần điều
chỉnh tăng tiền lương danh nghĩa để đảm bảo cho sức mua của nó, tức là đảm bảo
giá trị của tiền lương thực tế. Một trong những giải pháp được nhiều quốc gia áp
dụng để giải quyết tình trạng này là điều chỉnh mức tiền lương tối thiểu qua từng
thời kì tương ứng với tỉ lệ trượt giá trên thị trường hàng hóa, dịch vụ. Điều tiết giá
sinh hoạt trong những trường hợp nhất định cũng là giải pháp tốt để nhà nước bảo
vệ sức mua của tiền lương danh nghĩa, giảm thiểu sự chênh lệch giữa tiền lương
danh nghĩa và tiền lương thực tế.
1.2 Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thỏa thuận tiền lương trong hợp đồng
lao động.
Tính chất của quan hệ lao động do luật lao động do luật lao động điều chỉnh
là tự do thỏa thuận. Nhìn chung những vấn đề về quyền và trách nhiệm của các bên
đều do họ tự quyết định bằng cách thỏa thuận không trái luật, trong đó có tiền
lương.
Tại Điều 29 BLLĐ quy định “1. Hợp đồng phải có những nội dung chủ yếu
sau đây: công việc phải làm, thời gian làm việc, thời gian nghỉ ngơi, tiền lương,
địa điểm làm việc, thời hạn hợp đồng , điều kiện an toàn vệ sinh…”
Mặt khác ở Điều 55 BLLĐ quy định “ Tiền lương của người lao động do hai
bên thỏa thuận trong hợp đồng và được trả lương theo năng suất lao động , chất


5


lượng và hiệu quả công việc. Mức lương của người lao động không thể thấp hơn
mức lương tối thiểu mà nhà nước quy định.”
Như vậy có thể thấy khi giao kết hợp đồng lao động các yếu tố ảnh hưởng đến
tiền lương là những yếu tố liên quan chủ yếu đến nguyên tắc điều chỉnh tiền
lương, bao gồm các yếu tố sau:
Thứ nhất chất lượng và số lượng lao động. Số lượng chất lượng lao động có
thể khẳng định là căn cứ quan trọng nhất để trả lương cho NLĐ. Số lượng và chất
lượng được xác định khác nhau tùy vào từng hình thức trả lương. Ở hình thức trả
lương theo thời gian, số lượng lao động được tính căn cứ vào thời gian làm việc
của NLĐ, chất lượng lao động phản ánh qua mức độ phức tạp của công việc thực
hiện ứng với trình độ chuyên môn, mức độ lành nghề , khả năng tác nghiệp…mà
NLĐ có thể đáp ứng để hoàn thành công việc. Ở hình thức trả lương theo sản phẩm
và lương khoán , số lượng lao động lại được tính ứng với số lượng sản phẩm hoặc
khối lượng công việc NLĐ hoàn thành, chất lượng lao động chính là lượng sản
phẩm, công việc đó. Trên thực tế, số lượng và chất lượng lao động mà NLĐ đóng
góp thể hiện cao năng suất, chất lượng lao động và đây chính là yếu tố, cơ sở thực
tế để các bên thỏa thuận về điều khoản tiền lương trong hợp đồng.
Theo nguyên tắc này, lao động có trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cao, thành
thạo, chất lượng cao,làm việc nhiều được hưởng nhiều và ngược lại; những lao
động ngang nhau thì được trả lương như nhau. Những nội dung này cần được vận
dụng linh hoạt tùy hoàn cảnh, từng nhóm NLĐ cụ thể. Điều này phù hợp với đặc
điểm của thị trường lao động đồng thời tránh thực hiện phân phối theo lao động
một cách cứng nhắc, không gắn kết quyền và lợi ích của NLĐ với hiệu quả kinh tế
của đơn vị sử dụng lao động, không tính tới những yếu tố tác động bên ngoài tới
tiền lương của NLĐ.Thực hiện nguyên tắc này tránh tư tưởng bình quân chủ nghĩa
và quan điểm NLĐ tạo ra bao nhiêu sản phẩm hưởng đủ bấy nhiêu. Các tư tưởng
này sẽ phá vỡ công bằng và không đảm bảo tính hiện thực trong việc trả lương.

6


Thứ hai, điều kiện lao động. Đó là là tính chất công việc, ngành nghề, điều
kiện tự nhiên và điều kiện xã hội… nơi mà NLĐ làm việc có tác động không nhỏ
tới mức tiêu hao lao động hoặc sức mua của tiền lương trên thị trường hàng hóa,
dịch vụ. Vì vậy, ngoài việc tính đúng, tính đủ số lượng và chất lượng lao động của
NLĐ, trong cơ cấu tiền lương còn phải đáp ứng yêu cầu tính đúng và đủ những yếu
tố thuộc về điều kiện lao động thực tế tác động đến NLĐ trong quá trình làm việc.
NLĐ làm nghề hoặc công việc có tính chất không bình thường (nặng nhọc, độc
hại , yêu cầu tính chất trách nhiệm cao, tính lưu động cao), NLĐ làm việc ở địa bàn
không thuận lợi về điều kiện tự nhiên (vùng xa xôi, hẻo lánh , khí hậu khắc
nghiệt..) hoặc có khó khăn về điều kiện xã hội ( cơ sở hạ tầng thấp kém, giá cả thị
trường đắt đỏ, trình độ dân trí thấp…)cần được đảm bảo mức lương cao hơn những
NLĐ khác. Chính vì vậy tùy vào điều kiện lao động cụ thể mà NSDLĐ và NLĐ
phải thỏa thuận vấn đề này khi đi đến các điều khoản tiền lương trong HĐLĐ.
Thư tư, năng suất lao động . Năng suất lao động là một trong những yếu tố
quyết định trực tiếp đến tiền lương của NLĐ, bởi để đạt hoặc vượt chỉ tiêu năng
xuất lao động có phần đóng góp của NLĐ từ việc cung ứng sức lao động của họ.
Vì vậy khi năng suất lao động tăng có khả năng NLĐ được tăng lương. Tiền lương
tăng, đến lượt nó lại là nhân tố kích thích NLĐ tăng năng suất lao động, góp phần
tăng trưởng kinh tế cho đơn vị và cho xã hội. Yêu cầu của yếu tố này là đặt tiền
lương và năng suất lao động trong mối quan hệ tác động qua lại. Song mức độ hiệu
quả của nhân tố này lại phụ thuộc vào mức độ tăng năng suất lao động với tốc độ
tiền lương . Lí luận và thực tiễn đã chứng minh tốc độ tăng năng suất alo động cần
cao hơn mức độ tiền lương bình quân thì việc trả theo năng suất mới phát huy được
tác dụng. Năng suất lao động tăng không chỉ do sự đóng góp của NLĐ, mà còn do
việc thực hiện hàng loạt các biện pháp từ phía NSDLĐ, như : cải tiến phương pháp
tổ chức sản xuất, quản lý lao động;đầu tư trang thiết bị,đổi mới công nghệ sản
xuất; tăng chi phí bán hàng…Từ đó chi phí sản có thể tăng lên đáng kể, doanh

7


nghiệp bán hàng và lợi nhuận trên đơn vị sản phẩm, hàng hóa lại có thể giảm…Vì
lý do trên khi thỏa thuận ký kết HĐLĐ, NSDLĐ và NLĐ phải có những thỏa thuận
cụ về việc tiền lương tăng hay giảm do năng suất lao động giảm hay tăng. Tránh
trường hợp NLĐ nhận thấy năng suất lao động tăng rõ rệt mà không được tăng
lương hoặc đột nhiên bị trừ tiền lương mà không biết lý do… Thường khi thỏa
thuận trả tiền lương cho người lao động theo năng suất lao động được thể hiện
trong chế độ tiền thưởng.
Thứ tư, hình thức trả lương. Trong thỏa thuận tiền lương trong HĐLĐ, vấn đề
hình thức trả lương cũng là một trong những yếu tố ảnh hưởng đến giao kết
HĐLĐ. Ngoài thực tế hiện nay có rất nhiều hình thức trả lương cho NLĐ :trả bằng
tiên mặt, trả qua thẻ ATM, trả bằng hiện vật…. Vì vậy cần có sự thỏa thuận trước
tránh trường hợp tranh cãi sau này.
Thứ năm, sự điều chỉnh của Nhà nước thông qua pháp luật. Tuy HĐLĐ được
ký kết dựa trên sự thỏa thuận của các bên nhưng để tránh tình trạng bất cập pháp
luật cần có sự điều chỉnh nhất định và là một trong những yếu tố ảnh hưởng ảnh
hưởng đến thỏa thuân tiền lương trong HĐLĐ. Các bên thỏa thuận phải dựa trên
những nguyên tắt cơ bản của pháp luật như : tiền lương tối thiểu, các trợ cấp, trả
lương làm theo giờ, nghỉ làm vẫn có lương… Điều 155 BLLĐ quy định : “ Mức
lương của người lao động không thể thấp hơn mức lương do Nhà nước quy định” .
Về phương diện pháp luật, việc trả lương theo số lượng và chất lượng lao động
phải tuân theo và áp dụng các thang lương, bảng lương của Nhà nước và các đơn
vị sử dụng lao động. Trong cùng thang , bảng lương, nhóm lương, của những lao
động có trình độ chuyên môn cao được thiết kế với những hệ số mức lương cao
hơn ở từng bậc lương tương ứng với nhóm lương, ngạch lương của những lao động
có chuên môn nghiệp vụ thấp hơn. Trong cùng một nhóm lương, ngạch lương,
ngạch lương, mức độ phức tạp của công việc hoặc yêu cầu về trình độ lành nghề
của NLĐ được phản ánh do hệ số lương của từng mức lương. Ngoài ra, pháp luật

8


còn quy định về tiền lương như : làm công việc gì hưởng lương theo công việc đó;
lương của lãnh đạo phải cao hơn lương của người bị lãnh đạo…
Trong việc trả lương theo điều kiện công việc, Pháp luật quy định chế độ phụ
cấp để đền bù cho những NLĐ làm việc ở vùng xa xôi, hẻo lánh, khí hậu khắc
nghiệt được hưởng phu cấp khu vực; NLĐ làm việc nghề hoặc công việc nghề
nặng nhọc, độc hại được hưởng trợ cấp nặng nhọc độc hại … Tùy vào điều kiện và
mục đích cụ thể, các đơn vị sử dụng lao động có thể tách hoặc gộp lương cấp bậc,
chức vụ với phụ cấp lương khi thỏa thuận và trả lương cho người lao động.
Tóm lại Nhà nước không bắt buộc NSDLĐ và NLĐ khi thỏa thuận điều
khoản tiền lương trong HĐLĐ phải tuân theo một cách gò bó ma hai bên có thể
linh động nhưng không đi quá giới hạn mà pháp luật cho phép.
Bên cạnh các yếu tố trên, tương quan cung cầu lao động trên thị trường, mức
sống chung của nhân dân địa phương, phong tục tập quán, sức mạnh của tổ chức
công đoàn, tình trạng tài chính của đơn vị sử dụng lao động …cũng là những yếu
tố ảnh hưởng tới việc thỏa thuận tiền lương trong HĐLĐ.
2.Giải quyết tình huống
a). Việc chấm dứt HĐLĐ của công ty đối với A là đúng hay là sai? Tại sao?
Việc chấm dứt HĐLĐ của công ty với A là sai.
Để khẳng định quyết định chấm dứt HĐLĐ của công ty với A là sai, cần đối
chiếu các tình tiết của tình huống với các qui định của pháp luật lao động
Thứ nhất, công ty X và anh A đã kí kết và thực hiện 2 HĐLĐ thời hạn 2 năm,
theo qui định của BLLĐ thì hai hợp đồng này là hợp đồng lao động xác định thời
hạn
b) Hợp đồng lao động xác định thời hạn.

9



Hợp đồng lao động xác định thời hạn là hợp đồng mà trong đó hai bên xác định
thời hạn, thời điểm chấm dứt hiệu lực của hợp đồng trong khoảng thời gian từ đủ
12 tháng đến 36 tháng;
Thứ hai, sau khi HĐLĐ thứ hai kết thúc, ngày 15/8/2009. anh A vẫn đến công ty
làm việc bình thường, người phụ trách vẫn giao việc cho A. Chính vì thế, theo qui
định tại khoản 2 Điều 27 bộ luật lao động và Khoản 4 Điều 4 Nghị định 44 của
Chính phủ (quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Bộ luật Lao
động về hợp đồng), HĐLĐ giữa anh A và công ty đã trở thành HĐLĐ vô thời hạn.
Chính vì vậy khi đơn phương chấm dứt hợp đồng công ty (NSDLĐ) phải tuân theo
các quy định của pháp luật về chấm dứt HĐLĐ. Ở trong tình huống này công ty
cho rằng công ty có quyền ký tiếp hoặc chấm dứt theo Điều 27 BLLĐ là hoàn toàn
sai về mặt thủ tục thông báo trước khi đơn phương chấm dứt hợp đồng đối với hợp
đồng vô thời hạn. Cụ thể, khoản 3 Điều 38 quy định : “…3. Khi đơn phương chấm
dứt hợp đồng , trừ trường hợp quy định tại điểm b khoản 1 Điều này, người sử
dụng lao động phải thông báo cho người lao động biết trước: a) Ít nhất 45 ngày
đối với hợp đồng lao động không xác định thời hạn…”
Từ phân tích trên có thể nhận thấy rằng trong trường hợp này công ty đã đơn
phương chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật. Thực tế, công ty X đã hiểu sai quy định
của luật về thời hạn 30 ngày. Không phải trong thời gian 30 ngày công ty X có
quyền kí hoặc chấm dứt hợp đồng mà luật quy định thời hạn 30 ngày để buộc 2
bên phải kí kết hợp đồng mới, nếu không kí kết thì hợp đồng đó đương nhiên trở
thành hợp đồng lao động không xác định thời hạn. (với điều kiện ở điều 27 là " hết
hạn hợp đồng mà người lao động tiếp tục làm việc").
b). A có thể gửi đơn đến cơ quan tổ chức nào để yêu cầu giải quyết bảo vệ quyền
lợi của mình.
10


Tranh chấp giữa a A và công ty X là tranh chấp giữa NLĐ với NSDLĐ, vì thế

đây là tranh chấp lao động cá nhân.
Về thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân, Điều 165 BLLĐ quy
định “Cơ quan tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp lao động cá nhân bao
gồm:
1. Hội đồng hòa giải lao động cơ sở hoặc hòa giải viên lao động;
2. Tòa án nhân dân”
Theo đó, để giải quyết vụ việc của mình, anh A có thể gửi đơn đến các cơ
quan sau :
- Hội đồng hòa giải nếu ở công ty anh làm việc có Công đoàn cơ sở hoặc Ban
chấp hành lâm thời (theo Điều 162 BLLĐ)
- Gửi đơn đến Hòa giải viên lao động. Người này do cơ quan lao động huyện,
quận, thị xã, thành phố cử để tiến hành hòa giải các tranh chấp lao động, được quy
định tại Điều 157.
- Tòa án. Vì đây là tranh chấp về bị đơn phương chấm dứt hợp đồng cho nên
anh A có thể gửi trực tiếp lên tòa án mà không cần qua giai đoạn hòa giải.( Theo
khoản 2 Điều 166)

c). Hãy giải quyết quyền lợi của A theo quy định của pháp luật hiện hành.
trong trường hợp này NSDLĐ đã chấm dứt HĐLĐ trái pháp luật, vì vậy anh
A sẽ được giải quyết một số quyền lợi theo quy định của pháp luật lao động.
Điều 41 quy định: “1. Trong trường hợp người sử dụng lao động dơn
phương chấm dứt hợp đồng lao động trái pháp luật thì phải nhận người lao động
trở lại làm công việc theo hợp đồng đã ký và phải bồi thường một khoản tiền lương
tương ứng tiền lương và phụ cấp (nếu có) trong những ngày người lao động không
được làm việc cộng với ít nhất hai tháng tiền lương cộng phụ cấp (nếu có)
11


Trong những trường hợp lao động không muốn trở lại làm việc, thì ngoài
khoản tiền được bồi thường quy định tại khoản 1 điểm này, người lao động còn

được trợ cấp theo quy định tại điều 42 của Luật này.
Trong trường hợp người lao động không muốn nhận người lao động trở lại
làm việc và người lao động đồng ý thì ngoài khoản tiền trợ cấp quy định tại Điều
42 của Bộ luật này hai bên thỏa thuận về khoản tiền bồi thường thêm cho người
lao động để chấm dứt hợp đồng lao động ...
4.Trong trường hợp đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động, nếu vi phạm
về thời hạn báo trước, bên vi phạm quy định phải bồi thường cho bên kia tương
ứng với tiền lương của người lao động trong những ngày không báo trước.”
Điều 42 quy định “1. Khi chấm dứt hợp đồng lao động với người lao động đã
làm việc thường xuyên trong doanh nghiệp, cơ quan, tổ chức từ đủ 12 tháng trở
lên, người sử dụng lao động có trách nhiệm trợ cấp thôi việc, cứ mỗi năm là nửa
tháng lương cộng với phụ cấp nếu có”
Áp dụng những quy định trên của pháp luật, công ty X sẽ phải giải quyết chế
độ trợ cấp và bồi thường cho anh A như sau:
Thứ nhất, Công ty phải nhận anh A trở lại làm việc.
Thứ hai, Anh A sẽ được giải quyết các quyền và lợi ích vật chất
Một là, anh A sẽ được nhận chế độ bồi thường do công ty vi phạm về chấm
dứt hợp đồng trái pháp luật:
-

Nếu anh A được nhận trở lại làm việc thì công ty phải bồi thường một

khoản tiền lương tương ứng với tiền lương và phụ cấp trong những ngày anh A
không có việc làm cộng với ít nhất hai tháng tiền lương và phụ cấp nếu có (4 * ½
tháng lương) + phụ cấp(nếu có) = 2 tháng lương + phụ cấp (nếu có)
-

Nếu anh A không muốn trở lại làm việc ở công ty thì ngoài khoản tiền

bồi thường như đã nêu trên thì anh A còn được hưởng trợ cấp thôi việc .


12


-

Nếu công ty không muốn nhận anh A trở lại làm việc thì anh A ngoài

việc được nhận các khoản như hai trường hợp trên sễ nhận thêm một khoản tiền
bồi thường thêm do hai bên thỏa thuận chấm dứt HĐLĐ
Hai là, anh A sẽ nhận được khoản tiền bồi thường do công ty chấm dứt
HĐLĐ sai pháp luật về thủ tục báo trước. Theo đó anh A sẽ nhận được khoản bồi
thường một khoản tiền tương ứng với tiền lương của anh A trong những ngày
không báo trước. Cụ thể là lương trong ít nhất 45 ngày đối với HĐLĐ vô thời hạn
và trợ cấp thôi việc (4 * ½ tháng lương) + phụ cấp(nếu có) = 2 tháng lương + phụ
cấp (nếu có)
Thứ ba, Các quyền và lợi ích khác của anh A sau khi công ty chấm dứt HĐLĐ
trái pháp luật.
A sẽ được nhận được sổ lương, trong đó có xác nhận thời gian làm việc. Công ty
sau khi khi ghi sổ không vì lý do chấm dứt mà ghi những điều có khả năng gây bất
lợi cho anh A đi tìm việc sau này. Nếu anh A đóng bảo hiểm xã hội thì sẽ được
hưởng những quyền lợi veefBHXH theo quy định của Luật BHXH.
Nếu A đồng ý chấm dứt HĐLĐ thì công ty X có trách nhiệm thanh toán đầy đủ
các khoản có liên quan đến quyền lợi của anh A trong thời hạn 7 ngày, trường hợp
đặc biệt có thể kéo dài nhưng cũng không quá 30 ngày.
d). Giả sử công ty đưa quyết định chấm dứt HĐ với A, A không có ý kiến gì và
ký nhận vào bản thanh lý HĐ đồng thời nhận các khoản tiền lương, trợ cấp…
thì việc thỏa thuận chấm dứt có được coi là trường hợp đương nhiên chấp dứt
HĐ do hai bên thỏa thuận không? Tại sao?
Chấm dứt HĐLĐ là sự kiện pháp lí rất quan trọng, bởi hậu quả pháp lí của nó là

sự kết thúc quan hệ lao động và trong một số trường hợp nó ảnh hưởng đến việc
làm, thu nhập, cuộc sống của NLĐ thậm chí gia đình họ, gây xáo trộn lao động
trong đơn vị và có thể gây thiệt hại cho NSDLĐ. Vậy chấm dứt hợp đồng là sự
13


kiện pháp lí mà một hoặc cả hai bên không tiếp tục thực hiện HĐLĐ, chấm dứt
quyền, nghĩa vụ hai bên đã thỏa thuận trong HĐLĐ.
Quay trở lại với tình huống nêu trên.
Theo Điều 36 BLLĐ, “Hợp đồng lao động chấm dứt trong những trường hợp
sau đây:
1 – Hết hạn hợp đồng;
2 – Đã hoàn thành công việc theo hợp đồng;
3 – Hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng;
4 – Người lao động bị kết án tù giam hoặc bị cấm làm công việc cũ theo quyết định
của Tòa án;
5 – Người lao động chết, mất tích theo tuyên bố của Tòa án.”
Đây là những trường hợp HĐLĐ chấm dứt đương nhiên, trong đó có trường
hợp hai bên thỏa thuận chấm dứt hợp đồng. Tuy nhiên để được coi là chấm dứt hợp
đồng đương nhiên do hai bên thỏa thuận phải đáp ứng các điều kiện sau đây:
Một là, HĐLĐ còn thời hạn, hiệu lực.
Hai là, việc chấm dứt HĐLĐ do ý chí hai bên là trường hợp hai bên đều thể
hiện, bày tỏ mong muốn được chấm dứt quan hệ hoặc một bên đề nghị và bên kia
chấp nhận.
. Trong vụ việc trên, công ty X đã đưa ra ý kiến của mình (chấm dứt hợp đồng) và
bên kia (anh A) đã chấp nhận. Ở đây rõ ràng đã xuất hiện sự đề nghị và sự chấp
nhận đề nghị, anh A hoàn toàn có quyền thể hiện ý chí của mình, như trong trường
hợp này lại im lặng không có ý kiến gì, tức là hoàn toàn đồng ý.. Như vậy, đây
được coi là trường hợp đương nhiên chấm dứt hợp đồng lao động do hai bên thỏa
thuận vì hoàn toàn thỏa mãn hai điều kiện nêu trên.


14


1.
2.
3.
4.
5.

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
Trường đại học Luật Hà Nội, giáo trình Luật Lao động Việt Nam, NXB
Công an nhân dân,2009
Bộ luật Lao động
Nguyễn Thanh Đại, luận văn thạc sĩ, Chấm dứt hợp đồng lao động theo pháp
luật lao động Việt Nam.
Vũ Thùy Dương, luận văn tốt nghiệp, người hướng dẫn: Ths Đỗ Thị Dung,
Chấm dứt hợp đồng lao động và hậu quả pháp lý.
Một số văn bản pháp luật lao động

15


Đề bài số 11:
3.
Khái niệm tiền lương? Các yếu tố ảnh hưởng đến việc thỏa thuận điều
khoản tiền lương trong hợp đồng lao động?
4.
Năm 2005, anh A và công ty X có ký với nhau một HĐLĐ thời hạn 2
năm. Hết thời hạn HĐ hai bên lại ký tiếp tục một hợp đồng thứ hai cũng có thời

hạn là hai năm. Hợp đồng sẽ kết thúc vào ngày 15.8.2009. Hết ngày 15.8.2009 do
không thấy NSDLĐ thông báo gì nên anh A tiếp tục làm việc bình thường và được
người phụ trách vẫn giao việc cho A. Ngày 30.8.2009, NSDLĐ thông báo chấm
dứt HĐ với A với lý do HĐLĐ hết hạn. NLĐ không đồng ý vì cho rằng sau khi
HĐ thứ hai hết hạn, NLĐ vẫn làm việc thì HĐ đã ký trở thành HĐ vô thời hạn.
NSDLĐ cho rằng trong thời hạn 30 ngày công ty có quyền ký tiếp hay chấm dứt
theo Điều 27 BLLĐ.
e)
Việc chấm dứt HĐLĐ của công ty đối với A là đúng hay sai? Tại sao?
f)
A có thể gửi đơn đến cơ quan tổ chức nào để yêu cầu giải quyết bảo vệ
quyền lợi của mình.
g)
Hãy giải quyết quyền lợi của A theo quuy định của pháp luật hiện
hành?
h)
Giả sử công ty đưa quyết định chấm dứt HĐ với A, A không có ý kiến
gì và ký nhận vào bản thanh lý HĐ đồng thời nhận các khoản tiền lương, trợ cấp…
thì việc thỏa thuận chấm dứt có được coi là trường hợp đương nhiên chấp dứt HĐ
do hai bên thỏa thuận không? Tại sao?

16



×