Tải bản đầy đủ (.doc) (17 trang)

Tạm giam trong luật tố tụng hình sự

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (154.36 KB, 17 trang )

I.MỞ ĐẦU
Biện pháp ngăn chặn là các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp
dụng nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội hoặc tiếp tục phạm tội,
trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án hình sự. Những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự giúp cho
việc đấu tranh, phòng chống tội phạm đạt hiệu quả cao, nhằm đảm bảo sự hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi, thể hiện sự chuyên chính
của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Các biện pháp ngăn chặn trong Tố tụng hình sự bao gồm : bắt, tạm giữ, tạm
giam, cầm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Trong đó tạm giam là biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc nhất trong các
biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự. Người bị áp dụng biện pháp tạm giam bị
cách li khỏi xã hội trong một khoảng thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền
của công dân.

II.TẠM GIAM TRONG LUẬT TỐ TỤNG HÌNH SỰ
1.Khái niệm
“Tạm giam là biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự do cơ quan điều tra,
Viện kiểm sát, Toà án áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội rất nghiêm trọng
hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng hay bị can, bị cao phạm tội nghiêm trọng,
phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ Luật hình sự quy định hình phạt tù trên một năm
và có căn cứ để cho rằng người đó có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố,
xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội”.
Tạm giam thể hiện sự bắt buộc của nhà nước đối với bị can bị cáo và được đảm
bảo bằng sự cưỡng chế của Nhà nước, do các cơ quan có chức năng thẩm quyền
thực hiện. Ngoài ra, tạm giam còn thể hiện việc hạn chế các quyền tự do của người


bị áp dụng trong một khoảng thời gian nhất định. Vì thế biện pháp tạm giam trong
Tố tụng hình sự thể hiện rõ tính chát của một biện pháp ngăn chặn.
Là một biện pháp ngăn chặn nghiêm khắc nhất, nhưng tạm giam không phải là


hình phạt tù. Tạm giam cũng khác với “giam giữ hành chính” là một biện pháp
phạt đối với người vi phạm hành chính. Các cấp thẩm quyền áp dụng biện pháp
giam giữ hành chính để nhằm giáo dục họ về ý thức tuân thủ pháp luật chứ không
nhằm ngăn chặn tội phạm.
2.Sự phát triển của chế định tạm giam từ 1945 đến nay
Ngay sau Hiến pháp đầu tiên năm 1946 của nước Việt Nam dân chủ cộng hoà để
phù hợp với bối cảnh lịch sử lúc bấy giờ, Chính phủ ta đã ban hành các sắc lệnh
quy định về quyền tự do thân thể, quyền bất khả xâm phạm về nhà ở của dân. Đối
với những phần tử xâm phạm đến lợi ích và sự an toàn của Nhà nước, lợi ích hợp
pháp của nhân dân mà cần thiết phải tạm giam thì thủ tục tạm giam và các trường
hợp tạm giữ tạm giam cũng được quy định cụ thể trong các sắc lệnh trên.
Đến 30-4-1975, sau khi giải phóng miền Nam. Chính phủ lâm thời miền Nam
Việt Nam đã ban hành sắc lệnh 02-SL76 ngày 15-03-1976 quy định việc tạm giữ
và bắt giam, khám người, khám nhà ở, đồ vật. Những quy định trên đây đã góp
phần thực hiện quá trình tiến hành tố tụng được nhanh chóng và có nhiều thuận lợi
hơn, tuy nhiên các văn bản trên cũng chưa nói rõ được những điều kiện cụ thể
được phép tạm giữ tạm giam nên vẫn còn có tình trạng và nhiều trường hợp áp
dụng một cách tuỳ tiện, lạm quyền.
3. Mục đích của việc tạm giam.
Tạm giam được áp dụng đối với bị can, bị cáo trong các giai đoạn khác nhau của
tố tụng hình sự, để kịp thời ngăn chặn tội phạm xảy ra nhằm hạn chế và tránh được
những thiệt hại mà các loại tội phạm có khả năng gây ra cho các đối tượng và các


mối quan hệ xã hội được luật hình sự bảo vệ. Ngoài ra ở mỗi giai đoạn tố tụng nhất
định, việc áp dụng biện pháp này còn có mục đích riêng nhằm đảm bảo thực hiện
tốt chức năng tố tụng của cơ quan áp dụng. Chẳng hạn, việc tạm giam đối với bị
can trong giai đoạn điều tra tạo điều kiện thuận lợi cho Cơ quan điều tra có thể tiến
hành hoạt động thu thập chứng cứ từ lời khai của bị can vào bất cứ khi nào nếu
thấy cần thiết mà không phải mất thời gian triệu tập nhiều lần, đồng thời cũng giúp

cho việc quản lý, giám sát bị can được chặt chẽ; việc tạm giam bị cáo sau khi tuyên
án nhằm đảm bảo cho việc thi hành án sau khi bản án có hiệu lực pháp luật được
thuận lợi.
4. Đối tượng áp dụng
Theo điều 88 Bộ luật tố tụng hình sự, đối tượng bị áp dụng biện pháp tạm giam
chỉ có thể là bị can, bị cáo. Như vậy, chỉ áp dụng tạm giam đối với những người đã
bị khởi tố về hình sự hoặc người đã bị Toà án quyết định đưa ra xét xử. Người
chưa bị khởi tố với tư cách là bị can hay không bị toà án quyết định đưa ra xét xử
thì không thể tạm giam họ.
Việc quy định đối tượng áp dụng của Biện pháp tạm giam là xuất phát từ việc bảo
đảm hoạt động của các cơ quan có thẩm quyền tiến hành đúng theo chính sách của
Đảng và pháp luật của nhà nước, nhằm mục đích bảo vệ quyền lợi hợp pháp của
nhân dân, tránh được hiện tượng giam người vô tội.
Tuy nhiên, tạm giam không phải là biện pháp ngăn chặn duy nhất. vì thế đối với
những đối tượng là bị can, bị cáo phạm tội lần đầu, tính chất ít nghiêm trọng hoặc
phạm tội do vô ý, không có hoạt động cản trở cho công tác điều tra, truy tố xét xử
thì không cần tạm giam mà có thể áp dụng biện pháp ngăn chặn khác.
5. Các trường hợp tạm giam
Khoản 1 Điều 88 Bộ luật TTHS quy định các trường hợp bị tạm giam như sau:


5.1. Bị can, bị cáo phạm tội đặc biệt nghiêm trọng, phạm tội rất nghiêm trọng;
Trường hợp này được áp dụng đối với bị can, bị cáo phạm tội mà theo quy định
của BLHS thì mức cao nhất của khung hình phạt áp dụng với tội ấy là trên 15 năm
tù, tù chung thân hoặc tử hình (tội phạm đặc biệt ngiêm trọng) hoặc mức cao nhất
của khung hình phạt là đến 15 năm tù (tội phạm rất nghiêm trọng). Để áp dụng
biện pháp tạm giam đối với người thực hiện tội phạm thì người thực hiện tội phạm
phải là người đã bị khởi tố bị can hoặc đã bị Thẩm phán ra quyết định đưa vụ án ra
xét xử với tư cách là bị cáo, và bị can, bị cáo này phạm tội rất nghiêm trọng hoặc
đặc biệt nghiêm trọng

5.2. Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng, phạm tội ít nghiêm trọng mà Bộ luật
hình sự quy định hình phạt tù trên hai năm và có căn cứ cho rằng người đó có thể
trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội.
Để tạm giam trong trường hợp này cần có ba điều kiện:
Người thực hiện tội phạm là bị can, bị cáo;
Bị can, bị cáo phạm tội nghiêm trọng hoặc phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy
định hình phạt tù từ trên hai năm. Trong một điều luật có nhiều khoản thì phạm tội
thuộc khoản có mức hình phạt trên hai năm tù có thể bị tạm giam, phạm tội thuộc
khoản có mức hình phạt tù dưới hai năm thì không được tạm giam.
Có căn cứ để cho rằng người phạm tội có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy
tố. xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội. Để xác định điều kiện này phải căn cứ vào
nhân thân bị can, bị cáo, thái độ của họ sau khi phạm tội hoặc những vi phạm nghĩa
vụ của bị can, bị cáo khi bị áp dụng biện pháp ngăn chặn khác ít nghiêm khắc.
Khi phạm tội thuộc những trường hợp trên, bị can, bị cáo bị áp dụng biện pháp
tạm giam. Tuy vậy, đối với bị can, bị cáo là phụ nữ có thai hoặc đang trong thời kì
nuôi con dưới 36 tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng mà nơi cư trú rõ


ràng thì không được tạm giam mà phải áp dụng các biện pháp khác, trừ những
trường hợp sau đây:
• Bị can, bị cáo bỏ trốn và bị bắt theo lệnh truy nã;
• Bị can, bị cáo được áp dụng biện pháp ngăn chặn khác nhưng tiếp tục phạm tội
hoặc cố ý gây cản trở nghiêm trọng đến việc điều tra, truy tố, xét xử;
• Bị can, bị cáo phạm tội xâm phạm an ninh quốc gia và có đủ căn cứ cho rằng nếu
không tạm giam đối với họ thì sẽ gây nguy hại đến an ninh quốc gia.
5.3. Trường hợp tạm giam người chưa thành niên phạm tội
Tại điều 303 Bộ Luật tố tụng hình sự quy định về việc tạm giam người chưa đủ
tuổi thành niên phạm tội : “1. Người từ đủ 14 tuổi đến dưới 16 tuổi có thể bị bắt,
tạm giữ, tạm giam nếu có đủ căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120
của Bộ luật này, nhưng chỉ trong những trường hợp phạm tội rất nghiêm trọng do

cố ý hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
2. Người từ đủ 16 tuổi đến dưới 18 tuổi có thể bị bắt, tạm giữ, tạm giam nếu có đủ
căn cứ quy định tại các điều 80, 81, 82, 86, 88 và 120 của Bộ luật này, nhưng chỉ
trong những trường hợp phạm tội nghiêm trọng do cố ý, phạm tội rất nghiêm trọng
hoặc phạm tội đặc biệt nghiêm trọng.
Thủ tục tố tụng đối với người chưa thành niên là thủ tục đặc biệt được áp dụng đối
với người từ đủ 14 tuổi đến dưới 18 tuổi. Chính sách hình sự của Nhà nước ta đối
với người chưa thành niên chủ yếu là giáo dục và giúp đỡ họ sửa chữa những sai
lầm, phát triển lành mạnh để họ trở thành những công dân có ích cho xã hội, Vì
vậy, khi áp dụng biện pháp tạm giam đối với người chưa thành niên phạm tội cần
phải xem xét cân nhắc đánh giá một cách toàn diện, khách quan và đầy đủ các yếu
tố: tính chất hành vi, độ tuổi, hoàn cảnh sinh sống, môi trường, điều kiện sống,
giáo dục, hoàn cảnh gia đình, thái độ tư tưởng của người chưa thành niên trước và
sau khi phạm tội của người chưa thành niên để ra được quyết định đúng đắn, có


nên áp dụng biện pháp tạm giam đối với họ hay chỉ cần áp dụng các biện pháp
ngăn chặn ít nghiêm khắc hơn.

6. Thẩm quyền ra lệnh tạm giam
Khoản 3 Điều 88 Bộ luật TTHS năm 2003 quy định những người có thẩm
quyền ra lệnh bắt bị can , bị cáo để tạm giam (quy định tại khoản 1 Điều 80 Bộ luật
TTHS) thì có quyền ra lệnh tạm giam. Lệnh tạm giam mà của Thủ trưởng, Phó Thủ
trưởng cơ quan điều tra các cấp phải được Viện kiểm sát cùng cấp phê chuẩn trước
khi thi hành. Thời hạn mà Viện kiểm sát phải xem xét để ra quyết định phê chuẩn
hoặc không phê chuẩn lệnh tạm giam của Cơ quan điều tra là ba ngày, kể từ ngày
nhận được lệnh tạm giam, đề nghị xét phê chuẩn và hồ sơ tài liệu liên quan đến
việc tạm giam. Viện kiểm sát phải hoàn trả lại hồ sơ cho Cơ quan điều tra ngay sau
khi kết thúc việc xét phê chuẩn dù có phê chuẩn hay không.


7. Thủ tục tạm giam
Tạm giam là biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự, nó đụng chạm đến
quyền tự do và danh dự của công dân, quyền bất khả xâm phạm về thân thể. Nếu
như việc tạm giam không được thông báo chính xác kịp thời cho thân nhân người
tạm giam và những người khác sẽ làm cho họ lo lắng, thắc mắc và chính quyền địa
phương sẽ không làm tốt được chức năng phối hợp cho nên thủ tục được đặt ra khi
tạm giam theo khoản 4 điều 70 bộ luật tố tụng hình sự : “Cơ quan ra lệnh tạm giam
phải kiểm tra căn cước của người bị tạm giam và thông báo ngay cho gia đình
người bị tạm giam và cho chính quyền xã, phường, thị trấn hoặc cơ quan, tổ chức
nơi người bị tạm giam cư trú hoặc làm việc biết”.
Mặt khác trong mọi thủ tục tạm giam bị can, bị cáo phải đảm bảo các yêu
cầu pháp lý sau :


-Lệnh tạm giam phải là lệnh viết , nghiêm cấm tạm giam bị can, bị cáo bằng
lệnh miệng.
-Trong lệnh tạm giam phải ghi rõ : ngày, tháng, năm; họ tên chức vụ của
người ra lệnh; họ tên, địa chỉ của người bị tạm giam; lí do tạm giam, thời hạn tạm
giam và giao cho người bị tạm giam một bản.
8.Chế độ tạm giam
Tạm giam không phải là hình phạt mà là những biện pháp ngăn chặn trong
tố tụng hình sự. Việc áp dụng biện pháp tạm giam không phải nhằm trừng trị người
phạm tội mà là để ngăn chặn tội phạm và hành vi trốn tránh pháp luật, gây khó
khăn cho việc giải quyết vụ án của người phạm tội. Vì vậy chế độ tạm giam khác
với chế độ đối với người đang chấp hành hình phạt tù. Người bị tạm giam chỉ chấp
hành các quy định của Chính phủ về chế độ đi lại, sinh hoạt, nhận quà, liên hệ với
gia đình trong thời gian bị tạm giam.

9. Thời hạn tạm giam
Theo quy định của BLTTHS 2003 thì tạm giam được áp dụng trong các giai

đoạn: Điều tra, truy tố, xét xử. Thời hạn tạm giam bị can, bị cáo được quy định
theo những căn cứ khác nhau phụ thuộc vào từng giai đoạn tố tụng để đảm bảo cho
các cơ quan tiến hành tố tụng thực hiện tốt nhiệm vụ của mình.
9.1 Giai đoạn điều tra
Thời hạn tạm giam và việc gia hạn tạm giam để điều tra được quy định tại
Điều 120 BLTTHS và phụ thuộc vào từng loại tội cụ thể. Thời hạn tạm giam bị can
để điều tra không quá hai tháng đối với tội phạm ít nghiêm trọng, không quá ba
tháng đối với tội phạm nghiêm trọng, không quá bốn tháng đối với tội phạm rất
nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt nghiêm trọng. Trong trường hợp vụ án có nhiều


tình tiết phức tạp, xét cần phải có thời gian dài hơn cho việc điều tra và không có
căn cứ để thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp tạm giam thì chậm nhất là mười ngày
trước khi hết hạn tạm giam, Cơ quan điều tra phải có văn bản đề nghị Viện kiểm
sát gia hạn tạm giam. Đối với tội phạm ít nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm
giam một lần không quá một tháng; đối với tội phạm nghiêm trọng có thể được gia
hạn tạm giam hai lần, lần thứ nhất không quá hai tháng và lần thứ hai không quá
một tháng; đối với tội phạm rất nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam hai lần,
lần thứ nhất không quá ba tháng, lần thứ hai không quá hai tháng; đối với tội phạm
đặc biệt nghiêm trọng có thể được gia hạn tạm giam ba lần, mỗi lần không quá bốn
tháng.
Thời hạn tạm giam để phục hồi điều tra, điều tra bổ sung, diều tra lại được qui
định tại Điều 121 BLTTHS. Thời hạn tạm giam để phục hồi điều tra không được
quá thời hạn quy định tại khoản 1 Điều 121 BLTTHS. Thời hạn tạm giam để điều
tra bổ sung thì không quá thời hạn quy định tại khoản 2 của điều luật này, tuy
nhiên thời hạn này không phụ thuộc vào loại tội mà phụ thuộc vào cơ quan trả hồ
sơ để điều tra bổ sung.
9.2 Giai đoạn truy tố
thời hạn tạm giam được quy định tại khoản 1 Điều 166BLTTHS và không
được quá thời hạn để ra một trong bốn quyết định: Truy tố bị can trước Tòa án

bằng một bản cáo trạng, trả lại hồ sơ để điều tra bổ sung, đình chỉ hoặc tạm đình
chỉ vụ án. Thời hạn tạm giam trong giai đoạn này cũng được quy định đối với từng
loại tội phạm: hai mươi ngày đối với tội phạm ít nghiêm trọng và tội phạm nghiêm
trọng, ba mươi ngày đối với tội phạm rất nghiêm trọng và tội phạm đặc biệt
nghiêm trọng .
9.3 Giai đoạn xét xử sơ thẩm
Thời hạn tạm giam để chuẩn bị xét xử sơ thẩm gồm hai loại, loại thứ nhất là
thời hạn được tính bằng ngày, tháng và được ghi trong lệnh tạm giam do chánh án,


phó chánh án tòa án quyết định sau khi thụ lí hồ sơ vụ án. Thời hạn này được quy
định cụ thể với từng loại tội, cụ thể là ba mươi ngày đối với tội ít nghiêm trọng,
bốn mươi lăm ngày đối với tội nghiêm trọng, hai tháng đối với tội rất nghiêm trọng
và ba tháng đối với tội đặc biệt nghiêm trọng. Loại thứ hai được tính bằng sự kiện
“kết thúc phiên tòa”. Thời hạn này chỉ xuất hiện khi thời hạn thứ nhất đã hết mà
không có căn cớ để thay đổi, hủy bỏ biện pháp ngăn chặn tạm giam đang được áp
dụng và trả tự do cho bị cáo. Thời hạn này không phụ thuộc vào loại tội phạm mà
giống nhau đối với tất cả các loại tội. Thời hạn này được ghi trong lệnh tạm giam
do chánh án, phó chánh án quyết định (lần thứ hai) với mục đích để đảm bảo cho
việc xét xử. Thời hạn tạm giam để bảo đảm cho việc thi hành án là thời hạn tạm
giam đối với bị cáo sau khi tuyên án. Theo quy định tại khoản 3 Điều 228
BLTTHS thì thời hạn tạm giam bị cáo trong trường hợp này là bốn mươi lăm ngày
kể từ ngày tuyên án
9.4 Giai đoạn xét xử phúc thẩm
Giai đoạn này cũng có thời hạn để đảm bảo cho việc xét xử phúc thẩm và
thời hạn tạm giam sau khi tuyên án phúc thẩm. a.Thời hạn tạm giam để bảo cho
việc xét xử phúc thẩm gồm hai loại: Một là, thời hạn tạm giam được tính bằng
ngày. Thời hạn này được quy định chung cho các loại tội phạm và phụ thuộc vào
toà án cấp nào thụ lí vụ án. Nếu vụ án do toà án nhân dân cấp tỉnh, toà án quân sự
cấp quân khu thụ lí để xét xử phúc thẩm thì thời hạn tạm giam là sáu mươi ngày.

Nếu vụ án do Toà án quân sự trung ương, Toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao
thụ lí để xét xử phúc thẩm thì thời hạn tạm giam là chín mươi ngày. Hai là, thời
hạn tạm giam xuất hiện sau khi loại thời hạn thứ nhất đã hết và kéo dài cho tới khi
kết thúc phiên toà phúc thẩm. Đây là thời hạn tạm giam đối với bị cáo đang bị tạm
giam mà đến ngày mở phiên toà thời hạn tạm giam đã hết và toà án ra lệnh tạm
giam (tiếp theo) khi xét thấy cần tiếp tục tạm giam để hoàn thành việc xét xử .Thời


hạn tạm giam sau khi tuyên án phúc thẩm được quy định tại khoản 3 Điều 243
BLTTHS Khoản 5 Điều 250 BLTTHS”.
Ngoài các thời hạn nói trên còn một loại thời hạn nữa được đề cập tại Điều 287
BLTTHS, đó là thời hạn tạm giam đối với các bị cáo đang bị tạm giam mà tòa án
cấp giám đốc thẩm hủy án để xét xử lại.
10.Những biện pháp bảo hộ của pháp luật đối với thân nhân và tài sản
của người bị tạm giam.
Khi người bị tạm giam có con chưa thành niên dưới 14 tuổi hoặc có người
thân thích là người tàn tật, già yếu mà không có người chăm sóc, thì cơ quan ra
quyết định , lệnh tạm giam giao những người đó cho người thân thích chăm nom.
Trong trường hợp người bị , tạm giam không có người thân thích thì cơ quan ra
quyết định , lệnh tạm giam giao những người đó cho chính quyền sở tại chăm nom.
Trong trường hợp người bị , tạm giam có nhà hoặc tài sản khác mà không có người
trông nom, bảo quản thì cơ quan ra quyết , lệnh tạm giam phải áp dụng những biện
pháp trông nom, bảo quản thích đáng.
Sau khi đã áp dụng những biện pháp bảo hộ đối với thân nhân và tài sản, Cơ quan
ra quyết định , lệnh tạm giam thông báo cho người bị , tạm giam biết những biện
pháp đã được áp dụng.

III.MỘT SỐ VẤN ĐỀ TỒN TẠI
1.Về bảo đảm quyền con người trong tạm giam
Bắt người, tạm giữ, tạm giam người là những biện pháp cưỡng chế cần thiết do

các cơ quan điều tra, Viện kiểm sát, Toà án áp dụng đối với bị can, bị cáo. Những
năm gần đây bắt, giam, giữ là vấn đề thu hút sự chú ý của nhiều cơ quan nhà nước,
các tổ chức xã hội, và đông đảo quần chúng nhân dân. Việc bắt người tuỳ tiện, bắt


oan người không có tội, tạm giữ, tạm giam người không có Lệnh đã làm ảnh hưởng
nghiêm trọng đến quyền con người, quyền và lợi ích hợp pháp của công dân. Một
vụ việc đã xảy ra tại xã Thanh Long, huyện Yên Mỹ, tỉnh Hưng Yên mà diễn tiến
có thể tóm tắt như sau: Bà Vuốt có hai con là anh Quý và anh Sửu. Chị Toan là vợ
anh Quý bị Nguyễn Tùng Lâm trêu ghẹo và chặn đánh. Ông Chứ (chồng bà Vuốt)
cũng bị Lâm hành hung. Khoảng 21h30 Lâm kéo vài chục người đến vây nhà, ném
gạch đá, dùng kiếm đâm thủng cửa nhà ông Chứ. Ông Chứ ném gạch xuống không
cho Lâm và đồng bọn đến gần, sau đó nhóm của Lâm bỏ chạy. Hôm sau, mẹ và
chú của Lâm đến nhà ông Chứ bắt đền vì làm gẫy răng của Lâm (và phải đền mỗi
cái đến hai triệu đồng). Vụ việc được đưa đến cơ quan pháp luật. Sáng ngày
25/10/2005 anh Quý đến trụ sở công an huyện Yên Mỹ theo giấy triệu tập và bị bắt
giam tại trại tạm giam công an tỉnh Hưng Yên, mãi tới 22 giờ cùng ngày công an
huyện mới thông báo cho gia đình bà Vuốt. Trước đó ngày 20/6/2005 anh Sửu (em
trai anh Quý) đang lao động tại trại nuôi lợn của nhà thì bị ba cán bộ công an
huyện mặc thường phục đến chở thẳng lên công an huyện Yên Mỹ bắt giam.
Trường hợp này các cán bộ công an đã vi phạm các quy định của Luật Tố tụng
Hình sự về việc bắt, giam giữ người. Cán bộ thực hiện bắt người không có lệnh
bắt, khi bắt không tôn trọng trình tự thủ tục bắt, bắt người không có sự chứng kiến
của chính quyền, không lập biên bản khi bắt. Những việc làm này làm ảnh hưởng
nghiêm trọng quyền con người, quyền công dân, gây bức xúc trong dư luận xã hội.
2.Tạm giam vô thời hạn
Thời hạn tạm giam được pháp luật qui định rõ ràng.Thế nhưng đối với những
trường hợp án bị điều tra, xét xử kéo dài, “thời hạn tạm giam” hầu như không còn
ý nghĩa. Một vụ việc đã xẩy ra: Anh Nguyễn Minh Hùng bị bắt tạm giam lúc anh
mới tròn 27 tuổi. Phải sau bốn lần xét xử, trong đó hai lần bị cấp sơ thẩm tuyên án

tử hình, hai lần tòa cấp phúc thẩm yêu cầu trả hồ sơ điều tra lại, đến ngày 13-6-


2008 anh mới được trả tự do bằng quyết định hủy bỏ biện pháp tạm giam của Viện
KSND tỉnh Tây Ninh. Lúc Hùng bị bắt, vợ anh mới mang thai và khi trở về sau
hơn năm năm cách biệt anh mới nhìn thấy mặt con. Điều đáng nói là trên thực tế
những trường hợp tương tự không phải ít. Trong vụ án “vườn điều” nổi tiếng, bà
Nguyễn Thị Lâm đã bị giam oan bảy năm trời; chị Nguyễn Thị Tiến, con ruột bà
Lâm, bị giam năm năm… Nhiều bị cáo, bị can trong các vụ án có vấn đề về chứng
cứ hiện cũng đang bị tạm giam mòn mỏi hết năm này qua năm khác để chờ điều
tra, xét xử lại.
Rõ ràng biện pháp tạm giam trong những vụ án nói trên thực tế không còn là
tạm nữa mà gần như trở nên vô thời hạn, không có một điểm dừng thống nhất.
Theo điều 88, Bộ luật tố tụng hình sự, tạm giam không hề là biện pháp bắt buộc,
pháp luật đã mở ra khả năng để các cơ quan tố tụng linh hoạt, tùy nghi áp dụng hay
không áp dụng biện pháp tạm giam. Việc áp dụng ấy, do đó trên hết tùy thuộc rất
lớn vào sự cân nhắc cũng như cái tâm của các cán bộ tiến hành tố tụng thấu hiểu
nỗi thống khổ “nhất nhật tại tù, thiên thu tại ngoại” của bị can, bị cáo – những
người chưa bị xem là có tội.

IV. Đề xuất hoàn thiện những quy định về tạm giam
1.Về việc hạn chế biện pháp tạm giam đối với một số loại tội phạm nhất định.
Vì tạm giam không phải là một hình phạt mà chỉ là một biện pháp ngăn chặn
nên cần phải coi khả năng bị can, bị cáo có thể trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy
tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm tội là căn cứ chủ yếu để xem xét, quyết định
việc tạm giam. Ngoài ra cũng cần xem xét đến một số yếu tố khác có thể được
dùng làm căn cứ để áp dụng ( hoặc không áp dụng) biện pháp ngăn chặn này như
khả năng gây nguy hại đến an ninh quốc gia hoặc trật tự an toàn xã hội của bị can,



bị cáo nếu không tạm giam họ, loại và mức hình phạt mà BLHS quy định đối với
hành vi phạm tội được thực hiện, một số yếu tố về nhân thân,...
Liên quan đến việc hạn chế việc tạm giam bị can, bị cáo đối với một số lọai
tội phạm, BLTTHS của nước ta chưa có quy định đối với loại (nhóm) tội phạm nào
thì có thể hạn chế việc tạm giam. Trên thực tế có những trường hợp bị can, bị cáo
phạm tội thuộc nhóm tội phạm về kinh tế- chức vụ, họ có nơi cư trú rõ ràng, có đủ
điều kiện để áp dụng biện pháp ngăn chặn khác, họ ít có khả năng và điều kiện
thực tế để trốn hoặc cản trở việc điều tra, truy tố, xét xử hoặc có thể tiếp tục phạm
tội nhưng họ vẫn bị tạm giam vì lý do đơn giản để phục vụ cho công tác điều tra,
truy tố, xét xử.
Vì vậy, có thể hạn chế việc tạm giam bị can, bị cáo đối với một số loại tội phạm
sau:
- Nhóm tội xâm phạm trật tự quản lí kinh tế;
- Nhóm tội phạm về môi trường;
- Một số tội phạm thuộc nhóm tội xâm phạm an toàn công cộng, trật tự công
cộng và trật tự quản lí hành chính,
- Một số tội phạm thuộc nhóm tội phạm về chức vụ và nhóm tội phạm xâm
phạm hoạt động tư pháp;
2.Về việc thu hẹp đối tượng người có thẩm quyền quyết định việc áp dụng biện
pháp tạm giam
Pháp luật tố tụng hình sự chỉ nên giới hạn số lượng đối tượng có thẩm quyền
quyết định việc tạm giam theo hướng:
Chỉ giao cho cấp Trưởng (Viện trưởng Viện kiểm sát, Chánh án tòa án) có
quyền quyết định việc tạm giam. Trong trường hợp cấp Trưởng vắng mặt thì cấp
Phó được cấp Trưởng ủy quyền mới có thẩm quyền này.


Không giao cho người của Cơ quan điều tra thẩm quyền này mà họ chỉ có
quyền đền nghị Viện kiểm sát cùng cấp xem xét, quyết định việc tạm giam bị can,
bị cáo nếu có đủ căn cứ theo quy định của pháp luật, tránh tình trạng lạm dụng biện

pháp tạm giam để tiến hành điều tra.
Đối với cơ quan công an nói chung và các điều tra viên nói riêng, cần phải
thường xuyên học tập bồi dưỡng nâng cao trình độ chuyên môn, ý thức chính trị,
đề cao ý thức tổ chức kỷ luật. nắm chắc các quy định của pháp luật về bắt , tạm
giam; hiểu rõ tính chất, mục đích của các biện pháp tạm giam; đảm bảo khi thực
hiện bắt người để tạm giam phải có lệnh và có sự phê chuẩn của Viện kiểm sát, hạn
chế tình trạng “tiền trảm hậu tấu” khi bắt người.
3.Về việc áp dụng hoặc không áp dụng biện pháp tạm giam đối với một số
trường hợp.
Trường hợp bị can, bị cáo phạm tội ít nghiêm trọng mà BLHS quy định hình
phạt tù dưới 2 năm thì không bị bắt để tạm giam; nhưng đối với các trường hợp bị
can, bị cáo không có nơi cư trú rõ ràng hoặc có tiền án tiền sự, lưu manh chuyên
nghiệp có biểu hiện trốn, cản trở hoạt động điều tra, truy tố, xét xử thì có thể bắt
tạm giam. Có quan điểm cho rằng nên giảm thiểu các trường hợp bắt bị can, bị cáo
để tạm giam, nhưng việc quy định bắt tạm giam đối với đối tượng này là cần thiết
cho hoạt động điều tra của Cơ quan điều tra.
Khoản 2 Điều 88 quy định: “Đối với bị can bị cáo là phụ nữ có thai hoặc
đang nuôi con dưới ba mươi sáu tháng tuổi, là người già yếu, người bị bệnh nặng
mà nơi cư trú rõ ràng thì không tạm giam”. Để thể hiện tinh thần nhân đạo, nhân
văn, vì con người của chế độ XHCN, khoản 2 cần bổ sung thêm trường hợp bị can
bị cáo là người đang phải nuôi, chăm sóc người thân của mình là người tàn tật
nặng, ốm nặng hoặc sắp chết (gia đình neo đơn, nếu thiếu sự chăm sóc của bị can
bị cáo thì những người này không thể tự mình sinh sống được) thì có thể áp dụng


biện pháp ngăn chặn khác trừ những trường hợp đã nêu tại điểm a); b); c) của
Khoản 2 Điều 88.

Danh sách tài liệu tham khảo
1. Bộ luật tố tụng hình sự 2003

2. Giáo trình Luật tố tụng hình sự Việt Nam, Trường Đại học Luật Hà
Nội, NXB Tư pháp.
3. Hoàn thiện một số quy định của Bộ luật tố tụng hình sự về tạm giam
nhằm đáp ứng yêu cầu cải cách tư pháp / Lê Minh Tuấn.
4. />5. Thời hạn tạm giam trong Bộ luật tố tụng hình sự năm 2003 / Mai bộ //
Tạp chí luật học. Trường đại học luật Hà Nội. Số 7/2008, tr. 3 – 11
6. BẢO ĐẢM QUYỀN CON NGƯỜI TRONG VIỆC BẮT, TẠM GIỮ,
TẠM GIAM - NGUYỄN TIẾN ĐẠT, Đại học ANND TP. Hồ Chí
Minh
TẠP CHÍ KHPL SỐ 3(34)/2006


BÀI 6
Tạm giam trong tố tụng hình sự và việc hoàn thiện pháp luật
nhằm nâng cao hiệu quả áp dụng
MỤC LỤC


I.MỞ ĐẦU
Biện pháp ngăn chặn là các biện pháp cưỡng chế trong tố tụng hình sự được áp
dụng nhằm ngăn chặn những hành vi nguy hiểm cho xã hội hoặc tiếp tục phạm tội,
trốn tránh pháp luật hoặc có hành vi gây cản trở cho việc điều tra, truy tố, xét xử và
thi hành án hình sự. Những biện pháp ngăn chặn trong tố tụng hình sự giúp cho
việc đấu tranh, phòng chống tội phạm đạt hiệu quả cao, nhằm đảm bảo sự hoạt
động của các cơ quan tiến hành tố tụng được thuận lợi, thể hiện sự chuyên chính
của nhà nước xã hội chủ nghĩa.
Các biện pháp ngăn chặn trong Tố tụng hình sự bao gồm : bắt, tạm giữ, tạm
giam, cầm đi khỏi nơi cư trú, bảo lãnh đặt tiền hoặc tài sản có giá trị để bảo đảm.
Trong đó tạm giam là biện pháp ngăn chặn có tính chất nghiêm khắc nhất trong các
biện pháp ngăn chặn của tố tụng hình sự. Người bị áp dụng biện pháp tạm giam bị

cách li khỏi xã hội trong một khoảng thời gian nhất định, bị hạn chế một số quyền
của công dân.



×