Tải bản đầy đủ (.doc) (177 trang)

(Luận án tiến sĩ luật học) Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (634.1 KB, 177 trang )

1

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài luận án
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã đề ra nhiệm vụ
"Xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân" [17, tr. 72], đồng thời, khẳng định "Tiếp tục đổi mới
tổ chức hoạt động của chính quyền địa phương. Nâng cao chất lượng hoạt
động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các cấp, bảo đảm quyền
tự chủ và tự chịu trách nhiệm trong việc quyết định và tổ chức thực hiện
những chính sách trong phạm vi được phân cấp" [17, tr. 251]. Trên cơ sở
đường lối, chính sách của Đảng, Quốc hội đã thông qua Hiến pháp ngày
28 - 11 - 2013 (từ đây, viết gọn là “Hiến pháp năm 2013”), trong đó quy
định về chính quyền địa phương tại Chương 9, gồm 7 điều (Điều 110 Điều 116) và Luật Tổ chức chính quyền địa phương ngày 19 - 6 - 2015
(từ đây, viết gọn là “Luật Tổ chức chính quyền địa phương năm 2015”).
Công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân,
vì dân đang đòi hỏi phải cải cách, đổi mới toàn diện bộ máy nhà nước
nói chung, chính quyền địa phương nói riêng, trong đó có đổi mới tổ
chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh.
Hội đồng nhân dân tỉnh giữ vị trí quan trọng và có vai trò ngày càng to
lớn trong bộ máy nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì
dân nói chung, chính quyền địa phương nói riêng. Tuy nhiên, do nhiều
nguyên nhân, tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh hiện nay
vẫn còn những hạn chế nhất định, làm cho bộ máy của nó cồng kềnh,
hoạt động kém hiệu lực, hiệu quả và mang tính hình thức.
Trong bối cảnh chúng ta đang tổ chức thi hành Hiến pháp năm 2013
và sắp tới tổ chức thực hiện Luật tổ chức chính quyền địa phương năm


2


2015 (kể từ ngày 1 - 1 - 2016) và trước yêu cầu xây dựng Nhà nước
pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân thì Hội đồng nhân dân
tỉnh cần được tổ chức và hoạt động như thế nào? Đây là câu hỏi chưa có
lời giải đáp đầy đủ. Đảng, Nhà nước ta đã có nhiều chủ trương, chính
sách, pháp luật về đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân
tỉnh, nhưng việc thực hiện đổi mới đó vẫn còn diễn ra chậm chạp và đạt
hiệu quả thấp; hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh
vẫn chưa được phát huy. Một trong những nguyên nhân của tình trạng
đó là do việc thực hiện đổi mới ấy còn thiếu những căn cứ lý luận và
thực tiễn. Bên cạnh đó, cho đến nay, việc nghiên cứu những vấn đề lý
luận và thực tiễn về nội dung và cách thức thực hiện đổi mới tổ chức và
hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng
thành công Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân còn
chưa được triển khai một cách sâu rộng và có tổ chức, cho nên còn thiếu
vắng những công trình có giá trị khoa học cao về vấn đề này.
Trước tình hình trên, Nghiên cứu sinh đã chọn chủ đề "Đổi mới tổ
chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân" làm đề
tài luận án tiến sĩ luật học của mình.
2. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của Luận án
Đối tượng nghiên cứu trực tiếp của đề tài Luận án là tổ chức và hoạt
động của Hội đồng nhân dân tỉnh ở Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, đây
là một vấn đề rất lớn và phức tạp, cho nên, trong Luận án này, tác giả chỉ
có thể giải quyết được một số vấn đề lý luận và thực tiễn về đổi mới tổ
chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh nhằm đáp ứng yêu cầu
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân.
3. Mục tiêu và nhiệm vụ nghiên cứu của Luận án


3


Mục tiêu nghiên cứu đề tài là đề xuất được các quan điểm khoa học,
phương hướng và giải pháp khả thi nhằm tiếp tục đổi mới tổ chức và
hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân trong bối cảnh hiện
nay ở nước ta.
Nhằm đạt được mục tiêu nêu trên, tác giả Luận án thực hiện ba nhiệm
vụ chủ yếu sau đây:
Một là, phân tích làm rõ cơ sở lý luận về đổi mới tổ chức và hoạt động
của Hội đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân.
Hai là, đánh giá thực trạng đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội
đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam của dân, do dân, vì dân trên các phương diện ưu điểm, nhược
điểm và phân tích làm rõ nguyên nhân của ưu, nhược điểm đó.
Ba là, đề xuất những quan điểm khoa học, phương hướng, giải pháp
tiếp tục thực hiện đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân
tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân,
do dân, vì dân.
4. Cơ sở phương pháp luận và các phương pháp nghiên cứu của Luận
án
Luận án được hoàn thành trên cơ sở phương pháp luận khoa học là
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của
Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước và pháp luật. Tác giả nghiên cứu
đổi mới về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh theo quan
điểm toàn diện, khách quan, lịch sử và cụ thể. Đổi mới Hội đồng nhân dân
tỉnh trong mối quan hệ biện chứng và đồng bộ với đổi mới các thành tố
của cả hệ thống chính trị nói chung và cả bộ máy nhà nước, chính quyền
địa phương ở nước ta nói riêng nhằm đáp ứng những yêu cầu xây dựng
thành công Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân. Tác



4

giả sử dụng phương pháp chủ yếu này trong Chương 1, Chương 2 và
Chương 4. Đồng thời, tác giả phân tích việc đổi mới tổ chức và hoạt
động của Hội đồng nhân dân tỉnh gắn liền với những điều kiện lịch sử cụ
thể của đất nước trong mỗi thời kỳ một cách khách quan, phương pháp
này tác giả sử dụng chủ yếu tại Chương 3 của Luận án.
Ngoài ra, tác giả cũng sử dụng các phương pháp nghiên cứu khác để
thực hiện Luận án như phương pháp phân tích - tổng hợp, so sánh, thống
kê,…
5. Những đóng góp mới của Luận án
Lần đầu tiên luận án đã phân tích làm sáng tỏ những vấn đề lý luận về
đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh nhằm đáp ứng
yêu cầu xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân,
do dân, vì dân; đánh giá thực trạng tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt
động của Hội đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng thành công
Nhà nước pháp quyền Việt Nam thời gian qua, nhằm chỉ ra ưu điểm,
nhược điểm và phân tích làm rõ nguyên nhân của ưu, nhược điểm đó; đề
xuất những quan điểm, phương hướng, giải pháp tiếp tục đổi mới tổ
chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh nhằm đáp ứng yêu cầu
xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân,
vì dân ở nước ta…
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của Luận án
Về mặt lý luận, luận án sẽ góp phần xứng đáng vào việc làm sáng tỏ
nhiều vấn đề quan trọng mà cho tới nay, hoặc chỉ được đề cập phần nào,
hoặc chưa hề được đề cập trong các công trình nghiên cứu như vị trí, vai
trò của Hội đồng nhân dân tỉnh trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam
của dân, do dân, vì dân; những yêu cầu về tổ chức và hoạt động của Hội

đồng nhân dân tỉnh phù hợp với nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp
quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân; khái niệm, mục tiêu, nguyên
tắc, nội dung đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh;


5

các nhân tố ảnh hưởng việc đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng
nhân dân tỉnh nhằm xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền Việt
Nam của dân, do dân, vì dân ở nước ta.
Về mặt thực tiễn, trên cơ sở đánh giá một cách khoa học, khách quan
thực trạng đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh đáp
ứng yêu cầu xây dựng thành công Nhà nước pháp quyền Việt Nam của
dân, do dân, vì dân, luận án đưa ra được những quan điểm, phương
hướng, giải pháp khả thi nhằm tiếp tục tiến hành đổi mới tổ chức và hoạt
động của Hội đồng nhân dân tỉnh có hiệu quả đáp ứng yêu cầu xây dựng
Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân.
Luận án là một tài liệu khoa học có giá trị phục vụ công tác nghiên
cứu khoa học, đào tạo đại học và sau đại học các ngành luật học, hành
chính học; hoạt động thực tiễn đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy
nhà nước nói chung, của Hội đồng nhân dân tỉnh nói riêng, cũng như
hoạt động xây dựng pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật và bảo vệ
pháp luật về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh và của cả
bộ máy nhà nước theo hướng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân,
do dân, vì dân;…
7. Kết cấu của luận án
Ngoài phần Mở đầu, Kết luận chung và Danh mục tài liệu tham khảo,
nội dung của Luận án được kết cấu thành bốn chương sau:
Chương 1: Tổng quan tình hình nghiên cứu đề tài Luận án.
Chương 2: Cơ sở lý luận về đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội

đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam của dân, do dân, vì dân.
Chương 3: Thực trạng đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng
nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam
của dân, do dân, vì dân.


6

Chương 4: Quan điểm, phương hướng và giải pháp tiếp tục đổi mới tổ
chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây
dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân.


7

Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU ĐỀ TÀI LUẬN ÁN
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC Ở TRONG NƯỚC NGHIÊN CỨU VỀ NHÀ
NƯỚC PHÁP QUYỀN VÀ HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN

1.1.1. Về nhà nước pháp quyền
Các công trình nghiên cứu về nhà nước pháp quyền và xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam tập trung giải quyết những
vấn đề nhận thức luận về nhà nước pháp quyền, Nhà nước pháp quyền
Việt Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân như nguyên tắc, điều
kiện, mô hình nhà nước pháp quyền trong điều kiện, hoàn cảnh của nước
ta.
Trong bài Vấn đề nhà nước pháp quyền (Tạp chí Cộng sản, Số
2/1992), tác giả Nguyễn Văn Động luận giải nhà nước pháp quyền là giá

trị của nền văn minh nhân loại và ý nghĩa lý luận, thực tiễn sâu sắc của
việc thực hiện tư tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của
dân, do dân, vì dân trong thời kỳ đổi mới và hội nhập quốc tế. Trong bài
Học thuyết về nhà nước pháp quyền - Lịch sử và hiện tại (Tạp chí Luật
học, Số 4/ 1996), tác giả Nguyễn Văn Động phân tích những giá trị và
đặc điểm cơ bản của tư tưởng nhà nước pháp quyền trong lịch sử và hiện
tại.
Tìm hiểu về nhà nước pháp quyền là công trình của nhiều tác giả do
GS.TSKH. Đào Trí Úc làm Chủ biên, Viện Nhà nước và Pháp luật, Nxb
Pháp lý, Hà Nội, 1992. Cuốn sách tổng thuật về nhiều nội dung cơ bản
của nhà nước pháp quyền như khái niệm, nội dung về nhà nước pháp
quyền, xã hội công dân, quyền con người trong nhà nước pháp quyền
qua các công trình nghiên cứu của các tác giả nước ngoài. Bài Tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của GS.TS.
Hoàng Văn Hảo (Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện nhà nước và pháp


8

luật, Viện khoa học xã hội Việt Nam, Số 3/2004), tập trung phân tích tư
tưởng lập hiến, quan điểm nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân
dân của Chủ tịch Hồ Chí Minh là cốt lõi của nhà nước pháp quyền.
Trong bài Xây dựng, hoàn thiện hệ thống pháp luật và tổ chức thực hiện
pháp luật - Nhiệm vụ trọng tâm xây dựng nhà nước pháp quyền Việt
Nam xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân (Tạp chí Nhà nước và
pháp luật, Viện nhà nước và pháp luật, Viện khoa học xã hội Việt Nam,
Số 7/2004), PGS.TS. Trần Ngọc Đường phân tích nhu cầu hoàn thiện
pháp luật, tiêu chí đánh giá sự hoàn thiện của pháp luật, đồng thời nhấn
mạnh việc tổ chức thực hiện pháp luật ở nước ta hiện nay. Xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân dưới sự

lãnh đạo của Đảng là công trình của Tô Xuân Dân và Nguyễn Thanh
Bình (Tạp chí Cộng sản, Số 4, tháng 2/2004), trong đó các tác giả phân
tích những yêu cầu của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
PGS.TS Phạm Hồng Thái và Nguyễn Quốc Sửu viết bài: Bàn về Nhà
nước pháp quyền và xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta (Tạp chí
Quản lý nhà nước, Học viện Hành chính Quốc gia, Số 3/2005), trong đó
đã trình bày khái quát sự hình thành tư tưởng nhà nước pháp quyền và
đưa ra những đặc trưng của nhà nước pháp quyền nói chung và Nhà
nước pháp quyền Việt nam nói riêng. Chương trình khoa học xã hội cấp
nhà nước KX 04 (2001-2005) Xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa Việt Nam của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, trong đó
có Đề tài KX.04.01: Cơ sở lý luận và thực tiễn về nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân do GS. VS. Nguyễn Duy Quý
làm Chủ nhiệm; Đề tài KX.04-02: Mô hình tổ chức và hoạt động của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của dân, do dân, vì
dân giai đoạn 2001 - 2010, do GS.TSKH Đào Trí Úc làm Chủ nhiệm.
Những công trình nghiên cứu này đã nghiên cứu và đánh giá một cách


9

toàn diện về nhà nước pháp quyền trong lịch sử ở phương Đông và
phương Tây; về tư tưởng, đặc điểm của Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Mô hình tổ chức và hoạt động của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là sách chuyên khảo của nhiều tác giả (Nxb Tư pháp, Hà
Nội, 2007), trong đó, các tác giả đã nghiên cứu một cách khá toàn diện
những vấn đề lý luận về mô hình nhà nước pháp quyền, bản chất của nhà
nước pháp quyền, chỉ ra những đặc điểm của nhà nước pháp quyền nói
chung và các đặc trưng của Nhà nước pháp quyền Việt Nam nói riêng.
Trong Đề tài KX 04-04: Xây dựng mô hình tổ chức, phương thức hoạt

động của Quốc hội và Chính phủ trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân (do PGS.TS. Trần Ngọc Đường làm Chủ
nhiệm), các tác giả đã phân tích vị trí của Quốc hội, Chính phủ, mối
quan hệ giữa hai thể chế, đưa ra mô hình cần có về Quốc hội và Chính
phủ ở nước ta, đồng thời phân tích, đánh giá về phương thức, các hình
thức hoạt động của Quốc hội, Chính phủ. Đề tài cấp Đại học Quốc gia,
Mã số: QG. 05.42 Quốc hội trong điều kiện của việc xây dựng nhà nước
pháp quyền, do PGS.TS Nguyễn Đăng Dung làm Chủ nhiệm, đã khái
quát tư tưởng về nhà nước pháp quyền trong lịch sử, phân tích mô hình
tổ chức quyền lực nhà nước ở một số quốc gia, xác định nhiệm vụ trong
tâm của Quốc hội trong nhà nước pháp quyền. Trong sách Sự hạn chế
quyền lực nhà nước (Nxb. Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội, 2005),
PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung đã phân tích cơ chế hạn chế quyền lực
bằng pháp luật, trong đó đặc biệt nhấn mạnh vai trò của cơ quan tư pháp
trong cơ cấu quyền lực nhà nước. Bài Quan điểm của Hồ Chí Minh về
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
nhân dân của Tô Huy Rứa (Tạp chí Cộng sản, Số 22, tháng 11/2005) đã
tập trung phân tích những quan điểm của Hồ Chí Minh về tư tưởng xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân


10

trong điều kiện thực tiễn của nước ta. Trong bài: Đẩy mạnh xây dựng
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam (Http://w.w.w.
Vietnamplus, 21/4/2011), PGS.TS Nguyễn Viết Thông đã phân tích một
cách toàn diện những quan điểm cơ bản của Đảng ta về xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam.
Trong những công trình nghiên cứu này, các tác giả đã tập trung luận
giải sự hình thành, phát triển của nhận thức về nhà nước pháp quyền,

nguyên tắc, đặc trưng của nhà nước pháp quyền với tư cách là những giá
trị có tính phổ biến, sự hạn chế quyền lực nhà nước trong nhà nước pháp
quyền, đồng thời, nêu ra những quan điểm và đặc trưng của Nhà nước
pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam; mô hình nhà nước pháp quyền, mô hình tổ
chức cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp trong nhà nước pháp quyền,
nhưng về chính quyền địa phương nói chung và Hội đồng nhân dân tỉnh
nói riêng mới chỉ điểm qua ở những nét chung nhất mà chưa có những
phân tích xác đáng về tổ chức và hoạt động của nó nhằm đáp ứng yêu
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân. Hơn nữa, trong các nghiên cứu nêu trên, các tác giả còn những quan
niệm khác nhau về nhà nước pháp quyền, về chính quyền địa phương, và
về vị trí, tính chất của Hội đồng nhân dân. Tuy vậy, đây là những cơ sở
lý luận, là nguồn tài liệu quan trọng, có ý nghĩa lý luận sâu sắc để tác giả
vận dụng vào việc nghiên cứu đề tài mà nghiên cứu sinh đã lựa chọn.
1.1.2. Về Hội đồng nhân dân
- Về sự hình thành, vị trí, tính chất, vai trò của Hội đồng nhân dân nói
chung, Hội đồng nhân dân tỉnh nói riêng:
Kỷ yếu hội nghị toàn quốc về Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
của Văn phòng Quốc hội (Hà Nội, 1998) gồm nhiều bài viết về vị trí, vai
trò, tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân nói chung. Bài Vài nét


11

về nền hành chính Việt Nam từ Cách mạng Tháng Tám đến nay của
Đinh Văn Mậu, Phạm Hồng Thái (Tạp chí Quản lý nhà nước, Học viện
hành chính Quốc gia, Số 10/2001) đã khái quát về chính quyền quyền
địa phương nước ta, phân biệt chính quyền đô thị và nông thôn. Trong
sách Những vấn đề lý luận và thực tiễn về chính quyền địa phương ở

Việt Nam hiện nay (Tập thể tác giả, Chủ biên: PGS.TS. Lê Minh Thông
và PGS.TS. Nguyễn Như Phát, Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002),
các tác giả đã phân tích về chính quyền địa phương trên thế giới và Việt
Nam, đem đến cho chúng ta những nhận thức mới, đúng đắn hơn, toàn
diện hơn về chính quyền địa phương nói chung và Hội đồng nhân dân nói
riêng. Sách Hội đồng nhân dân, quá trình hình thành và biến đổi (Vũ
Hùng, Nxb. Đà Nẵng, 2007) cũng đã phân tích làm rõ nhiều vấn đề về tổ
chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân một cách có hệ thống từ trước
đến nay. Bình luận khoa học Hiến pháp Nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam năm 2013, của Viện Chính sách công và pháp luật (Nxb.
Lao động và xã hội, Hà Nội, 2014) đã bình luận về chính quyền địa
phương theo quy định của Hiến pháp năm 2013. Từ góc độ lịch sử, trong
sách Tổ chức chính quyền nhà nước ở địa phương (nhiều tác giả, Chủ
biên: PGS.TS. Nguyễn Đăng Dung, Nxb. Đồng Nai, 1997), các tác giả
đã phân tích vị trí, tính chất pháp lý, chức năng của Hội đồng nhân dân
và Ủy ban nhân dân, đây là công trình nghiên cứu khá cơ bản về chính
quyền địa phương.
- Về tổ chức và hoạt động của của Hội đồng nhân dân các cấp.
Kỷ yếu hội nghị Thường trực Hội đồng nhân dân tỉnh, thành phố trực
thuộc Trung ương các khu vực trên toàn quốc năm 2006 (Ủy ban
Thường vụ Quốc hội - Ban công tác đại biểu, Hà Nội, 2006) gồm nhiều
bài viết về vai trò, vị trí của Thường trực Hội đồng nhân dân cấp tỉnh
trong tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương ở nước ta. Kỷ


12

yếu hội nghị chánh văn phòng Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân
các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương của năm 2004 (Văn phòng
Chính phủ, Nxb. Giao thông vận tải, Hà Nội, 2004) gồm các bài phân

tích nội dung và phương thức hoạt động của Văn phòng Hội đồng nhân
dân và Văn phòng Ủy ban nhân dân nói chung. Kỷ yếu hội nghị toàn
quốc về hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân năm
2010 (Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hà Nội, 2010) gồm những bài phân
tích nội dung và phương thức hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy
ban nhân dân nói chung.
- Về thực trạng và những yêu cầu đặt ra về tổ chức, hoạt động của
Hội đồng nhân dân nói chung, Hội đồng nhân dân tỉnh nói riêng.
Bài 60 năm xây dựng và hoàn thiện tổ chức chính quyền địa phương
của nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam (1945-2005) (PGS.TS.
Thái Vĩnh Thắng, Tạp chí Luật học, Trường Đại học luật Hà Nội, Số
5/2005) trình bày khái quát về quá trình hình thành và phát triển của tổ
chức chính quyền địa phương ở nước ta, phân tích những bất cập và đề
ra phương hướng khắc phục. Bài Thí điểm bỏ Hội đồng nhân dân quận,
huyện, phường - những vấn đề đặt ra (TS. Nguyễn Thị Thu Hà, Tạp chí
Luật học, Trường Đại học luật Hà Nội, Số 5/ 2011) đánh giá những kết
quả thành công và hạn chế của hơn 1 năm việc thí điểm không tổ chức
Hội đồng nhân dân quận, huyện, phường và tập trung phân tích những
hạn chế, kiến nghị không chủ quan kết luận sớm, nên thận trọng. Tổ
chức và hoạt động của chính quyền tỉnh theo hướng xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam là Luận án tiến sĩ
chuyên ngành Quản lý hành chính công (Nguyễn Hồng Diên, Học viện
Hành chính Quốc gia, Hà Nội, 2005), trong đó, tác giả Luận án tập
trung phân tích những quan điểm cơ bản về Nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa Việt Nam; tổ chức và hoạt động của chính quyền tỉnh đáp


13

ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền ở nước ta. Chất lượng

hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh theo yêu cầu của nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam là Luận án tiến sĩ luật học
(Nguyễn Nam Hà, Viện Khoa học xã hội Việt Nam, Hà Nội, 2011),
trong đó, tác giả Luận án tập trung phân tích các giải pháp nâng cao
chất lượng các hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh trong điều kiện
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay,
nhưng chưa đề cập hoặc đề cập rất ít đến vấn đề cách thức đổi mới về
tổ chức Hội đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Sách Hội đồng nhân dân trong Nhà nước
pháp quyền (GS.TS. Nguyễn Đăng Dung, Nxb. Tư pháp, Hà Nội, 2012)
phân tích về nhà nước pháp quyền trên thế giới, những đòi hỏi của nhà
nước pháp quyền, về địa vị pháp lý của Hội đồng nhân dân trong nhà
nước pháp quyền ở nước ta hiện nay. Báo cáo kết quả các nghiên cứu
chuyên đề phục vụ sửa đổi Hiến pháp năm 1992 của Ủy ban Thường vụ
Quốc hội (Hà Nội, 2013) đã phân tích làm rõ nhiều nội dung về chính
quyền địa phương như mô hình tổ chức chính quyền địa phương, thực
trạng tổ chức và hoạt động của chính quyền địa phương.
- Về cải cách, đổi mới tổ chức và hoạt động của bộ máy chính quyền
địa phương.
Đổi mới thể chế và hoạt động của bộ máy quản lý nhà nước ở địa
phương là Đề tài mã số 93-98-397 do PGS.TS. Lê Sĩ Thiệp làm Chủ
nhiệm (Hà Nội, 1996), do Học viện Hành chính Quốc gia chủ trì, đã đề
cập một số khía cạnh về tổ chức và hoạt động của chính quyền địa
phương, nhưng chủ yếu bàn luận nhiều đến các cấp quản lý ở địa
phương. Ngoài ra, còn phải kể đến các tác phẩm khác như: Cải cách
hành chính địa phương - Lý luận và thực tiễn (nhiều tác giả, Chủ biên: Tô
Tử Hạ, TS. Nguyễn Hữu Trị, TS. Nguyễn Hữu Đức Đồng, năm 1998);


14


Đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân
dân các cấp (TS. Lê Minh Thông, Tạp chí Nhà nước và pháp luật, Viện
nhà nước và pháp luật, Số 6/1999); Một số vấn đề cần hoàn thiện trong
tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân các cấp (Bùi Xuân Đức, Tạp
chí Nhà nước và pháp luật, Viện nhà nước và pháp luật, Số 7/2000); Suy
nghĩ về cơ sở khoa học của việc đổi mới tổ chức Hội đồng nhân dân và
Ủy ban nhân dân ở nước ta hiện nay (TS. Nguyễn Văn Động, Tạp chí Luật
học, Trường Đại học luật Hà Nội, Số 4/2003). Bên cạnh đó, cũng có một
số công trình đề cập vấn đề cải cách, đổi mới một số mặt trong tổ chức
và hoạt động của chính quyền địa phương gắn với việc xây dựng Nhà
nước pháp quyền Việt Nam. Ví dụ: Đổi mới tổ chức và hoạt động của
các cơ quan đại diện ở nước ta (Luận án Phó tiến sĩ Luật học của Chu
Văn Thành, chuyên ngành Lý luận về nhà nước và pháp luật, Mã số:
5.05.01, Học viện Nguyễn Ái Quốc); Nâng cao hiệu lực giám sát của
Hội đồng nhân dân cấp tỉnh trong điều kiện đổi mới ở Việt Nam hiện
nay (Vũ Mạnh Thông, Luận văn thạc sĩ Luật học, Học viện Chính trị
quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội, 1998); Về Hội đồng nhân dân và Ủy ban
nhân dân ở nước ta hiện nay (TS. Nguyễn Thị Hồi, Tạp chí Luật học,
Trường Đại học luật Hà Nội, Số 1/2004); Đổi mới về tổ chức và hoạt
động của chính quyền địa phương ở Việt nam hiện nay (Hoàng Thu
Trang, Luận văn thạc sĩ Luật học, Trường Đại học luật Hà Nội, Hà Nội,
2014). Ngoài ra, Kỷ yếu hội nghị toàn quốc về tổ chức và hoạt động của
Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân của Văn phòng Quốc hội (Hà
Nội, 2003) gồm nhiều bài viết về những giải pháp nâng cao vai trò và
chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân các
cấp.
Các công trình nghiên cứu khoa học nêu trên tiếp tục phát triển tư
tưởng xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam trong



15

điều kiện thế giới đang chuyển đổi. Đồng thời, các nhà khoa học pháp lý
đã đóng góp vào kho tàng lý luận về nhà nước, pháp luật, đặc biệt là sự
phát triển của Nhà nước Việt Nam trong giai đoạn mới - giai đoạn mà
toàn Đảng, toàn dân ta đẩy mạnh công cuộc cải cách lớn đối với toàn bộ
bộ máy nhà nước, cải cách nền hành chính, cải cách tư pháp, đổi mới
công tác lập pháp theo hướng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa
Việt Nam. Đối với Hội đồng nhân dân tỉnh, các công trình nghiên cứu
cũng đã đề cập trên nhiều góc độ khác nhau, từ việc nghiên cứu tổ chức
Hội đồng nhân dân tỉnh đến việc nghiên cứu phương thức hoạt động,
hiệu lực, hiệu quả hoạt động của Hội đồng nhân dân, đại biểu Hội đồng
nhân dân, chất lượng các kỳ họp Hội đồng, cả việc tổ chức các kỳ họp
Hội đồng thế nào cho có hiệu quả... Tuy nhiên, hầu hết các công trình
nghiên cứu khoa học này chưa đề cập việc đổi mới về tổ chức và hoạt
động của Hội đồng nhân dân tỉnh như thế nào và tiến trình đổi mới ra
sao nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng nhà nước pháp quyền Việt Nam của
dân, do dân, vì dân. Mặc dù vậy, các công trình nghiên cứu trên có giá
trị lớn giúp cho tác giả có được những luận chứng khoa học để tiếp tục
nghiên cứu, hoàn thiện luận án của mình.
Các luận án, luận văn luật học, các bài viết trên tạp chí khoa học, các
kỷ yếu trên đây đã đi sâu vào nghiên cứu từng khía cạnh, góc độ khác
nhau về Hội đồng nhân dân nói chung và Hội đồng nhân dân tỉnh nói
riêng nhằm nhấn mạnh và làm rõ hơn tính quyền lực, tính đại diện của
Hội đồng nhân dân, cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương, hoặc
nghiên cứu về hoàn thiện pháp luật về tổ chức, hoạt động của Hội đồng
nhân dân. Tuy vậy, chưa có công trình nào đi sâu nghiên cứu có hệ
thống về tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh cả về mặt lý
luận và thực tiễn đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt

Nam Việt Nam của dân, do dân, vì dân, dưới sự lãnh đạo của Đảng. Tuy


16

nhiên, những công trình nghiên cứu này là nguồn tài liệu có giá trị quan
trọng giúp tác giả có thể kế thừa, nghiên cứu, phân tích đề tài luận án.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH KHOA HỌC CỦA CÁC TÁC GIẢ NGOÀI NƯỚC VÀ
CÁC TÁC GIẢ TRONG NƯỚC NGHIÊN CỨU VỀ CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG
Ở NƯỚC NGOÀI

- Một số công trình khoa học của các tác giả ngoài nước nghiên
cứu về chính quyền địa phương ở nước ngoài.
Trong bài: A theory of the organization of state and local
government employees, Journal of labour research, Volum 3, No. 2,
1982 (Lý thuyết về tổ chức nhà nước và công chức chính quyền địa
phương), Amy Dalton cho rằng sự gia tăng về số lượng của lực lượng
lao động trong khu vực công buộc nhà quản lý phải quan tâm tới việc
thiết lập một tổ chức khác, ngoài tổ chức công đoàn lao động thông
thường. Mô hình giải thích hiện tượng này ở chính quyền trung ương và
chính quyền địa phương, các số liệu thu thập được từ năm 1977 trở lại
đây (năm 1982). Tổ chức lao động trong khu vực công ngày càng đóng
vai trò quan trọng trong nền kinh tế, chính trị, buộc chính quyền trung
ương và chính quyền địa phương phải quan tâm. Sự phát triển của tổ
chức này trong hai thập kỷ qua là một trong những phương diện thú vị
nhất của sự dịch chuyển lao động. Nhìn xa hơn nữa về tổ chức công
đoàn, ta thấy rằng 50 phần trăm người lao động trong chính quyền trung
ương và chính quyền địa phương đều gia nhập tổ chức cho người lao
động trong khu vực công này. Sự mở rộng tổ chức lao động trong khu
vực công là dấu hiệu điển hình cho các nhà kinh tế có thể nhìn thấy sự

tác động của nó lên thị trường lao động và sức khoẻ của nền kinh tế ở
trung ương và địa phương.
Trong tác phẩm: Central-local government relations in transition: the
case of Swedish child care, Public choice 110, 305-325, 2002 (Mối quan


17

hệ giữa chính quyền trung ương và chính quyền địa phương: ví dụ về
chăm sóc trẻ em ở Thụy Điển), Bjorn Gustafsson nhận định rằng trong
những thập kỷ gần đây, chế độ cấp dưỡng cho trẻ em ở Thụy Điển chiếm
tỷ trọng ngày càng nhiều trong các hoạt động kinh tế. Nghiên cứu này
cho thấy mối quan hệ tài chính giữa chính quyền trung ương và chính
quyền địa phương và ảnh hưởng của chế độ chăm sóc trẻ em đối với ứng
xử của chính quyền địa phương. Nghiên cứu chỉ ra rằng trong những
thập kỷ trước vai trò của chính quyền địa phương là rất lớn.
Local government finance and industrial policy in China, Economics
of Planning 31: 195 - 212, 1998. (Tài chính của Chính quyền địa phương
và chính sách công nghiệp ở Trung Quốc) là công trình của Christopher
Heady, trong đó, tác giả nhận xét rằng nghiên cứu cho thấy hệ thống tài
chính của chính quyền địa phương ở Trung Quốc ảnh hưởng tới chính
sách công nghiệp địa phương. Bắt đầu bằng việc thu thập các số liệu từ
các thành phố gần đây để chứng minh cho tầm quan trọng của thuế gián
tiếp đối với dịch vụ tài chính địa phương.
Trong: Local government, local economic development and quality of
life in Poland, GeoJournal 90, 225 - 234, 2000 (Chính quyền địa
phương, sự phát triển kinh tế địa phương và chất lượng cuộc sống ở Ba
Lan), Craig Young và Sylwia Kaczmarek cho rằng việc thành lập chính
quyền tự trị ở địa phương là một phần quan trọng trong quá trình chuyển
đổi ở các nước Đông Âu và Trung âu vào năm 1989. Chính quyền địa

phương cả ở Tây Âu, Đông Âu và Trung Âu đều phát triển và đóng vai
trò quan trọng trong phát triển kinh tế địa phương. Chính quyền địa
phương là một yếu tố quan trọng trong tiến trình xây dựng "bề dày thể
chế" để phát triển kinh tế địa phương một cách vững trãi và nâng cao
chất lượng cuộc sống của nhân dân.


18

- Một số công trình khoa học của các tác giả trong nước nghiên
cứu về chính quyền địa phương ở nước ngoài.
Bài: Về bộ máy chính quyền cấp tỉnh ở một số nước (Nguyễn Thị Thu
Hà, Tạp chí Quản lý nhà nước, Học viện Hành chính Quốc gia, Số 113,
tháng 6 năm 2005) tập trung phân tích về tổ chức và hoạt động của chính
quyền địa phương nói chung và cơ quan đại diện của nhân dân ở địa
phương nói riêng tại một số nước như Thụy Điển, Na Uy, trong đó tác
giả nhấn mạnh nguyên tắc: chính quyền địa phương là cộng đồng lãnh
thổ tự quản, được tự chủ về tài chính, có tư cách pháp nhân; không có hệ
thống thứ bậc hoặc sự giám sát giữa các cấp chính quyền địa phương.
Bài viết của PGS.TS. Nguyễn Hữu Hải: Vài nét về chính quyền địa
phương Đan Mạch (Tạp chí Quản lý nhà nước, Học viện Hành chính
Quốc gia, Số 110, 3-2005) tập trung phân tích về thẩm quyền của chính
quyền địa phương, Hội đồng địa phương ở Đan Mạch, trong đó nhấn
mạnh nguyên tắc: "Tự quản dân chủ một cách độc lập theo pháp luật
dưới sự giám sát của Nhà nước". Chuyên đề: Phương hướng và giải
pháp đổi mới chế định Hội đồng nhân dân trong Hiến pháp 1992 của
TS. Tô Văn Hòa, Trường Đại học luật Hà Nội (trong Đề tài cấp Bộ, năm
2011-2012) đã phân tích một cách khái quát một số mô hình tổ chức và
hoạt động của chính quyền địa phương các nước trên thế giới hiện nay,
phân tích và đánh giá về tính chất pháp lý, vai trò của Hội đồng nhân

dân nước ta, trong đó nhấn mạnh hướng đổi mới theo nguyên tắc phân
quyền mạnh cho chính quyền địa phương. Bài của TS. Phạm Hồng
Quang: Lịch sử hệ thống chính quyền địa phương Nhật Bản và một số
vấn đề về cải cách chính quyền địa phương Nhật Bản hiện nay (Tạp chí
Luật học, Trường Đại học luật Hà Nội, Số 4/2010) đã trình bày khái quát
về tổ chức chính quyền địa phương Nhật Bản từ 1868 đến nay.


19

Nhìn chung, các tác phẩm, các công trình ngoài nước, các công trình
nghiên cứu về pháp luật nước ngoài liên quan đến tổ chức và hoạt động
của chính quyền địa phương cung cấp cho tác giả những tư liệu phong
phú đề cập đến mô hình chính quyền địa phương các nước trên thế giới,
chế độ bầu cử, chế độ dân chủ, thiết chế cơ quan đại diện của nhân
dân… ở địa phương, từ đó giúp tác giả có thêm cơ sở lý luận để nghiên
cứu luận án của mình.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1

Có thể khẳng định, tất cả các tác phẩm, các công trình khoa học, các
luận án, luận văn... đều đã phân tích, luận giải khá sâu sắc và toàn diện
về khái niệm, đặc điểm của nhà nước pháp quyền; tính tất yếu của việc
xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân; vị trí,
tính chất, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức, hoạt động của Hội đồng
nhân dân nói chung và Hội đồng nhân dân tỉnh nói riêng.
Nhìn một cách tổng quát các công trình nghiên cứu khoa học pháp lý
trong và ngoài nước nghiên cứu những vấn đề chung về sự hình thành,
phát triển, đặc điểm của chính quyền địa phương; phân biệt chính quyền
đô thị với chính quyền nông thôn; mô hình chính quyền địa phương hai
cấp ở đô thị, ba cấp ở nông thôn; tổ chức chính quyền địa phương; sự

phân công, phân cấp quản lý; tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân
dân trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam.
Trong nhà nước pháp quyền thì nhà nước chuyển dần từ nhà nước
cai trị sang nhà nước phục vụ, các cơ quan nhà nước từ trung ương
xuống địa phương đều được tổ chức và hoạt động theo pháp luật. Tuy
nhiên, cho tới nay vấn đề tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân
tỉnh và đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội đồng nhân dân tỉnh
nhằm đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền Việt Nam của


20

dân, do dân, vì dân vẫn chưa được nghiên cứu có hệ thống và toàn
diện.
Kế thừa có chọn lọc và phát triển những giá trị khoa học đã đạt được,
Luận án tiếp tục nghiên cứu lý luận và thực tiễn nhằm đưa ra những
khuyến nghị khoa học về tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động của Hội
đồng nhân dân tỉnh đáp ứng yêu cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền
Việt Nam của dân, do dân, vì dân.


21

Chương 2
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ ĐỔI MỚI TỔ CHỨC VÀ HOẠT ĐỘNG
CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN TỈNH ĐÁP ỨNG YÊU CẦU XÂY DỰNG
NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN
2.1. VỊ TRÍ, TÍNH CHẤT, ĐẶC ĐIỂM VÀ VAI TRÒ CỦA HỘI ĐỒNG NHÂN DÂN
TỈNH


2.1.1. Vị trí, tính chất và đặc điểm của Hội đồng nhân dân tỉnh
- Vị trí pháp lý của Hội đồng nhân dân tỉnh.
Đây là vấn đề đã được nhiều nhà khoa học pháp lý lý giải, khẳng
định trong nhiều công trình nghiên cứu khoa học về quá trình xây
dựng và phát triển của chính quyền địa phương ở nước ta. Theo PGS.TS.
Lê Minh Thông:
Chính quyền địa phương ở nước ta thường bao gồm hai cơ
quan hành chính là Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân.
Khác với các nước, bộ máy chính quyền địa phương của nước
ta là một hệ thống thống nhất các cơ quan nhà nước và được
thành lập hầu như giống nhau ở tất cả các đơn vị hành chính,
không có các cơ quan tự quản. Hội đồng nhân dân đóng vai trò
là cơ quan chủ đạo trong bộ máy đó [65, tr. 17].
PGS.TS. Bùi Xuân Đức cũng nhấn mạnh: "Tuy mỗi một giai đoạn có
một số nét đặc thù, song về cơ bản đó là mô hình chính quyền địa
phương kiểu xô viết mà ở ta gọi là chế độ Hội đồng nhân dân" [65, tr.
182]. Tuy nhiên, vị trí pháp lý của Hội đồng nhân dân tỉnh trong Nhà
nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân chưa có những
đánh giá, mô tả cụ thể gắn liền với một mô hình chính quyền địa phương
trong các công trình nghiên cứu khoa học chính trị, khoa học tổ chức bộ
máy nhà nước hoặc khoa học pháp lý. Vì vậy, theo chúng tôi, để đánh
giá đúng vị trí pháp lý của Hội đồng nhân dân tỉnh trong Nhà nước pháp


22

quyền Việt Nam của dân, do dân, vì dân hiện nay thì vừa phải căn cứ các
quy định của Hiến pháp năm 2013, Luật tổ chức chính quyền địa phương
năm 2015 vừa cần đặt nó trước những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền
Việt Nam của dân, do dân và vì dân. Chúng tội cho rằng làm rõ vị trí

pháp lý của Hội đồng nhân dân tỉnh trước những yêu cầu của Nhà nước
pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân hiện nay cần phác thảo
nó theo kết cấu chiều dọc và chiều ngang của bộ máy nhà nước như sau:
Xem xét theo chiều dọc, tức là xét mối quan hệ giữa Hội đồng nhân
dân tỉnh với các cơ quan nhà nước ở Trung ương như Quốc hội, Ủy ban
Thường vụ Quốc hội, Chính phủ và các cơ quan nhà nước khác và ở địa
phương như Hội đồng nhân dân huyện. Theo quy định của pháp luật
hiện hành thì: Quốc hội quy định tổ chức và hoạt động của chính quyền
địa phương; quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia, điều chỉnh địa
giới hành chính tỉnh (khoản 6, Điều 70 Hiến pháp năm 2013); Ủy ban
thường vụ Quốc hội có quyền giám sát và hướng dẫn hoạt động của Hội
đồng nhân dân tỉnh; bãi bỏ nghị quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh nếu
như nghị quyết đó trái với Hiến pháp, luật và các văn bản của cơ quan
nhà nước cấp trên; giải tán Hội đồng nhân dân tỉnh trong trường hợp Hội
đồng nhân dân tỉnh đó làm thiệt hại nghiêm trọng đến lợi ích của nhân
dân (khoản 7, Điều 74 Hiến pháp năm 2013). Chính phủ có quyền hướng
dẫn, kiểm tra Hội đồng nhân dân tỉnh trong việc thực hiện văn bản của
cơ quan nhà nước cấp trên; tạo điều kiện để Hội đồng nhân dân tỉnh thực
hiện nhiệm vụ, quyền hạn do luật định (khoản 5, Điều 96 Hiến pháp năm
2013). Hội đồng nhân dân tỉnh có nghĩa vụ thực hiện nhiệm vụ, quyền
hạn do cơ quan hành chính nhà nước ở trung ương ủy quyền (khoản 4,
Điều 17 Luật tổ chức chính quyền địa phương). Hội đồng nhân dân tỉnh
quyết định thành lập, giải thể, nhập, chia thôn (Điều 19 Luật tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015). Như vậy, theo pháp luật hiện hành


23

thì vị trí pháp lý của Hội đồng nhân dân tỉnh được mô tả theo chiều dọc
đã phản ánh rõ nét tính dân chủ, tính tự chủ và tự quyết định của Hội

đồng nhân dân tỉnh trong Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do
dân và vì dân. Đồng thời, nó cũng phản ánh xu thế nhà nước là một thể
chế phục vụ nhân dân trong Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Tuy
nhiên, để đáp ứng một trong những yêu cầu cơ bản của Nhà nước pháp
quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân là tính tập trung, thống nhất
của nền hành chính quốc gia thì theo chiều dọc Chính phủ sẽ tổ chức
phối hợp điều hành nhịp nhàng các chính quyền địa phương trên phạm vi
toàn quốc như thế nào thì pháp luật hiện hành của Nhà nước ta hiện nay
chưa có những quy định cụ thể, cần phải tiếp tục xây dựng và đổi mới.
Xem xét theo chiều ngang, tức là xét mối quan hệ giữa Hội đồng nhân
dân tỉnh với Ủy ban nhân dân cùng cấp. Trong mối quan hệ với Ủy ban
nhân dân tỉnh thì Hội đồng nhân dân tỉnh là cơ quan quyền lực nhà nước
ở tỉnh, có quyền bầu ra Ủy ban nhân dân tỉnh; Ủy ban nhân dân tỉnh là cơ
quan chấp hành của Hội đồng nhân dân tỉnh, tổ chức thực hiện nghị
quyết của Hội đồng nhân dân tỉnh, chịu trách nhiệm trước Hội đồng
nhân dân tỉnh. Ví dụ: Hội đồng nhân dân tỉnh có quyền bầu, miễn nhiệm
bãi nhiệm Chủ tịch, Phó Chủ tịch và các Ủy viên Uỷ ban nhân dân tỉnh;
bãi bỏ một phần hoặc toàn bộ văn bản trái pháp luật của Uỷ ban nhân
dân, Chủ tịch Uỷ ban nhân dân tỉnh; quyết định thành lập, bãi bỏ cơ
quan chuyên môn thuộc Ủy ban nhân dân tỉnh; (Điều 19, Luật tổ chức
chính quyền địa phương năm 2015)...Như vậy, theo chiều ngang thì Hội
đồng nhân dân tỉnh được mô tả phản ánh tính quyền lực nhà nước, tính
giám sát của cơ quan dân cử đại diện cho toàn thể nhân dân ở tinh, tại
địa phương đã đáp ứng cơ bản yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Việt
Nam của dân, do dân và vì dân. Tuy nhiên, mối quan hệ pháp lý giữa
quyền bãi nhiệm và quyền ra quyết định như thế nào thì pháp luật hiện


24


hành chưa có những quy định rõ ràng, vì theo quy định tại Điều 124 của
Luật tổ chức chính quyền địa phương năm 2015 giao quyền cho người
có thẩm quyền thuộc hệ thống cơ quan hành chính nhà nước là người ra
quyết định mà không nói rõ trên cơ sở nghị quyết bãi nhiệm của Hội
đồng nhân dân tỉnh. Như vậy, xét theo chiều ngang, trên cơ sở pháp luật
hiện hành, trong hệ thống các cơ quan nhà nước của chính quyền tỉnh
hiện nay thì Hội đồng nhân dân tỉnh có vị trí pháp lý cao nhất, có quyền
"quyết định các vấn đề của địa phương do luật định" (khoản 2, Điều 113
Hiến pháp năm 2013). Ủy ban nhân dân tỉnh do Hội đồng nhân dân tỉnh
bầu, thành lập, bãi bỏ tức là được hình thành, bãi bỏ trực tiếp từ Hội
đồng nhân dân tỉnh, chịu trách nhiệm chấp hành nghị quyết của Hội
đồng nhân dân tỉnh.
Tóm lại, vị trí pháp lý của Hội đồng nhân dân tỉnh xét theo chiều dọc
và chiều ngang của bộ máy nhà nước trên cơ sở pháp luật hiện hành và
nhằm đáp ứng những yêu cầu của Nhà nước pháp quyền Việt Nam của
dân, do dân và vì dân, tuy còn một số hạn chế cần tiếp tục đổi mới,
nhưng là thiết chế nhà nước ở tỉnh do nhân dân của tỉnh trực tiếp thiết
lập lên, thực hiện quyền lực nhà nước - quyền lực hành pháp trên địa bàn
lãnh thổ của tỉnh. Việc thực hiện phân công thẩm quyền theo pháp luật
cho Hội đồng nhân dân tỉnh là phù hợp với xu hướng xây dựng nhà nước
pháp quyền nói chung trên thế giới và của nước ta hiện nay.
- Tính chất của Hội đồng nhân dân tỉnh.
Theo quy định tại khoản 1, Điều 113 Hiến pháp năm 2013, Hội đồng
nhân dân tỉnh là cơ quan quyền lực nhà nước ở tỉnh, đại diện cho ý chí,
nguyện vọng và quyền làm chủ của nhân dân tỉnh, do nhân dân tỉnh bầu
ra, chịu trách nhiệm trước nhân dân tỉnh và cơ quan nhà nước cấp trên,
do vậy, Hội đồng nhân dân tỉnh có hai tính chất cơ bản sau đây:


25


Một là, tính quyền lực nhà nước. Tính quyền lực nhà nước của Hội
đồng nhân dân tỉnh được thể hiện ở chỗ: Hội đồng nhân dân tỉnh là cơ
quan quyền lực cao nhất ở tỉnh, có quyền quyết định các vấn đề quan
trọng về kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh, quốc phòng của tỉnh; giám sát
việc tuân theo Hiến pháp và pháp luật ở tỉnh và việc thực hiện nghị
quyết của Hội đồng nhân dân. Với tư cách là cơ quan quyền lực nhà
nước ở tỉnh và đứng đầu các cơ quan nhà nước trong bộ máy chính
quyền tỉnh, Hội đồng nhân dân tỉnh tham gia tích cực vào việc thực hiện
quyền hành pháp ở tỉnh nhằm vừa đảm bảo tính thống nhất của nền hành
chính quốc gia vừa đảm bảo tính tự chủ, tự quyết và tự chịu trách nhiệm
trước lợi ích của nhân dân tỉnh. Tính quyền lực nhà nước của Hội đồng
nhân dân tỉnh còn được thể hiện ở quyền giám sát theo quy định của
pháp luật đối với tổ chức và hoạt động của Ủy ban nhân dân tỉnh và các
nhà nước khác ở trên địa bàn tỉnh. Quyền giám sát của Hội đồng nhân
dân tỉnh vừa phản ánh tính quyền lực nhà nước, vừa phản ánh quyền dân
chủ của nhân dân cả tỉnh đối với mọi hoạt động của nhà nước nhằm bảo
đảm mọi hoạt động của nhà nước và các viên chức nhà nước đều có mục
đích và động cơ từ lợi ích của nhân dân của tỉnh, đáp ứng yêu cầu cơ bản
Nhà nước pháp quyền Việt Nam của dân, do dân và vì dân.
Hai là, tính đại diện. Bởi do nhân dân ở tỉnh trực tiếp bầu ra theo các
nguyên tắc phổ thông, bình đẳng, trực tiếp, bỏ phiếu kín, cho nên Hội
đồng nhân dân tỉnh đại diện cho ý chí, nguyện vọng và quyền làm chủ
của nhân dân ở tỉnh.
Như vậy, theo quy định tại khoản 1, Điều 113 Hiến pháp năm 2013,
Hội đồng nhân dân tỉnh vừa là cơ quan quyền lực nhà nước ở tỉnh, vừa là
cơ quan đại diện của nhân dân trong tỉnh. Việc quy định hai tính chất
của Hội đồng nhân dân tỉnh trong Hiến pháp năm 2013 là hoàn toàn phù
hợp với nguyên tắc tất cả quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân, yêu



×