Tải bản đầy đủ (.docx) (10 trang)

So sánh cách thức ủy thác tư pháp quốc tế quy định trong pháp luật Việt Nam với cách thức ủy thác tư pháp quốc tế trong điều ước quốc tế song phương Việt Nam ký kết với các nước.

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (136.5 KB, 10 trang )

MỤC LỤC

LỜI NÓI ĐẦU
Cùng với sự phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế, vấn đề hợp tác giữa các
nước về tư pháp nói chung và ủy thác tư pháp quốc tế nói riêng ngày càng được
quan tâm và là vấn đề thời sự đối với mỗi quốc gia hiện nay. Ủy thác tư pháp quốc
tế có vai trò rất quan trọng, trên cả ba lĩnh vực chính trị, pháp lí và kinh tế.. Nhận
thức được tầm quan trọng của vấn đề em xin được lựa chọn đề tài : “So sánh cách
thức ủy thác tư pháp quốc tế quy định trong pháp luật Việt Nam với cách
thức ủy thác tư pháp quốc tế trong điều ước quốc tế song phương Việt Nam
ký kết với các nước.”
NỘI DUNG
I.
1.

Khái quát về ủy thác tư pháp
Khái niệm
Về nguyên tắc, các cơ quan tư pháp có thể thực hiện các hành vi tố tụng theo
thẩm quyền (thu thập chứng cứ, tống đạt giấy triệu tập đến tòa án v.v) trong phạm
vi lãnh thổ của nước có cơ quan tư pháp đó. Muốn thực hiện các hành vi này ở
nước ngoài, cơ quan tư pháp đó phải nhận được sự chấp thuận cụ thể của nước nơi
các hành vi đó sẽ được thực hiện trên cơ sở các ủy thác tư pháp quốc tế, tức là sự
yêu cầu bằng văn bản chính thức của cơ quan tư pháp nước này (thường là các tòa
án) đối với cơ quan tư pháp nước kia (thường là tòa án hữu quan cùng cấp) thực
hiện các hành vi tố tụng riêng biệt tại lãnh thổ của nước kia theo những nội dung,
chỉ định trong văn bản yêu cầu.
1


Theo quy định tại khoản 1 Điều 6 Luật Tương trợ Tư pháp năm 2007 thì : “Ủy
thác tư pháp là yêu cầu bằng văn bản của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam


hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài về việc thực hiện một hoặc một số
hoạt động tương trợ tư pháp theo quy định của pháp luật nước có liên quan hoặc
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.”
Khoản 2 Điều 6 Luật Tương trợ Tư pháp 2007 quy định rõ: “Tương trợ tư
pháp được thực hiện trên cơ sở yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của Việt Nam
hoặc cơ quan có thẩm quyền của nước ngoài thông qua ủy thác tư pháp”. Như
vậy, ta có thể khẳng định rằng ủy thác tư pháp là một trong các hình thức thực hiện
tương trợ tư pháp.
2.

Lĩnh vực thực hiện ủy thác tư pháp.
Ủy thác tư pháp được tiến hành trên hai lĩnh vực hình sự và dân sự. Thuật ngữ
“dân sự” ở đây được hiểu là toàn bộ quan hệ dân sự theo nghĩa rộng bao gồm

3.

thương mại, hôn nhân gia đình, lao động…
Nội dung của ủy thác tư pháp
Nội dung của các ủy thác tư pháp quốc tế rất phong phú và tùy thuộc vào từng
trường hợp cụ thể chúng có thể là yêu cầu tống đạt cho đương sự (thường là bị
đơn) giấy triệu tập đến phiên tòa ở nước ngoài – yêu cầu về lấy lời khai của đương
sự, nhân chứng – giám định nhóm máu (thường là để giải quyết vụ kiện về truy
nhận cha cho con); xác định mức thu nhập thực tế của người phải cấp dưỡng, phải
bồi thường thiệt hại v.v…
Ủy thác tư pháp quốc tế theo quy định chung của các điều ước quốc tế song

II.
1.

phương Việt Nam kí kết với các nước.

Hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam đã ký kết với các nước.
Theo thống kê tại Cổng thông tin điện tử về công tác lãnh sự - Bộ ngoại giao
Việt Nam thì tính đến tháng 8/2012 Việt Nam đã ký kết 23 hiệp định tương trợ tư
pháp với các quốc gia trên thế giới. Trong đó, 18 Hiệp định tương trợ tư pháp có
nội dung về tương trợ tư pháp trong lĩnh vực dân sự bao gồm Hiệp định tương trợ
tư pháp với An-giê-ri ký ngày 14/4/2010, Ba Lan (22/3/1993), Bê-la-rút
2


(14/9/2000), Bun-ga-ri (3/10/1986), Cu Ba (30/11/1984), Đài Loan (12/4/2010),
Hung-ga-ri (18/01/1985), Lào (6/7/1998), Liên Xô (Nga kế thừa) (10/12/1981),
Mông Cổ (17/4/2000), Nga (2 điều ước) (25/8/1998 và 23/4/2003), Pháp
(24/02/1999), Tiệp Khắc (Séc và Xlô-va-ki-a kế thừa) (12/10/1982),Tiều Tiên
(4/5/2002), Trung Quốc (19/10/1998), U-Crai-na (6/4/2000), Kazakhstan
2.

(31/10/2011).
Nội dung của các hiệp định tương trợ tư pháp mà Việt Nam ký kết với các
quốc gia trên thế giới.
Nội dung các hoạt động UTTPQT giữa Việt Nam với các nước có nhiều điểm
khác nhau tùy thuộc vào quan hệ song phương cũng như ý chí của các bên kí kết.
Tuy nhiên có thể thấy nội dung chủ yếu của các điều ước quốc tế song phương mà
Việt Nam kí kết với các nước bao hàm các phần chính sau:
(1)
Tống đạt giấy tờ, hồ sơ, tài liệu liên quan đến tương trợ tư pháp về
dân sự;
(2)
(3)
(4)
Có thể nhận thấy


Triệu tập người làm chứng, người giám định;
Thu thập, cung cấp chứng cứ;
Các yêu cầu tương trợ tư pháp khác về dân sự;
rằng các Hiệp định tương trợ tư pháp đã ký trong thời gian

qua hoặc đang trong quá trình đàm phán đều có nội dung phù hợp với các quy định
của Hiến pháp, LTTTP và các văn bản quy phạm pháp luật khác của Việt Nam,
pháp luật và tập quán quốc tế, các điều ước đa phương trong cùng lĩnh vực; việc
đàm phán, ký kết được thực hiện theo đúng trình tự, thủ tục, nguyên tắc quy định
tại Luật Ký kết, gia nhập và thực hiện điều ước quốc tế.
So sánh cách thức ủy thác tư pháp theo quy định của pháp luật việt nam với

III.
1.

quy định trong điều ước quốc tế song phương.
Giống nhau
Về cách thức thực hiện ủy thác tư pháp, Có thể thấy Luật tương trợ tp 2007
không quy định một cách rõ rang cách thức thực hiện UTTTPQT như các
HĐTTTP mà VN đã kí kêt với các nước.Tuy nhiên xét về bản chất, pháp luật vn và
3


các điều ước quốc tế song phương về tương trợ tư pháp đều quy định cách thức
UTTPQT như sau: khi thực hiện tương trợ tư pháp, cơ quan được yêu cầu áp dụng
luật của nước mình. Tuy nhiên, theo đề nghị của cơ quan yêu cầu, cơ quan này có
thể áp dụng những quy phạm tố tụng của bên ký kết có cơ quan yêu cầu, nếu
những quy định đó không trái với pháp luật nước mình. Cụ thể như sau: Đối với
pháp luật Việt Nam, Điều 3 Luật tương trợ tư pháp năm 2007 quy định rõ:

“1. Tương trợ tư pháp được thực hiện theo quy định của Luật này; trường
hợp Luật này không quy định thì áp dụng quy định của pháp luật tố tụng dân
sự, pháp luật tố tụng hình sự và các quy định khác của pháp luật Việt Nam có
liên quan.
2. Việc áp dụng pháp luật nước ngoài chỉ được thực hiện theo quy định của
điều ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên.”
Theo quy định này thì các hoạt động ủy thác tư pháp sẽ được thực hiện theo
quy định của Luật Tương trợ tư pháp 2007, nếu luật này không có quy định thì sẽ
áp dụng các quy định của pháp luật có liên quan như Luật Tố tụng dân sự 2004
(sửa đổi, bổ sung năm 2011). Đối với trường hợp áp dụng luật nước ngoài để thực
hiện hoạt động tương trợ tư pháp thì chỉ thực hiện trên cơ sở các quy định của điều
ước quốc tế mà Việt Nam là thành viên, tuy nhiên chỉ được áp dụng khi những quy
định của pháp luật nước ngoài không trái với Hiến pháp và pháp luật Việt Nam.
Đối với các điều ước quốc tế song phương mà Việt Nam ký kết, cách thức ủy
thác này cũng được quy định một cách rõ ràng, cụ thể. Ví dụ như Khoản 1 Điều 6
Hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam với mông cổ quy định: “Khi thực hiện
tương trợ tư pháp, cơ quan được yêu cầu áp dụng pháp luật của nước mình. Tuy
nhiên, theo đề nghị của cơ quan yêu cầu, cơ quan này có thể áp dụng những quy
phạm tố tụng của Bên ký kết có cơ quan yêu cầu, nếu những quy phạm đó không
trái với pháp luật của nước mình.”

4


Thứ hai, cả pháp luật Việt Nam và các Hiệp định tương trợ tư pháp đều ghi
nhận việc thực hiện ủy thác tư pháp do cơ quan có thẩm quyền trong nước yêu cầu
thông qua đại sứ quán. Lãnh sự quán của nước mình ở nước ngoài.
2.
a)


Khác nhau
Con đường thực hiện ủy thác tư pháp
Theo pháp luật hiện hành, Tòa án Việt Nam có quyền ủy thác cho Tòa án nước
ngoài, đồng thời được phép nhận thực hiện ủy thác tư pháp của Tòa án nước ngoài.
Việc giao và nhận ủy thác tư pháp và kết quả thực hiện ủy thác tư pháp giữa Tòa
án Việt Nam và Tòa án nước ngoài được thực hiện bằng con đường ngoại giao.
Theo quy trình ủy thác, đầu tiên tòa án Việt Nam phải chuyển hồ sơ qua Bộ Tư
pháp. Bộ này chuyển đến Bộ Ngoại giao. Bộ Ngoại giao chuyển đến đại sứ quán
Việt Nam tại nước sở tại. Từ đây hồ sơ vụ án mới được chuyển đến các cơ quan tư
pháp nước bạn để nhờ thu thập, xác minh chứng cứ. Nếu quá trình xác minh thuận
lợi, hồ sơ sẽ lần lượt ngược hành trình trên quay về tòa án Việt Nam.Ủy thác thành
công đã vậy, còn nếu thất bại hoặc bị ách lại ở một cơ quan nào đó thì tòa chỉ có
cách duy nhất ngồi chờ. Và chưa kể đến việc các cơ quan ở nước bạn không nhiệt
tình, không hào hứng giúp đỡ thì coi như án chôn chân tại chỗ. Đây là một cách
thức thực hiện ủy thác tốn kém về chi phí cũng như thời gian
Theo các hiệp định tương trợ tư pháp Việt nam đã kí với các nước, Tòa án các
bên kí kết hiệp định được phép ủy thác cho nhau và thực hiện ủy thác tư pháp của
nhau. Các hiệp định tương trợ tư pháp lại áp dụng con đường lãnh sự để thực hiện
hoạt động ủy thác tư pháp. Việc làm này sẽ hạn chế được quy trình quá lòng vòng
của ủy thác tư pháp, tốn thêm thời gian, công sức và tiền bạc. Đây là phương pháp
nhanh chóng nhưng lại không hiệu quả bởi do các chủ thể không có thẩm quyền
tiến hành. Ví dụ như Điều 12 HĐTTTP VN – Mông cổ :Các bên kí kết có quyền
tống đạt giấy tờ cho công dân nước mình thông qua cơ quan đại diện ngoại giao
hoặc cơ quan lãnh sự của mình .

5


b)


Cơ quan có thẩm quyền thực hiện ủy thác tư pháp
Cơ quan có thẩm quyền thực hiện ủy thác tư pháp được pl vn quy định
qua Thông tư liên bộ số 139/TT-LB ngày 12/3/1984 đã phân chia các công
việc một cách rõ ràng và cụ thể cho các Bộ. Qua đó, Bộ Tư pháp thực hiện
trao đổi các uỷ thác điều tra xác minh về dân sự, lao động, hôn nhân và gia
đình, hướng dẫn thực hiện các uỷ thác về thi hành án và quyết định do nước
ký kết kia xét xử… Viện Kiểm sát nhân dân tối cao thực hiện các uỷ thác tư
pháp điều tra về hình sự…; Bộ Công An thực hiện các uỷ thác điều tra về
hình sự theo yêu cầu của Viện Kiểm sát nhân dân tối cao như lập hồ sơ về
bắt giữ, thu giữ các tang chứng, vật chứng, khám xét, tạm giữ, tạm giam, dẫn
độ, hướng dẫn các cơ quan công an thực hiện uỷ thác điều tra và các uỷ thác
khác về hình sự trên lãnh thổ Việt Nam khi Viện Kiểm sát nhân dân có thẩm
quyền yêu cầu;… Tuy nhiên thì bất cập xảy ra ở trong những nước mà Việt
nam không kí kết hiệp định tương trợ, trong trường hợp này thì phải áp dụng
pháp luật Việt Nam về ủy thác tư pháp. Ví dụ như ở Mỹ thì hoạt động ủy
thác tư pháp quy định thông qua công ty kinh doanh dịch vụ ủy thác, còn
Việt Nam quy định thông qua Bộ Tư pháp, dấn đến sự xung đột và trên thực
tế dấn đến sự tồn đọng án bởi văn bản ủy thác không được thông qua.
Theo các điều ước quốc tế song phương giữa Việt Nam và các nước kí kết, quy
định về việc giao nhận ủy thác tư pháp và kết quả thực hiện ủy thác tư pháp được
thực hiện thông qua Bộ Tư pháp nếu có vấn đề hình sự thì thông qua Viện kiểm sát
tối cao (ở một số quốc gia thì đó là Văn phòng Công Tố) đây là hai cơ quan có
thẩm quyền trực tiếp liên quan. Ví dụ như khoản 1 điều 4 HĐTTTP VN-Lào :
“1.Trong khi thực hiện tương trợ tư pháp, cơ quan tư pháp của các nước ký kết lien
hệ vs nhau thông qua bộ tp hoặc Viện kiểm sát tối cao ( về vấn đề hình sự) của
nước mình, trừ trường hợp Hiệp định này quy định khác…”

6



c)

Luật được áp dụng trong ủy thác tư pháp
Theo quy định tại Điều 3 Luật Tương trợ Tư pháp về việc áp dụng pháp luật:
Tương trợ tư pháp được thực hiện theo quy định của Luật này; trường hợp Luật
này không quy định thì áp dụng quy định của pháp luật tố tụng dân sự, pháp luật
tố tụng hình sự và các quy định khác của pháp luật Việt Nam có liên quan. Việc
áp dụng pháp luật nước ngoài chỉ được thực hiện theo quy định của điều ước quốc
tế mà Việt Nam là thành viên. Nghĩa là khi thực hiện hoạt động ủy thác tư pháp
của Tòa án nước ngoài, Tòa án Việt Nam tuân theo pháp luật tố tụng dân sự và các
quy định có liên quan khác của Việt Nam, trừ trường hợp điều ước quốc tế mà Việt
Nam kí kết hoặc tham gia có quy định khác. Quy định này của Việt Nam phù hợp
với pháp luật và tập quán quốc tế. Khi thực hiện ủy thác tư pháp cơ quan được yêu
cầu áp dụng pháp luật của nước mình. Theo yêu cầu có thể áp dụng PL nước kia
nếu những QPPL đó không mâu thuận với pháp luật của nước được yêu cầu.
Theo quy định trong các điều ước quốc tế song phương giữa Việt Nam và các
nước thì khi thực hiện ủy thác, bên được yêu cầu tuân theo pháp luật của nước
mình; nếu bên ủy thác yêu cầu tuân theo pháp luật của bên ủy thác và không trái
với pháp luật của nước mình thì áp dụng pháp luật của nước bên ủy thác. Việc ủy
thác tư pháp trước hết dựa trên cơ sở các hiệp định song phương về tương trợ tư
pháp mà Việt nam đã ký kết; đối với các nước mà Việt Nam chưa ký Hiệp định
tương trợ tư pháp, việc thực hiện dựa trên nguyên tắc có đi có lại, trên cơ sở tôn
trọng độc lập, chủ quyền quốc gia và các bên cùng có lợi. Tùy theo nội dung của
từng Hiệp định, có Hiệp định chỉ điều chỉnh các vấn đề tương trợ tư pháp giữa các
cơ quan tư pháp hai nước mà không quy định về vấn đề chọn pháp luật áp dụng
giải quyết xung đột pháp luật như Hiệp định ký với Pháp và Trung quốc.

d)

Hồ sơ ủy thác tư pháp

Theo quy định tại Điều 11, Điều 12 Luật Tương trợ Tư pháp thì hồ sơ ủy thác
tư pháp bao gồm.:
7


Điều 11: “1. Hồ sơ ủy thác tư pháp về dân sự phải có các văn bản sau đây:a)
Văn bản của cơ quan có thẩm quyền yêu cầu tương trợ tư pháp về dân sự;b) Văn
bản ủy thác tư pháp về dân sự quy định tại Điều 12 của Luật này;c) Giấy tờ khác
theo yêu cầu của cơ quan có thẩm quyền của nước được ủy thác.2. Hồ sơ ủy thác
tư pháp về dân sự được lập thành ba bộ theo quy định của Luật này và phù hợp với
pháp luật của nước được ủy thác. Ngôn ngữ được sử dụng để lập hồ sơ theo quy
định tại Điều 5 của Luật này.”
Điều 12 : “Văn bản ủy thác tư pháp về dân sự phải có các nội dung sau đây:1.
Ngày, tháng, năm và địa điểm lập văn bản;2. Tên, địa chỉ cơ quan ủy thác tư
pháp;3. Tên, địa chỉ cơ quan được ủy thác tư pháp;4. Họ, tên, địa chỉ nơi thường
trú hoặc nơi làm việc của cá nhân; tên đầy đủ, địa chỉ hoặc văn phòng chính của cơ
quan, tổ chức có liên quan trực tiếp đến ủy thác tư pháp;5. Nội dung công việc
được ủy thác tư pháp về dân sự phải nêu rõ mục đích ủy thác, công việc và các tình
tiết liên quan, trích dẫn điều luật có thể áp dụng, các biện pháp để thực hiện ủy thác
và thời hạn thực hiện ủy thác.”
Theo quy định trong các hiệp định tương trợ tư pháp giữa Việt Nam và các
nước thì ủy thác phải được lập thành văn bản và ghi rõ tên cơ quan yêu cầu, tên cơ
quan được yêu cầu, tên công việc ủy thác, nội dung yêu cầu, những dữ kiện cần
thiết cho việc ủy thác; họ và tên các đương sự, người làm chứng và những người
liên quan, nơi thường trú, tạm trú, quốc tịch, hộ tịch, chuyên môn, nghề nghiệp của
họ; họ tên và địa chỉ người đại diện của các đương sự, cơ quan yêu cầu phải có
người đại điện có thẩm quyền kí tên, đóng dấu. Điều 11: … Giấy tờ cần tống đạt
phải được lập thành 2 bộ, dịch ra ngôn ngữ của Nước ký kết được yêu cầu, gửi
kèm theo yêu cầu tống đạt. Nếu không thực hiện được ủy thác thì gửi trả lại giấy tờ
và thông váo lý do.

e) Cách thức ủy thác.
Pháp luật Việt Nam không có quy định nào đề cập đến cách thức ủy thác sau;

8


Thứ nhất, Nếu không tìm thấy người cần tìm theo địa chủ đã nêu trong văn bản
ủy thác tư pháp thì cơ quan có thẩm quyền được yêu cầu áp dụng tất cả các biện
pháp cần thiets để xác minh địa chỉ của người đó.
Thứ hai, theo đề nghị cua cơ quan yêu cầu , cơ quan được yêu cầu thông báo
ngay cho cơ quan yêu cầu về thời gian, địa điểm thực hiện ủy thác.
Thứ ba, nếu cơ quan được y/c không có thẩm quyền thực hiện ủy thác tư pháp
thì cơ quan này chuyển ủy thác đó cho cơ quan có thẩm quyền theo thể thức đã quy
định đối với các ủy thác tư pháp.
Trog khi đó , các HĐTTTP giữa Việt Nam và các nước lại dành một điều luật
quy định về cách thức thực hiện ủy thác tư pháp.Chẳng hạn như :Điều 7 HĐTTTP
giữa VN và Lào, Điều 6 HĐTTTP giữa VN và mông cổ,…
Nhận xét : Hiệp định Tương trợ tư pháp về các vấn đề dân sự và hình sự
giữaViệt Nam và các nước được ký từ năm 1982, Luật Tương trợ tư pháp (TTTP)
của Việt Nam lại mới ban hành năm 2007, nên còn có khá nhiều điểm chưa thống
nhất giữa hai văn bản này, trong đó có các quy định về ngôn ngữ sử dụng, cơ quan
đầu mối thực hiện, chi phí thực hiện tương trợ tư pháp, quy trình chuyển hồ sơ, tài
liệu..dẫn đến việc thực hiện các ủy thác tư pháp giữa vn và các nước thời gian qua
còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là các ủy thác tư pháp về hình sự.

KẾT LUẬN
Qua những phân tích trên, phần nào ta có thể thấy được sự giống và khác nhau
giữa cách thực ủy thác tư pháp theo quy định của pháp luật viejt nam với cách thực
ủy thác tư pháp theo quy định trong diều ước quốc tế song phương.Và trong giai
đoạn hiện nay, việc nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác tư pháp quốc tế (

trong đó có hoạt động ủy thác tư pháp quốc tế ) là điều cần thiết nhằm thúc đẩy
quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và các nước, cũng khuyến khích các chủ thể của pl
9


tham gia ngày 1 nhiều vào các quan hệ dân sự, kinh tế, thương mại có yếu tố nước
ngoài với sự yên tâm, tin tưởng rằng các tranh chấp phát sinh giữa họ (nếu có) sẽ
được hoạt động tương trợ tư pháp giải quyết 1 cách ổn thỏa.

10



×