Tải bản đầy đủ (.docx) (15 trang)

Quy luật giá trị và những tác động của quy luật giá trị đối với nền kinh tế Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (220.98 KB, 15 trang )

QUY LUẬT GIÁ TRỊ VÀ NHỮNG TÁC
ĐỘNG CỦA QUY LUẬT GIÁ TRỊ ĐẾN
NỀN KINH TẾ VIỆT NAM

TP.HỒ CHÍ MINH, 5/2016


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin

Mục lục

PHẦN MỞ ĐẦU
Chúng ta đã biết được quy luật giá trị là quy luật kinh tế quan trọng nhất của sản
xuất và trao đổi hàng hóa. Do đó mà ở đâu có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có sự
xuất hiện của quy luật giá trị. Mọi hoạt động của các chủ thể kinh tế trong sản xuất và lưu
thông hàng hóa đều chịu sự tác động của quy luật này. Quy luật giá trị là nguyên nhân
chính dẫn đến khủng hoảng kinh tế chu kì, phân hóa giàu nghèo, những cuộc cạnh tranh
không lành mạnh… Chính vì thế chúng ta cần nghiên cứu về quy luật giá trị, tìm hiểu vai
trò và tác động của nó tới nền kinh tế, đặc biệt là trong thời kì phát triển nền kinh tế thị
trường của nước ta hiện nay.
Bài viết này chia thành 2 chương, bao gồm:
Chương 1: Những lý luận về quy luật giá trị và tác động của nó trong nền kinh tế
Chương này sẽ trình bày những vấn đề chung nhất, cơ bản nhất về quy luật giá trị,
bản chất vai trò quy luật giá trị và nội dung của quy luật giá trị.
Chương 2: Tác động của quy luật giá trị đối với nền kinh tế Việt Nam hiện nay.
Chương này sẽ nghiên cứu cụ thể sự vận dụng quy luật giá trị ở nước ta, các đặc
trưng và cấu trúc nền kinh tế thị trường ở nước ta.
Nhóm em xin gửi lời chân thành cảm ơn thầy giáo Trần Ngọc Chung đã hướng
dẫn giúp đỡ nhóm em hoàn thành đề tài này. Trong bài viết có nhiều sai sót mong thầy
chỉ bảo để nhóm em rút kinh nghiệm lần sau sửa chữa. Xin chân thành cảm ơn!


GVHD: Trần Ngọc Chung

Page 2


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin

NỘI DUNG
Chương 1: Những lý luận về quy luật giá trị và những
tác động của quy luật giá trị đến nền kinh tế
1.1 Nội dung quy luật giá trị:
1.1.1 Khái niệm liên quan:
Khái niệm về giá trị: Giá trị được xem xét như là quan hệ sản xuất xã hội của
những người sản xuất hàng hóa còn hàng hóa là nhân tố tế bào của xã hội tư sản.
Mác phân tích tính chất hai mặt của lao động sản xuất hàng hóa là lao động cụ thể
và lao động trừu tượng, lao động tư nhân và lao động xã hội. Chỉ rõ lao động trừu tượng
tạo ra giá trị hàng hóa.
Quy luật: Mối liên hệ bản chất, tất nhiên, phổ biến và lặp lại giữa các mặt, các
yếu tố, các thuộc tính bên trong mỗi sự vật hay giữa các sự vật và hiện tượng với nhau.
1.1.2 Khái niệm quy luật giá trị:
Trong nền sản xuất hàng hóa quá trình sản xuất trao đổi hàng hóa phải dựa trên cơ
sở giá trị hàng hóa tức là hao phí lao động xã hội cần thiết để sản xuất ra hàng hóa đó.
Quy luật giá trị là quy luật kinh tế cơ bản của sản xuất và trao đổi hàng hóa. Ở đâu
có sản xuất và trao đổi hàng hóa thì ở đó có quy luật giá trị hoạt động khách quan, không
lệ thuộc vào ý muốn của con người. Đặc điểm hoạt động của nó cũng có khác biệt giữa
các phương thức sản xuất, tùy thuộc vào quan hệ sản xuất thống trị.
1.1.3 Yêu cầu của quy luật giá trị:
Trong sản xuất:
+ Khối lượng sản phẩm mà người sản xuất tạo ra phải phù hợp với khả năng thanh
toán của toàn xã hội, nếu không cũng sẽ lớn hơn cầu hoặc ngược lại.

+ Muốn bán được hàng hóa, bù đắp được chi phí và có lãi thì hao phí lao động cá
biệt phải phù hợp với hao phí lao động xã hội, tức là phải bằng hoặc nhỏ hơn mức
chi phí mà xã hội chấp nhận.
Trong lưu thông:
+ Phải thực hiện nguyên tắc ngang giá: Chỉ trao đổi hàng hóa với nhau khi chúng
có lượng lao động kết tinh như nhau.

GVHD: Trần Ngọc Chung

Page 3


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin
+ Hàng hóa có giá trị cao thì giá cả sẽ cao và ngược lại.
+ Phải đảm bảo có lãi để tái sản xuất mở rộng.
Trong thực tế, giá cả hàng hóa thường phụ thuộc vào: quy luật cung cầu, sức mua
của tiền, cạnh tranh,.. Những nhân tố này làm giá cả hàng hóa tách rời khỏi giá trị lên,
xuống và quay xung quanh trục giá trị của nó. Như vậy quy luật giá trị sẽ vận động thông
qua sự vận động của giá cả.
1.2. Vai trò của quy luật giá trị trong nền kinh tế thị trường:
Bất cứ một sự vật, hiện tượng nào khi tồn tại trong tự nhiên đều tuân theo những
quy định nhất định. Những quy luật này chi phối tới cả quả trình hình thành và phát
triển của mỗi sự vật hiện tượng.
Và tất nhiên, nền kinh tế thế giới nói chng và nền kinh tế Việt Nam nói riêng cũng
không nằm ngoài quy luật đó. Theo thời gian, nền kinh tế không ngừng biến đổi. Nó
liên tục phân chia và hình thành thêm nhiều thành phần kinh tế mới có những định
hướng khác, có những đặc điểm và quy định riêng biệt đối với các thành viên tham
gia trong nền kinh tế đó. Chúng giống nhau là nhìn bề ngoài tưởng như sản xuất và
trao đổi hàng hóa là việc riêng của mỗi thành viên họ độc lập và hình như không
chịu sự chi phối nào. Trên thực tế, mọi người sản xuất và trao đổi hàng hóa đều chịu

sự chi phối của quy luật giá trị.
Vì vậy quy luật giá trị có các vai trò chủ yếu sau:
1.2.1 Điều tiết sản xuất và lưu thông hàng hóa:
Điều tiết sản xuất của quy luật giá trị là điều chỉnh, phân bổ các yếu tố như: tư liệu
sản xuất, sức lao động và tiền vốn từ ngành này sang ngành khác, từ nơi này sang
nơi khác. Nó làm cho sản xuất hàng hóa của ngành này, nơi này được phát triển
mở rộng, ngành khác nơi khác bị thu hẹp, thông qua sự biến động giá cả thị
trường. Từ đó, tạo ra những tỉ lệ cân đối tạm thời giữa các ngành, các vùng của
một nền kinh tế hàng hóa nhất định.
Quy luật thể hiện ở chỗ: cung và cầu thường xuyên muốn khớp với nhau, nhưng từ
trước đến nay chúng chưa hề ăn khớp với nhau mà đối lập với nhau, cung luôn
bám sát cầu. Chính vì thế thị trường xảy ra các trường hợp sau:
- Khi cung bằng cầu thì giá cả bằng giá trị hàng hóa, thị trường đã bảo hòa tất
yếu xảy ra quá trình chuyển tư liệu sản xuất và sức lao động sang lĩnh vực sản
xuất khác có lợi nhuận cao hơn.
- Khi cung nhỏ hơn cầu thì giá cả cao hơn giá trị, hàng hóa bán chạy, lãi cao.
Những người đang sản xuất những loại hàng hóa này sẽ mở rộng quy mô sản
xuất, những người đang sản xuất hàng hóa khác thu hẹp quy mô sản xuất của
mình để chuyển sang loại hàng hóa bán chạy này. Như vậy, tư liệu sản xuất,
sức lao động, tiền vốn được chuyển vào ngành tăng lên, cung về loại hàng hóa
này trên thị trường tăng lên.
- Khi cung lớn hơn cầu thì giá cả nhỏ hơn giá trị, hàng hóa ế thừa, không tiêu
thụ được, có thể lỗ vốn. Tình hình này bắt buộc những người đang sản xuất

GVHD: Trần Ngọc Chung

Page 4


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin

loại hàng này phải thu hẹp quy mô sản xuất, chuyển sang sản xuất mặt hàng
khác có giá trị trên thị trường.
Thực chất của điều tiết lưu thông trong quy luật giá trị là điều chỉnh một cách tự
phát khối lượng hàng hóa từ nơi giá cả thấp đến nơi giá cả cao, tạo ra mặt bằng giá cả xã
hội. Giá trị của hàng hóa thay đổi, thì những điều kiện làm cho tổng khối lượng hàng hóa
có thể tiêu thụ được cũng sẽ thay đổi. Nếu giá trị thị trường hạ thấp thì nói chung nhu cầu
xã hội sẽ mở rộng thêm và trong những giới hạn nhất định, có thể thu hút những khối
lượng hàng hóa lớn hơn. Nếu giá trị thị trường tăng lên thì nhu cầu xã hội về hàng hóa sẽ
thu hẹp và khối lượng hàng hóa tiêu thụ cũng sẽ giảm xuống. Cho nên nếu cung cầu điều
tiết giá cả thị trường hay nói đúng hơn điều tiết sự chênh lệch giữa giá cả thị trường và
giá trị thị trường thì trái lại chính giá trị thị trường điều tiết quan hệ cung cầu, hay cấu
thành trung tâm, chung quanh trung tâm đó những sự thay đổi trong cung cầu làm cho giá
cả thị trường phải lên xuống.
Trong xã hội tư bản đương thời, mỗi nhà tư bản công nghiệp tự ý sản xuất ra cái
mà mình muốn theo cách mình muốn, và với số lượng theo ý mình. Đối với họ số lượng
mà xã hội cần là một lượng chưa biết, cái mà ngày hôm nay cung cấp không kịp thì ngày
mai lại có thể cung cấp nhiều quá số yêu cầu. Tuy vậy người ta cũng thỏa mãn được nhu
cầu một cách miễn cưỡng, sản xuất chung quy là căn cứ theo những vật phẩm người ta
yêu cầu.
“… Khi thực hiện quy luật giá trị sản xuất hàng hóa trong xã hội gồm những
người sản xuất trao đổi hàng hóa cho nhau, sự cạnh tranh lập ra bằng cách đó và trong
điều kiện nào đó một trật tự duy nhất và một tổ chức duy nhất có thể có của nền sản xuất
xã hội. Chỉ có do sự tăng hay giảm giá hàng mà những người sản xuất hàng hóa riêng lẻ
biết được rõ ràng là xã hội cần vật phẩm nào và với số lượng bao nhiêu ” (C.Mác: sự
khốn cùng của triết học, nhà xuất bản sự thật ).
1.2.2 Kích thích cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất tăng năng suất lao
động, lực lượng sản xuất xã hội phát triển nhanh:
Để tránh bị phá sản, giành được ưu thế trong cạnh tranh và thu hút được nhiều lãi,
từng người sản xuất hàng hóa đều tìm mọi cách cải tiến kỹ thuật, hợp lý hóa sản xuất,
ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật mới vào sản xuất để giảm hao phí lao động

cá biệt của mình, giảm giá trị các biệt của hàng hóa do mình sản xuất ra. Từ đó làm cho
kỹ thuật của toàn xã hội càng phát triển lên trình độ cao hơn, năng suất càng tăng cao
hơn.
Như thế là chúng ta thấy phương thức sản xuất tư liệu sản xuất luôn bị biến đổi,
dẫn đến sự phân công tỉ mỉ hơn dùng nhiều máy móc hơn, lao động trên một quy mô lớn
đưa đến lao động trên một quy mô lớn hơn như thế nào.
Đó là quy luật luôn hất sản xuất ra con đường cũ và luôn buộc sản xuất phải làm
cho sức sản xuất của lao động khẩn trương hơn. Quy luật đó không gì khác mà là quy luật
nhất định giữ cho giá cả hàng hóa ngang bằng với chi phí sản xuất của chính hàng hóa
đó, trong giới hạn của những biến động chu kì của thương mại. Nếu một người nào sản
xuất được rẻ hơn, có thể bán được nhiều hàng hóa hơn và do đó chiếm lĩnh được ở trên
thị trường một địa bàn rộng hơn bằng cách bán ra hạ giá hơn giá cả thị trường hiện hành

GVHD: Trần Ngọc Chung

Page 5


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin
hay hạ hơn giá trị thị trường thì anh ta sẽ làm ngay nhưu thế và do đó sẽ mở đầu một
hành động dần dần buộc những người khác cũng phải áp dụng các phương pháp ít tốn
kém hơn và làm cho thời gian lao động xã hội cần thiết giảm xuống một mức thấp hơn.
Theo Mác thì trong sự vận độngbên ngoài những tư bản, những quy luật bên trong
của nền sản xuất tư bản chủ nghĩa trở thành những quy luật bắc buộc của sự cạnh tranh,
rằng dưới hình thức đó đối với những nhà tư bản những quy luật biểu hiện hành động cơ
bản của những hành động của họ, rằng như vậy là muốn phân tích một cách khoa học sự
cạnh tranh thì trước đó phải phân tích tính chất bên trong của tư bản, cũng như chỉ người
nào không thể hiểu biết sự vận động thực sự của các thiên thể, tuy là các giác quan không
thể thấy được, thì mới có thể hiểu được sự vận động bề ngoài của những thiên thể ấy.
1.2.3 Thực hiện sự lựa chọn tự nhiên và phân hoá người sản xuất hàng hoá

thành kẻ giàu người nghèo:
Trong xã hội những người sản xuất cá thể, đã có mầm móng của một phương thúc
sản xuất mới. Trong sự phân công tự phát, không có kế hoạch nào thống trị xã hội,
phương thúc sản xuất ấy đã xác lập ra sự phân công, tổ chức theo kế hoạch, trong những
công xưởng riêng lẻ; bên cạnh sản xuất của những người sản xuất cá thể nhỏ đã làm xuất
hiện sản xuất xã hội. Sản phẩm của hai loại sản xuất đó cùng bán trên một thị trường, do
đó giá cả ít ra cũng sấp xỉ nhau. Nhưng so với sự phân công tự phát thì tổ chức có kế
hoạch đương nhiên mạnh hơn nhiều; sản phẩm công xưởng dùng lao động xã hội là rẻ
hơn so với sản phẩm của những người sản xuất nhỏ, tản mạn. Sản xuất của những người
sản xuất cá thể gặp thất bại từ nghành này đến nghành khác. Trong nền sản xuất hàng
hóa, sự tác động của các quy luật kinh tế, nhất là quy luật giá trị tất yếu dẫn đến kết quả.
Những người có điều kiện sản xuất thuận lợi, nhiều vốn, có kiến thức và trình dộ kinh
doanh cao, trang bị kỹ thuật tốt sẽ phát tài, làm giàu. Ngược lại không có các điều kiện
trên, hoặc gặp rủi ro sẽ mất vốn phá sản. Quy luật giá trị đã bình tuyển, đánh giá những
người sản xuất kinh doanh.
Sự bình tuyển tự nhiên ấy đã phân hóa những người sản xuất kinh doanh ra thành
người giàu người nghèo. Người giàu trở thanh ông chủ, người nghèo dần trở thành người
làm thuê. Lịch sử phát triển của sản xuất hàng hóa đã chỉ ra là quá trình phân hóa này đã
làm cho sản xuất hàng hóa giản đơn trong xã hội phong kiến dần dần nảy sinh quan hệ
sản xuất tư bản chủ nghĩa.
“… Mỗi người đều sản xuất riêng biệt, cho lợi ích riêng của mình, không phụ
thuộc vào nhà sản xuất khác. Họ sản xuất cho thị trường, nhưng dĩ nhiên không một
người nào trong số họ biết được dung lượng của thị trường. Mối quan hệ như vậy giữa
những người sản xuất riêng rẽ, sản xuất cho một thị trường chung, thì gọi là cạnh tranh.
Dĩ nhiên trong những điều kiện ấy, sự thăng bằng giữa sản xuất và tiêu dùng chỉ có thể có
được sau nhiều lần biến động. Những người khéo léo hơn, tháo vát hơn và có sức lực hơn
sẽ ngày càng lớn mạnh nhờ những sự biến động ấy; còn những người yếu ớt, vụng về thì
sẽ bị sự biến động đó đè bẹp. Một vài người trở nên giàu có, còn quần chúng trở nên
nghèo đói, đó là kết quả không tránh khỏi quy luật cạnh tranh. Kết cục là những người
sản xuất bị phá sản mất hế tính chất độc lập về kinh tế của họ và trở thành công nhân làm


GVHD: Trần Ngọc Chung

Page 6


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin
thuê trong công xưởng đã mở rộng của đối thủ tốt số của họ” (V.Lenin: Bàn về cái gọi là
vấn đề thị trường).
Sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, cùng sự bần cùng hóa của nhân dân là những
hiện tượng ngẫu nhiên. Hai điều đó tất nhiên đi kèm với sự phát triển của nền kinh tế
hàng hóa dựa trên sự phân công lao động xã hội. Vấn đề thị trường hoàn toàn bị gạt đi, vì
thị trường chẳng qua chỉ là biểu hiện của sự phân công đó và sản xuất hàng hóa. Người ta
sẽ thấy sự phát triển của chủ nghĩa tư bản không những là có thể có mà còn là sự tất
nhiên nữa, vì một khi kinh tế xã hội đã xây dựng trên sự phân công và trên hình thức
hàng hóa của sản phẩm, thì sự tiến bộ về kỹ thuật không thể không dẫn tới chỗ làm cho
chủ nghĩa tư bản tăng cường và mở rộng thêm.

Chương 2: Tác động của quy luật giá trị đối với nền
kinh tế Việt Nam hiện nay
2.1 Bản chất nền kinh tế nước ta:
Nước ta có một nền kinh tế thị trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa là mô hình kinh tế trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa có bản chất kinh tế khác với nền kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Bản chất đó
được quy định bởi các quan hệ kinh tế trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam.
Định hướng xã hội chủ nghĩa của nền kinh tế thị trường trong thời kỳ quá độ ở
nước ta không phải chỉ do định hướng chính trị chi phối, mà còn được chi phối bởi cơ sở
kinh tế bên trong, được bảo đảm bởi một kết cấu kinh tế mà trong quá trình vận động, tự


GVHD: Trần Ngọc Chung

Page 7


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin
nó có xu hướng xã hội chủ nghĩa, và do đó, nó làm cho các nhân tố xã hội chủ nghĩa ngày
càng lớn mạnh lên.
Những tính chất chung của nền kinh tế thị trường:
Các chủ thể kinh tế có tính độc lập , có quyền tự do trong sản xuất kinh doanh.
Giá cả do thị trường quyết định, hệ thống thị trường được phát triển đầy đủ và có
tác dụng làm cơ sở cho việc phân phối các nguồn lực kinh tế.
Nền kinh tế vận động theo những quy luật vốn có của nền kinh tế thị trường như
quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh.
Phải có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước thông qua pháp luật kinh tế, kế hoạch hóa,
các chính sách kinh tế.
5 bản chất của nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa:
2.1.1 Mục tiêu phát triển kinh tế thị trường:
Giải phóng sức sản xuất, động viên mọi nguồn lực trong và ngoài nước để thực
hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế – xã hội, cải thiện từng đời
sống nhân dân.
Lấy sản xuất gắn liền với cải thiện đời sống nhân dân, tăng trưởng kinh tế đi đôi
với tiến bộ và công bằng xã hội, khuyến khích làm giàu hợp pháp, gắn liền với xóa đói
giảm nghèo.
2.1.2 Nền kinh tế thị trường gồm nhiều thành phần kinh tế, trong đó kinh tế
nhà nước giữ vai trò chủ đạo:
Trong nền kinh tế nước ta tồn tại ba loại hình thức sở hữu cơ bản là sở hữu toàn
dân, sở hữu toàn tập thề, sở hữu tư nhân. Từ ba hình thức sở hữu cơ bản đó hình thành
nhiều thành phần kinh tế, nhiều tổ chức sản xuất kinh doanh. Có năm thành phần kinh tế

là: kinh tế nhà nước, kinh tế tập thể, kinh tế tư nhân, kinh tế tư bản nhà nước, kinh tế có
vốn đầu tư nước ngoài. Trong đó, kinh tế nhà nước làm chủ đạo. Các thành phần kinh tế
đều bình đẳng trước pháp luật, vừa hợp tác vừa cạnh tranh với nhau để phát triển.
Các thành phần kinh tế tồn tại khách quan và là bộ phận cần thiết của nền kinh tế
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Vì vậy phát triển kinh tế thì trường nhiều thành
phần là một tất yếu đối với nước ta từ đó chúng ta mới khai thác được mọi nguồn lực
kinh tế, nâng cao được hiệu quả kinh tế, thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của nhân dân.
Trong nền kinh tế nhiều thành phần ở nước ta kinh tế nhà nước giữ vai trò chủ
đạo. Đó là sự khác biệt có tính bản chất giữa kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa với kinh tế thị trường tư bản chủ nghĩa. Mỗi một chế độ xã hội đều có một cơ sở
kinh tế tương ứng với nó, kinh tế nhà nước cùng với kinh tế tập thể tạo nền tảng cho chế
độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
2.1.3 Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN thực hiện nhiều hình
thức phân phối, mà phân phối theo lao động là tất yếu:

GVHD: Trần Ngọc Chung

Page 8


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin
Ba hình thức phân phối trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN: phân phối
theo lao động, phân phối theo mức đóng góp vốn và các nguồn lực khác, phân phối thông
qua các quỹ phúc lợi tập thể và xã hội.
Sự khác biệt cơ bản giữa kinh tế thị trường định hướng XHCN so với nền kinh tế
thị trường TBCN là ở chỗ xác lập chế độ công hữu và thực hiện phân phối theo lao động.
Phân phối theo lao động là đặc trưng bản chất của kinh tế thị trường định hướng XHCN,
nó là hình thức thực hiện về mặt kinh tế của chế độ công hữu. Vì thế phân phối theo lao
động xã hội được xác định là hình thức phân phối chủ yếu trong thời kỳ quá độ lên
CNXH.

Nước ta xây dựng và phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa nên
lấy phát triển kinh tế thị trường là phương tiện đạt được mục tiêu cơ bản xây dựng xã hội
chủ nghĩa, thực hiện dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh; con
người được giải phóng khỏi áp bức bóc lột, có cuộc sống ấm no, tự do hạnh phúc có điều
kiện phát triển toàn diện. Vì vậy mỗi bước tăng trưởng kinh tế phải gắn liền với cải thiện
đời sống nhân dân, với tiến bộ, công bằng xã hội. Việc phân phối thông qua các quỹ phúc
lợi tập thể và xã hội có ý nghĩa quan trọng để thực hiện điều đó.
2.1.4 Cơ chế vận hành của kinh tế thị trường định hướng XHCN là cơ chế thị
trường có sự quản lý của nhà nước:
Vận hành theo cơ chế thị trường nghĩa là:
Nền kinh tế vận động tuân theo các quy luật KTTT: quy luật giá trị, quy luật cung
cầu, cạnh tranh…
Thị trường quyết định giá cả.
Thị trường có vai trò quyết định trong việc phân phối các nguồn lực kinh tế vào
các nghành, các lĩnh vực của nền kinh tế.
Trong nền kinh tế hiện nay, hầu như tất cả các nền kinh tế của các nước trên thế
giới đều có sự quản lý của nhà nước để sửa chữa một mức nào đó “ nhưng thất bại của thị
trường”. Tức là cơ chế vận hành nền kinh tế của tất cả các nước đều là cơ chế thị trường
có sự quản lý của nhà nước. Nhưng điều khác biệt trong cơ chế vận hành nền kinh tế của
nhà nước ta là ở chỗ nhà nước quản lý nền kinh tế không phải là nhà nước tư sản mà là
nhà nước XHCN, nhà nước của dân do dân và vì dân đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng cộng
sản Việt Nam. Sự quản lý của nhà nước xã hội chủ nghĩa nhằm sữa chữa “ những thất bại
của thị trường”, thực hiện các mục tiêu xã hội nhân đạo mà bản thân cơ chế thị trường
không thể làm được, đảm bảo cho nền kinh tế thị trường phát triển theo định hướng
XHCN. Do đó khẳng định vai trò của quản lý nhà nước là hết sức quan trọng, đảm bảo
cho nền kinh tế tăng trưởng ổn định, đạt hiệu quả cao đặt biệt là đảm bảo công bằng xã
hội.
Nhà nước quản lý nền KTTT định hướng XHCN theo nguyên tắc kết hợp kế
hoạch với thị trường. Thị trường là căn cứ để xây dựng và kiểm tra các kế hoạch. Kế
hoạch hướng dẫn và điều tiết để thị trường hoạt động theo hướng XHCN. Sự kết hợp kế

hoạch với thị trường được thực hiện ở cả tầm vi mô lẫn vĩ mô. Ở tầm vi mô, thị trường là

GVHD: Trần Ngọc Chung

Page 9


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin
căn cứ xây dựng kế hoạch sản xuất, kinh doanh. Ở tầm vĩ mô, thị trường không phải là
căn cứ duy nhất có tính quyết định nhưng kế hoạch nhà nước cũng không thể thoát li khỏi
tình hình biến động của thị trường. Các kế hoạch nhằm đảm bảo cân đối lớn, tổng thể của
nền kinh tế như cung – tổng cầu, sản xuật – tiêu dùng, hàng hóa – tiền tệ. Kế hoạch hóa
vĩ mô có thể tác động đến cung cầu, giá cả, để uốn nắn những lệch lạc của sự phát triển
do sự tác động tự phát của thị trường gây ra, thông qua đó mà hướng hoạt động của thị
trường theo hướng của kế hoạch để ra.
2.1.5 Nền kinh tế thị trường định hướng XHCN cũng là nền kinh tế mở, hội
nhập:
Mở của kinh tế và hội nhập với kinh tế thế giới là tất yếu đối với nền kinh tế nước
ta. Đó vừa là xu thế phát triển chung, vừa cho phép chúng ta thu hút vốn, kỹ thuật, hệ
thống quản lý iên tiến của các nước để phát triển kinh tế hiện đại theo kiểu rút ngắn vừa
phát huy tốt nội lực để phát triển kinh tế trong nước.
Mở rộng quan hệ kinh tế đối ngoại theo hướng đa phương hóa, đa dạng hoác các
hình thức quan hệ, gắn thị trường trong nước với thị trường khu vực, thế giới. Chủ động
hội nhập với kinh tế thế giới gắn liền với xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ. Ưu tiên
đẩy mạnh xuất khẩu, coi xuất khẩu là hướng ưu tiên và trọng điểm của kinh tế đối
ngoại…
2.2 Tác động của quy luật giá trị với nền kinh tế nước ta hiện nay:
2.2.1 Tích cực:
2.2.1.1 Nâng cao tính cạnh tranh của nền kinh tế:
Việc chuyển từ chế độ tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế thị trường thì

cùng với nó là việc loại bỏ cơ chế xin cho, cấp phát, bảo hộ trong hoạt động sản xuất kinh
doanh. Mỗi doanh nghiệp phải tự hạch toán, không bị ràng buộc quá đáng bởi các chỉ tiêu
sản xuất mà nhà nước đưa ra và phải tự nghiên cứu để tìm ra thị trường phù hợp với các
sản phẩm của mình; thực hiện sự phân đoạn thị trường để xác định tấn công vào đâu,
bằng những sản phẩm gì.
Mặc khác, cùng với xu hướng công khai tài chính doanh nghiệp để giai dich trên
sàn giao dịch chứng khóa, thúc đẩy tiến trình gia nhập AFTA, WTO; mỗi các nhân, mỗi
doanh nghiệp đều phải nâng cao sức cạnh tranh của mình để có thể đứng vững khi bão
táp của quá trình hội nhập quốc tế ập đến. Sức cạnh tranh được nâng cao ở đây là nói đến
sức cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trong nước với doanh nghiệp nước ngoài, giwuax
các cá nhân trong nước với cá nhân trong nước, giữa các cá nhân trong nước với cá nhân
nước ngoài.
2.2.1.2 Tạo nên sự năng động của nền kinh tế thị trường Việt Nam:
Cạnh tranh gay gắ sẽ đưa đến một hệ quả tất yếu là làm cho nền kinh tế năng động
lên. Vì trong cạnh tranh, mỗi người sẽ tìm cho mình một con đường đi mới, trong một
lĩnh vực sản xuất, kinh doanh sao cho tạo nên sự hiệu quả nhất. Các con đường đó sẽ vô
vàn khác nhau, các con đường đó luôn tạo ra lĩnh vực sản xuất mới. Và hơn nữa, cạnh

GVHD: Trần Ngọc Chung

Page 10


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin
tranh năng động sẽ làm cho sản phẩm hàng hóa đa dạng về mẫu mã, nhiều về số lượng,
cao về chất lượng. Bởi vì, sự đào thải của quy luật giá trị sẽ ngày càng làm cho sản phẩm
hoàn thiện hơn, mang lại nhiều lợi ích cho người tiêu dùng.
Sự năng động còn thể hiện ở sự phát triển nhiều thành phần kinh tế. Bởi vì, việc
phát triển nhiều thành phần kinh tế có tác dụng thu hút nguồn nhân lực vào các thành
phần kinh tế, phát huy nội lực, tận dụng nội lực để sản xuất ra nhiều hàng hóa thu lợi

nhuận hay nâng cao trình độ sản xuất trong một nghành, một lĩnh vực nhất định.
2.2.1.3 Thúc đẩy quá trình hội nhập quốc tế:
Với mục đích tìm kiếm lợi nhuận, siêu lợi nhuận. Sự đầu tư trong nước và đầu tư
ra nước ngoài ngày càng phát triển, hay nói cách khác là thúc đẩu quá trình hội nhập quốc
tế.
Mỗi nước đều có những ưu thế, lợi thế riêng. Do thời gian và trình độ xuất phát
điểm của nền kinh tế khác nhau nên khi nước này cần vốn thì nước kia lại thừa. Do tốc độ
phát triển khác nhau nên khi nước này phát triển thì nước kia lại quá lạc hậu; do sự phân
bố tài nguyên khác nhay nên nước này có điều kiện sản xuát cái này, nước kia có điều
kiện sản xuất cái kia và tạo ra một lợi thế so sánh trên thị thương trường. Điều này thúc
đẩy sự chuyên môn hóa, hợp tác hóa sản xuất để có chi phí sản xuất thấp và tuân theo sự
điều tiết của quy luật giá trị, chi phí sản xuất thấp sẽ làm cho giá cả thấp, và do đó thắng
trên thương trường.
Ngoài ra khi quy luật giá trị tác động như vậy sẽ có tác dụng giáo dục những cán
bộ lãnh đạo kinh tế tiến hành sản xuất một cách hợp lí, và khiến học tôn trọng kỉ luật.
Nhờ đó mà học hỏi tính toán tiềm lực sản xuất, tính toán một cách chính xác, tính đến
tình hình thực hiện sản xuất, biết tìm ra những lực lượng dự trữ tiềm tàng giấu kín trong
sản xuất.
Tuy điều tai hại là các cán bộ lãnh đạo, các nhà chuyên môn về công tác kế hoạch,
trừ số ít đều không hiểu thấu đáo tác dụng quy luật giá trị, không nghiên cứu và không
biết chú ý đến tác dụng đó trong khi tính toán. Đó là nguyên nhân vì sao chính sách nước
ta còn hay mơ hồ.
2.2.2 Tiêu cực:
Hình thành quan hệ chủ thợ, quan hệ người bóc lột người.
Gián tiếp hình thành nên hai lớp trong xã hội là người giàu và người nghèo.
Phân hóa giàu nghèo quá sâu sắc dẫn tới bất bình đẳng xã hội, đi ngược với chủ
trương phát triển đất nước theo con đường XHCN của Đảng và Nhà nước ta.
2.3 Phát huy mặt tích cực của quy luật giá trị với nền kinh tế nước ta:
Phát triển kinh tế thị trường là xu hướng tất yếu của quá trình đổi mới kinh tế xã
hội. Thực tế cho thấy, không có quốc gia nào trên thế giới có nền kinh tế thị trường phát

triển lại không có sự điều hành của Nhà nước. Mỗi quốc gia có một chính sách quản lý và
phát triển kinh tế đặc thù của quốc gia đó, nhưng xét cho đến cùng thì cũng không thoát
khỏi quy luật chung là áp dụng các quy luật kinh tế và vận hành chúng một cách có hiệu

GVHD: Trần Ngọc Chung

Page 11


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin
quả vào sự phát triển kinh tế. Nó có vai trò điều tiét nền sản xuất hàng hoá một cách hợp
lý rồi từ đó gây ảnh hưởng tới nền kinh tế của đất nước. Chính vì vậy quy luật giá trị có
vai trò rất quan trọng trong sự phát triển kinh tế thị trường của mỗi quốc gia. Đối với Việt
Nam nó cũng có vai trò không nhỏ, nó gây ảnh hưởng trực tiếp đến nền kinh tế quốc dân
thông qua sự điều tiết của nó đối với nền sản xuất hàng hoá, thông qua sự điều tiết của nó
đối với nền sản xuất hàng hoá. Nền kinh tế của một quốc gia luôn luôn biến động cùng
với nền kinh tế thế giới. Để phát triển nền kinh tế thì vấn đề trước hết là ta phải biết bắt
đầu từ đâu, đã có những cái gì và chưa có được những gì, cái gì phải làm trước, cái gì nên
làm sau mới thực hiện.
Nền kinh tế Việt Nam cần phải:
Phát triển kinh tế, công nghiệp hóa, hiện đại hóa là trung tâm: Phát triển kinh tế,
công nghiệp hóa, hiện đại hóa để từ đó tạo đà để thực hiện những nhiệm vụ khác, đưa
nước ta nhanh chóng phát triển, tiến theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần: Tạo điều kiện cho các thành
phần kinh tế cùng phát triển theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Tiếp tục tạo lập đồng bộ các yếu tố của kinh tế thị trường, tăng cường vai trò quản
lý kinh tế của nhà nước: là điều kiện cơ bản để xây dựng thể chế kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa Việt Nam hiện nay và trong thời gian tiếp theo.
Giải quyết tốt các vấn đề xã hội, nâng cao chất lượng nguồn nhân lực nhằm vận
động tốt hơn quy luật giá trị với nền kinh tế nước ta.

Ý thức dân chủ, sự tự thức về bản thân sẽ có điều kiện và cơ hội để phát triển.Đề
cao trách nhiệm cá nhân, gắn liền động cơ và hiệu quả. Nó buộc người ta phải khắc phục
lối tư duy cảm tính, chủ quan và phải rèn luyện, nâng cao phương thức tư duy lý tính,
lành mạnh. Mục đích phải trên cơ sở hiện thực và đi đôi với những biện pháp để hiện
thực hóa trong thực tế.
Hình thành nhân cách tự chủ. Tự lập trong con người, rèn luyện con người ý thức
lao động, bản lĩnh, năng động, thích nghi và sáng tạo.
Chủ động hồi nhập kinh tế và khu vực: theo tinh thần phát huy tối đa nội lực nâng
cao hiệu quả hợp tác quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng xã hội chủ nghĩa,
bảo vệ lợi ích dân tộc, giữ vững an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc, bảo vệ
môi trường sinh thái.
2.4 Khắc phục tác động tiêu cực của quy luật giá trị với nền kinh tế nước ta:
2.4.1 Về phía trong nước:
Giải phóng lực lượng sản xuất, huy động mọi nguồn lực để thúc đẩu nhanh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa, nâng cao hiệu quả kinh tế xã hội, cải thiện đời sống nhân dân.
Nhà nước bằng các công cụ, chính sách kinh tế vĩ mô để dẫn dắt, hướng dẫn cho hệ thống
thị trường phát triển, nhà nước có vai trò quan trọng trong quá trình phân phối đảm bảo
sự công bằng, hiệu quả, hướng tới xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.

GVHD: Trần Ngọc Chung

Page 12


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin
Nhà nước cần chú hơn tới vấn đề đồng bộ hệ thống thị trường ở nước ta. Ở nước ta
một số loại thị trường thì phát triển nhanh chóng, phát huy được hiệu quả trong nền kinh
tế thị trường, trong khi đó một số loại thị trường còn rất sơ khai, chưa hình thành một
cách đầy đủ và bị biến dạng. Vì thế nhà nước cần có những biện pháp để vực dậy một số
thị trường còn bỏ ngỏ.

Việc vận dụng quy luật giá trị trong định giá cả phải có giới hạn, có căn cứ kinh tế.
Như vậy mới có tác dụng trong việc sản xuất.
Nhà nước ta khi vận dụng quy luật giá trị phải sản xuất từ nhiều quy luật kinh tế
chủ nghĩa xã hội, căn cứ vào nhiệm vụ kinh tế, chính trị từng thời kì.
2.4.2 Về phía quốc tế:
Trình độ văn hoá của con người còn thấp, khả năng ứng dụng máy móc, trang thiết
bị hiện đại trong phát triển sản xuất không đạt yêu cầu thực tế. Hơn nữa những người có
tay nghề, kỹ thuật cao chiếm số ít trong lực lượng lao động của đất nước. Do vậy, nhà
nước phải quan tâm đầu tư giáo dục, phát triển lực lượng sản xuất vững mạnh.
Trình độ khoa học kỹ thuật và công nghệ còn yếu. Không có thành tựu nào là đáng
kể trong nghiên cứu khoa học mà chỉ thừa hưởng những công nghệ đã lạc hậu ở nước tiên
tiến trên thế giới chuyển giao lạ. Điều đáng nói là ngay cả việc giám định các công nghệ
chuyển giao cũng không có. Vì vậy, nhà nước phải quan tâm hơn đến việc đầu tư cho
khoa học kỹ thuật, khắc phục những thiếu sót trong quá trình chuyển giao công nghệ. Bên
cạnh đó phải khuyến khích các sáng chế, phát minh, cũng như xem xét lại các thiếu sót
trong quá trình kiểm định, không thể để nước ta là một trong số nước có nhiều tiến sĩ nhất
mà lại không có một phát minh nào đáng kể.
Tuy nền kinh tế nước ta đang vận hành theo cơ chế thị trường nhưng cơ cấu kinh
tế của nước ta vẫn chưa chặt chẽ, hợp lý, vẫn còn nhiều kẽ hở lớn, cơ cấu ngành nghề còn
nhiều điều bất cập. Điều này dẫn đến việc các ngành nghề sản xuất không thể phối hợp
được với nhau, từ đó không thể tạo điều kiện thuận lợi cho sản xuất, giảm chi phí đầu ra
của sản phẩm. Vì vậy, nhà nước cần có chính sách, cũng như biện pháp để tạo điều kiện
thuận lợi cho các ngành sản xuất phối hợp với nhau.

GVHD: Trần Ngọc Chung

Page 13


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin


PHẦN KẾT LUẬN
Quy luật giá trị có vai trò đặc biệt quan trọng trong sự phát triển kinh tế thị trường,
nó là quy luật kinh tế căn bản chi phố sự vận động của nền kinh tế thị trường. Sự tác động
của quy luật giá trị một mặt thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế, mặt khác gây ra các
hậu quả tiêu cực… Đối với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa ở nước ta
giai đoạn hiện nay, quy luật giá trị đóng vai trò cực kỳ quan trọng. Tuy nhiêu, có phát huy
được các mặt tích cực, đẩy lùi các mặt tiêu cực còn là vấn đề phụ thuộc vào vai trò quản
lý vĩ mô của nhà nước và nhận thức của mỗi công dân.

GVHD: Trần Ngọc Chung

Page 14


Những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác Lênin

TÀI LIỆU THAM KHẢO
1. C.Mác: Sự khốn cùng của triết học, Nhà xuất bản sự thật,Hà Nội 1962.
2. V.Lênin: Lênin toàn tập, cuốn bàn về cái gọi là vấn đề thị trường, Nhà xuất bản sự

thật, Hà Nội 1961.
3. Bộ giáo dục và đào tạo: Giáo trình những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác –
Lênin, nhà xuất bản chính trị quốc gia.
4. Triết học Mác – Lênin, nhà xuất bản thống kê.
5. Vai trò quản lý nhà nước theo nền kinh tế thị trường nước ta, NXB chính trị quốc
gia.

GVHD: Trần Ngọc Chung


Page 15



×