Tải bản đầy đủ (.pdf) (208 trang)

(LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ) CÁC TỈNH ỦY Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG LÃNH ĐẠO CHÍNH QUYỀN TỈNH GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (2.26 MB, 208 trang )

HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ MINH HÀ

CÁC TỈNH ỦY Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
LÃNH ĐẠO CHÍNH QUYỀN TỈNH
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ

HÀ NỘI - 2016


HỌC VIỆN CHÍNH TRỊ QUỐC GIA HỒ CHÍ MINH

LÊ THỊ MINH HÀ

CÁC TỈNH ỦY Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
LÃNH ĐẠO CHÍNH QUYỀN TỈNH
GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước
Mã số

: 62 31 02 03

LUẬN ÁN TIẾN SĨ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học:
1. PGS. TS DƯƠNG TRUNG Ý
2. TS. CAO THANH VÂN

HÀ NỘI - 2016




LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi, các số
liệu, kết quả nêu trong luận án là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng và được
trích dẫn đầy đủ theo quy định.
Tác giả luận án

Lê Thị Minh Hà


MỤC LỤC
1

MỞ ĐẦU
Chương 1: TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU LIÊN QUAN
ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

5

1.1. Các công trình nghiên cứu của Việt Nam

5

1.2. Các công trình nghiên cứu của nước ngoài

17

1.3. Kết quả nghiên cứu của các công trình khoa học có liên quan và

những vấn đề luận án tập trung giải quyết

21

Chương 2: CÁC TỈNH ỦY Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
LÃNH ĐẠO CHÍNH QUYỀN TỈNH HIỆN NAY - NHỮNG
VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN
2.1. Tỉnh, tỉnh ủy, chính quyền tỉnh ở đồng bằng sông Hồng hiện nay

25
25

2.2. Các tỉnh ủy ở vùng đồng bằng sông Hồng lãnh đạo chính quyền
tỉnh hiện nay - Khái niệm, nội dung, phương thức

44

Chương 3: TỔ CHỨC, HOẠT ĐỘNG CỦA CÁC CHÍNH QUYỀN TỈNH
VÀ CÁC TỈNH ỦY Ở VÙNG ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG
LÃNH ĐẠO CHÍNH QUYỀN TỈNH - THỰC TRẠNG,
NGUYÊN NHÂN VÀ KINH NGHIỆM

55

3.1. Thực trạng tổ chức và hoạt động của các chính quyền tỉnh ở vùng
đồng bằng sông Hồng

55

3.2. Các tỉnh ủy ở vùng đồng bằng sông Hồng lãnh đạo chính quyền

tỉnh - Thực trạng, nguyên nhân và kinh nghiệm

75

Chương 4: PHƯƠNG HƯỚNG VÀ CÁC GIẢI PHÁP CHỦ YẾU TĂNG
CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA CÁC TỈNH ỦY Ở VÙNG
ĐỒNG BẰNG SÔNG HỒNG ĐỐI VỚI CHÍNH QUYỀN
TỈNH ĐẾN NĂM 2025

113

4.1. Dự báo các nhân tố tác động và phương hướng tăng cường sự lãnh
đạo của các tỉnh ủy ở đồng bằng sông Hồng đối với chính quyền tỉnh

113

4.2. Các giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của tỉnh ủy đối với
chính quyền tỉnh ở vùng đồng bằng sông Hồng đến năm 2025
KẾT LUẬN

125
159

DANH MỤC CÁC CÔNG TRÌNH ĐÃ CÔNG BỐ CỦA TÁC GIẢ CÓ
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

162

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO


163

PHỤ LỤC

178


DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT TRONG LUẬN ÁN

BCH

Ban Chấp hành

BCSĐ

Ban cán sự đảng

BTV

Ban thường vụ

CB, CC, VC

Cán bộ, công chức, viên chức

CCHCNN

Cải cách hành chính nhà nước

CNH, HĐH


Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CT - XH

Chính trị - xã hội

CQT

Chính quyền tỉnh

ĐBSH

Đồng bằng sông Hồng

HĐND

Hội đồng nhân dân

HTCT

Hệ thống chính trị

KT - XH

Kinh tế - xã hội

MTTQ

Mặt trận Tổ quốc


PTLĐ

Phương thức lãnh đạo

UBND

Ủy ban nhân dân

XHCN

Xã hội chủ nghĩa


1
MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Từ khi trở thành đảng cầm quyền (năm 1945) đến nay, Đảng Cộng sản Việt
Nam luôn nỗ lực hoàn thành chức trách của đảng cầm quyền, bảo đảm tính chính
đáng cầm quyền. Với vai trò là đảng cầm quyền, Đảng lãnh đạo Nhà nước thể chế
hóa, cụ thể hóa, hiện thực hóa cương lĩnh, đường lối của Đảng thành chính sách,
pháp luật của Nhà nước. Năng lực cầm quyền của Đảng thể hiện chủ yếu, trước hết
ở năng lực lãnh đạo Nhà nước, trong đó có năng lực lãnh đạo của các cấp ủy địa
phương đối với chính quyền cùng cấp.
Cấp tỉnh giữ vị trí, vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội (KT XH), bảo đảm quốc phòng, an ninh, giữ vững ổn định chính trị - xã hội (CT - XH) ở
địa phương, góp phần thực hiện thắng lợi sự nghiệp đổi mới đất nước. Để phát huy
tốt vai trò của cấp tỉnh, vừa phải nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tỉnh ủy, vừa phải xây dựng tổ chức bộ máy chính quyền tỉnh (CQT) trong sạch,
vững mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả đồng thời coi trọng vai trò của Mặt trận Tổ
quốc (MTTQ) và các đoàn thể CT- XH. Muốn vậy, cần tăng cường sự lãnh đạo của

tỉnh ủy đối với CQT mà mấu chốt là tỉnh ủy phải xác định đúng nội dung lãnh đạo
và sử dụng hiệu quả các phương thức lãnh đạo (PTLĐ) đối với CQT.
Trong 30 năm lãnh đạo sự nghiệp đổi mới, các tỉnh ủy ở đồng bằng sông
Hồng (ĐBSH) đã tích cực lãnh đạo CQT, đạt được một số kết quả tiêu biểu như:
lãnh đạo CQT thực hiện tương đối tốt chức năng, nhiệm vụ, lãnh đạo kiện toàn tổ
chức bộ máy CQT, lãnh đạo CQT phối hợp công tác với các tổ chức khác trong hệ
thống chính trị tỉnh (HTCT) khá tốt; xây dựng chương trình làm việc toàn khóa sau
đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh; xây dựng và hoàn thiện quy chế làm việc, cải tiến chế
độ công tác, lề lối, phong cách làm việc của tỉnh ủy; bước đầu phân định rõ chức
năng, nhiệm vụ của tỉnh ủy với chức năng, nhiệm vụ của Hội đồng nhân dân
(HĐND) tỉnh và của Ủy ban nhân dân (UBND) tỉnh; tăng cường chất lượng công
tác tư tưởng, công tác tổ chức, cán bộ, công tác kiểm tra, giám sát…
Bên cạnh những ưu điểm, các tỉnh ủy ở vùng ĐBSH có một số hạn chế, lúng
túng trong quá trình lãnh đạo CQT, cụ thể là: chậm đổi mới, cải tiến một số khâu


2
công tác; sự vi phạm các nguyên tắc tổ chức và hoạt động của Đảng vẫn tái diễn ở nơi
này, nơi khác, ở thời điểm này, thời điểm khác; thẩm quyền, trách nhiệm của những
người đứng đầu tỉnh ủy, CQT chưa được quy định rõ và đầy đủ... Một mặt, đôi khi
tỉnh ủy lấn sân, bao biện, làm thay hoặc can thiệp sâu vào công việc của CQT, mặt
khác, vẫn còn tình trạng tỉnh ủy buông lỏng lãnh đạo đối với CQT trên một lĩnh vực.
Năng lực lãnh đạo của tỉnh ủy đối với CQT chưa ngang tầm yêu cầu nhiệm vụ, tác
động tiêu cực đến sự nghiệp xây dựng và phát triển địa phương. Vấn đề đặt ra đối với
các tỉnh ủy ở vùng ĐBSH trong lãnh đạo hiện nay như: phân định rõ chức năng,
nhiệm vụ của tỉnh ủy với chức năng, nhiệm vụ của CQT; làm rõ chế độ trách nhiệm
của người đứng đầu tỉnh ủy, của CQT; khắc phục cả hai xu hướng: lấn sân, bao biện,
làm thay và buông lỏng lãnh đạo; vừa nâng cao năng lực lãnh đạo của tỉnh ủy vừa
nâng cao hiệu lực, hiệu quả điều hành và quản lý của CQT…
Xuất phát từ những lý do trên, tác giả chọn vấn đề: “Các tỉnh ủy ở vùng

đồng bằng sông Hồng lãnh đạo chính quyền tỉnh giai đoạn hiện nay” làm luận án
tiến sĩ chuyên ngành xây dựng Đảng và chính quyền nhà nước, nhằm góp phần giải
quyết những vấn đề cấp bách nêu trên.
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
2.1. Mục đích nghiên cứu
Trên cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn các tỉnh ủy vùng ĐBSH
lãnh đạo CQT, luận án đề xuất phương hướng và các giải pháp tăng cường sự lãnh
đạo của các tỉnh ủy vùng ĐBSH đối với CQT đến năm 2025.
2.2. Nhiệm vụ
- Tổng quan các công trình khoa học trong và ngoài nước liên quan đến đề
tài luận án, đánh giá khái quát kết quả cơ bản của các công trình đó và chỉ ra những
nội dung luận án tiếp tục nghiên cứu;
- Làm rõ những vấn đề lý luận cơ bản về tỉnh ủy ở vùng ĐBSH lãnh đạo
CQT giai đoạn hiện nay;
- Khảo sát, đánh giá thực trạng các CQT ở vùng ĐBSH và thực trạng các
tỉnh ủy ở vùng ĐBSH lãnh đạo CQT từ năm 2005 đến nay, chỉ rõ nguyên nhân, khái
quát các kinh nghiệm lãnh đạo CQT của các tỉnh ủy ở vùng ĐBSH;


3
- Đề xuất phương hướng và các giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của các
tỉnh ủy ở vùng ĐBSH đối với CQT đến năm 2025.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của luận án
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Các tỉnh ủy ở vùng ĐBSH lãnh đạo CQT.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
- Nội dung: Luận án nghiên cứu sự lãnh đạo của các tỉnh ủy ở vùng ĐBSH
đối với CQT (HĐND tỉnh, UBND tỉnh) nhằm xây dựng CQT trong sạch, vững
mạnh, hoạt động hiệu lực, hiệu quả.
- Thời gian: Luận án nghiên cứu sự lãnh đạo của các tỉnh ủy ở ĐBSH đối với

CQT từ năm 2005 đến nay; đề xuất các phương hướng và giải pháp có giá trị đến
năm 2025.
- Không gian: Luận án khảo sát sự lãnh đạo của các tỉnh ủy đối với CQT ở
vùng ĐBSH, bao gồm 9 tỉnh: Bắc Ninh, Hải Dương, Hưng Yên, Hà Nam, Nam
Định, Thái Bình, Ninh Bình, Vĩnh Phúc, Quảng Ninh.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
4.1. Cơ sở lý luận
Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh và quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về đảng cầm quyền,
Đảng lãnh đạo Nhà nước, về xây dựng tổ chức bộ máy và hoạt động của Nhà nước.
4.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận án sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin đồng thời sử
dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học liên ngành và chuyên ngành như: khảo
sát, tổng kết thực tiễn; lịch sử - lôgíc; phân tích - tổng hợp; điều tra xã hội học;
phỏng vấn sâu; phương pháp chuyên gia...
5. Đóng góp mới về khoa học của luận án
- Khái niệm tỉnh ủy lãnh đạo CQT giai đoạn hiện nay;
- Một số kinh nghiệm lãnh đạo của các tỉnh ủy ở vùng ĐBSH đối với CQT từ
năm 2005 đến nay;
- Các giải pháp tăng cường sự lãnh đạo của các tỉnh ủy ở vùng ĐBSH đối với
CQT đến năm 2025.


4
6. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận án
6.1. Ý nghĩa lý luận
Kết quả nghiên cứu của luận án cung cấp những luận cứ khoa học cho các
tỉnh ủy nghiên cứu, tham khảo để xác định chủ trương, biện pháp lãnh đạo CQT.
6.2. Ý nghĩa thực tiễn
Nội dung luận án là tài liệu tham khảo phục vụ công tác nghiên cứu, giảng

dạy, học tập ở các trường chính trị tỉnh, thành phố và ở Học viện Chính trị quốc gia
Hồ Chí Minh.
7. Kết cấu của luận án
Luận án gồm phần mở đầu, 4 chương, 9 tiết, kết luận, danh mục công trình
khoa học của tác giả đã công bố liên quan đến đề tài luận án, danh mục tài liệu tham
khảo và phụ lục.


5
Chương 1
TỔNG QUAN TÌNH HÌNH NGHIÊN CỨU
LIÊN QUAN ĐẾN ĐỀ TÀI LUẬN ÁN

Trong những năm gần đây, vấn đề đảng cầm quyền, vai trò của lãnh đạo của
Đảng, đổi mới, chỉnh đốn Đảng, đổi mới PTLĐ của Đảng đối với Nhà nước, đổi
mới sự lãnh đạo của cấp ủy đối với chính quyền cùng cấp,… giành được sự quan
tâm của giới nghiên cứu khoa học trong và ngoài nước với những phương diện, mức
độ và mục tiêu khác nhau. Trên cơ sở tham khảo cách tiếp cận, phương pháp nghiên
cứu và kết quả của các công trình khoa học có liên quan đến vấn đề các tỉnh ủy ở
vùng ĐBSH lãnh đạo CQT giai đoạn hiện nay, tác giả xác định nội dung mà luận án
cần tập trung nghiên cứu.
1.1. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA VIỆT NAM

1.1.1. Các sách chuyên khảo và tham khảo
- Nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng trong thời kỳ
mới, do Nguyễn Phú Trọng, Tô Huy Rứa và Trần Khắc Việt đồng chủ biên [150].
Công trình này dành một phần bàn về đổi mới PTLĐ của Đảng. Các tác giả nhận
định: tiến bộ rõ rệt nhất trong đổi mới PTLĐ của Đảng là các tổ chức, cấp ủy đảng
giảm bớt sự can thiệp, áp đặt một cách không cần thiết, vụn vặt vào công việc của
cơ quan nhà nước, đoàn thể, lãnh đạo chuyên môn, thực hiện sự lãnh đạo theo đúng

chức năng, trách nhiệm của mình. Bên cạnh đó, việc đổi mới PTLĐ của Đảng còn
nhiều hạn chế, PTLĐ của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp (địa phương, ngành) đối với
cơ quan chính quyền, đoàn thể cùng cấp chưa thật rõ và chưa thống nhất. Các cấp
ủy vẫn chưa thoát hẳn ra khỏi một trong hai khuynh hướng là bao biện, làm thay và
buông lỏng sự lãnh đạo; nhiều khi khắc phục khuyết điểm này lại rơi vào khuyết
điểm kia một cách không tự giác. Trong khuyết điểm buông lỏng sự lãnh đạo có
biểu hiện mới ở một số nơi là: cấp ủy không đủ năng lực để lãnh đạo. Các tác giả
chỉ rõ những vấn đề đang đòi hỏi phải tiếp tục tháo gỡ để nâng cao hiệu quả lãnh
đạo của Đảng và đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng trong thời kỳ mới.


6
- Đảng lãnh đạo Nhà nước trong điều kiện xây dựng Nhà nước pháp
quyền ở Việt Nam hiện nay, do Nguyễn Văn Vĩnh chủ biên [165]. Cuốn sách này
xác định nội dung lãnh đạo, PTLĐ và làm rõ mối quan hệ giữa nội dung lãnh đạo và
PTLĐ của Đảng đối với Nhà nước. Các tác giả vạch ra những định hướng lớn có
tính nguyên tắc về Đảng lãnh đạo Nhà nước hiện nay và đề xuất mười giải pháp
nhằm nâng cao vai trò lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) hiện nay. Tuy không trực
tiếp nghiên cứu về tỉnh ủy lãnh đạo CQT nhưng công trình này có những luận giải
khoa học về việc phân định chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý xã
hội của Nhà nước.
- Đổi mới, hoàn thiện phương thức lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt
Nam, do Phạm Ngọc Quang chủ biên [95]. Cuốn sách dành một chương (chương 6)
bàn về vấn đề đổi mới PTLĐ của cấp ủy đảng đối với chính quyền, MTTQ, đoàn
thể cấp tỉnh. Tập thể tác giả đề xuất năm giải pháp đổi mới PTLĐ của cấp ủy đảng
đối với chính quyền, MTTQ, đoàn thể cấp tỉnh, trong đó có giải pháp xác định rõ
thẩm quyền của từng cấp ủy, từng vị trí trong cấp ủy nhằm thực hiện chức năng
lãnh đạo của Đảng đối với chính quyền, MTTQ, đoàn thể. Tuy nhiên, tập thể tác giả

công trình khoa học này chưa có điều kiện làm rõ nội dung, PTLĐ của tỉnh ủy đối
với CQT và chưa đề xuất những giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của tỉnh
ủy đối với CQT.
- Vị trí cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trong
điều kiện mới, do Đỗ Hoài Nam chủ biên [74]. Cuốn sách giới thiệu về đảng cầm
quyền trong HTCT ở một số nước tư bản chủ nghĩa và sự cầm quyền của Đảng
Cộng sản Trung Quốc trong điều kiện cải cách, mở cửa, xây dựng chủ nghĩa xã hội
mang đặc sắc Trung Quốc. Cuốn sách tập trung luận giải những vấn đề về lý luận
và thực tiễn về vị trí cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam
trong điều kiện kinh tế thị trường định hướng XHCN, xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân và hội nhập quốc tế. Trên cơ
sở đó, các tác giả đề xuất một số quan điểm, nội dung và giải pháp nâng cao vị trí
cầm quyền và vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam đến năm 2010 và tầm


7
nhìn đến năm 2020. Tập thể tác giả đề xuất giải pháp đổi mới PTLĐ của Đảng,
trong đó khâu mấu chốt, đột phá là đổi mới PTLĐ của Đảng đối với Nhà nước, song
chưa đề cập đến giải pháp đổi mới PTLĐ của cấp ủy địa phương đối với chính
quyền cùng cấp.
- Đổi mới quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội
trong hệ thống chính trị ở Việt Nam, do Lê Hữu Nghĩa, Hoàng Chí Bảo, Bùi Đình
Bôn đồng chủ biên [82]. Cuốn sách cung cấp cơ sở lý luận và thực tiễn đổi mới
quan hệ giữa Đảng, Nhà nước và các tổ chức CT - XH ở nước ta hiện nay. Về mối
quan hệ giữa Đảng và Nhà nước, công trình nghiên cứu này có những luận giải sắc
sảo, nhất là về nội dung và phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước. Các tác giả cho
rằng, nội dung lãnh đạo quan trọng hàng đầu của Đảng đối với Nhà nước là bảo
đảm cho Nhà nước ta thực sự là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, một Nhà nước
trong sạch, dân chủ và hiện đại. Đảng lãnh đạo nhưng không phải làm thay Nhà
nước, Nhà nước phải có thực quyền.

Từ định hướng đó, các tác giả xác định rõ nội dung Đảng lãnh đạo Nhà
nước: định ra đường lối, chủ trương, chính sách cho hoạt động của Nhà nước bằng
các nghị quyết; lãnh đạo về công tác tư tưởng, tổ chức, cán bộ đối với các cơ quan
nhà nước; lãnh đạo việc thực hiện các nghị quyết trong hệ thống các cơ quan nhà
nước, trước hết và chủ yếu là lãnh đạo việc cụ thể hóa nghị quyết của Đảng thành
các văn bản pháp luật của Nhà nước; lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát việc thực
hiện các nghị quyết của Đảng trong các cơ quan Nhà nước. Công trình đã tập trung
nghiên cứu về vấn đề đổi mới PTLĐ của Đảng đối với Nhà nước, song chưa đề cập
đến vấn đề đổi mới quan hệ giữa cấp ủy đảng địa phương với chính quyền cùng cấp.
- Đảng Cộng sản cầm quyền - nội dung và phương thức cầm quyền của
Đảng, do Nguyễn Văn Huyên chủ biên [63]. Công trình nghiên cứu này khẳng định
rõ vấn đề sống còn của Đảng, của chế độ ta là đổi mới phương thức cầm quyền của
Đảng để trong điều kiện một Đảng duy nhất cầm quyền mà không trở thành chuyên
quyền, độc đoán. Từ đó, các tác giả luận giải rõ yêu cầu đổi mới phương thức cầm
quyền của Đảng nhằm đáp ứng tính đặc thù của điều kiện một đảng duy nhất cầm
quyền. Trong công trình nghiên cứu này, các tác giả bước đầu quan tâm nghiên cứu


8
về sự lãnh đạo của cấp ủy đảng đối với chính quyền địa phương cùng cấp và đề xuất
năm giải pháp, bao gồm: (i) Nâng cao nhận thức, trách nhiệm của cấp ủy, tổ chức
đảng, cán bộ, đảng viên về những vấn đề chủ yếu liên quan trực tiếp đến sự lãnh
đạo của cấp ủy đảng đối với chính quyền địa phương; (ii) Kiện toàn cấp ủy đảng,
nâng cao trình độ mọi mặt và năng lực lãnh đạo của cấp ủy đối với chính quyền địa
phương; (iii) Tiếp tục đổi mới mạnh mẽ PTLĐ của cấp ủy đối với chính quyền địa
phương; (iv) Phát huy mạnh mẽ vai trò của MTTQ và các tổ chức CT - XH, các
phương tiện thông tin đại chúng địa phương cùng tham gia vào việc tăng cường,
nâng cao chất lượng lãnh đạo của cấp ủy đối với chính quyền địa phương; (v) Tăng
cường công tác kiểm tra, giám sát. Cuốn sách này chưa có điều kiện tập trung
nghiên cứu nội dung và PTLĐ của tỉnh ủy đối với CQT.

- Thể chế Đảng cầm quyền: Một số vấn đề lý luận và thực tiễn, do Đặng
Đình Tân, Đặng Minh Tuấn chủ biên [111]. Cuốn sách này tập trung luận giải về
vấn đề thể chế đảng cầm quyền, thể chế Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo Nhà
nước trong quá trình đổi mới ở Việt Nam. Các tác giả đề xuất sáu định hướng, sáu
giải pháp chung và một số giải pháp cụ thể nhằm tiếp tục đổi mới thể chế Đảng lãnh
đạo Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Công trình này tuy không trực tiếp nghiên
cứu về tỉnh ủy lãnh đạo CQT nhưng góp phần làm rõ hơn chức năng lãnh đạo của
Đảng đối với Nhà nước, cung cấp cách tiếp cận và giải quyết vấn đề Đảng lãnh đạo
từ góc độ của thể chế.
- Thẩm quyền và trách nhiệm của đảng cầm quyền và nhà nước trong việc
thực hiện quyền lực của nhân dân, do Lê Hữu Nghĩa, Bùi Đình Bôn chủ biên [83].
Cuốn sách trình bày cơ sở lý luận, thực trạng và giải pháp nâng cao thẩm quyền, trách
nhiệm của đảng cầm quyền và nhà nước trong việc thực hiện quyền lực của nhân dân.
Các tác giả trình bày rõ tình trạng chồng chéo, lẫn lộn chức năng trong các quy định
hiện hành về quyền lãnh đạo của Đảng và quyền quản lý, điều hành của Nhà nước
trong quá trình thực hiện quyền lực của nhân dân. Sự phân định giữa chức năng lãnh
đạo chính trị của Đảng và chức năng quản lý điều hành của Nhà nước không rõ ràng
dẫn đến tình trạng suy giảm vai trò lãnh đạo của tổ chức đảng và suy giảm hiệu lực,
hiệu quả quản lý của cơ quan nhà nước. Các tác giả chỉ rõ năm nguyên nhân sâu xa


9
và sáu nguyên nhân trực tiếp. Trong đó, các tác giả tập trung phân tích hai nguyên
nhân cơ bản: (i) Chưa xác định rõ, đúng đắn và chính xác vị trí, chức năng và nhiệm
vụ của Đảng trong thể chế Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân, do nhân dân,
vì nhân dân; (ii) Một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng
chính trị, đạo đức, lối sống nhưng không bị xử lý nghiêm minh.
Các tác giả chỉ rõ sự khác nhau giữa chức năng lãnh đạo của Đảng cầm
quyền với chức năng quản lý của Nhà nước. Chức năng lãnh đạo của Đảng thể hiện
với hai nội dung chủ yếu là định hướng và kiểm tra. Đảng định hướng sự phát triển

bằng cương lĩnh, quan điểm, đường lối, chủ trương, nguyên tắc do đại hội đảng và
các cơ quan lãnh đạo của Đảng định ra đồng thời Đảng kiểm tra, giám sát các hoạt
động của bộ máy nhà nước trong việc thực hiện chức năng, thẩm quyền, trách
nhiệm. Nhà nước có chức năng quản lý, điều hành xã hội theo pháp luật, theo định
hướng của đảng cầm quyền. Trên cơ sở phân biệt chức năng của Đảng cầm quyền
và chức năng của Nhà nước, các tác giả xác định tính chất, phạm vi thẩm quyền và
trách nhiệm của Đảng, Nhà nước trong một số lĩnh vực trọng yếu nhằm phân định
ranh giới thực hiện chức năng lãnh đạo của Đảng và chức năng quản lý, điều hành
xã hội của Nhà nước.
Nhìn chung, đây là một công trình khoa học nghiên cứu chuyên sâu cung cấp
những căn cứ lý luận quan trọng đồng thời định hướng cho những nghiên cứu mới
về mối quan hệ giữa tỉnh ủy và CQT, chức năng lãnh đạo của tỉnh ủy và chức năng
quản lý, điều hành của chính quyền, vấn đề thẩm quyền, trách nhiệm của tỉnh ủy và
thẩm quyền trách nhiệm của CQT.
1.1.2. Các đề tài khoa học
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng trên một số lĩnh vực trọng yếu
của đời sống xã hội, do Trần Đình Nghiêm làm Chủ nhiệm [86]. Đề tài tập trung
nghiên cứu vấn đề đổi mới PTLĐ của Đảng trên các lĩnh vực lập pháp, hành pháp,
tư pháp; đổi mới PTLĐ của các cấp ủy địa phương; đổi mới PTLĐ đối với các đoàn
thể CT - XH; đổi mới PTLĐ trên các lĩnh vực kinh tế, xã hội, tư tưởng, văn hóa, tổ
chức, cán bộ… Đề tài đề cập đến vấn đề đổi mới PTLĐ của Đảng đối với HĐND
cấp tỉnh, đối với UBND cấp tỉnh. Bước đầu đề tài xác định mối quan hệ công tác


10
của tỉnh ủy, thành ủy với HĐND cấp tỉnh, UBND cấp tỉnh. Trách nhiệm của ban
chấp hành (BCH) đảng bộ tỉnh là phải quán triệt các nghị quyết, chỉ thị của Trung
ương Đảng, của Nhà nước và nghị quyết của Đại hội đại biểu đảng bộ tỉnh. Thực
hiện chế độ sinh hoạt tập thể để đề ra phương hướng nhiệm vụ, chủ trương và các
biện pháp lớn của Đảng bộ, phù hợp với tình hình. Thông qua hệ thống tổ chức

đảng, chính quyền, đoàn thể của tỉnh và thông qua các ủy viên BCH để chỉ đạo thực
hiện. Đề tài xác định rõ những vấn đề phải đưa ra tập thể tỉnh ủy để thảo luận. Tuy
nhiên, đề tài chưa có điều kiện nghiên cứu về đổi mới PTLĐ của tỉnh ủy đối với
CQT, nhất là chưa bàn đến tăng cường sự lãnh đạo của tỉnh ủy đối với CQT.
- Những căn cứ lý luận cơ bản về sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, do Nguyễn Hữu Tri làm
Chủ nhiệm [148]. Liên quan đến vấn đề Đảng lãnh đạo Nhà nước, đề tài này góp
phần làm sáng tỏ nhiều nội dung quan trọng, chỉ rõ những căn cứ lý luận cơ bản về
nội dung, phương thức Đảng lãnh đạo Nhà nước pháp quyền XHCN của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân. Tuy nhiên, đề tài chưa nghiên cứu nội dung, PTLĐ của
tỉnh ủy đối với CQT.
- Phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong điều kiện xây
dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, do Phạm
Ngọc Quang làm Chủ nhiệm [94]. Đề tài chỉ ra những nhân tố quy định PTLĐ của
Đảng đối với Nhà nước, nhấn mạnh quan hệ giữa nội dung lãnh đạo và PTLĐ. Nội
dung lãnh đạo đòi hỏi phải có PTLĐ phù hợp để tác động đến đối tượng nhằm thực
hiện tốt nội dung đó. Khi nội dung lãnh đạo thay đổi, PTLĐ cũng phải thay đổi
theo. Bên cạnh đó, PTLĐ còn phụ thuộc vào những yếu tố chủ quan và khách quan
như: tổ chức bộ máy của Đảng và cơ chế vận hành, mối quan hệ, tác động qua lại
giữa các bộ phận trong tổ chức bộ máy của Đảng; tổ chức bộ máy của Nhà nước,
nguyên tắc phân công và phối hợp giữa các cơ quan quyền lực nhà nước; cơ chế tổ
chức bộ máy và mối quan hệ qua lại giữa tổ chức, bộ máy của Đảng với các tổ chức
CT - XH; trình độ của cán bộ Đảng; đạo đức và phong cách của những người lãnh
đạo chủ chốt của Đảng; bối cảnh KT - XH trong nước và thế giới; nhận thức chính
trị của quần chúng; trình độ phát triển của khoa học - công nghệ và khả năng sử


11
dụng chúng để khoa học hóa, hiện đại hóa PTLĐ. Từ đó, các tác giả đi đến nhận
định: PTLĐ của Đảng đối với Nhà nước tùy thuộc: đặc tính khách quan và chức

năng cơ bản của Nhà nước; tính chất và trình độ lãnh đạo của Đảng; mục tiêu chính
trị cần đạt được trong việc tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước.
Các tác giả công trình khoa học này chủ yếu nghiên cứu vấn đề đổi mới
PTLĐ của Đảng đối với Nhà nước cấp Trung ương, chưa có điều kiện nghiên cứu
về đổi mới PTLĐ của cấp ủy địa phương đối với chính quyền địa phương, đặc biệt
là chưa đề cập đến vấn đề tỉnh ủy lãnh đạo CQT.
- Tiếp tục đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước trong
tình hình hiện nay, do Trần Lưu Hải làm Chủ nhiệm [48]. Công trình này làm rõ
một số vấn đề lý luận chung về PTLĐ của Đảng thông qua các khái niệm đảng lãnh
đạo, đảng cầm quyền, PTLĐ của Đảng… Trên cơ sở đó, đề tài làm rõ thực trạng
PTLĐ của Đảng với Nhà nước thời gian qua, cụ thể đối với Quốc hội, Chính phủ,
Tòa án nhân dân, Viện kiểm sát nhân dân, công tác cán bộ, công tác kiểm tra, giám
sát, chính quyền địa phương. Đề tài cũng luận giải sáu nhân tố khách quan tác động
tới PTLĐ của Đảng, bốn quan điểm chỉ đạo, nhất là đưa ra được bốn nhóm giải
pháp cơ bản và năm biện pháp cụ thể có tính khả thi cao nhằm đổi mới PTLĐ của
Đảng đối với Nhà nước trong giai đoạn hiện nay. Tuy nhiên, đề tài này chưa quan
tâm nghiên cứu sâu về PTLĐ của tỉnh ủy đối với CQT.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước, Mặt trận Tổ
quốc và các tổ chức chính trị - xã hội trong điều kiện mới, do Trần Khắc Việt làm
Chủ nhiệm [164]. Công trình này đã nghiên cứu thực trạng đổi mới PTLĐ của các
cấp ủy đảng đối với HĐND, UBND địa phương trong gần 30 năm đổi mới, khái
quát năm thành tựu và năm hạn chế trong đổi mới PTLĐ của các cấp ủy đảng đối
với HĐND địa phương. Các thành tựu như: các cấp ủy xây dựng chương trình làm
việc toàn khóa, xây dựng mối quan hệ công tác và quy chế làm việc giữa cấp ủy với
HĐND đồng thời thực hiện chế độ kiểm tra của cấp ủy đối với HĐND; các cấp ủy
có nhiều đổi mới trong lãnh đạo HĐND theo hướng dân chủ hơn, hiệu quả hơn; các
cấp ủy đã thường xuyên và quan tâm lãnh đạo, cho các ý kiến chỉ đạo cụ thể để
HĐND ra được các quyết định đối với những vấn đề quan trọng của địa phương;



12
cấp ủy lãnh đạo HĐND thực hiện có hiệu quả chức năng giám sát; cấp ủy giới thiệu
Bí thư hoặc Phó Bí thư cấp ủy ứng cử giữ chức Chủ tịch HĐND, phát huy vai trò
của Đảng đoàn HĐND cấp tỉnh trong lãnh đạo trực tiếp HĐND. Bên cạnh đó, việc
đổi mới PTLĐ của cấp ủy đối với HĐND có những hạn chế: tình trạng cấp ủy bao
biện, làm thay HĐND cùng cấp và tình trạng HĐND thụ động vẫn còn diễn ra khá
phổ biến; ở không ít địa phương, phần lớn các nghị quyết, chủ trương, biện pháp
của HĐND khi thể chế hóa, cụ thể hóa nghị quyết, chương trình của cấp ủy, tình
trạng sao chép, lặp lại nghị quyết của cấp ủy vẫn diễn ra khá đậm nét và phổ biến;
cấp ủy lãnh đạo HĐND thực hiện chức năng giám sát vẫn là khâu yếu, dẫn đến tình
trạng nghị quyết chậm đi vào cuộc sống, hoặc dừng lại trên giấy; việc đôn đốc,
kiểm tra thực hiện các kiến nghị, đề xuất, các kết luận sau giám sát của HĐND còn
thiếu quyết liệt, thiếu liên tục, thiếu sâu sát; chưa thống nhất mô hình Bí thư hoặc
Phó Bí thư cấp ủy đồng thời là Chủ tịch HĐND.
Về đổi mới PTLĐ của các cấp ủy đảng đối với UBND địa phương, công
trình này khái quát năm thành tựu và năm hạn chế. Các thành tựu bao gồm: các cấp
ủy đã xác lập cơ chế lãnh đạo đối với UBND; tập trung lãnh đạo xây dựng và phát
huy vai trò bộ máy các cơ quan chuyên môn thuộc UBND; ban hành các văn bản
lãnh đạo, chỉ đạo, hướng dẫn phù hợp; tăng cường chế độ giao ban giữa thường trực
cấp ủy, thường trực UBND và thường trực Ủy ban MTTQ Việt Nam cùng cấp; từng
bước cải tiến lề lối làm việc, phong cách công tác của cấp ủy. Bên cạnh đó, việc đổi
mới PTLĐ của cấp ủy đối với UBND vẫn có các hạn chế như: tồn tại sự “song
trùng” của hai cơ quan quyền lực (cấp ủy, chính quyền) cùng giải quyết các nội
dung của một số mục tiêu; chưa xác định rõ phạm vi chức trách, thẩm quyền của
cấp ủy địa phương trong quan hệ với UBND; nhiều cấp ủy bao biện, “lấn sân”
UBND, xem UBND chỉ đơn thuần là công cụ hợp thức hóa các quyết định của cấp
ủy; còn tình trạng cấp ủy gần như bỏ mất vai trò lãnh đạo, định hướng, dẫn dắt của
mình; chưa hình thành cơ chế huy động MTTQ và các tổ chức CT - XH phối hợp
với UBND trong triển khai nhiệm vụ và giám sát hoạt động của UBND.
Tuy đề tài đề xuất những giải pháp tiếp tục đổi mới PTLĐ của cấp ủy đối với

HĐND, UBND địa phương nhưng chưa bàn riêng về cấp tỉnh.


13
1.2.3. Các luận án tiến sĩ
- Đổi mới sự lãnh đạo của tỉnh ủy đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh trong
điều kiện nước ta hiện nay của Nguyễn Văn Biết [10]. Tác giả nghiên cứu về đổi
mới sự lãnh đạo của tỉnh ủy đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh (HĐND tỉnh, UBND
tỉnh, Tòa án nhân dân tỉnh, Viện Kiểm sát nhân dân tỉnh) trong giai đoạn hiện nay.
Phạm vi về không gian của luận án là cả nước, tác giả tập trung dẫn chứng tư liệu
thực tiễn từ các tỉnh: Đồng Tháp, Kiên Giang, Bạc Liêu, Cần Thơ, Vĩnh Long, Long
An, Tiền Giang, Bình Dương, Nghệ An và thành phố Hải Phòng.
Tác giả làm rõ vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của tỉnh ủy, Ban thường
vụ (BTV) Tỉnh ủy, Thường trực Tỉnh ủy, Bí thư Tỉnh ủy. Xác định ba nội dung tỉnh
ủy lãnh đạo cơ quan nhà nước cấp tỉnh: (i) Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị;
(ii) Lãnh đạo công tác tổ chức và cán bộ; (iii) Lãnh đạo công tác kiểm tra, giám sát.
PTLĐ của tỉnh ủy đối với các cơ quan nhà nước cấp tỉnh là hình thức, phương pháp
thực hiện các nội dung lãnh đạo, đó là: xây dựng các chủ trương, công tác tổ chức
và cán bộ, hoạt động kiểm tra, giám sát. Tỉnh ủy còn thực hiện các hình thức, biện
pháp: sơ kết, tổng kết công tác; chế độ đi cơ sở; chế độ hội nghị, hội họp và chế độ
tự phê bình, phê bình, chất vấn.
Tác giả đánh giá thực trạng sự lãnh đạo của tỉnh ủy đối với cơ quan nhà nước
cấp tỉnh, chỉ ra những vấn đề bức xúc như: quyền lực của các cơ quan nhà nước có
nguy cơ bị vô hiệu; tổ chức đảng trong bộ máy nhà nước ít tác dụng; trật tự nền
hành chính bị suy yếu; có môi trường nảy sinh những vụ việc sai phạm pháp luật; tổ
chức bộ máy trong HTCT khó thích ứng với tiến trình hội nhập quốc tế. Tác giả đề
xuất phương hướng và bốn nhóm giải pháp nhằm đổi mới sự lãnh đạo của tỉnh ủy
đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh trong điều kiện nước ta hiện nay.
- Chất lượng hoạt động của Hội đồng nhân dân cấp tỉnh theo yêu cầu của
Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Việt Nam của Nguyễn Hà Nam [73]. Trên

cơ sở làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn về chất lượng HĐND cấp tỉnh từ
năm 1999 đến nay, tác giả đề xuất nhóm giải pháp bảo đảm bên trong HĐND cấp
tỉnh và nhóm giải pháp bảo đảm bên ngoài HĐND cấp tỉnh nhằm bảo đảm chất
lượng hoạt động của HĐND cấp tỉnh theo yêu cầu của Nhà nước pháp quyền


14
XHCN Việt Nam. Trong đó, tác giả đề xuất giải pháp đổi mới PTLĐ của cấp ủy
đảng đối với HĐND tỉnh: (i) Đổi mới công tác tổ chức, cán bộ; (ii) Nhận thức đúng
về vị trí, vai trò của HĐND cấp tỉnh; (iii) Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với
tổ chức kỳ họp và hoạt động giám sát của HĐND; (iv) Nâng cao chất lượng nghị
quyết của cấp ủy đảng lãnh đạo HĐND; (v) Tăng cường công tác kiểm tra, giám sát
đối với hoạt động của HĐND và tăng cường công tác phổ biến pháp luật về vị trí,
vai trò của HĐND cho cán bộ, đảng viên.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của huyện ủy đối với chính quyền huyện
ở đồng bằng sông Hồng giai đoạn hiện nay của Trần Quang Cảnh [13]. Luận án
làm rõ những vấn đề lý luận và thực tiễn đổi mới PTLĐ của huyện ủy đối với chính
quyền huyện; thực trạng, nguyên nhân, kinh nghiệm và những vấn đề đặt ra về đổi
mới PTLĐ của huyện ủy đối với chính quyền huyện. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất
phương hướng và những giải pháp chủ yếu tiếp tục đổi mới PTLĐ của huyện ủy đối
với chính quyền huyện ở ĐBSH đến năm 2020, trong đó, nhấn mạnh đổi mới, kiện
toàn tổ chức, bộ máy và đội ngũ cán bộ chính quyền huyện, đẩy mạnh cải cách hành
chính; nâng cao chất lượng các ban tham mưu của huyện ủy, có chính sách thu hút
nhân tài và tổ chức thi tuyển công khai để chọn cán bộ có đức, có tài về làm việc
trong các ban tham mưu của huyện ủy.
- Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo cải cách hành chính nhà
nước trong giai đoạn hiện nay của Nguyễn Hữu Nhân [78]. Tác giả trình bày
tường minh khái niệm, chín nội dung và bảy phương thức Thành ủy thành phố Hồ
Chí Minh lãnh đạo cải cách hành chính nhà nước (CCHCNN). Tác giả đánh giá
thực trạng CCHCNN ở thành phố Hồ Chí Minh và thực trạng Thành ủy thành phố

Hồ Chí Minh lãnh đạo CCHCNN. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất phương hướng và
sáu giải pháp chủ yếu tăng cường sự lãnh đạo của Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh
đối với CCHCNN. Trong các giải pháp mà tác giả đề xuất, có nhiều giải pháp có giá
trị tham khảo, ví dụ như: giải pháp về nâng cao chất lượng lãnh đạo của Thành ủy;
củng cố kiện toàn tổ chức, bộ máy, nâng cao chất lượng cán bộ công chức, viên
chức các cơ quan chính quyền của thành phố; phát huy vai trò của nhân dân trong
CCHCNN; tăng cường công tác kiểm tra, giám sát…


15
Lãnh đạo CCHCNN là một nội dung quan trọng của tỉnh ủy, thành ủy trong
quá trình lãnh đạo chính quyền. Do đó, những kết quả đạt được, nhất là những giải
pháp mà công trình nghiên cứu này đề xuất có giá trị tham khảo rất tốt đối với quá
trình nghiên cứu vấn đề tỉnh ủy lãnh đạo CQT giai đoạn hiện nay.
- Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo phòng, chống tham nhũng
trong giai đoạn hiện nay của Vũ Thị Nghĩa [85]. Tác giả phân tích thực trạng
Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh lãnh đạo công tác phòng, chống tham nhũng, rút
ra sáu kinh nghiệm và đề xuất bảy giải pháp cơ bản nhằm tăng cường sự lãnh đạo
của Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh đối với công tác phòng, chống tham nhũng.
Luận án này nghiên cứu về sự lãnh đạo của Thành ủy thành phố Hồ Chí Minh về
công tác phòng, chống tham nhũng - nội dung rất quan trọng của lãnh đạo xây dựng
chính quyền các cấp trong sạch, vững mạnh, hiệu lực, hiệu quả. Do đó, những kết
quả đạt được của công trình này có giá trị tham khảo tốt đối với quá trình nghiên
cứu về sự lãnh đạo của tỉnh ủy đối với CQT giai đoạn hiện nay.
1.1.4. Các bài báo khoa học
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước từ thực tiễn ở
Tiền Giang của Nguyễn Xuân Tế và Nguyễn Ngọc Chung [112]. Bài viết đề cập
đến vấn đề đổi mới PTLĐ của Tỉnh ủy Tiền Giang đối với UBND tỉnh. Trên cơ sở
khảo sát thực trạng, các tác giả nêu một số kinh nghiệm đổi mới PTLĐ của Tỉnh ủy
Tiền Giang đối với UBND: xây dựng và thông qua Quy chế làm việc của tỉnh ủy ở

từng nhiệm kỳ; bảo đảm thực hiện cơ chế “Đảng lãnh đạo, Nhà nước quản lý, nhân
dân làm chủ”; không bao biện làm thay đồng thời không buông lỏng sự lãnh đạo
của Đảng. Từ đó, các tác giả đề xuất ba giải pháp tiếp tục đổi mới PTLĐ của Tỉnh
ủy Tiền Giang đối với UBND tỉnh.
- Đổi mới sự lãnh đạo của tỉnh ủy đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh của
Nguyễn Văn Biết [9]. Tác giả chỉ rõ thực trạng các cấp ủy thường có xu hướng can
thiệp sâu vào công việc quản lý nhà nước, làm cho bộ máy nhà nước kém năng
động và khó thích ứng điều kiện mới. Từ đó, chỉ rõ tính cấp thiết phải đổi mới
PTLĐ của tỉnh ủy đối với cơ quan nhà nước cấp tỉnh, cụ thể là: đổi mới việc ra nghị
quyết; đổi mới công tác cán bộ, phát huy vai trò của người đứng đầu và đổi mới,
kiện toàn các cơ quan tham mưu của tỉnh ủy.


16
- Quá trình phát triển nhận thức về phương thức lãnh đạo của Đảng đối
với Nhà nước trong thời kỳ đổi mới của Trần Khắc Việt [163]. Tác giả trình bày
khái quát quá trình phát triển nhận thức của Đảng về đổi mới PTLĐ của Đảng đối
với Nhà nước trong thời kỳ đổi mới. Thẩm quyền và trách nhiệm của các cơ quan
lãnh đạo của Đảng, nhất là cấp Trung ương, đối với hoạt động của các cơ quan nhà
nước, định hướng PTLĐ của các cấp ủy đảng đối với chính quyền địa phương ngày
càng cụ thể. Bài viết chưa có điều kiện đề cập đến vấn đề phát triển nhận thức của
Đảng về PTLĐ của các cấp ủy địa phương đối với chính quyền cùng cấp.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo Đảng lãnh đạo Nhà nước đáp ứng yêu
cầu xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta của Nguyễn Hữu
Đổng [47]. Tác giả làm rõ một số bất cập của mô hình Đảng lãnh đạo Nhà nước:
khó phân định chức năng lãnh đạo và chức năng cầm quyền của Đảng trong điều
kiện chỉ có một đảng lãnh đạo và cầm quyền; cơ chế song trùng- Đảng và Nhà nước
cùng thực hiện vai trò cầm quyền; dẫn đến tha hóa quyền lực trong Đảng… Trên cơ
sở đó, tác giả đề xuất một số giải pháp để thực hiện mô hình Đảng cầm quyền ở
nước ta: đổi mới mô hình ủy ban kiểm tra của Đảng do cấp ủy bầu thành ủy ban

kiểm tra, giám sát của Đảng do Đại hội bầu nhằm tăng quyền lực cho ủy ban kiểm
tra, giám sát của Đảng, làm cho quyền lực của Đảng có sự thống nhất, có sự phân
công, phối hợp và kiểm soát giữa hai cơ quan là BCH và ủy ban kiểm tra, giám sát;
nghiên cứu xây dựng Luật hoạt động của Đảng. Bài viết gợi mở những vấn đề liên
quan đến tổ chức bộ máy của cấp ủy đảng, chính quyền địa phương.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo của Đảng đối với Nhà nước của Nguyễn
Danh Châu [14]. Tác giả đánh giá về thành tựu và hạn chế đổi mới PTLĐ của Đảng
đối với Nhà nước qua 30 năm đổi. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất bốn nhóm giải
pháp đổi mới PTLĐ của Đảng đối với Nhà nước: thực hiện dân chủ hóa trong quá
trình đổi mới PTLĐ của Đảng đối với Nhà nước; thể chế hóa mối quan hệ giữa
Đảng và Nhà nước; đổi mới về phong cách và lề lối làm việc của cán bộ, đảng viên;
nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý các cấp, nhất là ở cấp chiến
lược. Tuy nhiên, bài viết này không trực tiếp đề cập đến đổi mới PTLĐ của Đảng
đối với chính quyền địa phương.


17
Tóm lại, các công trình nghiên cứu trong nước nêu trên chủ yếu đề cập đến
vai trò lãnh đạo của Đảng, Đảng lãnh đạo xây dựng Nhà nước, PTLĐ của Đảng đối
với Nhà nước, đổi mới PTLĐ của Đảng đối với Nhà nước ở cấp Trung ương, đổi
mới PTLĐ của Đảng đối với từng cơ quan trong bộ máy nhà nước (Quốc hội, Chính
phủ, Viện Kiểm sát nhân dân, Tòa án nhân dân)… Cho đến nay, chưa có công trình
nào nghiên cứu hệ thống, chuyên sâu về các tỉnh ủy ở vùng ĐBSH lãnh đạo CQT
giai đoạn hiện nay.
1.2. CÁC CÔNG TRÌNH NGHIÊN CỨU CỦA NƯỚC NGOÀI

1.2.1. Các công trình nghiên cứu của Trung Quốc
1.2.1.1. Sách tham khảo
- Kiên trì và hoàn thiện sự lãnh đạo của Đảng của Tô Tu Nghệ, Lý Luyện
Chung [87]. Cuốn sách đề cập tới những vấn đề nhằm hoàn thiện sự lãnh đạo của

Đảng Cộng sản Trung Quốc như: tăng cường xây dựng tư tưởng, chính trị, kiện toàn
chế độ tập trung dân chủ; kiện toàn tổ chức cơ sở đảng; xây dựng đội ngũ cán bộ và
về vấn đề quản lý chỉnh đốn tác phong Đảng.
- Bàn về công tác xây dựng năng lực cầm quyền của Đảng của Lưu Chấn
Hoa [50]. Xây dựng năng lực cầm quyền của Đảng là một chủ đề mang tính trường
tồn, là một công trình có tính hệ thống (nội dung cầm quyền, thể chế cầm quyền,
chủ thể cầm quyền). Nâng cao ý thức lãnh đạo của Đảng đồng thời củng cố vững
chắc nền tảng cầm quyền, bao gồm: quần chúng, chính trị, tổ chức, vật chất, lý luận,
giai cấp. Trong khi bàn luận về phương thức cầm quyền của Đảng, tác giả đề cập
đến việc chuẩn hóa quan hệ giữa Đảng với hệ thống chính quyền. Cần vạch rõ chức
năng, nhiệm vụ của các cấp ủy đảng với đại hội đại biểu nhân dân, UBND, chính
hiệp (mặt trận thống nhất) và các tổ chức quần chúng; các cấp ủy đảng phải thông
qua tổ chức đảng và đảng viên trong các cơ quan nhà nước và đoàn thể quần chúng
để thực hiện vai trò hạt nhân lãnh đạo; tiếp tục chuẩn hóa về mặt chế độ, cơ chế đối
với mối quan hệ giữa cấp ủy đảng với đại hội đại biểu nhân dân, UBND, chính hiệp
và các đoàn thể quần chúng. Tác giả nêu yêu cầu Đảng phải nâng cao nhận thức về
quy luật cầm quyền của Đảng Cộng sản đồng thời nhấn mạnh Đảng phải cầm quyền
một cách khoa học, dân chủ và theo hiến pháp, pháp luật.


18
- Cầm quyền khoa học của Hoàng Văn Hổ [61]. Bàn về vấn đề cầm quyền
khoa học của Đảng Cộng sản Trung Quốc, tác giả làm rõ quan điểm cầm quyền, ý
nghĩa quan trọng, bản chất của cầm quyền khoa học, mối quan hệ tương hỗ giữa cầm
quyền khoa học, cầm quyền dân chủ, cầm quyền theo pháp luật, kinh nghiệm vận
dụng cầm quyền khoa học... Các yếu tố cơ bản tạo nên năng lực cầm quyền khoa học
gồm: năng lực học tập đổi mới, năng lực điều tiết lợi ích, năng lực tích hợp tài
nguyên, năng lực cầm quyền theo pháp luật, năng lực tự thanh lọc. Phương pháp nâng
cao năng lực cầm quyền khoa học là tăng cường trang bị lý luận, hoàn thiện cơ chế
tuyển chọn, bổ nhiệm cán bộ, tăng cường đào tạo cán bộ.

- Nghiên cứu quy luật cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc của
Lưu Tôn Hồng [62]. Công trình này khái quát những quy luật cầm quyền của Đảng
Cộng sản Trung Quốc như: môi trường chính trị, cơ sở giai cấp, tính tiệm tiến, tính
hợp pháp, lý luận khoa học, cương lĩnh đúng đắn, năng lực cầm quyền, quan hệ
Đảng - quần chúng…
1.2.1.2. Hội thảo khoa học
- Tăng cường xây dựng Đảng ủy địa phương, phát huy đầy đủ vai trò hạt
nhân lãnh đạo của Triệu Gia Kỳ [75]. Tác giả đề cập đến các PTLĐ của đảng ủy
địa phương, phân tích và nêu một số kinh nghiệm xây dựng Thành ủy Bắc Kinh.
Nhiệm vụ quan trọng hàng đầu, thiết thực của đảng ủy địa phương là thúc đẩy KT XH địa phương phát triển toàn diện, hài hòa và bền vững. Đảng ủy địa phương coi
phát triển là chức trách hàng đầu; tối ưu hóa môi trường phát triển, đẩy mạnh sáng
tạo về thể chế; kiên trì giải quyết tốt mối quan hệ giữa cải cách, phát triển và ổn
định. Tác giả nêu yêu cầu đảng ủy địa phương không ngừng nâng cao trình độ cầm
quyền và chỉ rõ phải quán triệt thực hiện nguyên tắc tập trung dân chủ, kiện toàn và
hoàn thiện hơn nữa cơ chế nghị sự và ra quyết sách của đảng ủy địa phương; thích
ứng với tình hình mới, đón đầu thách thức mới, ra sức tăng cường xây dựng ban
lãnh đạo và đội ngũ cán bộ; đi sâu vào quần chúng, không ngừng tăng cường việc
xây dựng tác phong công tác.
- Không ngừng nâng cao trình độ lãnh đạo và trình độ cầm quyền, tăng cường
năng lực chống tha hóa, phòng biến chất và chống rủi ro của Hạ Quốc Cường [75].


19
Bài viết tập trung bàn về PTLĐ, phương thức cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung
Quốc. Tác giả nhấn mạnh tăng cường và cải tiến toàn diện việc xây dựng tác phong của
Đảng, nhất là xây dựng sự liêm chính và đấu tranh chống tham nhũng. Bên cạnh đó, tác
giả làm rõ nội dung tăng cường xây dựng chế độ, kiên trì đẩy mạnh cải cách chế độ
trong Đảng nhằm thúc đẩy và bảo đảm cho công tác xây dựng Đảng.
- Cầm quyền mang tính khoa học và dân chủ, cầm quyền theo pháp luật yêu cầu thời đại về tính hợp pháp của đảng cầm quyền của Dương Tiểu Cường,
Tào Tuyết Phong [75]. Các tác giả đề cập đến nội dung, tính chất của phương thức

cầm quyền của Đảng Cộng sản Trung Quốc trong điều kiện mới, không ngừng đổi
mới PTLĐ, phương thức cầm quyền theo hướng phù hợp với những yêu cầu của
thời đại, cầm quyền vừa mang tính khoa học vừa bảo đảm dân chủ và tuân theo quy
định của pháp luật.
1.1.2. Các công trình nghiên cứu của Lào
- Đổi mới hệ thống chính trị cấp tỉnh ở nước Cộng hòa Dân chủ nhân dân Lào
trong giai đoạn hiện nay, luận án tiến sĩ Chính trị học của Sổm Lít Pước Kẹo [66].
Liên quan đến đề tài luận án, tác giả tập trung làm rõ vị trí và thực trạng của HTCT,
nêu các quan điểm cơ bản, phương hướng và giải pháp đổi mới HTCT cấp tỉnh
(trong đó CQT là một thành tố quan trọng của HTCT tỉnh) ở Cộng hòa Dân chủ
Nhân dân Lào trong giai đoạn hiện nay. Trong hệ thống giải pháp, tác giả nhấn
mạnh việc xác định mối quan hệ giữa các nhân tố cấu thành HTCT cấp tỉnh ở Lào.
- Đổi mới phương thức lãnh đạo nhà nước ở nước Cộng hòa Dân chủ
nhân dân Lào hiện nay, luận án tiến sĩ chuyên ngành Chính trị học của Xổm
Nức Xổm Vi Chít [167]. Tác giả trình bày khái quát cơ sở lý luận về đổi mới
PTLĐ của Đảng đối với Nhà nước, phân tích thực trạng đổi mới phương thức
Đảng lãnh đạo Nhà nước ở Lào. Trên cơ sở đó, tác giả đề xuất các giải pháp đổi
mới PTLĐ đối với Nhà nước góp phần đổi mới chính trị nói chung và đổi mới sự
lãnh đạo của Đảng Nhân dân cách mạng Lào nói riêng.
1.1.3. Các công trình nghiên cứu của một số nước khác
- Legitimacy and politics - A contribution to the study of political right and
political responsibility (Tính chính đáng chính trị - Đóng góp cho sự nghiên cứu về


20
tính đúng đắn chính trị và trách nhiệm chính trị) của Jean-Marc Coicaud [178]. Tác
giả đã nêu định nghĩa tính chính đáng chính trị, chỉ rõ những đặc trưng của nó, trình
bày sự tranh luận chung quanh tính hợp pháp chính trị, mối quan hệ giữa hiện thực
chính trị và tính hợp pháp, lý thuyết hợp pháp và khoa học chính trị, tính hiện đại, hợp
lý của khoa học xã hội và tính hợp pháp, kinh nghiệm của cộng đồng về tính chính

đáng chính trị… Tác giả làm sáng tỏ về mối quan hệ giữa quyền chính trị và trách
nhiệm chính trị. Trong xã hội dân chủ, tương ứng với quyền là trách nhiệm của nhà
lãnh đạo, quyền càng lớn thì trách nhiệm càng cao, muốn được hưởng tính hợp
pháp, chính đáng thì phải thực hiện tốt trách nhiệm cá nhân.
- Building political parties: reforming legal regulations and internal rules
(Xây dựng các đảng chính trị: cải cách quy định pháp luật và điều lệ nội bộ) của
Pippa Norris [172]. Báo cáo này cung cấp một cái nhìn tổng quan và so sánh vai trò
của các đảng phái chính trị trong việc quản trị và dân chủ hóa. Tác giả trình bày rõ
các chức năng thiết yếu của Đảng trong một nền dân chủ và tập trung phân tích về
khung pháp lý điều chỉnh các giai đoạn của quá trình đề cử, tranh cử và bầu cử. Tác
giả đề xuất các biện pháp xây dựng đảng chính trị: thúc đẩy dân chủ trong đảng
chính trị, tăng cường dân chủ trong nội bộ đảng, xây dựng tổ chức đảng và đội ngũ
đảng viên, đưa phụ nữ và dân tộc thiểu số vào các đảng phái chính trị.
- Political parties and democracy in theoretical and practical perpectives Implementing intra-party democracy (Các đảng chính trị và dân chủ trong lý thuyết
và triển vọng thực tế: Thực hiện dân chủ nội bộ đảng) của Susan Scarrow [176]. Tác
giả trình bày khá sâu sắc về vấn đề dân chủ trong nội bộ đảng chính trị. Vấn đề chủ
chốt của tổ chức đảng chính trị là triển khai thực hiện dân chủ nội bộ đảng, lựa chọn
các ứng cử viên, lựa chọn đội ngũ lãnh đạo, lựa chọn các chính sách. Tác giả nhấn
mạnh vai trò của đảng viên, coi đây là yếu tố cần thiết để thực hành dân chủ nội bộ
đảng. Báo cáo chỉ rõ, các đảng chính trị áp dụng các phương pháp khác nhau để xây
dựng nội bộ tổ chức và không ngừng thử nghiệm với cấu trúc mới và phương thức
mới nhằm đối phó với các áp lực bên trong và bên ngoài. Trên cơ sở làm rõ tác
động của việc thực hiện dân chủ nội bộ đảng chính trị, tác giả khẳng định thực hiện


×