Tải bản đầy đủ (.pdf) (95 trang)

Phát triển dịch vụ tài chính Hà Nội đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (924.33 KB, 95 trang )

2BBỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
4BTRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG





NGUYỄN THỊ MINH HẰNG





0BPHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TÀI CHÍNH HÀ NỘI ĐÁP ỨNG
YÊU CẦU HỘI NHẬP QUỐC TẾ


Chuyên ngành: Kinh tế thế giới và Quan hệ Kinh tế Quốc tế




LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ



NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC:
HOÀNG VIỆT TRUNG






HÀ NỘI - 2007
3BBỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO
5BTRƯỜNG ĐẠI HỌC NGOẠI THƯƠNG




NGUYỄN THỊ MINH HẰNG





1BPHÁT TRIỂN DỊCH VỤ TÀI CHÍNH HÀ NỘI ĐÁP ỨNG
YÊU CẦU HỘI NHẬP QUỐC TẾ






LUẬN VĂN THẠC SỸ KINH TẾ











HÀ NỘI - 2007
1

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài:
Lịch sử gần 1000 năm tuổi và bề dày truyền thống nghìn năm văn hiến
đã tạo điều kiện cho Thủ đô Hà Nội có nhiều thuận lợi trong quá trình phát
triển và cũng giao phó cho Hà Nội nhiều sứ mệnh quan trọng. Nghị quyết
15/NQ – TW ngày 15/12/2000 của Bộ Chính trị về Phương hướng nhiệm vụ
phát triển thủ đô Hà Nội trong giai đoạn 2001 -2010 đã khẳng định: “ Thủ đô
Hà Nội là trái tim của cả nước, đầu não chính trị – hành chính quốc gia, trung
tâm lớn về văn hoá, khoa học, giáo dục, kinh tế và giao dịch quốc tế ”; “Xây
dựng Hà Nội thành trung tâm thị trường hàng hoá bán buôn, xuất nhập khẩu,
trung tâm tài chính – ngân hàng hàng đầu ở khu vực phía Bắc và vai trò quan
trọng của cả nước”.
Để xứng đáng với vai trò và vị trí của mình, thủ đô Hà Nội đang tích cực
triển khai thực hiện nhiều nhiệm vụ chiến lược về phát triển kinh tế - văn hoá
- xã hội. Trong đó, việc phát triển thị trường dịch vụ tài chính Hà Nội ngày
một lớn mạnh ở khu vực phía Bắc và giữ vị trí hàng đầu trong cả nước vừa là
nhiệm vụ trọng tâm vừa là yêu cầu bức thiết trong tiến trình phát triển kinh tế
– xã hội Thủ đô. Để đạt được mục tiêu trên, Hà Nội cần có những giải pháp
đồng bộ, trong đó có nhóm giải pháp phát triển dịch vụ tài chính – ngân hàng,
hơn nữa, không chỉ trong phát triển kinh tế – xã hội Thủ đô, mà còn cho cả
nước, nhất là vào thời điểm hiện nay khi Việt Nam đã là thành viên thứ 150
của Tổ chức thương mại thế giới WTO. Do đó, việc đánh giá thực trạng hoạt
động dịch vụ tài chính của thủ đô Hà Nội trong những năm qua nhằm tìm ra

những thuận lợi cũng như thách thức, khó khăn, trên cơ sở đó đề xuất các giải
pháp nhằm phát triển dịch vụ tài chính Hà Nội đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh
tế quốc tế là hết sức cần thiết.



2
2. Tình hình nghiên cứu:
Trong những năm gần đây, đã có nhiều đề tài, nhiều công trình khoa học
tập trung nghiên cứu thị trường dịch vụ tài chính. Ví dụ: Đề tài khoa học cấp
Bộ “Dịch vụ Bảo hiểm và ngân hàng của Việt nam. Những vấn đề đặt ra trong
quá trình đàm phán và thực hiện các cam kết với WTO” do TS. Nguyễn Thị
Quy làm chủ nhiệm đề tài, đề tài “Phát triển các dịch vụ tài chính theo hướng
hội nhập và các giải pháp đẩy mạnh xuất nhập khẩu dịch vụ tài chính của Việt
Nam” do Vụ trưởng Vụ Pháp chế Bộ Thương Mại Trương Quang Hoài Nam
làm chủ nhiệm, luận văn thạc sỹ: “Những giải pháp nhằm xây dựng thị trường
DVTC ở Việt nam đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế” của Vũ Thị
Xuân Thơ - CH8 ĐHNT.
Như vậy, hiện nay đã có một số công trình nghiên cứu về thị trường dịch
vụ tài chính ở khía cạnh này hay khía cạnh khác nhưng chưa có một công
trình nào nghiên cứu sâu về sự phát triển của dịch vụ tài chính Hà Nội đáp
ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
3. Mục đích nghiên cứu:
Đánh giá thực trạng hoạt động, vai trò, thành tựu cũng như hạn chế của
dịch vụ tài chính Hà Nội trong những năm gần đây; phân tích những cơ hội và
thách thức, khó khăn trong quá trình hội nhập quốc tế, thực hiện những cam
kết, thỏa thuận về dịch vụ tài chính Hà Nội để từ đó đề ra những giải pháp,
kiến nghị nhằm phát triển loại hình dịch vụ này.
4. Nhiệm vụ nghiên cứu:
- Làm rõ cơ sở lý luận về dịch vụ tài chính và những cam kết, thỏa thuận

của Việt Nam về lĩnh vực dịch vụ tài chính trong quá trình phát triển và hội
nhập quốc tế ở Việt Nam.



3
- Minh chứng vai trò và đánh giá thực trạng về dịch vụ tài chính Hà Nội
trong những năm gần đây, những thành tựu đạt được cũng như những tồn tại,
hạn chế.
- Phân tích những cơ hội và thách thức, đặt ra yêu cầu, định hướng, mục
tiêu đối với dịch vụ tài chính Hà Nội khi Việt Nam gia nhập WTO. Từ đó, đề
xuất những giải pháp nhằm phát triển dịch vụ tài chính Hà Nội đáp ứng yêu
cầu hội nhập kinh tế quốc tế.
5. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
5.1 Đối tượng nghiên cứu
Luận văn tập trung nghiên cứu về dịch vụ tài chính ở Hà Nội trong
những năm gần đây và những vấn đề đặt ra trong quá trình phát triển dịch vụ
tài chính Hà Nội đáp ứng yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Luận văn cũng
nghiên cứu sự phát triển của dịch vụ tài chính Hà Nội trong mối liên quan
chặt chẽ với thị trường dịch vụ tài chính Việt Nam.
5.2 Phạm vi nghiên cứu
Dịch vụ tài chính là một khái niệm rộng. Theo cách hiểu của Hiệp định
chung về Thương mại Dịch vụ (General Agreement on Trade in Services, viết
tắt là GATS) thì dịch vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ
liên quan đến bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác
(ngoại trừ bảo hiểm) nhưng Luận văn chỉ giới hạn phạm vi nghiên cứu là dịch
bảo hiểm và dịch vụ ngân hàng.
6. Phƣơng pháp nghiên cứu:
Luận văn vận dụng phép duy vật biện chứng, kết hợp với các lý luận,
quan điểm kinh tế, tài chính và định hướng phát triển kinh tế tài chính của

Nhà nước để phân tích, đánh giá hoạt động dịch vụ tài chính Hà Nội.



4
Ngoài ra, Luận văn còn sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, thống kê và xuất phát từ thực tiễn để làm sáng tỏ các vấn đề nghiên cứu.
7. Bố cục của Luận văn:
Ngoài phần mở đầu và kết luận, bố cục của Luận văn gồm 3 chương
Chương I: Dịch vụ tài chính trong quá trình hội nhập quốc tế ở Việt Nam
Chương II: Thực trạng về dịch vụ tài chính Hà Nội trong những năm gần
đây
Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển dịch vụ tài
chính Hà Nội đáp ứng yêu cầu hội nhập quốc tế



















5

CHƢƠNG I:
DỊCH VỤ TÀI CHÍNH TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ
1.1 MỘT SỐ VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ DỊCH VỤ TÀI CHÍNH
1.1.1 Khái niệm về dịch vụ và dịch vụ tài chính
Khái niệm dịch vụ:
Theo C. Marx, dịch vụ là con đẻ của nền kinh tế sản xuất hàng hóa, khi
mà nền kinh tế hàng hóa phát triển mạnh đòi hỏi một sự lưu thông trôi chảy,
thông suốt, liên tục để thỏa mãn nhu cầu ngày càng tăng của con người thì
dịch vụ càng phát triển. Lúc đầu, người ta quan niệm dịch vụ chỉ là ngành
thương nghiệp làm nhiệm vụ chủ yếu trong khâu lưu thông, phân phối và
người ta quan niệm dịch vụ như là sự mua bán hàng hóa. Gắn với sự phát
triển của nền kinh tế, vai trò của ngành dịch vụ ngày càng quan trọng và quan
niệm về dịch vụ cũng dần dần thay đổi. Lĩnh vực dịch vụ không chỉ đơn thuần
làm chức năng lưu thông, phân phối mà còn được phát triển rất đa dạng với
nhiều ngành khác nhau như: y tế, giáo dục, vận tải, ngân hàng, bảo hiểm, tư
vấn, du lịch, bưu chính viễn thông Giống như lĩnh vực sản xuất vật chất
(công nghiệp và nông nghiệp), dịch vụ cũng phải sử dụng lao động sống và
lao động vật hóa trong quá trình hoạt động. Nhưng dịch vụ có những đặc
điểm khác biệt so với lĩnh vực sản xuất vật chất. Đó là:
- Sản phẩm dịch vụ không giống với sản phẩm hàng hóa là tồn tại dưới
dạng hữu hình nên việc xác định chất lượng của sản phẩm dịch vụ là rất khó
khăn. Do vô hình nên người ta không thể sờ, ngửi, nhìn thấy một cách cụ thể
được trước khi tiêu dùng chúng. Ví dụ: một người phụ nữ đi mỹ viện chỉ có
thể biết được mình sẽ xấu đẹp ra sao sau khi sử dụng dịch vụ của người bác
sỹ thẩm mỹ.




6
- Việc sản xuất và tiêu dùng sản phẩm của dịch vụ diễn ra đồng thời.
Không giống với các ngành sản xuất vật chất, sản phẩm của ngành dịch vụ
không thể sản xuất sẵn để lưu kho, lưu trữ. Điều đó có nghĩa là sản phẩm của
dịch vụ không tách rời với nguồn gốc của nó.
- Chất lượng dịch vụ thường dao động trong một khoảng rất rộng nên
thường không ổn định. Nếu như chất lượng sản phẩm của ngành sản xuất vật
chất được quy định theo một tiêu chuẩn nhất định thì chất lượng của sản phẩm
dịch vụ lại không có một tiêu chuẩn cố định nào. Nó phụ thuộc rất nhiều vào
hoàn cảnh tiếp xúc, sự tác động qua lại giữa cung ứng và người tiêu dùng dịch
vụ.
Theo GATS thì có bốn phương thức cung cấp dịch vụ mang tính thương
mại quốc tế như sau:giao dịch qua biên giới, sử dụng dịch vụ ở nước ngoài,
hiện diện thương mại, hiện diện thể nhân.
Giao dịch qua biên giới tức là việc cung cấp dịch vụ được tiến hành từ
lãnh thổ của một nước này sang lãnh thổ của một nước khác. Ví dụ: gọi điện
thoại quốc tế, khám bệnh từ xa, học từ xa mà cả người sử dụng và người cung
cấp nằm ở các quốc gia khác nhau.
Sử dụng dịch vụ ở nước ngoài tức là người sử dụng mang quốc tịch một
nước đi đến một nước khác và sử dụng dịch vụ ở nước đó. Ví dụ: người Việt
Nam đi du lịch ở châu Âu, sang Trung Quốc chữa bệnh.
Hiện diện thương mại tức là người cung cấp dịch vụ mang quốc tịch một
nước đi đến một nước khác, lập ra một pháp nhân và cung cấp dịch vụ ở nước
đó. Ví dụ: một ngân hàng thương mại mở một chi nhánh ở nước ngoài.
Hiện diện thể nhân tức là người cung cấp dịch vụ là thể nhân mang quốc
tịch một nước đi đến một nước khác và cung cấp dịch vụ ở nước đó. Ví dụ:




7
một giáo sư người nước ngoài được mời sang một trường đại học Việt Nam ở
nước ngoài để giảng bài.
Theo tài liệu kí hiệu MTN.GNS/W/120 của Tổ chức Thương mại Thế
giới, dịch vụ được chia thành 12 nhóm lớn, trong đó lại bao gồm nhiều phân
nhóm khác nhau. 12 nhóm đó là:
- Các dịch vụ kinh doanh. Ví dụ: tư vấn pháp lí, xử lí dữ liệu, nghiên cứu
phát triển, nhà đất, cho thuê, quảng cáo
- Các dịch vụ thông tin liên lạc. Ví dụ: bưu chính, viễn thông, truyền
hình
- Các dịch vụ xây dựng và kỹ thuật liên quan đến xây dựng. Ví dụ: xây
dựng, lắp máy
- Các dịch vụ phân phối. Ví dụ: bán buôn, bán lẻ
- Các dịch vụ giáo dục
- Các dịch vụ môi trường. Ví dụ: Vệ sinh, xử lí chất thải
- Các dịch vụ tài chính. Ví dụ: ngân hàng, bảo hiểm
- Các dịch vụ liên quan đến y tế và dịch vụ xã hội
- Các dịch vụ liên quan đến du lịch và lữ hành.
- Các dịch vụ giải trí, văn hóa và thể thao
- Các dịch vụ giao thông vận tải.
- Các dịch vụ khác
Khái niệm dịch vụ tài chính:
Theo tổ chức thương mại thế giới (WTO): Một dịch vụ tài chính là bất
cứ dịch vụ nào có tính chất tài chính, được một nhà cung cấp dịch vụ tài chính



8
cung cấp. Dịch vụ tài chính bao gồm mọi dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên

quan tới bảo hiểm, mọi dịch vụ ngân hàng và dịch vụ tài chính khác (ngoại trừ
bảo hiểm).
1.1.2 Đặc điểm của dịch vụ tài chính
Tính vô hình: Giống như mọi sản phẩm dịch vụ khác, để phân biệt với
các sản phẩm của ngành sản xuất vật chất, sản phẩm dịch vụ tài chính có tính
không hiện hữu hay tính vô hình. Điều này có nghĩa là người tiêu dùng sản
phẩm dịch vụ tài chính không thể thấy được rõ ràng sản phẩm họ đang sử
dụng nên việc đánh giá chất lượng là vô cùng khó khăn. Do đó, nhà cung cấp
dịch vụ tài chính muốn lôi kéo được khách hàng thì phải chú trọng nâng cao
uy tín, thương hiệu của mình trong kinh doanh, đem lại niềm tin cho người
tiêu dùng về chất lượng sản phẩm của mình.
Tính không thể tách rời hay không thể chia cắt: Điều này có nghĩa là quá
trình cung cấp dịch vụ tài chính và quá trình tiêu dùng dịch vụ được diễn ra
cùng một lúc theo những quy trình nhất định. Do đó, dịch vụ tài chính không
có sản phẩm dở dang, không thể lưu kho lưu trữ mà được cung cấp trực tiếp
cho người sử dụng khi và chỉ khi khách hàng có nhu cầu. Ví dụ: một khách
hàng ra ngân hàng đăng kí làm thẻ ATM (Automatic teller machine) có nghĩa
là họ đăng kí sử dụng dịch vụ rút tiền tự động của ngân hàng đó. Ngân hàng
sẽ không có bán thành phẩm hay dự trữ thành phẩm mà chỉ khi khách hàng có
yêu cầu và làm đầy đủ thủ tục, ngân hàng chuẩn bị sẵn các thiết bị như máy
ATM, máy tính, đường truyền số liệu rồi giấy lĩnh tiền mặt, ủy nhiệm chi, tiền
mặt Như vậy, quá trình đã bắt đầu khi khách hàng đăng kí dùng dịch vụ của
ngân hàng, còn ngân hàng có nhiệm vụ chuẩn bị mọi phương tiện cần thiết và
kết thúc khi khách hàng rút tiền mặt ở máy ATM. Điều này có nghĩa là không
có khái niệm bảo trì, bảo dưỡng hay bảo hành cho sản phẩm dịch vụ tài chính



9
tức là dịch vụ này có nhiều điểm khác biệt so với các loại hàng hóa, dịch vụ

khác.
Tính không đồng nhất và khó xác định: Một sản phẩm dịch vụ tài chính
dù lớn hay bé (xét về quy mô) đều không đồng nhất thời gian thực hiện, cách
thức thực hiện, điều kiện thực hiện, vì vậy rất khó xác định. Một sản phẩm
dịch vụ tài chính được tạo nên bởi nhiều yếu tố như trình độ công nghệ, uy
tín, thương hiệu, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ. Những yếu tố
này ảnh hưởng trực tiếp tới chất lượng dịch vụ, nhưng lại thường xuyên biến
động. Kết quả sẽ tạo ra các sản phẩm dịch vụ tài chính khác nhau cho dù có
cùng một bản chất, cùng một quy trình thực hiện chứ không phải là các sản
phẩm hàng loạt như trong các ngành sản xuất công nghiệp thường thấy khác.
1.1.3 Các loại hình dịch vụ tài chính
Theo nghĩa rộng, dịch vụ tài chính bao gồm tất cả các dịch vụ có tính
chất tài chính. Tuy nhiên, để thống nhất với định nghĩa của GATS, trong luận
văn này chỉ tập trung đề cập đến hai loại hình dịch vụ chủ yếu: đó là dịch vụ
bảo hiểm và dịch vụ ngân hàng. Theo WTO – phụ lục G quy định các loại
hình dịch vụ bảo hiểm và bảo hiểm ngân hàng như sau:
Dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan đến bảo hiểm:
Hiện nay, chưa có một khái niệm chính xác nào về dịch vụ bảo hiểm. Ở
Việt Nam, theo Luật kinh doanh bảo hiểm và các văn bản hướng dẫn thi hành
của Bộ Tài chính (2004), kinh doanh bảo hiểm được hiểu là: “hoạt động của
doanh nghiệp bảo hiểm nhằm mục đích sinh lợi, theo đó doanh nghiệp bảo
hiểm chấp nhận rủi ro của người được bảo hiểm, trên cơ sở bên mua bảo hiểm
đóng phí bảo hiểm để doanh nghiệp bảo hiểm trả tiền bảo hiểm cho người thụ
hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo



10
hiểm.” Theo WTO, dịch vụ bảo hiểm và dịch vụ liên quan đến bảo hiểm được
hiểu là:

- Bảo hiểm trực tiếp (kể cả đồng bảo hiểm) gồm nhân thọ và phi nhân
thọ;
- Tái bảo hiểm và tái nhượng bảo hiểm;
- Bảo hiểm qua trung gian như môi giới và đại lí;
- Dịch vụ phụ trợ bảo hiểm như tư vấn, dịch vụ đánh giá xác xuất và rủi
ro, dịch vụ giải quyết khiếu nại.
Dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính khác (ngoại trừ bảo hiểm):
Ở nước ta hiện nay, vẫn chưa có định nghĩa thống nhất về dịch vụ ngân
hàng. Có không ít quan niệm cho rằng, hoạt động ngân hàng bao gồm hoạt
động tín dụng và dịch vụ. Theo đó, hoạt động tín dụng là các nghiệp vụ về
nhận tiền gửi, huy động vốn, cho vay, bảo lãnh, cho thuê tài chính; còn hoạt
động dịch vụ của ngân hàng là các nghiệp vụ thu phí (trừ phí bảo lãnh vì được
tính vào hoạt động tín dụng). Trong những năm gần đây, do yêu cầu hội nhập
quốc tế ngày càng trở nên cấp bách, quan niệm về dịch vụ ngân hàng đã được
đổi mới theo thông lệ quốc tế. Theo đó, khái niệm dịch vụ ngân hàng có thể
được hiểu chung nhất là các công việc trung gian về tiền tệ của các tổ chức
nhằm đáp ứng nhu cầu của khách hàng về sinh lời, đầu tư, giữ hộ hay bảo
đảm an toàn, đem lại nguồn thu phí cho tổ chức cung ứng dịch vụ.
- Chấp nhận tiền gửi hoặc đặt cọc và các khoản quỹ có thể thanh toán
khác của công chúng;
- Mọi loại hình cho vay, kể cả tín dụng người tiêu dùng, tín dụng cầm
đồ, cầm cố, dịch vụ về hóa đơn và tài trợ của giao dịch thương mại;
- Thuê mua tài chính;



11
- Mọi dịch vụ thanh toán và chuyển tiền, kể cả thẻ tín dụng, thẻ thanh
toán và tương tự, séc du lịch và hối phiếu ngân hàng;
- Bảo lãnh và cam kết;

- Thương vụ tiến hành tự chịu chi phí hoặc nhân danh khách hàng, dù tại
sở giao dịch và trên thị trường không chính thức hoặc các giao dịch khác về
công cụ thị trường tiền tệ (kể cả séc, hóa đơn, giấy chứng nhận tiền gửi);
ngoại hối; các công cụ dẫn xuất nhưng không hạn chế bởi các giao dịch kỳ
hạn hoặc quyền giao dịch; tỷ giá hối đoái và các công cụ về lãi suất, kể các
công cụ như giao dịch swap, thỏa thuận tỷ giá kỳ hạn, chứng từ có thể chuyển
nhượng; các công cụ có thể chuyển nhượng khác và tài sản chính, kể cả kim
khí quí.
- Tham gia vào việc phát hành mọi loại chứng khoán, kể cả việc bảo
hiểm phát hành và với hoạt động đại lí (dù theo cách công hoặc tư nhân) và
cung cấp dịch vụ liên quan tới những vấn đề trên.
- Môi giới tiền tệ;
- Quản lí tài sản có, như là tiền mặt hoặc quản lí danh mục đầu tư gián
tiếp, mọi hình thức quản lí đầu tư tập thể, quản lí quỹ hưu trí, hùn vốn, góp
vốn và dịch vụ tín thác;
- Dịch vụ thanh toán hoặc thanh toán bù trừ về tài sản tài chính, kể cả
chứng khoán, các công cụ dẫn xuất và các công cụ có thể nhượng khác;
- Cung cấp và chuyển thông tin về tài chính, và xử lí dữ liệu tài chính và
phần mềm liên quan do các người cung cấp dịch vụ tài chính thực hiện;
- Các dịch vụ về tư vấn, trung gian và bổ trợ về tài chính về mọi mặt
hoạt động đã nêu trên, kể cả tham chiếu và phân tích tín dụng, nghiên cứu và



12
tư vấn về đầu tư và đầu tư gián tiếp, tư vấn mua sắm và về cơ cấu lại hoặc
chiến lược dịch vụ.
Tuy nhiên, theo phụ lục của Hiệp định GATS về dịch vụ tài chính, một
dịch vụ tài chính là bất kỳ dịch vụ nào có tính chất tài chính, được một người
cung cấp dịch vụ tài chính của một thành viên cung cấp. Dịch vụ tài chính

không bao gồm “Dịch vụ được cung cấp khi thi hành quyền hạn của cơ quan
chính phủ” trong dịch vụ tài chính được hiểu như sau:
i) Các hoạt động được tiến hành bởi Ngân hàng trung ương, tổ chức tiền
tệ hoặc bởi bất kỳ một pháp nhân công cộng nào thực hành chính sách tài
chính và chính sách tỷ giá hối đoái;
ii) Các hoạt động tạo thành một bộ phận của hệ thống luật pháp về an
ninh xã hội hay các chương trình hưu trí công;
iii) Các hoạt động khác do một pháp nhân công cộng tiến hành do Chính
phủ chịu chi phí, đảm bảo hoặc sử dụng nguồn tài chính của Chính phủ.
Nhưng nếu một thành viên cho phép bất kỳ một hoạt động nào được nêu
tại điểm (ii) hoặc (iii) được người cung cấp dịch vụ tài chính của mình tiến
hành và cạnh tranh với một pháp nhân công cộng hoặc một người cung cấp
dịch vụ tài chính thì thuật ngữ “dịch vụ” vẫn được hiểu là bao gồm những
hoạt động đó.
Pháp nhân “công cộng” trong khuôn khổ WTO được hiểu là:
- Chính phủ, Ngân hàng Trung ương hoặc một tổ chức tài chính của một
Thành viên, hoặc một thực thể do một Thành viên sở hữu hoặc kiểm soát, chủ
yếu tiến hành chức năng chính phủ hoặc các hoạt động vì mục đích của Chính
phủ, không bao gồm pháp nhân chủ yếu cung cấp những dịch vụ tài chính trên
cơ sở những điều kiện thương mại; hoặc



13
- Một pháp nhân tư nhân, thực hiện các chức năng mà thông thường vẫn
do một Ngân hàng trung ương hoặc tổ chức tiền tệ, khi thực hiện các chức
năng này.


1.2 CAM KẾT, THỎA THUẬN CỦA VIỆT NAM VỀ LĨNH VỰC DỊCH VỤ

TÀI CHÍNH TRONG QUÁ TRÌNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ.
Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam được đánh dấu bởi hai
sự kiện quan trọng là việc ký kết thực hiện hiệp định thương mại Việt Nam -
Hoa Kỳ và những cam kết về dịch vụ tài chính của Việt Nam khi gia nhập Tổ
chức thương mại thế giới WTO. Hai sự kiện này có ảnh hưởng to lớn đến phát
triển dịch vụ tài chính ở Việt Nam và việc thực hiện những cam kết trong hai
hiệp định này là nội dung chính của phát triển dịch vụ tài chính trong hội nhập
quốc tế, cụ thể như sau:
1.2.1 Những cam kết về dịch vụ tài chính trong hiệp định thƣơng mại
Việt Nam – Hoa Kỳ (BTA)
1.2.1.1 Giới thiệu chung về hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ
Kể từ khi Việt Nam áp dụng chính sách mở cửa nền kinh tế, quan hệ
thương mại song phương giữa Việt Nam với các nước trên thế giới được cải
thiện và xúc tiến theo chiều hướng tích cực với tốc độ cực nhanh. Nhưng phải
đến tháng 7/1995, khi Việt Nam và Hoa Kỳ thiết lập quan hệ ngoại giao thì
hoạt động kinh tế mới được thúc đẩy mạnh mẽ hơn theo định hướng của Đảng
cộng sản Việt Nam. Thuộc hai châu lục khác nhau nên Việt Nam và Mỹ có
nhiều điểm khác biệt về lịch sử, về dân tộc, văn hoá, con người, luật pháp,
kinh tế… Tuy nhiên, trong bối cảnh quốc tế hiện nay, khi thế giới đang thực
hiện chiến lược toàn cầu hoá, tác động của chiến lược này ảnh hưởng đến cả



14
thế giới không trừ một nước nào và đặt ra yêu cầu cho các nước về hội nhập
kinh tế quốc tế thì ranh giới khác biệt giữa các nước nói chung và Việt Nam-
Hoa Kỳ nói riêng phải được dỡ bỏ. Mỹ chính thức bỏ lệnh cấm vận đối với
Việt Nam vào ngày 3/2/1994, bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt
Nam vào 11/7/1995 và kí Hiệp định thương mại song phương vào ngày
13/7/2000. Để có bản Hiệp định này Việt Nam và Hoa Kỳ đã tiến hành các

vòng đàm phán thương mại song phương như sau:
Vòng 1: 21/9 đến 26/9/1996 tại Hà Nội; Vòng 2: 9/12 đến 11/12/1996 tại
Hà Nội; Vòng 3: 12/4 đến 17/4/1997 tại Hà Nội; Vòng 4: 6/10 đến
11/10/1997 tại Washington; Vòng 5: 16/5 đến 22/5/1998 tại Hà Nội; Vòng 6:
15/9 đến 22/9/1998 tại Hà Nội; Vòng 7: 15/3 đến 19/3/1999 tại Hà Nội; Vòng
8: 14/6 đến 18/6/1999 tại Hà Nội; Vòng 9: 28/8 đến 2/9/1999 tại Hà Nội;
Hiệp định giữa Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam và Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ (gọi tắt là Hiệp định thương mại Việt-Mỹ) được đại diện của hai
Chính phủ kí ngày 13/7/2000, được Quốc hội Việt Nam phê chuẩn này
28/11/2001 và có hiệu lực vào ngày 10/12/2001.
Hiệp định gồm 7 chương, 64 điều:
Chương I: Thương mại hàng hoá; Chương II: Quyền sở hữu trí tuệ;
Chương III: Thương mại dịch vụ. Chương IV: Phát triển quan hệ đầu tư;
Chương V: Tạo thuận lợi cho kinh doanh; ChươngVI: Các quyết định liên
quan tới tính minh bạch công khai và quyền khiếu kiện; ChươngVII: Những
điều khoản chung.
Ngoài ra còn có một loạt các phụ lục sau: A, B (B
1
,B
2
,B
3
,B
4
), C (C
1
,C
2
),
D (D

1
,D
2
), E, F, G, H, I và thư đính kèm, thư trao đổi.
1.2.1.2 Ý nghĩa của việc ký kết hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ



15
Hiệp định thương mại Việt-Mỹ đã có một ý nghĩa to lớn đối với Việt
Nam trong quá trình hội nhập mà trước mắt là mục tiêu trở thành thành viên
của WTO. Bản Hiệp định thể hiện chính sách mở cửa, hướng tới hội nhập của
Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam nói chung và ngành dịch vụ tài chính nói
riêng sẽ được phát triển trong một sân chơi bình đẳng. Sân chơi này sẽ đánh
giá đúng mức chất lượng của nền kinh tế. Bình đẳng đồng nghĩa với cạnh
tranh lớn, tuy nhiên trong một nền kinh tế thị trường chỉ có cạnh tranh mới có
phát triển. Những cam kết trong Hiệp định tạo ra một môi trường kinh doanh
mới cho Việt Nam. Môi trường này tạo ra nhiều thuận lợi nhưng cũng gây
không ít khó khăn cho Việt Nam. Khó khăn là trước mắt, điều này đòi hỏi
Chính phủ, các bộ, ngành có liên quan nói chung và các tổ chức tài chính nói
riêng phải có những bước đi phù hợp để khắc phục khó khăn. Đây cũng là cơ
hội để tăng cường tính hiệu quả trong hoạt động của nền kinh tế nói chung và
ngành dịch vụ tài chính nói riêng.
Mối quan hệ giữa Việt Nam và Mỹ đang được thúc đẩy lên một tầm cao
mới với mục tiêu “khép lại quá khứ, hướng tới tới tương lai”. Nếu mối quan
hệ đó về mặt chính trị được đánh giá bằng việc cựu Tổng thống Mỹ Bill
Clinton sang thăm Việt Nam và việc khai trương hai đại sứ quán ở Hà Nội và
Washington thì về mặt kinh tế được đánh dấu bằng việc kí kết Hiệp định
thương mại Việt-Mỹ với những quy định về phát triển thị trường dịch vụ tài
chính ở Việt Nam là một nội dung vô cùng quan trọng. Phát triển dịch vụ tài

chính ở đây có nghĩa là phát triển hai ngành ngân hàng và bảo hiểm. Không
có các ngân hàng mạnh thì doanh nghiệp không thể vay tiền vì một thị trường
tài chính phát triển luôn là nền tảng tốt để kinh doanh. Tương tự, không phát
triển lĩnh vực bảo hiểm thì chẳng thể có các hoạt động hỗ trợ doanh nghiệp,
hỗ trợ cá nhân.



16
1.2.1.3 Những quy định và cam kết của Việt Nam về dịch vụ tài chính trong
Hiệp định BTA
Nội dung các quy định và cam kết của Việt Nam có liên quan đến dịch
vụ tài chính của Hiệp định này bao gồm:
Các cam kết chung:
- Hiện diện thương mại: Các công ty của Mỹ được tiến hành hoạt động
thương mại tại Việt Nam theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam dưới các
hình thức: Hợp đồng hợp tác kinh doanh, xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp
100% vốn Hoa Kỳ, BOT và BTO. Các công ty Mỹ được phép đặt văn phòng
đại diện tại Việt Nam nhưng không được tiến hành hoạt động thu lợi nhuận
tại Việt Nam.
- Hiện diện thể nhân: Chưa thực hiện cam kết trừ các biện pháp liên quan
đến nhập cảnh và lưu trú tạm thời của các thể nhân của các nhóm sau: Các
nhà quản lý, giám đốc điều hành và các chuyên gia mà người Việt Nam
không thể thay thế, lưu chuyển tạm thời trong nội bộ công ty, được phép nhập
cảnh cho thời gian lưu trú ban đầu là 3 năm và sau đó sẽ được gia hạn; Người
chào bán dịch vụ-những người không sống tại Việt Nam và không nhận sự trả
lương từ bất kỳ nguồn nào tại Việt Nam, và những người tham gia vào hoạt
động liên quan đến việc đại diện cho một nhà cung cấp dịch vụ với mục đích
đàm phán để bán dịch vụ của nhà cung cấp dịch vụ đó mà (i) việc bán đó
không được chào trực tiếp cho công chúng và (ii) người chào bán không trực

tiếp cung cấp dịch vụ. Thời gian nhập cảnh của những người chào bán dịch vụ
này không quá 90 ngày.
Các cam kết về dịch vụ bảo hiểm:
Việt Nam cam kết trong tất cả các loại hình dịch vụ bảo hiểm và phụ trợ
bảo hiểm theo GATS ngoại trừ bảo hiểm sức khỏe, cụ thể:



17
- Không hạn chế đối với: các dịch vụ bảo hiểm cho các xí nghiệp có vốn
đầu tư nước ngoài, người nước ngoài làm việc tại Việt Nam, các dịch vụ tái
bảo hiểm, các dịch vụ bảo hiểm trong vận tải quốc tế, các dịch vụ môi giới
bảo hiểm và môi giới tái bảo hiểm, các dịch vụ tư vấn, giải quyết khiếu nại,
đánh giá rủi ro.
- Bên cạnh đó, Hiệp định quy định các hạn chế sau:
+ Hạn chế về hình thức pháp nhân: chỉ được phép thành lập liên doanh
bảo hiểm sau 3 năm, công ty bảo hiểm 100% vốn của Hoa Kỳ sau 5 năm kể từ
ngày Hiệp định có hiệu lực; việc thành lập chi nhánh phụ thuộc vào tiến trình
xây dựng Luật kinh doanh bảo hiểm của Việt Nam.
+ Hạn chế về phần vốn góp: Phần vốn góp của phía Hoa Kỳ không được
vượt quá 50% vốn pháp định của liên doanh.
+ Hạn chế về loại hình kinh doanh: Các công ty cung cấp dịch vụ có vốn
đầu tư Hoa Kỳ không được kinh doanh các dịch vụ đại lý bảo hiểm và các
dịch vụ bảo hiểm bắt buộc là: bảo hiểm trách nhiệm dân sự của chủ xe cơ
giới, bảo hiểm trong xây dựng và lắp đặt, bảo hiểm đối với các công trình dầu
khí và các công trình dễ gây nguy hiểm đến an ninh cộng đồng và môi trường.
Hạn chế này sẽ được bãi bỏ đối với liên doanh là 3 năm sau khi Hiệp định có
hiệu lực, và đối với công ty 100% vốn Hoa Kỳ là 6 năm sau khi Hiệp định có
hiệu lực. Đối với việc tái bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm liên doanh, công
ty 100% vốn Hoa Kỳ và chi nhánh các công ty bảo hiểm Hoa Kỳ phải tái bảo

hiểm với Công ty Tái bảo hiểm Việt Nam một tỷ lệ tối thiểu là 20% và 5 năm
sau khi Hiệp định có hiệu lực hạn chế này sẽ được bãi bỏ.
Các cam kết về dịch vụ ngân hàng và các dịch vụ tài chính liên quan:
- Cho phép phía Mỹ được cung cấp các dịch vụ ngân hàng thông qua các
các hình thức pháp lý: chi nhánh ngân hàng Mỹ, ngân hàng liên doanh Việt -



18
Mỹ, công ty thuê mua tài chính 100% vốn của Mỹ, và công ty thuê mua tài
chính liên doanh Việt – Mỹ.
- Yêu cầu về giá trị giao dịch: Cho phép các chi nhánh ngân hàng Mỹ
được nhận đặt cọc bằng tiền đồng. Với các pháp nhân mà ngân hàng không có
quan hệ tín dụng, có thể chấp nhận đặt cọc lên tới 50% vốn pháp định của
ngân hàng trong năm đầu tiên, tăng theo kế hoạch đã định tới ngang như trong
nước sau 8 năm (Với các pháp nhân có quan hệ tín dụng, không hạn chế đặt
cọc tiền đồng). Với các thể nhân mà ngân hàng không có quan hệ tín dụng, có
thể chấp nhận đặt cọc lên tới 50% vốn pháp định của ngân hàng trong năm
đầu tiên, tăng theo kế hoạch đã định tới ngang như trong nước sau 10 năm.
Với các thể nhân khác, không hạn chế đặt cọc tiền đồng.
- Về vốn góp, cam kết cho phép phía Mỹ tham gia liên doanh với tỷ lệ
góp vốn từ 30% đến 49% vốn pháp định của liên doanh. Sau 9 năm kể từ khi
Hiệp định có hiệu lực, các ngân hàng Mỹ được phép thành lập ngân hàng con
100% vốn sở hữu của Mỹ tạiViệt Nam.
- Yêu cầu về vốn tối thiểu: Vốn do ngân hàng mẹ của Mỹ cấp để thành
lập chi nhánh ngân hàng Mỹ tối thiểu là 15 triệu USD; Vốn điều lệ tối thiểu
của ngân hàng liên doanh Việt – Mỹ hay ngân hàng con 100% vốn Mỹ là 10
triệu USD, của công ty thuê mua tài chính 100% vốn Mỹ và công ty thuê mua
tài chính liên doanh Việt – Mỹ là 5 triệu USD.
- Yêu cầu về quyền thế chấp: Các đơn vị tài chính ngân hàng 100% vốn

của Mỹ không được nhận thế chấp bằng quyền sử dụng đất. Sau 3 năm kể từ
khi Hiệp định có hiệu lực, các tổ chức tài chính 100% vốn Mỹ có thể nhận thế
chấp quyền sử dụng đất của các công ty đầu tư nước ngoài ; trong trường hợp
các công ty đó vỡ nợ, có thể sử dụng khoản thế chấp này để thanh lý.



19
- Sau 8 năm, các tổ chức tài chính Mỹ có thể phát hành thẻ tín dụng trên
cơ sở đãi ngộ quốc gia. Các ngân hàng Mỹ cũng có thể đặt máy rút tiền tự
động (ATM) ngoài các chi nhánh của mình cho tới khi các ngân hàng Việt
Nam được phép làm như vậy và không được lập các điểm giao dịch phụ
thuộc.
- Trong vòng 3 năm kể từ khi Hiệp định có hiệu lực, Việt Nam sẽ dành
đãi ngộ quốc gia cho các nghiệp vụ chiết khấu ngân hàng Trung ương, hoán
đổi và giao dịch kỳ hạn cho các công ty dịch vụ tài chính Mỹ.


1.2.2 Những cam kết về dịch vụ tài chính của Việt Nam khi gia nhập Tổ
chức thƣơng mại thế giới WTO
1.2.2.1 Giới thiệu chung về WTO
WTO là tổ chức thương mại có quy mô toàn cầu được thành lập vào
ngày 1/1/1995 và tính đến ngày 7/11/2005, WTO đã có tới 150 thành viên.
Tiền thân của tổ chức này chính là Hiệp định chung về thuế quan và thương
mại (GATT), được 23 quốc gia kí kết vào năm 1947 nhằm tăng cường giao
lưu thương mại giữa các quốc gia thông qua việc cắt giảm các hàng rào bảo
hộ ở mỗi nước thành viên.
WTO là một tổ chức bao gồm các cơ quan có thẩm quyền như: Hội nghị
Bộ trưởng, Đại hội đồng, các ủy ban chức năng và Cơ quan giải quyết tranh
chấp. Giúp việc cho các cơ quan này là Ban Thư kí với hơn 600 nhân viên,

đứng đầu là Tổng thư ký. Trụ sở của WTO đặt tại Giơ ne vơ, Thụy Sỹ. WTO
có các chức năng cơ bản sau:



20
- Quản lí, giám sát và tạo điều kiện thuận lợi cho việc thực thi các hiệp
định của WTO. Trước khi WTO được thành lập, chỉ tồn tại duy nhất một hiệp
định đa phương là GATT và hiệp định này chỉ điều chỉnh thương mại hàng
hóa. Hiện nay, WTO có cả một hệ thống hiệp định đa phương (bắt buộc) và
hiệp định nhiều bên (không bắt buộc) với phạm vi điều chỉnh được mở rộng
sang cả các lĩnh vực khác như thương mại dịch vụ, các biện pháp về đầu tư
liên quan đến thương mại và các khía cạnh liên quan đến thương mại của
quyền sở hữu trí tuệ.
- Thúc đẩy tự do hóa thương mại thông qua các cuộc đàm phán đa
phương về tự do hóa thương mại.
- Giải quyết tranh chấp thương mại giữa các thành viên theo quy tắc,
trình tự, thủ tục do WTO quy định. Đây là bước phát triển mới so với GATT,
có ý nghĩa hết sức quan trọng trong việc bảo đảm tuân thủ các luật lệ của
WTO cũng như sự bình đẳng giữa các thành viên.
- Cung cấp hỗ trợ kỹ thuật cho các nước đang phát triển thông qua các
chương trình tư vấn, đào tạo nguồn nhân lực, hợp tác với các tổ chức quốc tế
khác.
Các nguyên tắc cơ bản của WTO:
- Không phân biệt đối xử: là nguyên tắc quan trọng nhất của WTO, thể
hiện qua hai chế độ là đối xử tối huệ quốc (MFN) và đối xử quốc gia (NT).
Đối xử MFN quy định một thành viên phải đối xử bình đẳng với tất cả các
thành viên khác. Đối xử NT quy định phải dành cho hàng hóa, dịch vụ và
doanh nghiệp nước ngoài sự đối xử bình đẳng như dành cho hàng hóa, dịch
vụ và doanh nghiệp trong nước. WTO cho phép có ngoại lệ và đối xử MFN

và NT nhưng phải theo đúng quy định của WTO.



21
- Thúc đẩy thương mại quốc tế đối với hàng hóa và dịch vụ thông qua
đàm phán, dỡ bỏ rào cản giữa các quốc gia: bao gồm cắt giảm thuế nhập
khẩu, loại bỏ các biện pháp phi thuế, xử lí các hành vi gây lệch lạc thương
mại như trợ cấp, phá giá
- Minh bạch hóa: bao gồm minh bạch về chính sách và minh bạch về tiếp
cận thị trường. Minh bạch về chính sách yêu cầu mọi quy định có liên quan
đến thương mại của một thành viên phải được công bố công khai, dễ tiếp cận,
phù hợp với luật lệ của WTO và áp dụng thống nhất trên toàn lãnh thổ. Đồng
thời, phải dành cơ hội thỏa đáng cho các bên có liên quan được góp trong
quá trình xây dựng và ban hành các quy định. Minh bạch về tiếp cận thị
trường yêu cầu các thành viên nỗ lực ràng buộc mức trần cho thuế nhập khẩu
và đưa ra các cam kết rõ ràng về mở cửa thị trường dịch vụ, giúp cho các
doanh nghiệp có thể dự báo và hoạch định chiến lược kinh doanh.
Hệ thống văn kiện pháp lí của WTO:
- Các văn kiện đa phương bao gồm: i) Hiệp định thành lập WTO, thường
gọi tắt là Hiệp định WTO; ii) Hiệp định chung về thuế quan và thương mại
(GATT), chuyên điều chỉnh thương mại hàng hóa; iii) Các hiệp định phụ trợ
cho GATT (như Hiệp định Nông nghiệp, Hiệp định về hàng rào kỹ thuật đối
với thương mại, Hiệp định về các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại,
Hiệp định về xác định trị giá hải quan ); iv) Hiệp định chung về thương mại
dịch vụ (GATS), chuyên điều chỉnh thương mại dịch vụ; v) Hiệp định về các
khía cạnh liên quan đến thương mại của quyền sở hữu trí tuệ (TRIPs); vi)
Thỏa thuận về quy tắc và thủ tục giải quyết tranh chấp; vii) cơ chế rà soát
chính sách thương mại.
- Các hiệp định thương mại nhiều bên (Hiệp định về mua bán máy bay

dân dụng, Hiệp định về mua sắm chính phủ).



22
1.2.2.2 Ý nghĩa, cơ hội và thách thức khi Việt Nam trở thành thành viên thứ
150 của Tổ chức thương mại thế giới
Từ cuối những năm 1980 và đầu những năm 1990 của Thế kỷ 20, cùng
với chủ trương đổi mới kinh tế – xã hội, Nhà nước Việt Nam đã thi hành
đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quan hệ quốc tế,
sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng quốc tế.
Xuất phát từ đường lối đối ngoại đó, đồng thời nhận thức rõ xu thế toàn cầu
hóa, khu vực hóa đang phát triển mạnh mẽ với sự tùy thuộc lẫn nhau ngày
càng tăng giữa các nền kinh tế, Việt Nam đã nhanh chóng triển khai chính
sách chủ động và tích cực hội nhập kinh tế của mình với kinh tế khu vực và
kinh tế thế giới. Trong những năm 1990, Việt Nam đã lần lượt gia nhập
ASEAN và thực hiện các cam kết của mình trong khuôn khổ Khu vực mậu
dịch tự do ASEAN (AFTA), là thành viên sáng lập của Diễn đạt Hợp tác Á-
Âu (ASEM), trở thành thành viên của Diễn đàn Hợp tác Kinh tế châu Á -
Thái Bình Dương (APEC), ký kết thành công Hiệp định thương mại Việt Mỹ
(BTA). Và gần đây nhất, ngày 7/11/2006 vừa qua, Việt Nam đã chính thức
được kết nạp vào Tổ chức thương mại thế giới. Đây chính là thành quả của
quá trình phấn đấu không mệt mỏi của toàn thể nhân dân Việt Nam sau 11
năm chuẩn bị, 8 năm đàm phán để trở thành thành viên của WTO và cũng là
kết quả tất yếu của hơn 20 năm đổi mới của Đảng và Nhà nước.
Trở thành thành viên của WTO đã mang lại cho Việt Nam một ý nghĩa
vô cùng quan trọng. Nó mở đường cho Việt Nam tham gia một cách bình
đẳng vào thể chế thương mại toàn cầu, hay nói một cách khác, cả thế giới đã
phải thừa nhận Việt Nam là thành viên chính thức trong cộng đồng kinh tế lớn
nhất của hành tinh này. Từ đó, Việt Nam sẽ được hưởng nhiều cơ hội khi là

thành viên của Tổ chức này. Đó là:



23
1/ Được tiếp cận thị trường hàng hóa và dịch vụ ở tất cả các nước thành
viên, không bị phân biệt đối xử, tạo điều kiện mở rộng thị trường xuất khẩu .
2/ Với việc hoàn thiện hệ thống pháp luật kinh tế theo cơ chế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và thực hiện công khai minh bạch các thiết chế quản
lý theo quy định của WTO, môi trường kinh doanh của nước ta ngày càng
được cải thiện. 3/Vị thế bình đẳng như các thành viên khác trong việc hoạch
định chính sách thương mại toàn cầu, có điều kiện để bảo vệ lợi ích của đất
nước, của doanh nghiệp. 4/ Gia nhập WTO và hội nhập vào nền kinh tế thế
giới sẽ thúc đẩy tiến trình cải cách trong nước. 5/ Gia nhập WTO sẽ nâng cao
vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế, tạo điều kiện triển khai đường lối đối
ngoại theo phương châm: Việt Nam mong muốn là bạn, là đối tác tin cậy của
các nước trong cộng đồng thế giới vì hòa bình, hợp tác và phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những cơ hội to lớn mà việc gia nhập WTO mang
lại, còn có những khó khăn, thách thức đó là:
1/ Cạnh tranh sẽ diễn ra ngày càng gay gắt, sâu sắc hơn. 2/ Do cạnh
tranh, do phân phối lợi ích không đồng đều, đòi hỏi phải có chính sách phúc
lợi và an sinh xã hội đúng đắn. 3/ Hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi Việt Nam
phải có một chính sách kinh tế vĩ mô đúng đắn, hạn chế được ảnh hưởng tiêu
cực trước những biến động trên thị trường thế giới. 4/ Hội nhập kinh tế quốc
tế đặt ra những vấn đề mới trong việc bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc
gia, giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc,chống lại lối sống thực dụng, chạy theo
đồng tiền
1.2.2.3 Những quy định và cam kết của Việt Nam về dịch vụ tài chính khi
Việt Nam chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại quốc tế
Các cam kết chung:

×