Tải bản đầy đủ (.pdf) (102 trang)

Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại theo luật sở hữu trí tuệ năm 2005

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.12 MB, 102 trang )

I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

HONG MINH THY

HàNH VI XÂM PHạM QUYềN Sở HữU CÔNG NGHIệP
ĐốI VớI TÊN THƯƠNG MạI
THEO LUậT Sở HữU TRí TUệ NĂM 2005

LUN VN THC S LUT HC

H NI - 2015


I HC QUC GIA H NI
KHOA LUT

HONG MINH THY

HàNH VI XÂM PHạM QUYềN Sở HữU CÔNG NGHIệP
ĐốI VớI TÊN THƯƠNG MạI
THEO LUậT Sở HữU TRí TUệ NĂM 2005

Chuyờn ngnh: Lut Dõn s v T tng dõn s
Mó s: 60 38 01 03

LUN VN THC S LUT HC

Cỏn b hng dn khoa hc: TS. NGUYN TH QU ANH

H NI - 2015




LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan Luận văn là công trình nghiên cứu của
riêng tôi. Các kết quả nêu trong Luận văn chưa được công bố trong
bất kỳ công trình nào khác. Các số liệu, ví dụ và trích dẫn trong
Luận văn đảm bảo tính chính xác, tin cậy và trung thực. Tôi đã
hoàn thành tất cả các môn học và đã thanh toán tất cả các nghĩa vụ
tài chính theo quy định của Khoa Luật Đại học Quốc gia Hà Nội.
Vậy tôi viết Lời cam đoan này đề nghị Khoa Luật xem xét để
tôi có thể bảo vệ Luận văn.
Tôi xin chân thành cảm ơn!
NGƯỜI CAM ĐOAN

Hoàng Minh Thùy


MỤC LỤC
Trang
Trang phụ bìa
Lời cam đoan
Mục lục
Danh mục các chữ viết tắt
Danh mục bảng
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 1
Chƣơng 1: KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP ĐỐI VỚI TÊN THƢƠNG MẠI VÀ HÀNH VI
XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI
TÊN THƢƠNG MẠI ....................................................................... 7
1.1.


Khái quát chung về quyền sở hữu công nghiệp đối với tên
thƣơng mại........................................................................................ 7

1.1.1.

Khái niệm tên thương mại ................................................................. 7

1.1.2.

Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại ....... 11

1.1.3.

Nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại ......... 14

1.2.

Khái quát chung về hành vi xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đối với tên thƣơng mại ...................................................... 20

1.2.1.

Khái niệm hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối
với tên thương mại ........................................................................... 20

1.2.2.

Các yếu tố tạo thành hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với
TTM ................................................................................................. 23


1.2.3.

Quy định về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với TTM trong
pháp luật Việt Nam từ trước khi ban hành Luật SHTT 2005 ............. 26

1.2.4.

Ý nghĩa của việc xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu
công nghiệp đối với tên thương mại ................................................ 28


Kết luận Chƣơng 1 ........................................................................................ 32
Chƣơng 2: NHỮNG QUY ĐỊNH VỀ HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN
SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI TÊN THƢƠNG MẠI
THEO LUẬT SỞ HỮU TRÍ TUỆ NĂM 2005 ...................................34
2.1.

Các dạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên
thƣơng mại...................................................................................... 34

2.1.1.

Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên
thương mại ....................................................................................... 36

2.1.2.

Hành vi cạnh tranh không lành mạnh liên quan đến tên thương mại ....... 40


2.2.

Căn cứ xác định hành vi xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đối với tên thƣơng mại ...................................................... 43

2.2.1.

Căn cứ xác định TTM được bảo hộ ................................................. 44

2.2.2.

Yếu tố xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với TTM ........... 47

2.2.3.

Chủ thể thực hiện hành vi ................................................................ 49

2.2.4.

Địa điểm thực hiện hành vi .............................................................. 56

Kết luận Chƣơng 2 ........................................................................................ 59
Chƣơng 3: THỰC TRẠNG XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG
NGHIỆP ĐỐI VỚI TÊN THƢƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ
HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP
ĐỐI VỚI TÊN THƢƠNG MẠI ..................................................... 61
3.1.

Thực trạng xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với

TTM tại Việt Nam ......................................................................... 61

3.2.

Nguyên nhân tồn tại hành vi xâm phạm quyền sở hữu công
nghiệp đối với TTM ....................................................................... 72

3.3.

Một số giải pháp hoàn thiện pháp luật về hành vi xâm
phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với TTM ........................... 80

Kết luận Chƣơng 3 ........................................................................................ 87
KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ ...................................................................... 89


DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ..................................................... 92
DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT
BLDS:

Bộ luật Dân sự năm 2005

BLHS:

Bộ luật Hình sự năm 1999

BLTTDS:

Bộ luật Tố tụng dân sự năm 2004


CTCP:

Công ty cổ phần

ĐKKD:

Đăng ký kinh doanh

ĐƯQT:

Điều ước quốc tế

KDCN:

Kiểu dáng công nghiệp

KH&CN:

Khoa học và Công nghệ

SHCN:

Sở hữu công nghiệp

SHTT:

Sở hữu trí tuệ

TNHH:


Trách nhiệm hữu hạn

TTM:

Tên thương mại

UBND:

Ủy ban nhân dân

WIPO:

Tổ chức sở hữu trí tuệ thế giới

WTO:

Tổ chức thương mại thế giới


DANH MỤC BẢNG

Số hiệu bảng

Tên bảng

Trang

Bảng 3.1: Số liệu về tình trạng xâm phạm quyền SHCN từ năm
2006 đến năm 2012


68


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Trong bối cảnh nền kinh tế thị trường với đặc trưng cơ bản là cạnh
tranh, việc thiết lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh không còn là nhiệm
vụ của Nhà nước – với tư cách là chủ thể quản lý mà còn là nhiệm vụ của
chính các doanh nghiệp – với tư cách là chủ thể trực tiếp thực hiện các hoạt
động kinh doanh trong nền kinh tế đó. Trong môi trường cạnh tranh khốc liệt
ấy, để trụ vững và quan trọng hơn là phát triển, các chủ thể kinh doanh buộc
phải khẳng định được uy tín, vị thế của mình trên thị trường thông qua vô vàn
cách thức, trong đó, tiên quyết nhất là cách thức cá thể hóa hoạt động kinh
doanh của mình và một trong những công cụ pháp lý hữu hiệu nhất phục vụ
cho việc cá thể hóa hoạt động kinh doanh của các chủ thể được pháp luật quy
định chính là tên thương mại.
Có thể khẳng định: tên thương mại là dấu hiệu đầu tiên để phân biệt
giữa chủ thể kinh doanh này với chủ thể kinh doanh khác trong cùng một lĩnh
vực và khu vực kinh doanh. Tuy nhiên, cùng với quá trình hội nhập, hoạt
động kinh doanh của các chủ thể không còn bó hẹp trong phạm vi một khu
vực, giới hạn trong phạm vi một lĩnh vực nhất định mà mở rộng ra phạm vi
liên khu vực và đa lĩnh vực kinh doanh. Điều đó đặt ra nhiều đòi hỏi, thách
thức cho doanh nghiệp, không chỉ là nỗ lực trong sự vận động tự thân của
chính doanh nghiệp mà còn trong việc đối phó, ngăn chặn những hành vi trục
lợi thông qua việc sử dụng tên tuổi của doanh nghiệp từ các đối thủ cạnh
tranh, thậm chí là từ chính bạn hàng của doanh nghiệp.
Tình trạng doanh nghiệp bị “nhái”, bị “bắt chước” tên gọi, bị lợi dụng
danh tiếng, uy tín, thương hiệu thông qua việc sử dụng các chỉ dẫn thương
mại, trong đó, điển hình là sử dụng tên thương mại gây nhầm lẫn nhằm mục


1


đích trục lợi đã không còn xa lạ đối với các doanh nghiệp chân chính, thậm
chí là đối với cả người tiêu dùng. Những vụ việc nổi cộm về hành vi xâm
phạm quyền SHCN đối với tên thương mại như: vụ việc Công ty TNHH Sản
xuất kinh doanh nước mắm Hưng Thịnh bị Cơ sở nước mắm Hưng Thịnh
xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại Hưng Thịnh diễn ra vào
khoảng cuối năm 2007; vụ việc CTCP Nhựa Bình Minh bị Công ty TNHH
Thương mại Dịch vụ và Sản xuất nhựa Ống Bình Minh (cùng trên địa bàn TP.
Hồ Chí Minh) xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại và nhãn hiệu
“Bình Minh” diễn ra vào đầu năm 2008; vụ tranh chấp TTM “Winco” và
“Winlaw” giữa Công ty TNHH SHTT Winco và Công ty Luật TNHH Winlaw
diễn ra vào cuối năm 2008; vụ việc CTCP Vincom và CTCP Đầu tư Tài
Chính Bất động sản Vincon tranh chấp TTM “Vincom” và “Vincon” diễn ra
vào cuối năm 2010.....
Trên đây chỉ là những vụ việc nổi cộm được phơi bày trước công chúng
mà trong thực tế, còn rất nhiều hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên
thương mại được biến tướng dưới nhiều hình thức phức tạp khác mà doanh
nghiệp không thể lường trước hết được. Điều này cho thấy vấn nạn đáng báo
động và phải loại bỏ trong nền kinh tế thị trường mà các doanh nghiệp chân
chính muốn tồn tại, đứng vững và phát triển; Nhà nước, muốn tạo ra một môi
trường cạnh tranh lành mạnh thu hút sự đầu tư từ các doanh nghiệp trong và
ngoài nước thì buộc phải đẩy mạnh việc thực thi pháp luật về bảo hộ quyền
SHCN đối với tên thương mại, như nhiệm vụ mà Ban chấp hành Trung ương
Đảng đã nhấn mạnh trong Nghị quyết số 08-NQ/TW ngày 05/02/2007 về một
số chủ trương, chính sách lớn để nền kinh tế Việt Nam phát triển nhanh và
bền vững khi Việt Nam là thành viên của WTO, đó là: “đẩy mạnh thực thi
pháp luật bảo vệ sở hữu trí tuệ, tạo môi trương thuận lợi cho sáng tạo các
giá trị tinh thần xã hội”.


2


Không thể phủ nhận sự ra đời của đạo luật độc lập về sở hữu trí tuệ –
Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 (được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005, có
hiệu lực thi hành từ ngày 01/7/2006, được sửa đổi, bổ sung một số điều năm
2009, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/01/2010), trong đó quy định chế độ
pháp lý đối với các đối tượng của quyền SHTT, trong đó có tên thương mại –
là một trong những bước đột phá trong việc tạo ra công cụ pháp lý để bảo vệ
quyền và lợi ích chính đáng của doanh nghiệp trong việc xưng danh trong
hoạt động kinh doanh của mình. Tuy nhiên, thực tiễn cho thấy, hệ thống pháp
luật thực thi quyền SHTT nói chung và thực thi quyền SHCN đối với tên
thương mại nói riêng, dường như còn tồn tại nhiều bất cập và hạn chế. Cùng
với sự bất cập trong nội tại pháp luật SHTT điều chỉnh tên thương mại là sự
nhập nhằng, mâu thuẫn trong các văn bản pháp luật khác cùng điều chỉnh chế
độ pháp lý đối với việc xưng danh trong quá trình hoạt động kinh doanh của
các chủ thể kinh doanh mà điển hình là: Luật Cạnh tranh (được Quốc hội
thông qua ngày 03/12/2004, có hiệu lực thi hành từ ngày 01/07/2005) và Luật
Doanh nghiệp (được Quốc hội thông qua ngày 29/11/2005, có hiệu lực thi
hành từ ngày 01/07/2006). Sự chồng chéo không chỉ trong hệ thống văn bản
pháp luật mà còn tồn tại trong cách thức quản lý, cách thức phân cấp, phân
ngành quản lý của các cơ quan Nhà nước đối với tên của chủ thể kinh doanh.
Chính những bất cập đó đã phần nào tạo ra rào cản trong việc bảo vệ
quyền SHCN đối với tên thương mại của các chủ thể kinh doanh, đặc biệt là
trong việc xác định hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại –
một trong những nội dung quan trọng của việc thực thi quyền SHCN đối với
tên thương mại; một trong những căn cứ quan trọng để áp dụng các biện pháp
xử lý hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại một cách phù
hợp, để áp dụng các biện pháp khắc phục thiệt hại về vật chất cũng như tổn

hại về uy tín do hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại gây
ra cho chủ thể quyền một cách kịp thời.
3


Nhận thức được tính cấp thiết từ thực tiễn xâm phạm cũng như tầm
quan trọng của việc xác định hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên
thương mại trong việc thực thi quyền SHCN đối với tên thương mại cùng với
đòi hỏi đặt ra là: phải hoàn thiện hơn nữa hệ thống pháp luật về bảo hộ quyền
SHTT nói chung và bảo hộ quyền SHCN đối với tên thương mại nói riêng, tác
giả quyết định chọn đề tài: “Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp
đối với tên thương mại theo Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005” để nghiên cứu.
2. Mục đích, nhiệm vụ của Luận văn
 Mục đích nghiên cứu của Luận văn là:
- Phân tích và làm rõ những vần đề lý luận và thực tiễn về hành vi xâm
phạm quyền SHCN đối với TTM;
- Phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về hành vi xâm phạm quyền
SHCN đối với TTM và thực tiễn áp dụng các quy định này;
- Nêu bật những vướng mắc còn tồn tại từ đó đưa ra những giải pháp
nhằm hoàn thiện pháp luật và nâng cao hiệu quả của hoạt động áp dụng pháp
luật về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với TTM
 Nhiệm vụ:
- Tìm hiểu một cách khái quát về tên thương mại và quyền SHCN đối
với tên thương mại;
- Tìm hiểu về các loại hành vi và cách thức xác định hành vi xâm phạm
quyền SHCN đối với tên thương mại;
- Liên hệ đối chiếu giữa Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005 và một số văn
bản luật khác cùng điều chỉnh tên của chủ thể trong hoạt động kinh doanh;
- Từ thực tiễn áp dụng luật, tìm ra những điểm còn hạn chế, đưa ra một
số giải pháp nhằm hoàn thiện pháp luật về hành vi xâm phạm quyền SHCN

đối với tên thương mại, góp phần giải quyết tốt tình trạng xâm phạm quyền
SHCN đối với tên thương mại trên thực tế.

4


3. Đối tƣợng, phạm vi và phƣơng pháp nghiên cứu
Bằng các phương pháp nghiên cứu gồm phương pháp thu thập thông
tin, thống kê, so sánh, phân tích, tổng hợp, đánh giá, luận văn tập trung
nghiên cứu về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại ở
Việt Nam đặt trong tương quan các quy định của Luật Sở hữu trí tuệ năm
2005, đồng thời, có sự liên hệ, đối chiếu với quy định của một số ngành luật
khác cùng điều chỉnh về hành vi xâm phạm đối với tên của chủ thể kinh
doanh, bên cạnh đó, có sự so sánh với quy định tương tự trong pháp luật của
một số quốc gia và một số Điều ước Quốc tế trong lĩnh vực này. Ngoài ra,
luận văn cũng đề cập đến thực trạng xâm phạm quyền SHCN đối với tên
thương mại ở nước ta hiện nay để thấy được mặt tích cực cũng như phát hiện
mặt hạn chế còn tồn tại. Thông qua đó, luận văn đề xuất một số giải pháp
nhằm hoàn thiện hơn pháp luật về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với
tên thương mại trong thời gian tới.
4. Tính mới và những đóng góp của đề tài
Vấn đề thực thi quyền SHTT, nhìn chung, là một vấn đề tương đối mới
mẻ trong hệ thống pháp luật Việt Nam, do đó, SHTT nói chung và quyền
SHCN nói riêng hiện nay dành được rất nhiều sự quân tâm của nhiều nhà
nghiên cứu và các chuyên gia. Vấn đề thực thi quyền SHCN đối với tên
thương mại được nghiên cứu ở các mức độ khác nhau, và được thể hiện dưới
các hình thức như các bài báo, tạp chí, sách, công trình nghiên cứu khoa học,
luận văn… Tuy nhiên, số lượng các bài nghiên cứu về hành vi xâm phạm
quyền SHCN đối với tên thương mại một cách chuyên sâu và toàn diện thì
chưa có, các tác phẩm hiện nay chủ yếu tập trung vào vấn đề xác lập quyền,

vấn đề về bảo hộ quyền; hành vi xâm phạm quyền được đề cập đến dưới hình
thức các tình huống, các vụ án thực tế mà không được phân tích, bình luận
chuyên sâu, dưới góc độ khoa học; hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với

5


tên thương mại nếu được phân tích thì chỉ dừng lại ở mức đối chiếu với văn
bản pháp luật. Chính vì thế, đề tài này hoàn toàn bảo đảm về tính mới và là đề
tài nghiên cứu đầu tiên ở cấp luận văn thạc sỹ.
Với đề tài “Hành vi xâm phạm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên
thương mại theo Luật Sở hữu trí tuệ năm 2005”, tác giả hy vọng đây sẽ trở
thành một tài liệu tham khảo có giá trị, một tài liệu nghiên cứu hữu ích và
toàn diện về hành vi xâm phạm quyền SHCN đối với tên thương mại trong hệ
thống thực thi quyền SHTT theo quy định của pháp luật Việt Nam hiện hành.
5. Bố cục của Luận văn
Luận văn được chia làm 3 phần với nội dung gồm 3 chương, cụ thể
như sau:
Mở đầu
Nội dung
Chương 1: Khái quát chung về Quyền sở hữu công nghiệp đối với
Tên thương mại và hành vi xâm phạm Quyền sở hữu công
nghiệp đối với Tên thương mại.
Chương 2: Những quy định về hành vi xâm phạm Quyền sở hữu công
nghiệp đối với Tên thương mại theo Luật Sở hữu trí tuệ
năm 2005.
Chương 3: Thực trạng xâm phạm Quyền sở hữu công nghiệp đối với
Tên thương mại tại Việt Nam và một số giải pháp hoàn
thiện pháp luật về hành vi xâm phạm Quyền sở hữu công
nghiệp đối với Tên thương mại.

Kết luận

6


Chương 1
KHÁI QUÁT CHUNG VỀ QUYỀN SỞ HỮU CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI
TÊN THƢƠNG MẠI VÀ HÀNH VI XÂM PHẠM QUYỀN SỞ HỮU
CÔNG NGHIỆP ĐỐI VỚI TÊN THƢƠNG MẠI
1.1. Khái quát chung về quyền sở hữu công nghiệp đối với tên
thƣơng mại
1.1.1. Khái niệm tên thương mại
So với các đối tượng SHTT truyền thống khác như Nhãn hiệu, Sáng
chế, KDCN, chỉ dẫn địa lý... thì TTM là đối tượng SHTT tương đối mới. Mặc
dù ra đời sau, nhưng vai trò của việc bảo hộ quyền SHCN đối với TTM cũng
quan trọng không kém so với các đối tượng SHTT khác, đặc biệt là trong nền
kinh tế thị trường hiện nay, khi sự cạnh tranh giữa các doanh nghiệp trên
thương trường trong nước và quốc tế ngày càng trở nên ngày càng khốc liệt.
Để bảo vệ sự trong sáng trong hoạt động kinh doanh, đồng thời, tạo ra sự lành
mạnh trong môi trường kinh doanh – nơi mà mình là chủ thể chính, chủ sở
hữu TTM buộc phải nắm vững các vấn đề pháp lý liên quan đến TTM và biết
được các đặc quyền mà pháp luật dành cho.
Để có cái nhìn tổng quan hơn về khái niệm TTM theo quy định của
pháp luật Việt Nam, trước tiên, cần điểm qua một số khải niệm TTM theo quy
định pháp luật của một số nước trên thế giới, như sau:
- Pháp luật của Philippines: “TTM là tên để xác định hoặc phân biệt
một doanh nghiệp” [34, Đ 121.3]. Theo quy định này, TTM là tên của
doanh nghiệp được sử dụng nhằm xác định và phân biệt doanh nghiệp
mang TTM đó với các doanh nghiệp khác. Việc quy định chung chung này
dường như cho phép chủ việc xác định khả năng phân biệt TTM của doanh

nghiệp trong phạm vi quốc gia không giới hạn khu vực địa lý, ngành nghề

7


kinh doanh miễn sao cái tên đó phải bảo đảm yếu tố đặc định chủ thể có
hoạt động kinh doanh và phân biệt chủ thể kinh doanh đó trong môi trường
kinh doanh, thị trường tiêu dùng.
- Thỏa ước Trung Mỹ:
TTM là tên để xác định một doanh nghiệp/ tổ chức thương
mại cụ thể, một doanh nghiệp/ tổ chức công nghiệp ngay cả khi nó là
tham gia vào các hoạt động liên quan đến nông nghiệp, chăn nuôi,
lâm nghiệp, khai thác khoáng sản, săn bắn, câu cá, xây dựng, giao
thông vận tải hoặc trong bất kỳ hoạt động tương tự khác [35, Đ 47].
Tương tự quy định của pháp luật Philippines, theo Thỏa ước Trung
Mỹ, TTM là một cái tên để xác định cụ thể doanh nghiệp, tổ chức. Tuy
nhiên, khác với các quy định trên, Thỏa ước Trung Mỹ quy định về phạm
vi/ lĩnh vực hoạt động của các doanh nghiệp, tổ chức bao gồm thương mại,
công nghiệp, nông nghiệp, chăn nuôi, khoáng sản.... và mọi hoạt động của
doanh nghiệp, tổ chức mang TTM đó chứ không chỉ giới hạn trong hoạt
động kinh doanh.
Qua một số quy định trên, có thể thấy, nhìn chung, theo các ĐƯQT và
luật pháp của một số quốc gia, khái niệm TTM đều thể hiện một số nội dung
cơ bản sau:
- TTM là một tên gọi của một doanh nghiệp (việc xác định thế nào là
doanh nghiệp phụ thuộc vào pháp luật của từng quốc gia – tuy nhiên, doanh
nghiệp là một thực thể được hình thành và hoạt động trên cơ sở các quy định
của pháp luật và không phải là con người – thực thể tự nhiên)
- TTM là tên gọi của doanh nghiệp nhưng không phải là tên doanh
nghiệp – yếu tố/ nội dung bắt buộc phải đăng ký trong các văn bản, tài liệu,

hồ sơ đăng ký doanh nghiệp.
- TTM được doanh nghiệp sử dụng trong các hoạt động kinh doanh

8


nhằm mục đích sinh lợi. Trong đó, hoạt động của doanh nghiệp đa dạng, phụ
thuộc vào pháp luật về hoạt động của doanh nghiệp do pháp luật quốc nội quy
định, bao gồm nhưng không giới hạn bởi: hoạt động kinh doanh, thương mại,
công nghiệp, nông nghiệp, chăn nuôi, lâm nghiệp, khai thác khoáng sản, săn
bắn, câu cá, xây dựng, giao thông vận tải.
- TTM có tác dụng để xác định một chủ thể kinh doanh cụ thể và để
phân biệt doanh nghiệp mang TTM đó với các chủ thể kinh doanh khác trong
một phạm vi hoạt động nhất định. Phạm vi hoạt động của doanh nghiệp để
phát huy chức năng phân biệt của TTM rộng hay hẹp phụ thuộc hoàn toàn vào
pháp luật của từng quốc gia (ở phạm vi rộng, đó có thể là trên toàn quốc, hẹp
hơn có thể giới hạn trong một phạm vi lĩnh vực kinh doanh, ngành nghề kinh
doanh, khu vực kinh doanh… cụ thể)
Theo các đặc điểm nêu trên, có thể tạm khái quát định nghĩa TTM như
sau: TTM là tên gọi của chủ thể có hoạt động kinh doanh nhằm cá biệt hóa
hoạt động kinh doanh của chủ thể đó và phân biệt chủ thể mang TTM đó với
các chủ thể kinh doanh khác trong một phạm vi kinh doanh nhất định.
Trong pháp luật Việt Nam, TTM lần đầu tiên được nhắc đến/ đề cập
đến tại Nghị định số 63/CP ngày 24/10/1996 của Chính phủ thông qua quy
định về nhãn hiệu hàng hóa, tuy nhiên, phải đến khi Nghị định số
54/2000/NĐ-CP ra đời vào ngày 10/3/2000 thì khái niệm về TTM mới được
phác họa sơ lược trong pháp luật sở hữu trí tuệ của Việt Nam.
Đến nay, khái niệm TTM được củng cố và hoàn thiện hơn trong Luật
SHTT, như sau: “TTM là tên gọi của tổ chức, cá nhân dùng trong hoạt động
kinh doanh để phân biệt chủ thể kinh doanh mang tên gọi đó với chủ thể kinh

doanh khác trong cùng lĩnh vực và khu vực kinh doanh” [27, Đ 4.21]. Theo
quy định này, TTM có các đặc điểm chính sau:
- Là tên gọi của tổ chức, cá nhân trong hoạt động kinh doanh. Trong

9


đó, hoạt động kinh doanh được hiểu là hành vi của tổ chức, cá nhân thực hiện
liên tục một, một số hoặc tất cả các công đoạn của quá trình đầu tư, từ sản
xuất đến tiêu thụ sản phẩm hoặc cung ứng dịch vụ trên thị trường nhằm mục
đích sinh lợi. Hoạt động kinh doanh phải được thực hiện theo đúng ngành,
nghề đã ghi trong Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; bảo đảm điều kiện
kinh doanh theo quy định của pháp luật khi kinh doanh ngành, nghề kinh
doanh có điều kiện.
- Mục đích của TTM được đặt ra là nhằm phân biệt chủ thể mang TTM
đó với một chủ thể kinh doanh khác trong cùng một lĩnh vực và khu vực kinh
doanh. Trong đó, lĩnh vực kinh doanh được hiểu là toàn thể nội dung ngành,
nghề kinh doanh mà một doanh nghiệp tiến hành đầu tư, hoạt động theo quy
định của pháp luật và thường được thể hiện trong Giấy chứng nhận đăng ký
kinh doanh, giấy phép đầu tư, giấy chứng nhận đủ điều kiện kinh doanh, đăng
ký mã số thuế, điều lệ công ty đã đăng ký với cơ quan có thẩm quyền hoặc
các giấy tờ có giá trị pháp lý khác. Còn khu vực kinh doanh được hiểu là khu
vực địa lý nơi chủ thể kinh doanh có bạn hàng, khách hàng hoặc có danh
tiếng, thường được thể hiện trong các giao dịch, hợp đồng với bạn hàng,
khách hàng, đối tác, trong đó thể hiện rõ địa chỉ của bạn hàng, khách hàng,
đối tác mà chủ thể kinh doanh xác lập, thực hiện giao dịch kinh doanh cùng;
phạm vi biết đến danh tiếng của người tiêu dùng; địa điểm đặt các biển quảng
cáo, địa điểm tổ chức các sự kiện quảng cáo, tiếp thị về sản phẩm, dịch vụ của
chủ thể kinh doanh…
- Cấu tạo của TTM: Mặc dù không có quy định cụ thể về cấu tạo của

TTM, tuy nhiên, để trở thành TTM, thực hiện đúng chức năng của mình,
TTM phải hội tụ đủ 2 thành phần: một là thành phần chung (có thể là yếu tố
chỉ loại hình doanh nghiệp như CTCP, Công ty TNHH, Doanh nghiệp tư
nhân, Ngân hàng TMCP...; hoặc có thể là lĩnh vực kinh doanh như bánh kẹo,

10


thuốc lá, bóng đèn phích nước, luật sư....) và hai là thành phần tên riêng –
đây chính là yếu tố quyết định đến tính hợp lệ, hợp pháp của một TTM,
quyết định đến khả năng được bảo hộ với tư cách là một đối tượng sở hữu
công nghiệp bởi thành phần tên riêng đó phải chứa đựng được yếu tố để
phân biệt giữa tên đó và tên của các chủ thể kinh doanh khác trong khuôn
khổ yêu cầu của pháp luật
Ví dụ: CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI HÀ là một tên thương
mại với đầy đủ các thành phần, trong đó CÔNG TY CỔ PHẦN là yếu tố chỉ
loại hình doanh nghiệp, BÁNH KẸO là yếu tố chỉ lĩnh vực kinh doanh và
HẢI HÀ là yếu tố tên riêng để phân biệt với các doanh nghiệp khác, ví dụ
CÔNG TY CỔ PHẦN BÁNH KẸO HẢI CHÂU.
Như vậy, về cơ bản, khái niệm TTM theo quy định của pháp luật Việt
Nam cũng tương thích với khái niệm về TTM của các quốc gia trên thế giới
và các ĐƯQT.
1.1.2. Khái niệm quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại
Quyền SHCN là một bộ phận của quyền SHTT. Đây là phạm trù pháp
lý còn khá mới mẻ so với các phạm trù pháp lý truyền thống khác và nó chỉ
chính thức xuất hiện khoảng vài thế kỷ trở lại đây. Quyền SHTT nói chung và
quyền SHCN nói riêng được thừa nhận nhằm bảo hộ các thành quả sáng tạo
trí tuệ của con người. Với việc nhận được sự bảo hộ của Nhà nước, quyền
SHCN trở thành một loại quyền tài sản có giá trị lớn đối với chủ sở hữu –
những người đã sáng tạo ra hoặc đầu tư. Để bảo hộ quyền SHCN, mỗi quốc

gia có một hệ thống bảo hộ riêng, phù hợp với đặc thù về kinh tế, chính trị và
xã hội của mình.
Dưới giác độ pháp lý, thuật ngữ “quyền sở hữu công nghiệp” được hiểu
theo hai nghĩa:
- Theo nghĩa khách quan, quyền SHCN là một chế định pháp luật bao

11


gồm tổng thể các quy phạm pháp luật điều chỉnh các mối quan hệ xã hội phát
sinh trong quá trình tạo dựng, sử dụng và định đoạt các đối tượng SHCN
được Nhà nước bảo hộ.
- Theo nghĩa chủ quan, quyền SHCN là các quyền dân sự cụ thể của các
chủ sở hữu trong việc tạo dựng, sử dụng và định đoạt các đối tượng SHCN.
Theo quy định của pháp luật Việt Nam thì quyền SHCN là “quyền của tổ
chức, cá nhân đối với sáng chế, kiểu dáng công nghiệp, thiết kế bố trí mạch tích
hợp bán dẫn, nhãn hiệu, TTM, chỉ dẫn địa lý, bí mật kinh doanh do mình sáng
tạo ra hoặc sở hữu và quyền chống cạnh tranh không lành mạnh” [27, Đ 4.4]
Quy định trên khẳng định lại một lần nữa, TTM là một đối tượng của
quyền SHCN được hưởng sự bảo hộ của pháp luật SHCN. Qua đó, có thể hiểu
theo nghĩa hẹp nhất, quyền SHCN đối với TTM là quyền sở hữu của cá nhân,
pháp nhân đối với TTM do mình sở hữu. Quyền SHCN đối với TTM được
xác lập thông qua cơ chế bảo hộ tự động, thể hiện bởi hành vi sử dụng TTM
của chủ sở hữu trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của mình.
Để nhận được sự bảo hộ đối với TTM của mình, cá nhân, tổ chức sở
hữu TTM phải xác lập quyền đối với TTM theo quy định của pháp luật. Pháp
luật SHTT Việt Nam quy định căn cứ xác lập quyền SHCN đối với TTM theo
nguyên tắc bảo hộ tự động thông qua việc sử dụng hợp pháp TTM của chủ sở
hữu trên thực tế mà không phải thông qua bất kỳ thủ tục hành chính nào và
bởi bất kỳ cơ quan nhà nước nào. Tuy vậy, điều đó không đồng nghĩa với việc

quyền SHCN đối với TTM được xác lập một cách tùy tiện và không theo một
khuôn khổ pháp lý nào. Ngược lại, để được hưởng sự bảo hộ của Nhà nước,
chủ sở hữu TTM phải sử dụng TTM một cách hợp pháp toàn diện. Tính toàn
diện trong việc sử dụng TTM của chủ sở hữu không chỉ dừng lại trong phạm
vi pháp luật SHTT – nghĩa là chủ thể kinh doanh phải lựa chọn một cái tên
đáp ứng đầy đủ điều kiện để trở thành TTM – có yếu tố phân biệt giữa chủ thể

12


mang TTM đó với các chủ thể kinh doanh khác trong cùng một lĩnh vực và
khu vực kinh doanh. Tính toàn diện của việc sử dụng hợp pháp đó còn nằm
trong hoạt động kinh doanh của chủ thể - bị chi phối bởi các quy định của
pháp luật về dân sự (chẳng hạn: liên quan đến chế định về chủ thể kinh doanh,
chế định đại diện của pháp nhân, liên quan đến việc thực hiện các giao dịch,
hợp đồng mang tính nguyên tắc...), pháp luật về doanh nghiệp (ví dụ: liên
quan đến loại hình hoạt động của doanh nghiệp, đến cơ cấu, tổ chức tương
ứng với từng loại hình doanh nghiệp, liên quan đến việc xác lập và chấm dứt
hoạt động của doanh nghiệp...), pháp luật về kinh doanh – thương mại (liên
quan đến các loại hình hoạt động thương mại của chủ thể...) và các pháp luật
chuyên ngành khác liên quan đến lĩnh vực kinh doanh mà chủ thể kinh doanh
đó lựa chọn/ đăng ký hoạt động (luật đất đai, luật kinh doanh bất động sản,
luật các tổ chức tín dụng, luật đầu tư, luật chứng khoán...). Theo đó, một chủ
thể sử dụng một cái tên trong hoạt động kinh doanh nhưng hoạt động kinh
doanh này là bất hợp pháp thì tính toàn diện của việc sử dụng tên của chủ thể
đó không được bảo toàn và có khả năng cái tên đó sẽ không được hưởng sự
bảo hộ với tư cách là đối tượng của quyền SHTT. Như vậy, việc sử dụng
TTM của chủ sở hữu phải đảm bảo tuân thủ toàn diện các quy định pháp luật,
không chỉ riêng pháp luật về SHTT mà còn cả pháp luật liên quan đến hoạt
động kinh doanh của chủ thể. Chỉ khi hoạt động kinh doanh của chủ thể là

hợp pháp, chủ thể mang TTM mới được Nhà nước công nhận là chủ sở hữu
TTM và theo sau đó, chủ sở hữu sẽ có được sự bảo hộ của Nhà nước đối với
TTM đó ngay từ hành vi sử dụng TTM hợp pháp đầu tiên trong phạm vi khu
vực kinh doanh và lĩnh vực kinh doanh nhất định.
Với việc sử dụng TTM trên thực tế, cá nhân, tổ chức mang TTM được
xác định là chủ sở hữu TTM và được hưởng sự bảo hộ của Nhà nước như sau:
- Được quyền sử dụng độc quyền TTM trong mọi hoạt động kinh
doanh của mình;
13


- Được chuyển nhượng quyền đối với TTM cho người khác cùng với
việc chuyển nhượng toàn bộ cơ sở kinh doanh và hoạt động kinh doanh dưới
tên thương mại đó;
- Được quyền cấm bên thứ ba sử dụng chỉ dẫn thương mại trùng hoặc
tương tự với TTM mà mình đã được sử dụng trước cho cùng loại sản phẩm,
dịch vụ hoặc cho sản phẩm, dịch vụ tương tự, gây nhầm lẫn về chủ thể kinh
doanh, cơ sở kinh doanh, hoạt động kinh doanh dưới TTM đó;
- Được quyền yêu cầu cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc người có
hành vi xâm phạm quyền sở hữu TTM của mình phải chấm dứt hành vi và bồi
thường thiệt hại.
Tóm lại, quyền SHCN đối với TTM được quy định một cách tương đối
đầy đủ và cụ thể trong hệ thống pháp luật SHTT Việt Nam, làm căn cứ để bảo
đảm các quyền và lợi ích hợp pháp của chủ sở hữu TTM và các chủ thể liên
quan, trong đó, có người tiêu dùng một cách tương đối trọn vẹn.
1.1.3. Nội dung quyền sở hữu công nghiệp đối với tên thương mại
1.1.3.1. Quyền sử dụng tên thương mại
Một trong những đặc trưng quan trọng của đối tượng quyền SHTT là
đặc tính vô hình. Bởi thế, đối tượng quyền SHTT nói chung và TTM nói
riêng, phải được vật chất hóa, hữu hình hóa thông qua phương tiện là các vật

hữu hình mang tin cụ thể. Hơn nữa, cũng như các đối tượng SHCN khác, bản
thân TTM không thể tự đem lại các tiện ích hiện hữu cho người nắm giữ nó
mà chỉ có thể đem lại các lợi ích vật chất, tinh thần cùng các lợi thế kinh
doanh, thương mại cho chủ sở hữu thông qua việc áp dụng, chuyển tải hay
đưa nó vào hoạt động sản xuất, kinh doanh hoặc thương mại. Do vậy, việc ghi
nhận quyền và phương thức thể hiện quyền sử dụng TTM của chủ sở hữu là
vô cùng có ý nghĩa bởi, trong hoạt động kinh doanh, ngoài việc mang lại cho
chủ sở hữu các lợi ích vật chất, các lợi thế kinh doanh, nó còn đặt ra nghĩa vụ

14


của các chủ thể khác phải tôn trọng quyền của chủ sở hữu. Vì vậy, độc quyền
sử dụng TTM của chủ sở hữu đã được pháp luật ưu tiên quy định hàng đầu,
trước tất cả những quyền khác của chủ sở hữu đối với TTM được bảo hộ.
Pháp luật Việt Nam quy định về phương thức thực hiện quyền sử dụng
TTM của chủ sở hữu đó là “hành vi nhằm mục đích thương mại bằng cách
dùng TTM để xưng danh trong các hoạt động kinh doanh, thể hiện TTM
trong các giấy tờ giao dịch, biển hiệu, sản phẩm, hàng hoá, bao bì hàng hoá
và phương tiện cung cấp dịch vụ, quảng cáo” [27, Đ 124.6]. Theo đó, việc
sử dụng TTM của chủ sở hữu được xác định như sau: thứ nhất, về mục đích:
việc sử dụng TTM của chủ sở hữu nhằm mục đích thương mại; thứ hai, về
hành vi, bao gồm (i) hành vi dùng TTM để xưng danh trong hoạt động kinh
doanh; (ii) hành vi thể hiện TTM trong các giấy tờ giao dịch, biển hiệu, sản
phẩm, hàng hóa, bao bì hàng hóa và phương tiện cung cấp dịch vụ, quảng cáo.
Như vậy, trước tiên, việc sử dụng TTM của cá nhân, tổ chức sở hữu
TTM phải nhằm đảm bảo cho cá nhân, tổ chức đạt được mục đích thương
mại. Mặc dù các văn bản pháp luật nói chung và văn bản pháp luật về SHTT
nói riêng không có một giải nghĩa/ định nghĩa hay dẫn chiếu cụ thể về cụm từ
“mục đích thương mại” trong việc sử dụng TTM, tuy nhiên, từ các văn bản

pháp luật về kinh doanh, thương mại, từ cách hiểu các cụm từ có ý nghĩa liên
quan và thực tiễn thực thi luật SHTT, có thể hiểu “mục đích thương mại” là
những giá trị, lợi ích vật chất mà cá nhân, tổ chức sở hữu TTM dự kiến sẽ đạt
được thông qua hành vi sử dụng TTM trong hoạt động kinh doanh, thương
mại của chính tổ chức, cá nhân đó. Theo đó, việc xác định mục đích của việc
sử dụng một cái tên trong hoạt động của các chủ thể có ý nghĩa quan trọng bởi
hành vi sử dụng tên trùng hoặc tương tự với TTM của người khác nhưng
không nhằm mục đích thương mại sẽ không thể coi là hành vi xâm phạm
quyền SHCN đối với TTM.

15


Tiếp sau, việc sử dụng TTM là sự thể hiện, bộc lộ một cái tên nhất định
và xác định của cá nhân, tổ chức trong các hoạt động kinh doanh mà cá nhân,
tổ chức đó tham gia, trên các tài liệu, giấy tờ giao dịch, trên biển hiệu, sản
phẩm, hàng hóa, bao bì hàng hóa mà cá nhân, tổ chức đó sản xuất, cung cấp,
phân phối trên thị trường, hay trên phương tiện cung cấp dịch vụ, quảng cáo
về cá nhân, tổ chức đó hoặc các sản phẩm, hàng hóa, dịch vụ của cá nhân, tổ
chức đó để các chủ thể khác khi tham gia xác lập giao dịch với cá nhân, tổ
chức đó sẽ biết được mình đang xác lập, thực hiện giao dịch với ai. Do đó,
bên cạnh mục đích thương mại, mục đích tiếp theo của việc sử dụng TTM là
nhằm bộc lộ, thể hiện cho chủ thể khác, bao gồm đối tác trong kinh doanh,
người tiêu dùng trên thị trường, thậm chí cả đối thủ cạnh tranh trên thương
trường biết được đặc điểm của chủ sở hữu TTM đó.
Tuy nhiên, độc quyền sử dụng TTM của chủ sở hữu bị giới hạn trong
một phạm vi khu vực và lĩnh vực kinh doanh nhất định mà chủ sở hữu TTM
đó có hoạt động kinh doanh. Vì thế, phạm vi được hưởng sự bảo hộ đối với
TTM được xác định trong phạm vi khu vực và lĩnh vực kinh doanh; nghĩa là,
chủ sở hữu TTM càng hoạt động trên một khu vực kinh doanh và lĩnh vực

kinh doanh rộng thì phạm vi độc quyền sử dụng TTM của chủ sở hữu càng
rộng, khả năng được hưởng sự bảo hộ của Nhà nước càng nhiều và ngược lại.
Như vậy, chính những lợi ích mà TTM mang lại cho chủ sở hữu của nó
mà việc ghi nhận quyền sử dụng TTM trên thực tế có ý nghĩa hết sức quan
trọng đối với chủ sở hữu TTM bởi quyền sử dụng TTM mang tính chất tuyệt
đối, là độc quyền của chủ sở hữu nên ngoài chủ sở hữu, không một ai được
thực hiện quyền sử dụng TTM. Độc quyền của chủ sở hữu TTM đồng nghĩa
với việc, chủ sở hữu TTM đối lập với không chỉ một chủ thể cụ thể mà trong
một phạm vi khu vực và lĩnh vực kinh doanh nhất định theo quy định của
pháp luật, sẽ đối lập với tất cả những người thứ ba – những người có nghĩa vụ

16


không vi phạm và không cản trở chủ sở hữu TTM thực hiện các hành vi thể
hiện quyền sử dụng TTM của mình [2].
1.1.3.2. Quyền ngăn cấm người khác sử dụng tên thương mại
Độc quyền sử dụng TTM là độc quyền của chủ sở hữu TTM, theo đó,
độc quyền sử dụng cũng mang lại cho chủ sở hữu quyền ngăn cấm người khác
sử dụng TTM của mình. Hay nói cách khác, quyền ngăn cấm người khác sử
dụng TTM là khía cạnh khác của độc quyền sử dụng TTM của chủ sở hữu
TTM bởi lẽ: về nguyên tắc, quyền sử dụng là độc quyền của chủ sở hữu TTM,
khi chủ sở hữu được độc quyền sử dụng, đồng nghĩa với bất kỳ người thứ ba
nào cũng không được quyền sử dụng TTM, nếu người thứ ba nào có hành vi
thể hiện quyền sử dụng TTM mà pháp luật đã bảo hộ cho chủ sở hữu TTM thì
đó là hành vi xâm phạm quyền của chủ sở hữu TTM, theo đó, chủ sở hữu
TTM có quyền ngăn cấm hành vi sử dụng trái phép TTM đó.
Trong pháp luật Việt Nam, quyền ngăn cấm người khác sử dụng TTM
được quy định như sau:
Chủ sở hữu đối tượng sở hữu công nghiệp và tổ chức, cá

nhân được trao quyền sử dụng hoặc quyền quản lý chỉ dẫn địa lý có
quyền ngăn cấm người khác sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp
nếu việc sử dụng đó không thuộc các trường hợp quy định tại khoản
2 và khoản 3 Điều này [27, Đ 125.1]
Như vậy, trong phạm vi giới hạn về khu vực kinh doanh và lĩnh vực
kinh doanh, chủ sở hữu TTM có quyền ngăn cấm người khác sử dụng TTM
của mình dù với bất kỳ mục đích, cách thức nào để xưng danh trong hoạt
động kinh doanh mà không phải của chủ sở hữu TTM và không được chủ
sở hữu TTM cho phép. Quyền này được quy định không chỉ nhằm bảo hộ
cho hoạt động kinh doanh chân chính của doanh nghiệp mà còn nhằm mục
đích bảo vệ quyền và lợi ích của những người trực tiếp tham gia giao dịch

17


với chủ sở hữu TTM đó, tránh mọi trường hợp giao dịch được xác lập một
cách trái pháp luật.
Giới hạn của quyền ngăn cấm người khác sử dụng TTM của chủ sở
hữu TTM: Xuất phát từ chính nguyên tắc kim chỉ nam của pháp luật SHTT –
nguyên tắc cân bằng lợi ích của các chủ thể, quyền ngăn cấm người khác sử
dụng TTM của chủ sở hữu cũng bị giới hạn trong một số trường hợp nhất
định, đó là: “Sử dụng một cách trung thực tên người, dấu hiệu mô tả chủng
loại, số lượng, chất lượng, công dụng, giá trị, nguồn gốc địa lý và các đặc
tính khác của hàng hóa, dịch vụ” [27, Đ 125.2.h]. Theo đó, trường hợp TTM,
nhãn hiệu mang địa danh được sử dụng trước khi chỉ dẫn địa lý hoặc nhãn
hiệu mang địa danh tương ứng được cấp văn bằng bảo hộ và các đối tượng
này đều đáp ứng các điều kiện bảo hộ theo quy định pháp luật, thì việc sử
dụng một cách trung thực các đối tượng nói trên không bị coi là hành vi vi
phạm theo quy định tại các điểm g, h khoản 2 Điều 125 của Luật Sở hữu trí
tuệ [8, Đ 8.7.c.(iii)]

Theo đó, trong một phạm vi hoạt động kinh doanh và lĩnh vực kinh
doanh mà chủ sở hữu TTM và chủ thể thứ ba cùng hoạt động kinh doanh,
quyền ngăn cấm của chủ sở hữu TTM bị hạn chế khi hành vi sử dụng của chủ
thể khác đáp ứng đồng thời các điều kiện sau:
- Tên mà chủ thể thứ ba sử dụng là tên người, dấu hiệu mô tả các đặc
tính, đặc điểm của hàng hóa, dịch vụ (gồm chủng loại, số lượng, công
dụng....) – đây là từ/ cụm từ mang tính phổ biến/ thông dụng (tên của người)
hay mang ý nghĩa mô tả đặc điểm, bản chất, đặc tính vốn có của hàng hóa,
dịch vụ trong thực tế tồn tại của sự vật, hiện tượng trong thế giới khách quan
mà không phải từ/ cụm từ có tính sáng tạo, đặc sắc và có thể phân biệt được.
- Việc sử dụng cái tên này của chủ thể thứ ba phải trung thực. Theo
cách hiểu thông thường, trung thực là sự ngay thẳng, thật thà, hành xử đúng

18


×