Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀO DẠY HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (325.65 KB, 19 trang )

ĐẠI HỌC SƯ PHẠM ĐÀ NẴNG
KHOA TÂM LÝ GIÁO DỤC


TIỂU LUẬN
ĐỀ TÀI: ỨNG DỤNG CÔNG NGHỆ THÔNG TIN VÀO
DẠY HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC

SVTH : Phạm Phú Quí
Lớp
: 13CTXH
GVHD : Bùi Văn Vân

Đà Nẵng, ngày 27 tháng 6 năm 2014


ỨNG DỤNG CNTT VÀO DẠY HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC

MỤC LỤC
Phần mở đầu.......................................................................................3
1. Lý do chọn đề tài..................................................................................3
2. Mục đích nghiên cứu............................................................................3
Phần nội dung.....................................................................................4
I. Lý luận về quản lý ứng dụng CNTT trong dạy học.............................4
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu..........................................................4
1.2. Một số khái niệm cơ bản.......................................................................4
1.3. Dạy học tích cực và CNTT cho dạy học tích cực ................................5
1.4. Ưu điểm, khó khăn và thách thức.........................................................7
II. Thực trạng của ứng dụng CNTT trong dạy học...................................10
2.1. Ứng dụng CNTT trong soạn giáo án....................................................10
2.2. Khai thác mạng Internet phục vụ cho dạy học.....................................13


2.3. Thực trạng của ứng dụng CNTT trong nhà trường Phổ thông ............13
2.4. Các hình thức ứng dụng CNTT trong dạy học.....................................14
III. Đề xuất biện pháp.................................................................................15
Kết luận...............................................................................................18

GVHD: BÙI VĂN VÂN
SVTH : PHẠM PHU QUÍ

2


ỨNG DỤNG CNTT VÀO DẠY HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong thời đại ngày nay, mỗi quốc gia đều đứng trước thời cơ và
thách thức to lớn, đó là sự bùng nổ thông tin, sự phát triển như vũ bão của
cuộc cách mạng khoa học-công nghệ,dẫn đến sự hình thành xã hội thông tin
và nền kinh tế tri thức. Trong đó, trình độ dân trí, tiềm lực khoa học- công
nghệ trở thành một trong những nhân tố quyết định sức mạnh và vị thế của
mỗi quốc gia. Do đó, việc tập trung đầu tư cho sự nghiệp giáo dục và đào tạo
(GD-ĐT) là chiến lược quan trọng hàng đầu của mỗi quốc gia.
Đối với nước ta, trước yêu cầu ngày càng cao của xã hội đối với GDĐT, Đảng và Nhà nước đã tập trung đưa ra những quyết sách lãnh đạo, đầu
tư cho giáo dục. Coi việc đầu tư cho giáo dục là đầu tư cho phát triển và là
lĩnh vực đầu tư có hiệu quả nhất, nhằm đưa chất lượng GD-ĐT của Việt
Nam từng bước phát triển ngang tầm với khu vực và thế giới. Để đáp ứng
yêu cầu hội nhập thế giới công nghệ hiện đại; đáp ứng yêu cầu đào tạo
nguồn nhân lực phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, giáo dục thực sự phải đi
trước, đón đầu và đổi mới. Và để hoàn thành sứ mệnh của mình, các nhà
quản lý giáo dục từ trung ưng đến địa phương hơn ai hết phải hiểu tầm quan

trọng của công nghệ thông tin (CNTT) với công tác giáo dục và phải có
những biện pháp quản lý hiệu quả để việc ứng dụng CNTT trở thành một
nhiệm vụ trọng tâm, chủ yếu và tất yếu.
Nhận rõ vai trò của CNTT trong sự phát triển của đất nước, Chỉ thị số
55/2008/CT-BGD ĐT ngày 30/09/2008 cảu Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào
tạo về tăng cường giảng dạy, đào tạo, ứng dụng CNTT trong ngành Giáo dục
giai đoạn 2008-2012 đã chỉ rõ: “Phát triển nguồn nhân lực CNTT và ứng
dụng CNTT trong giáo dục là một nhiệm vụ quan trọng có ý nghĩa quyết
định sự phát triển CNTT của đất nước”. Như vậy, việc quản lý ứng dụng
CNTT trong hoạt động dạy học góp phần thực hiện đổi mới giáo dục nói
chung, đổi mới phương pháp giáo dục nói riêng hiện nay, nhằm nâng cao
chất lượng đào tạo học sinh phổ thông.
2. Mục đích nghiên cứu
Đề xuất các biện pháp quản lý hoạt động ứng dụng CNTT nhằm nâng
cao chất lượng giáo dục, tăng tính hiệu quả và đẩy mạnh ứng dụng CNTT
trong dạy học ở các trường trung học.

GVHD: BÙI VĂN VÂN
SVTH : PHẠM PHU QUÍ

3


ỨNG DỤNG CNTT VÀO DẠY HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC

PHẨN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN VỀ QUẢN LÝ ỨNG DỤNG CNTT
TRONG DẠY HỌC
1.1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu
Cuối những năm 70 của thế kỉ XX, một số nước trên thế giới đã ứng

dụng CNTT như là một động lực thúc đẩy sự phát triển của kinh tế - xã hội.
Cùng với việc ứng dụng ngày càng rộng rãi CNTT, nhiều quốc gia đã xây
dựng chiến lược CNTT, đặc biệt là ở các nước phát triển, mà một bộ phận
quan trọng của chiến lược này là xác định cách thức đưa kiến thức tin học
vào dạy trong nhà trường. Theo các tư liệu tổng hợp, đặc biệt là của
UNESCO, hầu hết các nước đều đưa các kiến thức tin học, kĩ năng cơ bản
của CNTT vào giảng dạy ở các trường phổ thông, thể hiện rõ hơn từ cấp
Trung học cơ sở theo nhiều hình thức tổ chức dạy học khác nhau. Cụ thể
như: xem tin học là một môn học riêng biệt và là môn học bắt buộc, giống
như những môn học khác đối với mọi học sinh (ở nhiều bang của Hoa Kì, ở
Úc,..); xem tin học cũng là môn học riêng biệt nhưng theo hình thức tự chọn
(ở Pháp, Đức, Trung Quốc, Ấn Độ, Hàn Quốc,…).
Ngày nay, vấn đề ứng dụng CNTT trong ngành GD-ĐT được các
nước trên thế giới quan tâm và đã trở nên một vấn đề toàn cầu. CNTT mang
đến sự đổi mới về cách dạy và cách học cho mọi cấp học. Từ đó, các quốc
gia đã nghiên cứu vai trò, lợi ích của CNTT, ứng dụng CNTT vào dạy học,
đổi mới phương pháp dạy học và công tác quản lý giáo dục, xem CNTT như
là công cụ, phương tiện dạy học mới để nâng cao chất lượng, hiệu quả giáo
dục. Đặc biệt, với sự ra đời của các phần mềm dạy học đã hỗ trợ đắc lực cho
việc ứng dụng CNTT vào dạy học bộ môn.
1.2. Một số khái niêm cơ bản
1.2.1 Quản lý
Quản lý đặc trưng cho quá trình điều khiển và dẫn hướng tất cả các bộ
phận của một tổ chức, thường là tổ chức kinh tế, thông qua việc thành lập và
thay đổi các nguồn tài nguyên. Quản lý được giải thích như là nhiệm vụ của
một nhà lãnh đạo thực thụ, nhưng không phải là sự khởi đầu để họ triển khai
công việc.
1.2.2 Công nghệ thông tin (CNTT)
CNTT là một nhánh ngành kĩ thuật sử dụng máy tính và phần mềm
máy tính để chuyển đổi, lưu trữ, bảo vệ, xử lý, truyền tải và thu thập thông

tin.

GVHD: BÙI VĂN VÂN
SVTH : PHẠM PHU QUÍ

4


ỨNG DỤNG CNTT VÀO DẠY HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC

Ở Việt Nam, khái niệm CNTT được hiểu và định nghĩa trong nghị
quyết Chính phủ 49/CP kí ngày 04/08/1993: "Công nghệ thông tin là tập
hợp các phương pháp khoa học, các phương tiện và công cụ kĩ thuật hiện
đại - chủ yếu là kĩ thuật máy tính và viễn thông - nhằm tổ chức khai thác và
sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên thông tin rất phong phú và tiềm
năng trong mọi lĩnh vực hoạt động của con người và xã hội".
1.2.3 Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học
Theo Luật công nghệ thông tin số 67/2006/QH11 ngày 29/06/2006:
“Ứng dụng CNTT là việc sử dụng CNTT vào các hoạt động thuộc lĩnh vực
kinh tế - xã hội, an ninh, quốc phòng, đối ngoại và các hoạt động khác nhằm
nâng cao năng suất, chất lượng, hiệu quả của các hoạt động này”.
Ứng dụng CNTT trong GD-ĐT là một yêu cầu đặt ra trong những chủ
trương chung của Đảng và Nhà nước về đẩy mạnh ứng dụng CNTT trong tất
cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế - xã hội.
1.3. Dạy học tích cực và công nghệ thông tin cho dạy học tích cực
1.3.1. Phương pháp dạy học tích cực
Phương pháp dạy học tích cực (PPDH tích cực) thường được dùng để
chỉ những phương pháp nhằm phát huy tính tích cực, chủ động và sáng tạo
của người học. Do đó, PPDH tích cực không phải là một PPDH cụ thể nào,
mà bao gồm nhiều PPDH, hình thức tổ chức và kĩ thuật dạy học khác nhau,

nhằm tăng cường sự tham gia của người học, tạo điều kiện phát triển tối đa
khả năng học tập, năng lực giải quyết vấn đề của người học. Từ đó đem lại
niềm say mê, hứng thú trong học tập và nghiên cứu cho người học.
Một số dấu hiệu đặc trưng của PPDH tích cực
* Dạy và học thông qua tổ chức các hoạt động của người học và
chú trọng rèn luyện phương pháp tự học.
Tổ chức các hoạt động học tập của người học, phải trở thành trung tâm
của quá trình giáo dục.Giảng viên cần xác lập kế hoach dạy học của mình,
để định hướng và hướng dẫn sinh viên phát triển các năng lực cần thiết cho
hiện tại và trong tương lai. Qua các hoạt động học tập, sinh viên được đặt
trong các tình huống có vấn đề, tham gia thảo luận, trao đổi được khuyến
khích đưa ra các giải pháp giải quyết vấn đề theo cách của mình.Trong dạy
học tích cực, điều cần thiết là chú trọng rèn luyện cho sinh viên phương
pháp tự học, từ đó giúp họ có phương pháp, thói quen tự học, tự nghiên cứu
và sáng tạo.
* Dạy và học coi trọng hướng dẫn tìm tòi.
Giải pháp giúp sinh viên phát triển kĩ năng giải quyết vấn đề và có thể
học được các phương pháp học thông qua hoạt động, là dạy học coi trọng
hướng dẫn tìm tòi. Đặc trưng này đòi hỏi sinh viên phải học tập tích cực, để
GVHD: BÙI VĂN VÂN
SVTH : PHẠM PHU QUÍ

5


ỨNG DỤNG CNTT VÀO DẠY HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC

tìm lời giải cho vấn đề đặt ra. Đồng thời trong quá trình đó, giảng viên cần
có sự hướng dẫn kịp thời giúp cho hoạt động của sinh viên đạt kết tốt.
* Kết hợp đánh giá của giảng viên với tự đánh giá của sinh viên.

Trong dạy học tích cực, đánh giá không chỉ nhằm mục đích nhận thức
thực trạng và điều chỉnh hoạt động học tập của sinh viên mà còn nhận định
thực trạng và điều chỉnh hoạt động dạy của giảng viên.
Tự đánh giá là hình thức đánh giá mà sinh viên tự liên hệ phần nhiệm
vụ thực hiện với các mục tiêu của quá trình học tập.Từ đó họ có thể tự điều
chỉnh cách học, xác định động cơ học tập và lập kế hoạch để tự nâng cao kết
quả học tập của mình.
Kết hợp đánh giá của giảng viên và tự đánh giá của sinh viên, không
những giúp sinh viên nhìn nhận mình mà giảng viên có điều kiện nhìn nhận
chính mình để điều chỉnh cách dạy.
Như vậy, những PPDH nào có những dấu hiệu đặc trưng như trên đều
là các phương pháp dạy học tích cực, như: phương pháp dạy học nhóm, nêu
và giải quyết vấn đề, dạy học theo dự án…
1.3.2. Công nghệ thông tin cho dạy học tích cực
Quyết nghị của Chính phủ năm 2005, về đề án phát triển Giáo dục đại
học Việt Nam định hướng đến 2020, đã nêu rõ các giải pháp đổi mới phương
pháp đào tạo theo các tiêu chí: trang bị cách học cho người học, phát huy
tính chủ động của người học và sử dụng công nghệ thông tin và truyền thông
trong hoạt động dạy và học.
Do đó, ứng dụng CNTT vào dạy học nhằm phát huy tính tích cực, chủ
động và sáng tạo của sinh viên là một yêu cầu tất yếu trong giai đoạn hiện
nay.
Việc ứng dụng CNTT vào dạy học là một quá trình thường xuyên, liên
tục theo từng giai đoạn, từ việc tiếp cận công nghệ, bồi dưỡng kĩ năng sử
dụng đến hoàn thiện phương pháp sử dụng CNTT trong dạy học. Theo Mô
hình TPACK (Teachnological pedagogical content knowledge - Kiến thức
nội dung, phương pháp và công nghệ) đưa ra cách nhìn tổng quát về ba dạng
cơ bản của kiến thức mà một giảng viên cần có để ứng dụng CNTT vào hoạt
động dạy học của mình: kiến thức công nghệ, kiến thức phương pháp và
kiến thức nội dung, cũng như mối quan hệ và tương tác giữa chúng.

Một giảng viên có khả năng kết hợp được cả ba dạng cơ bản của kiến
thức trong dạy học sẽ đạt được kết quả trong giảng dạy hơn kiến thức của
một nhà chuyên môn (nhà toán học) chuyên gia công nghệ (nhà khoa học
máy tính) và một chuyên gia về phương pháp (nhà giáo dục học). Tuy nhiên,
để đạt được yêu cầu đó, đòi hỏi giảng viên phải luôn luôn nỗ lực, tự nâng
cao kĩ năng sử dụng CNTT, bồi dưỡng phương pháp giảng dạy và hiểu biết
sâu sắc về nội dung mình giảng dạy.
GVHD: BÙI VĂN VÂN
SVTH : PHẠM PHU QUÍ

6


ỨNG DỤNG CNTT VÀO DẠY HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC

Hiện nay, có rất nhiều phần mềm ứng dụng trong dạy học các bộ môn
nói chung và các phần mềm chuyên biệt sử dụng trong giảng dạy môn toán.
Các phần mềm này rất hữu ích cho hỗ trợ giảng dạy theo phương pháp dạy
học tích cực như các phần mềm: MS PowerPoint, Exe learning, Violet,…
Tuy nhiên, việc giảng viên nắm được các ưu điểm và nhược điểm của từng
phần mềm và ứng dụng vào từng môn học, tiết học cụ thể, còn tùy thuộc vào
khả năng thiết kế của mình, mới mong mang lại kết quả tốt hơn. Nếu không,
dễ dẫn đến quá tải về thông tin, về thời gian, làm cho người học trở nên thụ
động trong các hoạt động học tập. Chẳng hạn, một trong những ưu điểm của
MS PowerPoint là hỗ trợ người dạy trình bày ý tưởng của mình, còn người
học có được thông tin bằng hình ảnh qua đó dễ dàng cho việc lĩnh hội kiến
thức. Song, nó vẫn có những nhược điểm, hạn chế, chẳng hạn: đôi khi phần
trình chiếu lại có vẻ quan trọng hơn cả nội dung và các hoạt động học tập
của người học.
1.4. Ưu điểm, khó khăn và thách thức

1.4.1. Ưu điểm:
Ưu điểm nổi bật của phương pháp dạy học bằng công nghệ thông tin so
với phương pháp giảng dạy truyền thống là:
- Môi trường đa phương tiện kết hợp những hình ảnh vedeo, camera …
với âm thanh, văn bản, biểu đồ … được trình bày qua máy tính theo kịch bản
vạch sẵn nhằm đạt hiệu quả tối đa qua một quá trình học đa giác quan.
- Kĩ thuật đồ hoạ nâng cao có thể mô phỏng nhiều quá trình, hiện tượng
trong tự nhiên, xã hội trong con người mà không thể hoặc không nên để xảy
ra trong điều kiện nhà trường.
- Công nghệ tri thức nối tiếp trí thông minh của con người, thực hiện
những công việc mang tính trí tuệ cao của các chuyên gia lành nghề trên
những lĩnh vực khác nhau.
- Những ngân hàng dữ liệu khổng lồ và đa dạng được kết nối với nhau
và với người sử dụng qua những mạng máy tính kể cả Internet … có thể
được khai thác để tạo nên những điều kiện cực kì thuận lợi và nhiều khi
không thể thiếu để học sinh học tập trong hoạt động và bằng hoạt động tự
giác, tích cực và sáng tạo, được thực hiện độc lập hoặc trong giao lưu.[7]
Những thí nghiệm, tài liệu được cung cấp bằng nhiều kênh: kênh hình, kênh
chữ, âm thanh sống động làm cho học sinh dễ thấy, dễ tiếp thu và bằng suy
luận có lý, học sinh có thể có những dự đoán về các tính chất, những quy
luật mới. Đây là một công dụng lớn của công nghệ thông tin và truyền thông
trong quá trình đổi mới phương pháp dạy học. Có thể khẳng định rằng, môi
trường công nghệ thông tin và truyền thông chắc chắn sẽ có tác động tích
GVHD: BÙI VĂN VÂN
SVTH : PHẠM PHU QUÍ

7


ỨNG DỤNG CNTT VÀO DẠY HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC


cực tới sự phát triển trí tuệ của học sinh và điều này làm nảy sinh những lý
thuyết học tập mới.
1.4.2. Thách thức
Theo nhận định của một số chuyên gia, thì việc đưa công nghệ thông
tin và truyền thông ứng dụng vào lĩnh vực giáo dục và đào tạo bước đầu đã
đạt được những kết quả khả quan. Tuy nhiên, những gì đã đạt được vẫn còn
hết sức khiêm tốn. Khó khăn, vướng mắc và những thách thức vẫn còn ở
phía trước bởi những vấn đề nảy sinh từ thực tiễn. Chẳng hạn:
- Tuy máy tính điện tử mang lại rất nhiều thuận lợi cho việc dạy học
nhưng trong một mức độ nào đó, thì công cụ hiện đại này cũng không thể hỗ
trợ giáo viên hoàn toàn trong các bài giảng của họ. Nó chỉ thực sự hiệu quả
đối với một số bài giảng chứ không phải toàn bộ chương trình do nhiều
nguyên nhân, mà cụ thể là, với những bài học có nội dung ngắn, không
nhiều kiến thức mới, thì việc dạy theo phương pháp truyền thống sẽ thuận
lợi hơn cho học sinh, vì giáo viên sẽ ghi tất cả nội dung bài học đó đủ trên
một mặt bảng và như vậy sẽ dễ dàng củng cố bài học từ đầu đến cuối mà
không cần phải lật lại từng “slide” như khi dạy trên máy tính điện tử. Những
mạch kiến thức “ vận dụng” đòi hỏi giáo viên phải kết hợp với phấn trắng
bảng đen và các phương pháp dạy học truyền thống mới rèn luyện được kĩ
nằng cho học sinh.
- Bên cạnh đó, kiến thức, kỹ năng về công nghệ thông tin ở một số
giáo viên vẫn còn hạn chế, chưa đủ vượt ngưỡng để đam mê và sáng tạo,
thậm chí còn né tránh. Mặc khác, phương pháp dạy học cũ vẫn còn như một
lối mòn khó thay đổi, sự uy quyền, áp đặt vẫn chưa thể xoá được trong một
thời gian tới. Việc dạy học tương tác giữa người - máy, dạy theo nhóm, dạy
phương pháp tư duy sáng tạo cho học sinh, cũng như dạy học sinh cách biết,
cách làm, cách chung sống và cách tự khẳng định mình vẫn còn mới mẻ đối
với giáo viên và đòi hỏi giáo viên phải kết hợp hài hòa các phương pháp dạy
học đồng thời phát huy ưu điểm của phương pháp dạy học này làm hạn chế

những nhược điểm của phương pháp dạy học truyền thống. Điều đó làm cho
công nghệ thông tin, dù đã được đưa vào quá trình dạy học, vẫn chưa thể
phát huy tính trọn vẹn tích cực và tính hiệu quả của nó.
- Việc sử dụng công nghệ thông tin để đổi mới phương pháp dạy học
chưa được nghiên cứu kỹ, dẫn đến việc ứng dụng nó không đúng chỗ, không
đúng lúc, nhiều khi lạm dụng nó.
- Việc đánh giá một tiết dạy có ứng dụng công nghệ thông tin còn
lúng túng, chưa xác định hướng ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy
học. Chính sách, cơ chế quản lý còn nhiều bất cập, chưa tạo được sự đồng
bộ trong thực hiện. Các phương tiện, thiết bị phục vụ cho việc đổi mới
phương pháp dạy học bằng phương tiện chiếu projector, … còn thiếu và
GVHD: BÙI VĂN VÂN
SVTH : PHẠM PHU QUÍ

8


ỨNG DỤNG CNTT VÀO DẠY HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC

chưa đồng bộ và chưa hướng dẫn sử dụng nên chưa triển khai rộng khắp và
hiệu quả.
- Việc kết nối và sử dụng Internet chưa được thực hiện triệt để và có
chiều sâu; sử dụng không thường xuyên do thiếu kinh phí, do tốc độ đường
truyền. Công tác đào tạo, Công tác bồi dưỡng, tự bồi dưỡng đội ngũ giáo
viên chỉ mới dừng lại ở việc xoá mù tin học nên giáo viên chưa đủ kiến thức,
mất nhiều thời gian và công sức để sử dụng công nghệ thông tin trong lớp
học một cách có hiệu quả.

GVHD: BÙI VĂN VÂN
SVTH : PHẠM PHU QUÍ


9


ỨNG DỤNG CNTT VÀO DẠY HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC

CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG CỦA VIỆC ỨNG DỤNG CNTT
TRONG DẠY HỌC
2.1. Ứng dụng CNTT trong soạn giáo án
2.1.1. Soạn giáo án bằng máy vi tính (đánh máy giáo án)
* Hiện nay các trường đều khuyến khích giáo viên soạn giáo án bằng
máy vi tính, đặc biệt trong các đợt hội giảng cấp trường, cấp Huyện, cấp
Tỉnh.
- Ưu điểm:
Giáo án đánh máy có hình thức đẹp, trình bày khoa học, dễ sử dụng
khi giảng dạy.
Rút ngắn thời gian soạn giáo án do có sử dụng những ưu điểm của
phần mềm soạn giáo án (Microsoft Word hay Open Office), các phần mềm
này sẽ tự động hóa một sô thủ tục cảu giáo án theo một mẫu nhất định do
người soạn đặt ra: ví dụ như tuần, ngày soạn, ngày dạy, …
Soạn giáo án bằng máy vi tính làm cho chúng ta có thể chỉnh sửa rất
dễ dàng. Ngoài ra, phần mềm còn cho phép chúng ta sưu tầm, lựa chọn sao
chép những ý tưởng, nội dung hay trong các giáo án cũ của mình, của đồng
nghiệp.
Có thể lưu trữ đến các năm học sau để bản thân, đồng nghiệp sử dụng
tham khảo.
Có thể sử dụng để đưa các nội dung cần thiết vào bài giảng điện tử
một cách nhanh chóng mà không cần gõ lại.
Qua việc soạn giáo án, giáo viên được tìm hiểu học hỏi thêm về công
nghệ thông tin từ đó nâng cao trình độ tin học của giáo viên góp phần nâng

cao phong trào ứng dụng CNTT trong dạy học.
Giáo viên có thể dễ dàng đưa vào giáo án những sơ đồ, biểu đồ, tranh,
ảnh minh họa … điều mà giáo viên viết tay khó có thể làm được.
- Thực trạng:
Nhiều giáo viên chưa có đủ điều kiện để có được bộ máy tính, máy in
để soạn giáo án.
Nhiều giáo viên còn lung túng khi sử dụng máy vi tính và các phần
mềm văn phòng để soạn giáo án, chưa biết khai thác mạng internet để sưu
tầm giáo án, tư liệu phục vụ cho giáo án.
Một số giáo viên lợi dụng mạng internet để khai thác một cách tiêu
cực giáo án của đồng nghiệp như: sao chép y nguyên, không có sự nghiên
cứu, không có chỉnh sửa cho phù hợp với điều kiện dạy học của mình.
Giáo án sao chép từ nhiều nguồn nên bộ font chữ rất lộn xộn, không
thực hiện theo đúng thể thức trình bày văn bản thông thường. Giáo viên
không đủ trình độ tin học để sửa lỗi theo ý mình.
GVHD: BÙI VĂN VÂN
SVTH : PHẠM PHU QUÍ

10


ỨNG DỤNG CNTT VÀO DẠY HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC

Việc đóng bìa, kẹp, đánh số trang còn rất tùy tiện.
Giáo án in không đủ cơ sở pháp lý: không ghi họ tên, trường, lớp hoặc
ghi bằng bút mực (ghi sau).
Thậm chí có giáo viên còn nhờ hoặc thuê người download giáo án cốt
để có giáo án đối phó với kiểm tra, hầu như không xem lại giáo án.
=> Những việc làm đó không những mang lại hiệu quả cho việc dạy
học bằng giáo án đánh máy mà còn làm cho người dạy lười không nghiên

cứu bài dạy và kết quả là làm cho tiết dạy đạt hiệu quả thấp.
2.1.2. Xây dựng bài giảng với sự hỗ trợ của máy tính
Những năm gần đây, việc đổi mới chương trình giáo dục phổ thông là
một quá trình đổi mới từ mục tiêu, nội dung, phương pháp đến đổi mới về
phương tiện, các thiết bị dạy học ngày càng phong phú về số lượng nhưng
vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ngày càng cao. Việc xây dựng và ứng dụng
các phần mềm vào dạy học hiện nay đang được nhiều trường, nhiều giáo
viên thực hiện để thiết kế bài giảng nhằm đổi mới phương pháp dạy học theo
hướng tích cực hóa hoạt động học tập của học sinh. Đây là một trong những
hướng đổi mới phương pháp dạy học đạt hiệu quả.
Do đó CNTT có vai trò rất quan trọng trong dạy học, nó mang lại hiệu
quả cao, tiết học sinh động, học sinh hứng thú học tập và tích cực tham gia
xây dựng bài. Tuy nhiên, khi ứng dụng CNTT vào thiết kế bài giảng, giáo
viên cần đảm bảo các nguyên tắc chung, các quy trình thiết kế bài giảng có
ứng dụng CNTT sao cho có hiệu quả.
Dạy học với CNTT đòi hỏi người giáo viên phải biết định hướng, điều
khiển quá trình học tập, giúp học sinh tự mình lĩnh hội tối đa kiến thức. Vì
vậy giáo viên cần phải tích cực bồi dưỡng kiến thức tin học, sẵn sàng đổi
mới phương pháp giảng dạy và ứng dụng CNTT vào dạy học phù hợp với
đặc trưng bộ môn.
* Các nguyên tắc chung của một bài giảng có ứng dụng CNTT
- Đảm bảo tính khoa học sư phạm và khoa học tin học.
- Đảm bảo tính hiệu quả, tính thực tế, tính giáo dục.
- Đảm bảo tính mở và tính phổ dụng.
- Đảm bảo tính cập nhập nội dung kiến thức bài giảng.
- Cần căn cứ vào mục tiêu, nội dung kiến thức cơ bản của bài học, xác
định trọng tâm bài và căn cứ trình độ nhận thức của học sinh cùng các điều
kiện có để thiết kế bài giảng.
- Đa dạng hóa kiến thức.
* Những chú ý khi thiết kế bài giảng có ứng dụng CNTT

Ba khâu quan trọng nhất: soạn giáo án, trình chiếu giáo án và hướng
dẫn học sinh ghi chép.
GVHD: BÙI VĂN VÂN
SVTH : PHẠM PHU QUÍ

11


ỨNG DỤNG CNTT VÀO DẠY HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC

Mỗi lớp học thường có trung bình từ 35-45 học sinh. Trong khi đó các
tiết dạy thường phải tắt bớt đèn, đóng bớt cửa sổ hay kéo rèm hạn chế ánh
sáng trời để ảnh trên màn rõ hơn. Như vậy, những học sinh ngồi ở các dãy
cuối lớp hay những học sinh mắt kém sẽ khó khăn khi quan sát hình ảnh,
chữ viết hay công thức trên màn chiếu. Do đó để học sinh có thể ghi chép
được bài học chính xác từ màn chiếu, giáo viên khi soạn giáo án trên Power
Point cần chú ý một sô nguyên tắc về hình thức sau:
- Các trang trình chiếu phải rõ ràng và đơn giản.
- Không sao chép nguyên văn bài dạy, chỉ nên đưa những ý chính vào
mỗi trang slide.
- Về màu sắc của trang trình chiếu:
Màu sắc không được lòe loẹt, không nên dùng các hình đồ họa vui
nhộn gây mất tập trung cho học sinh. Cần tuân thủ nguyên tắc tương phản,
chỉ nên sử dụng chữ đậm màu trên nền trắng hay nền màu sáng. Ngược lại
khi dùng màu nền sậm thì chri nên sử dụng chữ có màu trắng hay màu sáng.
- Về font chữ:
Dùng các phông chữ, khung nền hợp lý. Chỉ nên dùng các font chữ
đậm, rõ và gọn, không chân, hạn chế dùng các font chữ có đuôi vì dễ mất nét
khi trình chiếu.
- Về cỡ chữ:

Giáo viên thường muốn chưa thật nhiều thông tin trên một slide nê
hay có khuynh hướng dùng cỡ chữ nhỏ. Thực tế, trong kĩ thuật video, khi
chiếu trên màn hình TV (25inches) cho vài người xem hay dùng máy chiếu
Projector chiếu lên màn cho khoảng 50 người xem thì cỡ chữ thích hớp nên
từ khoảng 20 đến 30 trở lên mới đọc rõ được. Tuy nhiên, đối với học sinh
trung học, không nên dùng cỡ chữ quá to, trông trang chiếu thô và không mỹ
thuật.
- Về trình bày nội dung trên trang slide:
Giáo viên không nên trình bày nội dung tràn lấp đầy nền trang từ trên
xuống, từ trái qua phải, mà cần chừa ra khoảng trống đều hai bên và trên
dưới theo tỉ lệ thích hợp, để đảm bào tính mỹ thuật, sự sắc nét và không mất
chi tiết khi chiếu lên màn. Khi khai thác đa phương tiện cần phải được lựa
chọn cẩn thận, nếu không chúng sẽ gây phân tán tư tưởng, tư duy lệch lạc
cho học sinh. Những tranh, ảnh hay đoạn phim minh họa dù hay nhưng mờ
nhạt, không rõ ràng thì cũng không nên sử dụng vì không có tác dụng cung
cấp thông tin như ta mong muốn.
- Trình chiếu giáo án
Khi giáo viên trình chiếu Power Point, để học sinh có thể ghi chép kịp
thì nội dung trong mỗi slide không nên xuất hiện dày đặc cùng lúc. Ta nên
phân dòng hay phân đoạn thích hợp, cho xuất hiện theo thời gian tương ứng.
GVHD: BÙI VĂN VÂN
SVTH : PHẠM PHU QUÍ

12


ỨNG DỤNG CNTT VÀO DẠY HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC

Trường hợp có nội dung dài mà nhất nhất phải xuất hiện trọn vẹn cùng lúc,
ta trích xuất từng phàn thích hợp để giảng, sau đó đưa về lại trang có nội

dung tổng thể, học sinh sẽ dễ hiểu và dễ chép hơn.
2.2. Khai thác mạng internet phục vụ dạy học
* Một trong các điều kiện quan trọng nhất để tăng cường hiệu quả
giáo dục và chất lượng giảng dạy là tìm kiếm nguồn tư liệu phong phú và
phù hợp đê bổ sung những nội dung được quy định trong chương trình và
sách giáo khoa.
2.2.1 Lợi ích từ internet đối với giáo viên
Giáo viên có thể tự học tập nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ,
trình độ tin học khi tham gia vào các diễn đàn, các câu lạc bộ, hay tim hiểu
các trang Web từ internet.
Giáo viên có thể tải giáo án, bài giảng, tư liệu, đề thi và tài liệu phục
vụ cho công tác nghiên cứu và giảng dạy.
Qua mạng internet giáo viên có thê tham gia vào các diễn đàn của học
sinh, các trường bạn, các blog,.. để tìm hiểu về tâm lý, sở thích của học sinh
từ đó có những phương pháp giáo dục học sinh đạt hiệu quả cao.
Giáo viên có thể lập blog, trang web hay các câu lạc bộ để trao đổi
cùng đồng nghiệp, phụ huynh và học sinh để nâng cao trình độ chuyên môn
cũng như nghiệp vụ sư phạm của mình.
2.2.2. Hạn chế
Nhiều giáo viên còn chưa thấy được các lợi ích từ việc khai thác
internet, có nhiều người nghĩ rằng internet chỉ là để đọc báo, để giải trí, cũng
có người sợ mình không biết cách khai thác mạng.
Nhiều GV chưa có điều kiện để nối mạng internet, cũng có nhiều
người bận dạy thêm hay bận công việc gia đinh không có thời gian nghiên
cứu khai thác mạng internet phục vụ công tác dạy học.
Có những giáo viên còn non nớt về kiến thức, kĩ năng tin học, rất lung
túng khi truy cập, khai thác mạng internet.
Có những giáo viên ngại học, ngại tìm hiểu nghiên cứu để nâng cao
trình độ, bằng lòng với những kiến thức mình đã có.
2.3. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường phổ thông hiện nay

2.3.1. Những trở ngại khi sử dụng giáo án điện tử
Phần lớn các giáo viên ngại sử dụng giáo án điện tử, nghĩ rằng sẽ tốn
thời gian để chuẩn bị một bài giảng. Việc thực hiện một bài giảng một cách
công phu bằng các dẫn chứng sống động trên các slide trong các giờ học lý
thuyết là một điều mà các giáo viên không muốn nghĩ đến. Để có một bài
giảng như thế đòi hỏi phải mất nhiều thời gian chuẩn bị mà đó chính là điều
GVHD: BÙI VĂN VÂN
SVTH : PHẠM PHU QUÍ

13


ỨNG DỤNG CNTT VÀO DẠY HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC

mà các giáo viên thường hay tránh. Việc sử dụng phương pháp mới đòi hỏi
một giáo án mới. Thực ra, muốn “click” chuột để tiết dạy thực sự hiệu quả
thì giáo viên phải vất vả gấp nhiều lần so với cách dạy truyền thống. Ngoài
kiến thức căn bản về vi tính, sử dụng thành thạo phần mềm Power Point,…
giáo viên cần phải có niềm đam mê thật sự với công việc thiết kế đòi hỏi sự
sáng tạo, sự nhạy bén, tính thẫm mỹ để săn tìm tư liệu nhiều nguồn.
Hơn nữa, trong quá trình thiết kế, để có được một giáo án điện tử tốt,
từng cá nhân giáo viên còn gặp không ít khó khăn trong việc tự đi tìm hình
ảnh minh họa, âm thanh sôi động, tư liệu dẫn chứng phù hợp với bài giảng.
Đây cũng chính là một trong những nguyên nhân mà một số giáo viên
thường đưa ra để né tránh việc thực hiện dạy ứng dụng CNTT.
2.3.2. Thực trạng ứng dụng CNTT trong nhà trường hiện nay
Từ khá sớm, các trường học đã bắt đầu đưa CNTT vào giảng dạy. Hầu
hết các trường đều chưa có phòng máy tính riêng. Mặc dù một số trường
được trang bị phòng máy tính tuy nhiên chỉ nhằm mục đích cho học sinh
thực hành môn Tin học, hoặc ứng dụng trong công tác lưu trữ, quản lý hồ sơ

nhân sự hay trợ giúp việc thi cử. Như vậy, có thể thấy chúng ta đã bỏ phí rất
nhiều tiềm năng của máy tính, chưa khai thác hết những ứng dụng to lớn của
CNTT, mà một trong những ứng dụng đó là việc sử dụng các phần mềm hỗ
trợ giảng dạy cho các tiết học trên lớp đối với các môn văn hóa khác như:
Toán, Vật lý, Hóa học, …..
Chính vì vậy, nhu cầu sử dụng phần mềm trong giảng dạy hiện nay là
rất lớn. Hầu hết các giáo viên đều nhận thấy đây là vấn đề cấp thiết cần thực
hiện ngay.
2.4. Các hình thức ứng dụng CNTT trong dạy học
Hiện nay, trên thế giới người ta phân biệt rõ ràng 2 hình thức ứng
dụng CNTT trong dạy và học, đó là Computer Base Training gọi tắt là CBT
(dạy dựa vào máy tính), và E-learning (học dựa vào máy tính). Tróng đó:
- CBT là hình thức giáo viên sử dụng máy vi tính trên lớp, kèm theo
các trang thiết bị như máy chiếu và các thiêt bị multimedia để hỗ trợ truyền
tải kiến thức đến học sinh, kết hợp với phát huy những thế mạnh của các
phần mềm máy tính như hình ảnh, âm thanh sinh động, các tư liệu phim,
ảnh, sự tương tác người và máy.
- E-learning là hình thức học sinh sử dụng máy tính để tự học các bài
giảng mà giáo viên đã soạn sẵn, hoặc xem các đoạn phim về các tiết dạy của
các giáo viên, hoặc có thể trao đổi trực tuyến với giáo viên thông qua mạng
interner. Điểm khác cơ bản của hình thức E-learning là lấy người học là
trung tâm, học viên sẽ tự làm chủ quá trình học tập của mình, giáo viên chỉ
đóng vai trò hỗ trợ việc học tập cho sinh viên.
GVHD: BÙI VĂN VÂN
SVTH : PHẠM PHU QUÍ

14


ỨNG DỤNG CNTT VÀO DẠY HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC


CHƯƠNG 3: ĐỀ XUẤT BIỆN PHÁP
Biện pháp 1: Nâng cao nhận thức về tầm quan trọng, lợi ích của việc
ứng dụng CNTT trong dạy học.
Nâng cao nhận thức giáo viên về sự cần thiết của ứng dụng CNTT vào
hoạt động dạy học, trên cơ sở đã nhận thức đúng đắn, sâu sắc, giáo viên sẽ
chủ động tìm tòi những giải pháp phù hợp với yêu cầu ứng dụng CNTT
trong hoạt động dạy học. Góp phần đổi mới tư duy quản lý, đổi mới nội
dung, phương pháp, phương tiện dạy học.
Việc ứng dụng CNTT cũng góp phần cho việc chuẩn hóa về cơ sở vật
chất, xây dựng đội ngũ giáo viên, xây dựng môi trường giáo dục thích ứng
với các yêu cầu đặt ra trogn xã hội mới.
Biện pháp 2: Ngoài kiến thức chuyên môn còn phải trang bị những kiến
thức tin học cơ bản nhất.
Để tiết dạy thực sự hiệu quả thì người dạy cũng phải bỏ công tìm hiểu,
làm quen với cách giảng bài mới này, cụ thể thì cần phải:
- Có kiến thức cơ bản về sử dụng máy tính.
- Biết sử dụng phần mềm trình diễn Power Point.
- Biết cách truy cập và khai thác tài nguyên internet.
- Có khả năng sử dụng một phần mềm chỉnh sửa ảnh, làm các ảnh
động, cắt các flie âm thanh … đơn giản.
- Biết khai thác mạng internet để tìm giáo án, bài giảng, tư liệu.
- Biết cách sử dụng Projector.
Biện pháp 3: Khai thác và sử lý thông tin, tư liệu phục vụ cho bài giảng
Từ những giáo án được soạn sẵn trên giấy và được trình bày lại trên
bảng đen làm thế nào để chúng trở thành các GAĐT được trình bày trên máy
chiếu? Điều này đòi hỏi người thầy phải biết sử dụng Power Point. Đây là
một phần mềm dung trong bộ Office dùng để tạo các trình diễn đa dạng trên
máy tính. Nếu dừng ở mức độ gõ những nội dung cần thiết cộng thêm một ít
định dạng về màu sắc, font chữ, thiết nghĩ giáo viên nào cũng có thể làm

được. Tuy nhiên nếu chỉ có thế thì chúng ta chưa khai thác hết được sức
mạnh của Power Point cũng như chưa phát huy hiệu quả của phương pháp
giảng dạy mới.
Những tư liệu minh họa cho các nội dung bài học tương đối nhiều trên
internet. Thiết nghĩ, nếu chỉ cần bỏ chút thời gian mà có được những nội
dung, hình ảnh cần minh họa cho bài giảng là điều rất nên làm bởi lẽ nó vừa
cung cấp cho chúng ta tư liệu bài giảng lại vừa giúp ta nâng cao kĩ năng sử
dụng máy tính. Điều này cũng đồng nghĩa giáo viên phải biết cách thức truy
cập internet để lấy thông tin. Tuy nhiên, không phải hình ảnh nào chúng ta
GVHD: BÙI VĂN VÂN
SVTH : PHẠM PHU QUÍ

15


ỨNG DỤNG CNTT VÀO DẠY HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC

lấy từ internet cũng thỏa mãn ý muốn. Điều quan trọng là biết cách chọn lọc
tư liệu, tiết kiệm được thời gian mà vẫn mang lại hiệu quả cao.
Biện pháp 4: Đưa các tư liệu cần thiết vào bài dạy
Khi đã sưu tầm được những tư liệu cần thiết cần phải có sự chọn lọc
cần thiết để đưa vào bài giảng của mình. Không nên sử dụng quá nhiều hình
ảnh tư liệu mà chỉ sử dụng ở mức độ vừa phải để tránh làm phân tán sự tập
trung của học sinh.
Sau khi đưa hình ảnh minh họa vào bài giảng, thao tác cơ bản nhất đòi
hỏi người thầy phải nắm được là cách thiết lập các hiệu ứng để làm cho bài
giảng sinh động, mang lại không khí học tập, giảng dạy mới mẻ. Các hiệu
ứng cần được sử dụng một cách vừa phải để không làm ảnh hưởng đến sự
tiếp thu kiến thức của học sinh. Bên cạnh đó nếu giáo viên có thể sử dụng
thành thạo Power Point thì còn có thể thiết kế được nhiều kiểu bài tập khác

nhau rất phong phú và hấp dẫn như trò chơi ô chữ, … bằng việc sử dụng các
hiệu ứng. Ngoài ra, việc làm này còn giúp giáo viên tiết kiệm được thời gian
viết lên bảng, nội dung hiển thị đến đâu giáo viên giảng đến đóm làm cho
thời gian giảng bài nhiều hơn, học sinh hiểu bài sâu hơn.
Biện pháp 5: Làm phong phú thêm hệ thống bài tập
Khi giáo viên đã sử dụng thành thạo Power Point,… thì có thể dễ
dàng tạo ra được rất nhiều các dạng bài tập khác nhau nhờ sử dụng các hiệu
ứng ví dụ như dạng bài tập trắc nghiệm lựa chọn, trò chơi ô chữ,…
Biện pháp 6: Linh hoạt khi hướng dẫn học sinh học tập
Khi chuyển từ bài giảng truyền thống sang các slide trình diễn, giáo
viên thường mang tư tưởng của bài giảng cũ để áp đặt vào. Nghĩa là sẽ trình
bày tất cả những gì mình nói và viết vào slide. Điều này hoàn toàn sai lầm vì
như thế học sinh sẽ cho rằng giáo viên chỉ nói những điều trong sách, không
mở rộng các kiến thức ngoài, đồng thời nội dung trình chiếu sẽ rất dài, học
sinh khó có thể ghi chép vào vở để làm tài liệu tự học ở nhà.
Vì thế chỉ nên coi slide là nơi chưa tên bài học, các đề mục và các ý
chính phục vụ cho bài giảng. Nếu slide cần hình ảnh minh họa, giáo viên nên
tìm kiếm hình ảnh để chèn vào. Nhìn vào slide giáo viên có nhiệm vụ giải
thích kĩ càng và mở rộng nó ra chớ không phải là đọc các dòng chữ trên
slide. Nếu chưa quen với cách giảng dạy này, giáo viên có thể khó khăn
trong việc xác định xem slide tiếp theo sẽ trình bày về vấn đề gì. Để cải
thiện, giáo viên có thể tn ra một bản bài giảng cầm tay để vừa giảng vừa
nhìn vào đó.
Biện pháp 7: Sử dụng GAĐT không có nghĩa là giáo án truyền thống bị
lãng quên.
Trong giáo án truyền thống chúng ta trình bày tất cả cá nội dung bài
giảng. Vậy thì đối với GAĐT chỉ có một số slide, các slide chỉ chứa từ khóa,
GVHD: BÙI VĂN VÂN
SVTH : PHẠM PHU QUÍ


16


ỨNG DỤNG CNTT VÀO DẠY HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC

hình ảnh,.. thì làm thế nào giáo viên có thể quan sát hết các vấn đề cần được
giảng? Để giải quyết vấn đề này, giáo viên tốt nhất nên xây dựng cho mình
một đề cương bài giảng. Vấn đề nào trình bày trước? Nội dung nào là trọng
tâm?, … Sở dĩ cần chuẩn bị kĩ lưỡng như vậy là vì nếu tiết giảng dạy đó mà
GV chưa nói hết nội dung các slide hay đã trình bày hết mà còn thừa thời
gian là đồng nghĩa với việc “cháy giáo án” và không đảm bảo được yêu cầu
của bài dạy.
Biện pháp 8: Kết hợp giữa trình chiếu và ghi bảng
Mặc dù những nội dung cơ bản được giáo viên tóm lược và trình
chiếu trên màn chiếu, tuy nhiên nó lại không thể lưu lại được bố cục của bài
dạy bởi trong quá tình giảng dạy các slide phải được chiếu nối tiếp nhau, do
đó sau khi kết thúc bài học học sinh sẽ chưa thể hình dung lại được hệ thống
kiến thức của bài học. Do vậy, song song với quá trình trình chiếu, giáo viên
nên ghi lên bảng đen những tiêu đề, đề mục của bài học để cuối tiết học, học
sinh dễ hình dung lại nội dung kiến thức vừa lĩnh hội. Đồng thời giáo viên
có thể sử dụng phần ghi bảng tóm tắt này để yêu cầu học sinh trình bày cụ
thể lại nội dung của từng ý.
Đối với những nội dung cần ghi chép, giáo viên đưa lên màn chiếu và
chiếu chậm lại để học sinh có thể ghi chép lại những kiến thức vào vở dùng
làm tư liệu ôn tập ở nhà.
Biện pháp 9:
Soạn giáo án đáng máy một cách tích cực, chi tiết và có sự chỉnh sửa
cần thiết hợp lý trước và sau mỗi tiết dạy để giáo án đánh máy có tác dụng
tốt nhất là nâng cao chất lượng hiệu quả giờ dạy cũng như chất lượng dạy
học. Có kế hoạch lưu trữ khoa học để sử dụng cho những năm sau, đồng thời

trao đổi giáo án với đồng nghiệp để có được những bộ giáo án tốt nhất cho
việc giảng dạy.
Biện pháp 10:
Cần tham gia tích cực vào các câu lạc bộ, diễn đàn, các trung tâm tài
nguyên giáo dục trên mạng để khai thác hiệu quả mạng internet nhằm nâng
cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ đồng thời nâng cao chất lượng dạy học.

GVHD: BÙI VĂN VÂN
SVTH : PHẠM PHU QUÍ

17


ỨNG DỤNG CNTT VÀO DẠY HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC

KẾT LUẬN
Chúng ta đang bước vào thế kỉ XXI – thế kỉ khoa học và công nghệ.
Sự chuẩn bị nguồn nhân lực cho thời kì mới của đất nước là một trong
những nhiệm vụ trọng đại cảu toàn xã hội và của ngành giáo dục nói riêng.
Muốn theo kiệp với các nước tiên tiến, đón đầu sự phát triển đòi hỏi sự đổi
mới giáo dục một cách đồng bộ: chương trình, SGK, kiểm tra đánh giá và
đặc biệt là cơ sở vật chất, thiết bị, phương tiện dạy học hiện đại.
Sự ra đời của phương pháp dạy học mới bao giờ cũng gặp những khó
khăn, đòi hỏi phải có ý thức và quyết tâm tìm tòi, thử nghiệm với những
bước đi vững chắc mới có thể đạt hiệu quả cao.
Áp dụng phương pháp giảng dạy bằng công nghệ thông tin đòi hỏi
giáo viên phải dành thời gian đầu tư vào mỗi bài dạy. Từng bước áp dụng
các phương tiện hiện đại như máy chiếu đa năng, đầu projector,… vào trong
giảng dạy các bộ môn, đó là con đường hữu hiệu, có tác dụng tăng hiệu quả
tiết học lên gấp đôi.

Đổi mới phương pháp dạy học hiện nay đang là vấn đề có ý nghĩa
quan trọng trong việc nâng cao chất lượng dạy học. Đó là một trong những
mục tiêu quan trọng nhất trong cải cách giáo dục ở nước ta hiện nay. Tuy
nhiên việc ứng dụng CNTT nhằm đổi mới nội dung, phương pháp dạy học là
một công việc lâu dài, khó khăn đòi hỏi rất nhiều điều kiện về cơ sở vật chất,
tài chính và năng lực của đội ngũ giáo viên.
Dó đó, để đẩy mạnh và phát triển việc ứng dụng CNTT trong dạy học
trong thời gian tới có hiệu quả, không gì khác hơn, là Nhà nước tăng dần
mức đầu tư để không ngừng nâng cao, hoàn thiện và hiện đại hóa thiết bị,
công nghệ dạy học, đồng thời hoàn thiện hạ tầng công nghệ thông tin và
truyền thông để mọi trường học, mọi giáo viên đều có thể kết nói vào mạng
internet. Bên cạnh đó, có sự chỉ đạo đầy đủ, đồng bộ, thống nhất bằng các
văn bản mang tính pháp quy để các trường có cơ sở lập đề án, huy động
nguồn vốn đầu tư cho hoạt động này, góp phần làm thay đổi nội dung,
phương pháp, hình thức dạy học và quản lý giáo dục, tạo nên được sự kết
hợp giữa nhà trường, gia đình, xã hội thông qua mạng, làm cơ sở tiến tới
một xã hội học tập.
Việc ứng dụng CNTT trong dạy – học trong các trường phổ thông là
rất cần thiết, nó có tác động mạnh mẽ, làm thay đổi nội dung, phương pháp,
phương thức dạy và học theo một chương trình thay SGK hiện nay. Do đó
việc soạn GAĐT là không thể thiếu, để có được một GAĐT chất lượng thì
giáo viên phải tự tìm tòi, học hỏi, nghiên cứu và mất nhiều thời gian mới có
được. GAĐT là một phương tiện dạy – học theo phương pháp mới hiện nay,
nó đòi hỏi không chỉ có sự đầu tư về kiến thức mà còn là thời gian.
GVHD: BÙI VĂN VÂN
SVTH : PHẠM PHU QUÍ

18



ỨNG DỤNG CNTT VÀO DẠY HỌC TRONG CÁC TRƯỜNG TRUNG HỌC

Tài liệu tham khảo:
- />- />- />- />
GVHD: BÙI VĂN VÂN
SVTH : PHẠM PHU QUÍ

19



×