Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Hình tượng ma nữ trong truyền kỳ mạn lục

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (754 KB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

Mai Thị Lệ Quyên

ĐỀ TÀI: HÌNH TƯỢNG MA NỮ TRONG
“TRUYỀN KỲ MẠN LỤC”

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21

Hà Nội-2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

Mai Thị Lệ Quyên

ĐỀ TÀI: HÌNH TƯỢNG MA NỮ TRONG
“TRUYỀN KỲ MẠN LỤC”

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành Văn học Việt Nam
Mã số: 60 22 01 21
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Trần Nho Thìn

Xác nhận của Chủ tịch Hội đồng

Xác nhận của giảng viên hướng dẫn



GS.TS Trần Ngọc Vương

PGS.TS Trần Nho Thìn

Hà Nội-2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi.
Các số liệu, kết quả nêu trong luận văn là trung thực và chưa từng được
ai công bố trong bất kỳ công trình nào khác. Mọi thông tin trích dẫn trong
luận văn đều ghi rõ nguồn gốc.

Hà Nội, ngày 4 tháng 4 năm 2016
Tác giả luận văn

Mai Thị Lệ Quyên


LỜI CẢM ƠN
Với tình cảm chân thành và lòng biết ơn sâu sắc, tôi xin gửi lời cảm ơn
đến các thầy, cô trong khoa Văn học, trường Đại học Khoa học Xã hội và
Nhân văn đã tận tình giúp đỡ tôi trong quá trình học tập và nghiên cứu để
hoàn thành luận văn này.
Đặc biệt, Tôi xin tỏ lòng biết ơn sâu sắc đến PGS.TS Trần Nho Thìn,
người đã tận tình chỉ bảo, hướng dẫn, và tạo điều kiện thuận lợi cho tôi trong
quá trình hoàn chỉnh luận văn.
Hà Nội, Ngày 4 tháng 4 năm 2016

Tác giả luận văn

Mai Thị Lệ Quyên


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .................................................................................................... 1
1. Lý do chọn đề tài .................................................................................. 1
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề .................................................................... 2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu......................................................... 6
4. Mục đích nghiên cứu ............................................................................. 7
5. Nhiệm vụ nghiên cứu ............................................................................ 7
6. Phương pháp nghiên cứu ...................................................................... 7
7. Bố cục luận văn...................................................................................... 8
Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÌM HIỂU HÌNH
TƯỢNG MA NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC................................... 9
1.1. Truyền kỳ và các đặc trưng thể loại .................................................. 9
1.2. Khái niệm ma nữ ............................................................................. 11
1.3. Nhân vật ma nữ trong văn học ........................................................ 14
1.3.1.Trong văn học dân gian Việt Nam .................................................. 14
1.3.2. Trong văn học trung đại Việt Nam ................................................. 15
1.3.3. Trong văn học thế giới.................................................................... 17
1.4. Quan niệm của nhà Nho về người phụ nữ đẹp và vấn đề tính dục
thời trung đại ........................................................................................... 19
1.4.1.Quan niệm của nhà Nho về người phụ nữ đẹp ............................... 19
1.4.2. Vấn đề tính dục thời trung đại ....................................................... 22
1.5. Vài nét về tác giả Nguyễn Dữ và Truyền kỳ mạn lục ..................... 26
1.5.1. Tác giả ............................................................................................ 26
1.5.2. Tác phẩm Truyền kỳ mạn lục ......................................................... 26
Chương 2: ĐẶC ĐIỂM CỦA NHÂN VẬT MA NỮ TRONG...................... 28

TRUYỀN KỲ MẠN LỤC ............................................................................ 28
2.1. Số phận.............................................................................................. 28


2.2. Ngoại hình ......................................................................................... 34
2.3. Tính cách, tâm lý .............................................................................. 39
2.4. Hành động......................................................................................... 46
2.5. Ngôn ngữ ........................................................................................... 54
Chương 3: NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG HÌNH TƯỢNG MA NỮ TRONG
TRUYỀN KỲ MẠN LỤC ............................................................................ 61
3.1. Cái kỳ ảo và cái thực được biểu hiện qua nhân vật ma nữ ............ 61
3.1.1. Cái kỳ ảo ......................................................................................... 61
3.1.2.Cái thực .......................................................................................... 63
3.2. Không gian nghệ thuật ..................................................................... 66
3.2.1. Không gian kỳ ảo ............................................................................ 66
.3.2.2. Không gian thực ............................................................................ 68
3.3. Thời gian nghệ thuật ........................................................................ 71
3.3.1. Thời gian lịch sử............................................................................. 71
3.3.2. Thời gian tồn tại của nhân vật ....................................................... 72
3.3.3. Thời gian xuất hiện của nhân vật .................................................. 76
3.4 Nghệ thuật miêu tả nhân vật............................................................. 78
3.4.1. Nghệ thuật miêu tả ngoại hình, hành động ................................... 78
3.4.2 Nghệ thuật miêu tả tâm lý ............................................................... 81
3.5. Ngôn ngữ nhân vật ........................................................................... 84
KẾT LUẬN ................................................................................................. 89
TÀI LIỆU THAM KHẢO.......................................................................... 92


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài

Ma nữ vốn là một hình tượng siêu nhiên, thể hiện quan niệm tâm linh
của con người về sự sống và cái chết. Nó cũng thể hiện những nét văn hóa
chung mang tính chất cộng đồng trong tín ngưỡng, phong tục tập quán của
mỗi quốc gia, sứ xở. Nhắc tới ma nữ, dường như ai cũng có một ý niệm, khái
niệm nhất định về loại hình nhân vật này, mặc dù trên phương diện khoa học,
đó vẫn chỉ là một nhân vật tưởng tượng được thêu dệt. Trong văn học, xây
dựng hình tượng các ma nữ đã trở thành một đề tài hấp dẫn, lôi cuốn, phổ
biến trong cả hai bộ phận văn học: văn học viết và văn học dân gian. Với độc
giả, đây là nhân vật luôn khiến họ có nhiều trải nghiệm cảm xúc, khơi gợi
mong muốn tìm hiểu.
Trong xã hội trung đại Việt Nam, khi mà Nho giáo được xem là nền
tảng vận hành đất nước của các vua chúa, khẳng định tầm quan trọng của
người đàn ông trên mọi phương diện thì đối với người phụ nữ đó lại là một
giáo lý hà khắc. Nó đưa ra những quy định ngặt nghèo về lối ứng xử của
người phụ nữ với các mối quan hệ xung quanh mình. Điều này vô hình chung
cũng ảnh hưởng tới các định hướng sáng tác văn chương. Điểm nhìn của nam
giới đã chi phối thế giới quan văn học suốt cả một chặng đường dài, do vậy
hình tượng người phụ nữ trong văn chương trung đại những năm tháng của
thế kỉ XV trở về trước không nhiều. Sự xuất hiện của Truyền kỳ mạn lục với
rất nhiều các nhân vật nữ ở thế kỉ sau là một hiện tượng độc đáo, khác biệt,
mang lại hơi thở mới cho văn học vốn có sự khu biệt giới rất lớn này. Ở đó,
hình ảnh người phụ nữ được hiện lên như một nhân vật trung tâm có đời sống,
có số phận, tâm lý, tính cách rõ rệt. Tuy nhiên, tác giả lại có cách thức xây
dựng các mẫu hình nhân vật mang tính chất đối lập nhau trên mọi phương
diện. Một bên là những người phụ nữ tuân thủ theo đúng các lễ tiết của đạo

1


đức phong kiến, của giáo lý nhà Nho, họ được coi là hình mẫu liệt nữ của thời

đại. Một bên là những phụ nữ xinh đẹp, có quan niệm phóng túng về quan hệ
nam nữ, tính cách tự do, táo bạo, nhưng lại được ẩn giấu dưới hình thức yêu
ma. Khi xây dựng nhân vật này, tác giả ít nhiều thể hiện sự đồng cảm trước
các hiện tượng bất công của đời sống đối với họ, nhưng sau đó lại phê phán
với đôi mắt vô cùng nghiêm khắc, đây là hiện tượng cần được nghiên cứu.
Thực hiện đề tài “Hình tượng ma nữ trong Truyền kỳ mạn lục” chúng tôi
mong muốn làm sáng tỏ và cụ thể hơn vấn đề đó.
Mặt khác, tìm hiểu hình tượng ma nữ là đi vào tìm hiểu một loại hình
phụ nữ phá cách, đi khá xa so với tư tưởng và cái nhìn khắt khe của Nho gia
có tính chất dị biệt, mới mẻ so với hình mẫu của phụ nữ trung đại. Dù mang
thân phận của người đã chết, họ vẫn có những nét đặc trưng của con người
trần tục cùng những khát khao yêu đương, hạnh phúc lứa đôi mãnh liệt, đặc
biệt là các diễn ngôn tính dục mạnh mẽ. Giữa thời đại người phụ nữ luôn phải
đi kèm với nết cương thường, họ lại vượt thoát ra như một hiện tượng hi hữu,
cá biệt. Trong văn học, đó được coi là sự sáng tạo táo bạo và luôn được tìm
hiểu, khai thác như một hiện tượng độc đáo.
Từ những lí do trên, chúng tôi chọn nghiên cứu đề tài: “Hình tượng ma
nữ trong Truyền kỳ mạn lục”.
2. Lịch sử nghiên cứu vấn đề
Là một tác phẩm viết khá nhiều về người phụ nữ (chiếm 11 trên 20
truyện), Truyền kỳ mạn lục dành được nhiều sự quan tâm của các nhà nghiên
cứu trong bối cảnh Nho giáo đã không còn ở vị trí đỉnh cao. Xét trên góc độ
của khoa học, nhiều công trình đã chỉ ra những nét đặc sắc, mới mẻ của tác
phẩm khi viết về người phụ nữ nói chung, đặc biệt là tinh thần nhân đạo ẩn
giấu sau các số phận nhân vật. Với các ma nữ nói riêng, nhân vật được xem là
có những hành động trái luân thường trong con mắt Nho gia cũng nhận được

2



nhiều ý kiến trái chiều. Mặc dù các công trình nghiên cứu về loại hình nhân
vật này trong Truyền kỳ mạn lục rất đa dạng, nhưng các đánh giá, nhận xét
hay phân tích vẫn còn ở dạng thức khái quát, tổng quan hoặc còn mang tính
chất đơn lẻ. Ở đây, chúng tôi xin đề cập tới một số công trình tiêu biểu, có
tính chất định hướng cao với người đọc.
Giáo sư Nguyễn Đăng Na trong các công trình nghiên cứu của mình về
Truyền kỳ mạn lục đã tỏ rõ quan điểm bênh vực người phụ nữ trong xã hội
xưa. Đặc biệt khi nói về các nhân vật ma nữ, ông vẫn luôn dành một sự cảm
thông cho số phận của họ. Trong bài viết Một vài nét về truyện truyền kỳ Việt
Nam, tác giả đi sâu vào vấn đề nhân đạo và các cách thức mà Nguyễn Dữ tạo
nên yếu tố đó trong tác phẩm. Cho dù là các hoạt động dục tính hay các quan
niệm táo bạo, tự do vượt thoát khỏi các luật định Nho giáo, luân thường của
cuộc sống bấy giờ, Nguyễn Đăng Na vẫn có cách lý giải riêng. Theo ông,
những người phụ nữ trong Truyền kỳ mạn lục: “Sống đạo đức tử tế đều bị
chết oan. Vậy hãy hành động theo ham muốn của tình dục, theo tiếng gọi của
trái tim. Nguyễn Dữ làm cuộc thử nghiệm ngược lại: cho một số nhân vật phụ
nữ sống tự do. Tác giả cho Nhị Khanh (Cây gạo) sống một cách “thoải mái”,
vượt vòng cương toả, chạy theo tình dục” [34]. Ông cũng đặt ra vấn đề số
phận con người, đặc biệt là số phận người phụ nữ xưa thông qua hình ảnh các
ma nữ và bi kịch của họ trước cuộc đời. Tác giả cũng đồng thời lên án xã hội
vốn mang các định kiến bất công với người phụ nữ bằng những lời lẽ hết sức
đanh thép, cứng rắn: “Đào Hàn Than có thai. Lẽ ra, đấy là niềm hạnh phúc
lớn nhất của nàng: làm mẹ! Song, xã hội đâu có chấp nhận cho nàng làm mẹ?
Hạnh phúc bỗng biến thành tai hoạ: “quằn quại chết trên giưỡng cữ”. Hình
ảnh đó như một ám ảnh vò dứt, đập mạnh vào cái xã hội dã man đối với phụ
nữ, đồng thời khơi dậy ở người đọc một niềm thương cảm cho thân phận
nàng” [34]. Từ đó, Nguyễn Đăng Na cũng đặt ra vấn đề bất cập, mang tính

3



chất kìm hãm với người phụ nữ: “Sống hiếu hạnh nết na hoặc chạy theo tình
dục, tự do yêu đương rồi cũng đều chết và chết một cách oan ức, thảm
thương. Nguyễn Dữ đặt ra cho người đọc một sự tự lựa chọn” [34]. Có thể
thấy, qua những quan điểm trên, Nguyễn Đăng Na đã đánh vào yếu tố xã hội
trong tác phẩm một cách mạnh mẽ, quyết liệt. Nâng cao quyền sống, quyền tự
do con người, nhưng bài viết mới chỉ dừng lại ở điểm nhìn nhân đạo, mang
tính chủ quan chứ chưa đi sâu vào hình tượng cụ thể với các đặc điểm đầy đủ
của nó.
Trái ngược với quan điểm của Nguyễn Đăng Na, nhà nghiên cứu Bùi
Duy Tân đứng trên quan điểm của xã hội học, trong bài viết Truyền kỳ mạn
luc, một thành tựu của truyện ký văn học viết bằng chữ Hán lại có những
đánh giá hoàn toàn khác về các câu chuyện giữa người với ma. Ông cho rằng:
“Các Truyện nghiệp oan của Đào Thị, Nàng Túy Tiêu, Cây gạo, Truyện kỳ
ngộ ở Trại Tây, vv...thì lại miêu tả những mối tình trái với đạo lý Nho gia”
[48, tr.518]. Ông còn cho rằng, cuộc tình tự do giữa Nhị Khanh-Trung Ngộ,
hay Hà Nhân và hai nàng Đào, Liễu là những mối tình “yêu thương không
lành mạnh” hay “xa lạ với quan niệm lành mạnh về cuộc sống, về tính yêu
nam nữ trong truyện Nôm bình dân, trong văn nghệ dân gian” [48, tr.519].
Đánh giá về tư tưởng của Nguyễn Dữ thể hiện trong các mối tình đó, Bùi Duy
Tân cũng nhìn thấy tư tưởng nhân đạo của tác giả Truyền kỳ mạn lục:
“Nguyễn Dữ có phần thông cảm với khát vọng hạnh phúc chính đáng khi
miêu tả những cặp trai gái công nhiên yêu nhau, đi lại, giao thiệp, hẹn hò, thề
thốt với nhau” [48, tr.518], nhưng nhìn vào lời bình của tác giả ở cuối truyện,
Duy Tân lại cho rằng sự phê phán của tác giả xuất phát từ “thái độ bảo thủ
của Nho giáo”, từ đó khẳng định sự mâu thuẫn trong tư tưởng và tình cảm của
tác giả. Như vậy, trong bài viết của mình Bùi Duy Tân đã ít nhiều đề cập tới
bóng dáng các ma nữ cùng các mối tình tự do, đắm say của họ với các chàng

4



trai, nhưng nhìn chung vẫn chỉ là các đánh giá mang tính tổng quát, chung cục
chứ chưa đi vào hiện tượng cụ thể để phân tích, lý giải nó.
Với bài viết Nguyễn Dữ và Truyền kỳ mạn lục, các tác giả trong cuốn
Văn học trung đại Việt Nam (thế kỉ X- cuối thế kỉ XIX) của Đoàn Thị Thu Vân
chủ biên, các tác giả đã chỉ ra rằng tình yêu giữa các chàng trai và các ma nữ
trong Truyền kỳ mạn lục là “tình yêu tự do giữa một đôi lứa thanh niên tài sắc,
tri kỉ lẽ ra phải được thể hiện một cách đẹp đẽ, trong sáng thì nhiều lúc lại bị
tác giả xây dựng thành một mối tình “trăng gió”, mang màu sắc nhục dục để
rồi phê phán cho hợp với đạo lý nhà Nho (Truyện kỳ ngộ ở Trại Tây, Truyện
nghiệp oan của Đào Thị) [58, tr.120]. Về mặt này, các tác giả có vẻ đồng tình
với ý kiến của nhà nghiên cứu Bùi Duy Tân. Họ cũng cho rằng sự trái ngược
ấy ở các tác phẩm của Nguyễn Dữ là do mâu thuẫn trong tư tưởng của tác giả.
Đồng thời, họ cũng phần nào nhìn thấy số phận bất hạnh của người phụ nữ
nói chung ẩn giấu đằng sau mác danh ma nữ kia: “Những người phụ nữ nhỏ
bé, yếu đuối trong xã hội phong kiến mà tác giả dành nhiều thương cảm, cuối
cùng thường đi vào đổ vỡ, thường bị vùi dập phũ phàng trước những thế lực
phong kiến ở cõi âm, cõi trời...” [58, tr.120]. Cuối cùng, họ rút ra một kết
luận, những vấn đề mà Nguyễn Dữ đặt ra cũng là những vấn đề liên quan tới
quyền sống, hạnh phúc của con người. Do vậy dù có thế nào, Nguyễn Dữ
cũng đã thể hiện tnh thần nhân đạo sâu sắc với người phụ nữ và số phận của
họ.
Phó giáo sư Trần Thị Băng Thanh trong lời tựa cho Truyền kỳ mạn lục
lại có cái nhìn công bằng hơn với tác giả Nguyễn Dữ trong việc phản ánh số
phận nhân vật cũng như cách tác giả kết thúc câu chuyện. Đây cũng là quan
điểm của rất nhiều các nhà nghiên cứu khác khi khảo luận về một tác phẩm ở
thời đại đã qua, dưới con mắt của con người hiện đại: “Đến cả loại nhân vật
"phản diện" như nàng Hàn Than (Đào thị nghiệp oan ký), nàng Nhị Khanh


5


(Mộc miên phụ truyện), các hồn hoa (Tây viên kỳ ngộ ký) và "yêu quái ở
Xương Giang" cũng đều vì số phận đưa đẩy, đều vì "nghiệp oan" mà đến nỗi
trở thành ma quỷ” [62]. Lời tựa có ý gợi mở này giúp người đọc có cái nhìn
nhân bản hơn, dịu dàng hơn với các nhân vật vốn được xem là đáng sợ, nguy
hiểm. Tuy vậy, nhận xét trên đây mới chỉ dừng lại ở việc đánh giá, giúp độc
giả định hình được tác phẩm chứ không phải đi sâu vào nghiên cứu cụ thể
nhân vật trên các phương diện khác nhau.
Truyền kỳ mạn lục được xem là tác phẩm truyền kỳ thành công nhất
trong nền văn học trung đại. Vì vậy, không khó hiểu khi có rất nhiều các bài
viết, các nhà nghiên cứu khảo luận về nó dưới các định hướng khác nhau.
Điều đó góp phần làm đa dạng kho tư liệu phong phú về tác phẩm. Tuy nhiên,
các bài viết trên mới chỉ dừng lại ở mức độ định hướng, dẫn dắt theo các quan
điểm riêng về các nhân vật ma nữ chứ chưa đi vào khảo sát một cách cụ thể
có tính tập trung. Đó là những cơ sở, tiền đề bước đầu giúp chúng tôi đi vào
phân tích sâu hình tượng nhân vật ma nữ. Hi vọng luận văn sẽ góp phần làm
sáng tỏ thêm những vấn đề thuộc về loại hình nhân vật này trong Truyền kỳ
mạn lục trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
Đối tượng nghiên cứu của chúng tôi là nhân vật phụ nữ yêu ma trong
Truyền kỳ mạn lục mà cụ thể là khảo sát qua các truyện: Chuyện cây gạo,
Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây, Chuyện nghiệp oan của Đào Thị, Chuyện yêu quái
ở Xương Giang.
Trong quá trình thực hiện đề tài để làm sáng tỏ vấn đề, chúng tôi có sự
so sánh, liên hệ với các nhân vật nữ khác tuyến trong cùng tác phẩm và trong
các tác phẩm khác như Thúy Kiều trong Truyện Kiều, người chinh phụ trong
Chinh phụ ngâm của Đặng Trần Côn, cung nhân trong Cung oán ngâm khúc
của Nguyễn Gia Thiều...


6


4. Mục đích nghiên cứu
Luận văn đi vào luận giải hình tượng ma nữ với những đặc điểm được
biểu hiện sâu bên trong tác phẩm. Từ đó thấy được tài năng sáng tạo cũng như
nét mới mẻ, độc đáo, khác biệt của loại hình nhân vật đặc biệt này so với các
nhân vật nữ khác.
Ngoài ra, luận văn cũng chú ý tới điểm nhìn tư tưởng của Nho giáo,
cũng như tư tưởng của tác giả được biểu hiện qua hình mẫu nhân vật, đặc biệt
là vấn đề nữ sắc, tự do trong tình yêu và tính dục.
5. Nhiệm vụ nghiên cứu
- Luận giải các vấn đề lý luận và thực tiễn có liên quan đến đề tài
như: khái niệm ma nữ, nhân vật ma nữ trong văn học, quan niệm của nhà Nho
về người phụ nữ đẹp và vấn đề tính dục thời trung đại.
- Phân tích hình tượng ma nữ trên các phương diện ngoại hình, tính
cách, hành động, ngôn ngữ, số phận và cái nhìn của Nho giáo với các đặc
điểm đó cùng các nghệ thuật xây dựng nhân vật.
- Lý giải ý nghĩa nghệ thuật của hình tượng này xét trên các phương
diện xã hội và chủ quan tác giả.
6. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp tiếp cận văn hóa học: xã hội phong kiến Việt Nam chịu
ảnh hưởng sâu sắc của Nho giáo, quan niệm của Nho gia đã chi phối cách
nhìn, cách đánh giá, và thái độ của xã hội đối với người phụ nữ, đặc biệt là
kiểu nhân vật mang tính chất loại hình như các ma nữ.
- Phương pháp so sánh: để tạo ra cái nhìn toàn diện và khách quan,
trong quá trình triển khai, chúng tôi so sánh đối tượng nghiên cứu với các
nhân vật nữ khác trong các thiên tự sự, trữ tình trung đại khác của Việt Nam
và của thế giới.


7


- Phương pháp phân tích-tổng hợp: dựa trên các ngữ liệu, phân tích
những yếu tố cấu thành nên hình tượng ma nữ, để từ đó đưa ra đánh ra tổng
quan về cách thức xây dựng nhân vật, cũng như giá trị tư tưởng của tác phẩm.
7. Bố cục luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, chúng tôi
dự kiến luận văn gồm 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận và thực tiễn của việc tìm hiểu hình tượng ma
nữ trong Truyền kỳ mạn lục.
Chương 2: Đặc điểm hình tượng ma nữ trong Truyền kỳ mạn lục.
Chương 3: Nghệ thuật xây dựng hình tượng ma nữ trong Truyền kỳ
mạn lục.

8


Chương 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA VIỆC TÌM HIỂU HÌNH
TƯỢNG MA NỮ TRONG TRUYỀN KỲ MẠN LỤC
1.1. Truyền kỳ và các đặc trưng thể loại
Truyền kỳ vốn là một loại hình tự sự có nguồn gốc từ Trung Quốc,
được phát triển từ các truyện chí quái và truyện kỳ ảo thời cổ đại, được hoàn
thiện, phát triển thịnh hành dưới thời nhà Đường. Truyện sử dụng các yếu tố
kỳ ảo làm chất liệu để xây dựng nên các tình tiết và để phản ánh hiện thực xã
hội, đời sống con người. Theo từ điển Tiếng Việt bộ mới, truyền kỳ có nghĩa
là: “Một hình thức văn xuôi tự sự cổ điển Trung Quốc, vốn bắt nguồn từ
truyện kể dân gian, sau được các nhà văn nâng lên thành văn chương bác học,
sử dụng những môtíp kỳ quái, hoang đường, lồng trong một cốt truyện có ý

nghĩa trần thế, phần lớn là truyện tình, để gợi hứng thú cho người đọc. Phần
lớn các truyện truyền kỳ đều là truyện ngắn, có khi là từng truyện riêng rẽ, có
khi tập hợp nhiều truyện thành một tập, và chủ đề cũng không nhất thiết gắn
bó chặt chẽ với nhau. Sự tham gia của các yếu tố thần kỳ vào câu chuyện
không phải là do những nhân vật có phép lạ như kiểu trời, bụt, thần tiên,...
trong truyện cổ tích thần kỳ, mà phần lớn ở ngay hình thức “phi nhân tính”
của nhân vật (ma quỷ, hồ ly, vật hóa người,...). Tuy nhiên trong truyện bao
giờ cũng có nhân vật là người thật và chính những nhân vật mang hình thức
“phi nhân” thì cũng chỉ là sự cách điệu phóng đại của tâm lý, tính cách của
một loại người nào đấy, và vì thế truyện truyền kỳ vẫn mang đậm yếu tố nhân
bản, có giá trị nhân bản sâu sắc” [17, tr.447].
Trong quá trình hình thành và phát triển của mình, truyền kỳ có ảnh
hưởng và tiếp thụ một số thành tố dân gian từ các mô thức, mô típ và kế thừa
các đề tài, cốt truyện để rồi phát triển thành các tác phẩm văn học viết có tính
nghệ thuật hoàn chỉnh, có kết cấu đầy đủ và lời bình của tác giả rõ rệt. Trong
truyện truyền kỳ, hệ thống các nhân vật người thường được phát triển xây
9


dựng song song với các nhân vật kỳ ảo, có tính chất siêu nhiên, để từ đó nói
lên các vấn đề thực tế của đời sống.
Với các thành tựu rực rỡ của mình ở quê nhà như sự ra đời của các tác
phẩm Liêu trai chí dị của Bồ Tùng Linh, Tiễn Đăng tân thoại của Cù Hựu,
truyền kỳ được du nhập vào các quốc gia đồng văn, đồng chủng khác ở Châu
Á, trong đó có Việt Nam. Ở thời kỳ đầu, truyện kì vào Việt Nam chỉ mang
các yếu tố kỳ lạ, chưa thoát khỏi các mô thức dân gian, chỉ đến sau này, với
sự xuất hiện của Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ và Thánh Tông di thảo
được tương truyền là của Lê Thánh Tông, truyền kỳ mới đạt tới đỉnh cao của
nó cũng như tính hoàn thiện về nội dung cũng như nghệ thuật. Tiếp bước các
thành công đó, các tác phẩm khác ra đời tạo nên sự đa dạng cho bộ mặt văn

học như Truyền kỳ tân phả của Đoàn Thị Điểm, Tân truyền kỳ lục của Phạm
Qúy Thích. Mặc dù tiếp nhận và ảnh hưởng của thể loại văn học Trung Quốc,
nhưng do dấu ấn văn hóa dân gian trong thể loại rất lớn, nên khi du nhập vào
Việt Nam, truyền kì đã có những nét đặc sắc riêng biệt mà theo GS.Nguyễn
Đăng Na: “Tuy là văn học viết, nhưng truyền kì dựa trên cơ sở truyền thống
tự sự dân gian, khai thác các mô típ, nhân vật, cốt truyện, thậm chí cả lối kể
dân gian. Cho nên, muốn tìm nét đặc trưng hoặc so sánh ảnh hưởng của
truyền kì giữa các dân tộc trong khu vực đồng văn, một nguyên tắc bắt buộc
là phải xuất phát từ kho tàng truyện dân gian của dân tộc đó. Truyền kì lấy
yếu tố kì ảo làm phương thức thể hiện nội dung. Nhưng, mức độ của cái kì ảo
phụ thuộc vào truyền thống thẩm mĩ dân tộc và nhu cầu lịch sử của dân tộc
ấy. Như vậy, phải bám sát lịch sử và truyền thống thẩm mĩ dân tộc khi nghiên
cứu truyền kì của họ” [34].
Về đặc trưng của thể loại, theo GS.Nguyễn Đăng Na: “Với đặc điểm
dùng hình thức kỳ ảo làm phương thức chuyển tải nội dung, truyện truyền kỳ
có sức hấp dẫn mãnh liệt mọi lứa tuổi, mọi thế hệ. Đó là thế giới vừa ảo vừa

10


thực, có cả cái thấp hèn và cái cao thượng, có cả ma và thánh, quỷ và tiên,...
đồng thời có cả những sinh hoạt thường ngày, ái ân, tình dục, ghen tuông, đố
kỵ, lọc lừa,...” [34]. Như vậy có thể thấy đặc trưng dễ nhận thấy nhất của thể
loại truyền kỳ là sự kết hợp giữa yếu tố thực và yếu tố kì ảo. Đã phát triển
vượt thoát ra khỏi những ghi chép hoặc truyền thuyết có tính đơn ngẫu, truyền
kỳ không thể thiếu một trong hai yếu tố trên để tạo ra sự nhận biết cho nó với
các thể loại tự sự khác như cổ tích, thần thoại hay chí quái. Việc phát triển các
yếu tố kì chính là cách tác giả phản ánh hiện thực đời sống một cách kín đáo,
tế nhị. Nhất là khi áp lực của thanh giáo của thời trung đại quản lý và tiết chế
hành vi tính dục của con người nên khó miêu tả trực diện, nhà văn trung đại

có thể lợi dụng đặc trưng thể loại đó để gửi gắm ý đồ tư tưởng nghệ thuật,
quan niệm con người tự nhiên như trường hợp Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn
Dữ. Ngoài ra, các yếu tố thực không chỉ làm tăng tính chân thật cho câu
chuyện mà còn làm ra tăng tính khách quan và là nền tảng, cơ sở cho sự phát
triển của yếu tố kì.
Truyền kỳ còn là một thể loại văn học dung hợp vào trong lòng nó các
thể loại văn học khác nhau, kết hợp giữa các tiều loại tự sự và trữ tình như
thơ, văn tế, văn vần…sự dung hợp đó giúp các tác giả dễ dàng hơn trong việc
thể hiện những vấn đề tinh thần hoặc hành động của nhân vật như tâm trạng,
các hoạt động tính dục một cách trau chuốt, nghệ thuật, tế nhị, kín đáo.
Phát triển ở Việt Nam, truyện truyền kỳ đã ghi những dấu ấn đậm nét
mà đỉnh cao là Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ, thể loại và tác phẩm ấy
trải qua thời gian vẫn còn giữ nguyên giá trị đến bây giờ.
1.2. Khái niệm ma nữ
Trong Truyền kỳ mạn lục, các ma nữ xuất hiện với các dạng thức khác
nhau như ma, hồn ma, linh hồn Nhị Khanh trong Chuyện cây gạo, Thị Nghi
trong Chuyện yêu quái ở Xương Giang, Đào Hàn Than Chuyện nghiệp oan

11


của Đào Thị, hoặc tinh hoa, tinh mộc như Đào Nhu Nương và Liễu Nhu
Nương trong Chuyện kỳ ngộ ở Trại Tây. Đó đều là loại hình nhân vật không
thuộc về dương thế, lại thuộc thế giới siêu nhiên, vô hình, mặc dù các khái
niệm này khá phổ biến trong tiềm thức dân gian nhưng đều là các nhân vật
chưa được xác thực theo con mắt khoa học, do vậy với các nhà nghiên cứu sẽ
có nhiều cách định nghĩa khác nhau.
Trong Kinh Tứ Thập Nhị Chương do Thích Viên Giác dịch, định nghĩa
về ma được hiểu như sau, ma:
“Tiếng Phạn gọi là Mara, nghĩa là giết hại, làm não hại thân tâm, tổn

hại công đức, phá hoại trí tuệ. Có 4 loại ma:
1. Ma phiền não: Tham, Sân, Si... não hại thân tâm.
2. Ma năm ấm (ngũ ấm ma): chấp thủ sắc thân, cảm giác, tri giác, tâm
hành và nhận thức là ngã, nên bị năm ấm trói buộc.
3. Ma chết (tử ma): tử thần cắt đứt mạng sống con người làm gián đoạn
sự tu tập.
4. Ma trời (thiên ma): là tha hóa tự tại thiên, cõi trời thứ 6 của Dục giới,
còn gọi là ma vương, ma ba tuần, chuyên làm trở ngại cho việc tu hành và
làm việc thiện.” [13]
Theo chúng tôi, các loại ma mà ta đang nhắc tới và cần tìm hiểu rõ ở
đây thuộc loại thứ 3 và thứ 4.
Đó là trong con mắt của Nhà Phật, còn theo Từ điển Hán Việt từ
nguyên, các trường nghĩa liên quan đến ma được giải thích như sau:
Ma: “(thuộc bộ Quỷ, gồm 21 nét) là chữ gọi tắt Phạm ngữ Ma la, có
nghĩa là ngăn hại, phá hoại, gọi chung những việc thành thói quen không trừ
bỏ được” [25, tr.1112].
Yêu tinh: “những vật quái dị linh thiêng thường dọa nạt hoặc làm hại
người” [25, tr.2408]

12


Tinh (bộ mễ, 14 nét): “thần linh, phần linh thiêng” [25, tr.1795].
Quái (bộ tâm, 8 nét): “lạ lùng, khác thường; Quái vật: đồ vật hay thú
vật lạ lùng không mấy khi trông thấy” [25, tr.1499].
Hồn (bộ quỷ, 14 nét): “Phần hồn trong con người, tinh thần của con
người có thể lìa khỏi thể xác mà vẫn tồn tại mãi mãi” [25, tr.830].
Theo Từ điển Tiếng Việt của Hoàng Phê các trường nghĩa đó được hiểu
là:
Ma có hai nghĩa: “Người đã chết, đã thuộc về cõi âm” và “sự hiện hình

của người chết, theo mê tín” . [43, tr.746]
“Yêu quái: quái vật làm hại người” [43, tr.1440].
“Yêu tinh: vật tưởng tượng có hình thù quái dị, có nhiều phép thuật và
độc ác” [43, tr.1440].
“Linh hồn: hồn người chết” [43,tr. 705].
Ngoài ra còn có rất nhiều cách định nghĩa về ma, quái, yêu quái...của
các nhà nghiên cứu văn hóa, nghiên cứu ngôn ngữ khác nhau. Tuy nhiên, xét
trên phương diện khảo sát về loại hình nhân vật ma nữ trong giới hạn luận văn
này, có thể hiểu chung rằng ma nữ là linh hồn của các phụ nữ đã chết, hoặc
yêu khí của họ còn hiển hiện trên trần gian. Cũng có khi là tinh khí lâu năm
của các chủng vật biến thành người phụ nữ, có khả năng biến hóa khôn lường,
chứa đựng các yếu tố kì dị, có tính chất tự do, gây ra những tác động tiêu cực,
gây tổn hại tới tinh thần hoặc thể chất của con người.
Mặc dù xuất hiện trong Truyền kỳ mạn lục, nhưng linh hồn của một số
phụ nữ đã chết như Lệ Nương trong Chuyện Lệ Nương, Vũ Thị Thiết trong
Chuyện người con gái Nam Xương...lại có những yếu tố ngợi ca, là biểu
tượng cho những người phụ nữ tiết liệt, có khí chất thần linh, được xã hội
kính nể, thậm chí lập đền thờ. Do vậy sẽ không phải là đối tượng nằm trong
phạm vi khảo sát.

13


1.3. Nhân vật ma nữ trong văn học
1.3.1.Trong văn học dân gian Việt Nam
Văn học dân gian vốn có ảnh hưởng rất lớn tới thể loại truyền kỳ ngay
từ buổi đầu hình thành. Trong lịch sử Á Đông, văn hóa thờ cúng người chết
đã trở thành nét truyền thống, một tập tục hay cao hơn là tín ngưỡng. Nó thể
hiện niềm tin về một thế giới của con người sau khi chết và những điều kỳ lạ
ẩn giấu ở thế giới đó. Chính bởi vậy, những câu chuyện truyền miệng về ma

quỷ hay linh hồn người chết được kể ở khắp mọi nơi, mọi lứa tuổi, và dường
như ai cũng có ý niệm về nó. Khi nhắc tới ma, hầu hết con người đều cảm
thấy sợ hãi vì sự bí ẩn, biến hóa mặc dù chưa được xác thực bởi thông tin
khoa học nào. Đặc biệt là các ma nữ, những người con gái chết oan ức hoặc
chết khi còn trẻ, sự linh ứng của họ lại càng mạnh mẽ giữa chốn dương thế.
Niềm tin ấy về ma quỷ, về thế giới kỳ ảo chính là sự phản ánh hiện thực cuộc
sống: thế giới tâm linh của con người. Từ những câu chuyện tưởng chừng chỉ
được đem ra trong những cuộc trà dư tửu hậu ấy lại là nguồn gốc cho sự phát
triển và là nguồn chất liệu phong phú, nền tảng văn hóa mang tính dân tộc cho
các thể loại văn học viết khác.
Ngoài những câu chuyện truyền miệng giữa người với người không có
nguồn ghi chép, hình ảnh ma quỷ mà đặc biệt là ma nữ được xuất hiện trong
các thể loại dân gian khác như cổ tích, truyền thuyết hay tuồng, chèo cổ.
Trong tập truyện cổ tích Chuyện thần tiên, ma quỷ và phù phép [68],
hình ảnh các ma nữ hoặc nữ quỷ hiện lên khá rõ. Người ta thấy mụ Chằng
chuyên ăn thịt người với phép biến hóa khôn lường, đáng sợ trong Người thợ
săn và mụ Chằng. Hay hình ảnh cô gái xinh đẹp do yêu quỷ biến thành trong
Người học trò và ba con quỷ, đặc biệt, các mô típ sẽ ảnh hưởng và được các
câu chuyện truyền kì tiếp nhận rất nhiều như trong Nợ duyên trong mộng. Câu
chuyện kể về chàng học trò Chu sinh, kết duyên cùng công chúa Mộng Trang

14


tại nước Hoa thành trong các giấc mộng. Mỗi giấc mộng là một sự kiện gắn
với cuộc hôn nhân của hai người. Cuộc sống của Chu sinh cứ thế diễn ra, thực
tế gắn liền với mộng ảo, cho đến khi chàng hiểu ra tất cả về nguồn gốc của
công chúa cũng như mọi thứ liên quan. Đó vốn là lãnh địa của tinh các loài
bướm. Mộng ảo biến thành thực, sau khi Chi sinh hóa thân thành bướm và
bay lên trời.

Hay trong tích chèo cổ Trương Viên, nhân vật nàng Thị Phương và mẹ
chồng trong quá trình lưu lạc do chiến tranh, loạn lạc, đã gặp phải gia đình
nhà quỷ trong rừng. Khi quỷ đực đòi ăn thịt hai mẹ con, nàng đã liều mình xin
chết thay mẹ. Tấm lòng hiếu thảo của nàng đã khiến quỷ cái cảm động, liên
tục xin chồng tha chết cho hai mẹ con, sau đó còn cho nàng thức ăn, nước
uống như một sự chia sẻ của hai thân phận phụ nữ với nhau.
Những mô thức dân gian kèm theo trí tưởng tượng như vậy càng làm
cho con người mở rộng tầm nhìn, và có sự đánh giá đa chiều hơn với các nhân
vật vốn được xem là bí ẩn ấy. Nó cũng chứng tỏ một điều, các nhân vật ma
quái có tính chất kì ảo luôn là dạng thức nhân vật hấp dẫn, thu hút sự chú ý
của mọi đối tượng độc giả.
1.3.2. Trong văn học trung đại Việt Nam
Là một hình tượng hấp dẫn người đọc, các nhân vật ma nữ đã đi vào
khá nhiều các tác phẩm văn học trung đại. Khi vào văn học viết, các nhân vật
ma nữ đã được xây dựng thành các hình tượng có chiều sâu hơn ngoài việc là
một nhân vật chức năng theo dụng ý nghệ thuật của tác giả. Ở đó, các ma nữ
có “đời sống”, số phận phức tạp hơn, mang tính hiện thực xã hội và tinh thần
nhân văn của thời đại.
Ở một số truyện thơ Nôm, hình ảnh các ma nữ hiện lên khá sống động,
không đơn thuần là mang tính chất kỳ ảo gây khiếp đảm, sợ hãi như truyện kể
dân gian, họ còn mang tới nhiều màu sắc cảm xúc khác đa chiều và đa diện

15


hơn. Có thể kể đến hồn ma Đạm Tiên, một kỹ nữ tài sắc nhưng hồng nhan bạc
mệnh trong những lần hiển linh hoặc ứng mộng cho Kiều:
“Kiều rằng: Những đấng tài hoa,
Thác là thể phách, còn là tinh anh,
Dễ hay tình lại gặp tình,

Chờ xem ắt thấy hiển linh bây giờ.
Một lời nói chửa kịp thưa,
Phút đâu trận gió cuốn cờ đến ngay.
Ào ào đổ lộc rung cây,
Ở trong dường có hương bay ít nhiều.
Đè chừng ngọn gió lần theo,
Dấu giày từng bước in rêu rành rành.
Mắt nhìn ai nấy đều kinh,
Nàng rằng: Này thực tinh thành chẳng xa”.
(Truyện Kiều-Nguyễn Du)
Hoặc hình ảnh một người mẹ thương con hết mực như hồn ma Cúc Hoa
trong truyện thơ Nôm Phạm Công-Cúc Hoa gây nhiều xúc động, thương cảm
và xót xa với người đọc.
Tuy nhiên, ở những truyện thơ Nôm các tình tiết liên quan tới khá
nhiều nhân vật, hình ảnh các ma nữ vẫn chỉ là các bóng dáng ẩn hiện trong
phút chốc, thoảng hoặc trong giấc mộng. Phải đến với thể loại truyền kỳ, các
nhân vật ma nữ mới được xây dựng một cách trọn vẹn và toàn diện về cả nội
dung lẫn nghệ thuật. Mang những đặc trưng của thể loại, đó là yếu tố thực
được đan xen, cài nhuyễn với yếu tố kỳ ảo, thể loại này rất thích hợp để các
tác giả phóng tác và đưa vào các hình tượng ma quái, thần tiên. Trong đó, các
nhân vật ma nữ vốn đi vào văn học dân gian như một hiện tượng của đời sống

16


tinh thần sau những buổi trà dư tửu hậu, thì nay, đi vào thể loại truyền kỳ như
một hình tượng mang tính đa chiều.
Văn học trung đại phần lớn do nam giới sáng tác, thể hiện cái nhìn của
đàn ông. Nhân vật ma nữ cũng như các nhân vật nữ khác trong Truyền kỳ mạn
lục cũng nằm trong đặc điểm chung này. Ngay cả các tác giả nữ cũng phát

biểu quan điểm của nam giới, do vậy ít nhiều nó phản ánh các quan niệm của
thời đại mang tính chất thiên lệch, có lợi cho nam giới và bất lợi cho người
phụ nữ. Điều đó xuất phát từ giáo lý của nhà Nho, là nền tảng, cơ sở để họ
đặt ra các tiêu chí cho nhân vật của mình nhằm phù hợp với quan điểm thẩm
mỹ hoặc tính chất giáo dục cho xã hội.
Ngoài Truyền kỳ mạn lục, tác phẩm được xem là đỉnh cao của thể loại
truyền kỳ, áng thiên cổ kỳ bút được hậu thế ca tụng và lưu truyền, thì các yếu
tố kỳ ảo có ma quái, thần tiên còn xuất hiện trong vô số các tác phẩm khác
như: Thánh Tông di thảo của Lê Thánh Tông, Truyền kỳ tân phả của Đoàn
Thị Điểm, Tân truyền kỳ lục của Phạm Qúy Thích…Nếu Chuyện yêu nữ Châu
Mai trong Thánh Tông di thảo, hình ảnh của một yêu nữ hiện lên đã “có da,
có thịt” dù lộng hành tác quái nhưng xét đến cùng, nàng cũng là kẻ có tình,
thủy chung, biết chờ đợi, trả ân, trả nghĩa dù còn mờ nhạt, thì đến Truyền kỳ
mạn lục, các nhân vật ma nữ được nâng lên một tầm cao mới, trở thành các
hình tượng văn học ẩn giấu chiều sâu nghệ thuật và tài năng của tác giả, cùng
nhiều nét độc đáo, mới là so với nền văn học đương thời.
1.3.3. Trong văn học thế giới
Ở các nước Châu Á, ma quỷ là các khái niệm của đời sống tâm linh.
Thế giới vốn xem đây là một châu lục bí ẩn với các phong tục tập quán, tín
ngưỡng dân gian kỳ lạ. Do đó, không khó hiểu mà văn học mang nhiều hơi
thở kỳ bí. Chuyện ma quỷ, thần tiên cũng vì vậy mà trở nên phổ biến trong
văn học dân gian, văn học viết của các quốc gia này.

17


Ở các nước được xem là đồng văn đồng chủng, đồng châu như Trung
Quốc, Nhật Bản, kho tàng về các truyện ma quái, đặc biệt là về các ma nữ,
yêu nữ chiếm số lượng không hề nhỏ. Một cuốn tiểu thuyết Minh Thanh vô
cùng quen thuộc với Việt Nam là Tây du ký, Ngô Thừa Ân đã có hẳn một

danh sách các yêu nữ với đủ loại hình thức biến hóa, chiêu thức tồn tại. Các
giống yêu vật thành tinh như Nhện tinh, Bạch cốt tinh, Thỏ tinh…hiện lên đầy
rẫy trong cuộc tây du của Đường Tăng. Chúng đều có phép thần thông biến
hóa, biến ảo khôn lường, và sắc đẹp lộng lẫy. Tuy nhiên, các nhân vật này chỉ
dừng lại ở dạng thức chức năng đơn thuần, là điều kiện cần phải có để thử
thách thầy trò Tam Tạng.
Ở một tác phẩm lớn khác của Trung Quốc là Liêu trai chí dị của Bồ
Tùng Linh, các nhân vật yêu ma rất đa dạng về xuất thân, đó là các hồ ly tinh,
ma nữ, hồn hoa, thảo vật, tinh của các loài vật khác như ong, chim, cá…tuy là
tinh yêu nhưng phần lớn các nàng đều mang những nét tính cách, đặc điểm
của con người rất rõ nét. Được tô đậm bằng ngoại hình xinh đẹp, hấp dẫn,
mỗi nhân vật lại có một số phận riêng, nhưng phần lớn đều được gắn với mối
duyên tình cùng các chàng trai. Các sắc thái cảm xúc của nhân vật cũng được
chú trọng khai thác, các nàng có hạnh phúc, có khổ đau, có ghen tuông...tạo
nên một thế giới nhân vật các yêu nữ có chiều sâu và đa diện. Ngoài ra, người
ta còn thấy bóng dáng các nhân vật ma nữ xuất hiện khá nhiều trong Tiễn
đăng tân thoại của Cù Hựu, tác phẩm được xem là có ảnh hưởng sâu sắc tới
Truyền kỳ mạn lục của Nguyễn Dữ. Với tính chất hư hư thực thực của tác
phẩm, các tác giả này đều muốn phản ánh xã hội đương thời ở các góc độ
khác nhau một cách kín đáo, tế nhị. Đặc biệt, thế giới của người phụ nữ mặc
dù ẩn giấu dưới hệ thống các nhân vật kỳ ảo cũng được khai thác với con mắt
nhân văn, tinh tế.

18


Với văn học Nhật Bản, đặc biệt là trong thần thoại và truyền thuyết của
văn học dân gian, người dân xứ Phù Tang còn lưu truyền rất nhiều các câu
chuyện về các nhân vật ma nữ với các dáng hình đặc trưng, vừa đáng sợ, vừa
quái đản. Đó là các yêu nữ hồ ly Kitsune có phép biến hóa đa dạng và rất tinh

quái. Các nữ hồ ly thường được xem là hay biến thành các cô gái xinh đẹp để
kết duyên cùng các chàng trai trần thế. Hoặc hình ảnh ma nữ Onryo vốn dĩ là
linh hồn của các cô gái chết oan, bị phụ bạc trong tình cảm, vì chưa siêu thoát
nên vẫn đi lại trên trần thế, ám ảnh và gây nên nỗi kinh hoàng cho con người.
Truyền thuyết Nhật Bản còn nhắc tới các nhân vật ma nữ đáng sợ chuyên hại
người khác như ma cổ dài, ma cà rồng, ma miệng rộng và tuyết nữ... các nhân
vật ma nữ này đều mang đậm tính văn hóa của xứ sở cũng các quan niệm của
Nhật Bản về linh hồn người chết hoặc yêu quái. Do vậy mà các câu chuyện
được tạo dựng và lưu truyền trong dân gian này là nguồn cảm hứng rất lớn
của các tác phẩm điện ảnh, truyện tranh Nhật Bản được thế giới đón nhận.
1.4. Quan niệm của nhà Nho về người phụ nữ đẹp và vấn đề tính
dục thời trung đại
1.4.1.Quan niệm của nhà Nho về người phụ nữ đẹp
Trong các thuyết giáo của Nho gia, dễ nhận thấy vấn đề được đề cao và
đòi hỏi nhiều nhất ở người phụ nữ là tam tòng, tứ đức. Trong tứ đức, phẩm
chất “dung”, được xem như nói về vẻ ngoài hình thức của người phụ nữ phải
có chuẩn mực nhất định: “Dáng điệu đoan trang, cách ăn mặc chải chuốt trang
nhã, gọn gàng, sạch sẽ,nghiêm chỉnh, đi đứng khoan thai, vẻ mặt dịu dàng,
tươi cười” [65]. Chúng ta có thể nhận thấy, mặc dù nói về vẻ ngoài nhưng
giáo lý của các Nho gia tuyệt nhiên không nhắc tới vấn đề sắc đẹp, hay nói
cách khác nó không được xem trọng như những phẩm chất đạo đức hoặc thiên
chức trong gia đình của người phụ nữ. Khi luận về hình thức của họ, các Nho
gia lấy các tiêu chuẩn của ứng xử, phẩm hạnh ra làm thước đo đánh giá, thay

19


×