Tải bản đầy đủ (.pdf) (106 trang)

Khái niệm nhà nước pháp quyền tiếp cận dưới góc độ triết học

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (807.39 KB, 106 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN

TRẦN THỊ DIỆU LINH

KHÁI NIỆM NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
TIẾP CẬN DƯỚI GÓC ĐỘ TRIẾT HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01

HÀ NỘI - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
KHOA TRIẾT HỌC

TRẦN THỊ DIỆU LINH

KHÁI NIỆM NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
TIẾP CẬN DƯỚI GÓC ĐỘ TRIẾT HỌC

LUẬN VĂN THẠC SĨ

Chuyên ngành: Triết học
Mã số: 60 22 03 01

Người hướng dẫn khoa học: PGS, TS. Nguyễn Thúy Vân



HÀ NỘI - 2016


LỜI CAM ĐOAN

Tôi xin cam đoan luận văn thạc sỹ Triết học với đề tài “Khái niệm Nhà nước
pháp quyền Tiếp cận dưới góc độ triết học” là công trình nghiên cứu của
riêng cá nhân tôi dưới sự hướng dẫn của PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân.
Các trích dẫn trong luận văn đảm bảo chính xác, trung thực. Những kết luận
khoa học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào.

Tác giả

Trần Thị Diệu Linh


LỜI CẢM ƠN

Tôi xin gửi lời cảm ơn chân thành và sự tri ân sâu sắc đến các thầy, cô giáo
của Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, nhất là các thầy cô trong
Khoa Triết học đã quan tâm, tạo mọi điều kiện cho tôi trong quá trình học tập
và thực hiện luận văn.
Đặc biệt, tôi xin gửi đến PGS. TS. Nguyễn Thúy Vân lòng biết ơn sâu sắc về
sự hướng dẫn tận tình, chu đáo để tôi hoàn thành luận văn này.
Do còn hạn chế về kiến thức và kinh nghiệm nên luận văn chắc chắn không
tránh khỏi những thiếu sót, tôi rất mong nhận được các ý kiến đóng góp của quý
thầy, cô cùng toàn thể các bạn để luận văn được hoàn thiện hơn, cũng như có thể
rút kinh nghiệm cho những nghiên cứu tiếp theo.
Tôi xin chân thành cảm ơn!


Tác giả

Trần Thị Diệu Linh


DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT

ĐCS: Đảng cộng sản
CNXH: Chủ nghĩa xã hội
NNPQ XHCN: Nhà nước pháp quyền xã hôi chủ
nghĩa
XHCN: Xã hội chủ nghĩa


MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU .................................................................................................. 1
B. NỘI DUNG............................................................................................... 8
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG VÀ KHÁI NIỆM NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN ...8
1.1. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền trong lịch sử ............................. 8
1.1.1. Quá trình hình thành tư tưởng Nhà nước pháp quyền........................ 8
1.1.2 Khái niệm Nhà nước pháp quyền ...................................................... 30
1.2 Một số cách tiếp cận Nhà nước pháp quyền .................................... 37
1.2.1 Tiếp cận khái niệm Nhà nước pháp quyền từ góc độ Sử học ............. 37
1.2.2 Tiếp cận khái niệm Nhà nước pháp quyền từ góc độ Luật học .......... 40
1.2.3 Tiếp cận khái niệm Nhà nước pháp quyền từ góc độ Chính trị học ... 43
CHƯƠNG 2: BẢN CHẤT VÀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ CÓ TÍNH QUY LUẬT
TRONG XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN ................................ 47
2.1 Bản chất của Nhà nước pháp quyền................................................. 47
2.1.1 Về nội dung của pháp luật trong Nhà nước pháp quyền ................... 48

2.1.2 Về yếu tố dân chủ trong nhà nước pháp quyền ................................. 50
2.1.3 Về cách thức tổ chức quyền lực nhà nước......................................... 55
2.2 Một số vấn đề có tính quy luật trong xây dựng Nhà nước pháp
quyền ........................................................................................................ 59
2.2.1 Nền tảng kinh tế................................................................................ 60
2.2.2 Nền tảng xã hội ................................................................................ 65
2.2.3 Yếu tố dân chủ với tư cách là nền tảng nhận thức............................. 72
2.3 Vận dụng cách tiếp cận triết học khái niệm Nhà nước pháp quyền trong
xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội Chủ nghĩa ở Việt Nam ................ 77
2.3.1 Xây dựng về mặt lý luận mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam ...................................................................................... 77
2.3.2 Dựa vào tính quy luật để thiết lập điều kiện tất yếu xây dựng Nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam ......................................... 88
KẾT LUẬN ................................................................................................. 94
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 96


A. MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Từ thời cổ đại, mầm mống tư tưởng về Nhà nước pháp quyền đã xuất
hiện ở cả phương Đông và phương Tây với tư cách là một trong những
phương pháp giữ gìn trật tự xã hội, chống lại việc làm dụng quyền lực trong
xã hội. Hiện nay, nhà nước pháp quyền được coi là một cách thức tổ chức
quyền lực nhà nước tối ưu dựa trên nguyên tắc công bằng, nhân văn và được
nhiều quốc gia lựa chọn làm mô hình hoạt động của mình. Mỗi quốc gia lại có
những điều kiện cụ thể khác nhau nên việc xây dựng mô hình Nhà nước pháp
quyền ở từng nước cũng không giống nhau. Ở mỗi quốc gia, chế độ pháp
quyền đều có sự điều chỉnh nhất định cho phù hợp với điều kiện cụ thể của
đất nước. Ngoài ra, sự phong phú trong cách tiếp cận khái niệm Nhà nước
pháp quyền cũng đưa tới một hệ quả là xuất hiện nhiều học thuyết về Nhà

nước pháp quyền. Nhiều nhà nghiên cứu đã cùng đưa ra một nhận xét như
sau: “Pháp quyền là một thuật ngữ được sử dụng nhiều nhất và cũng là một
khái niệm có nhiều cách hiểu khác nhau” [55,tr.28-40]. Tuy nhiên, các tư
tưởng, học thuyết về pháp quyền đều có một điểm chung, đó chính là tinh
thần thượng tôn pháp luật trong xã hội nhằm đảm bảo dân chủ, hạn chế sự tùy
tiện, độc đoán và bảo vệ các quyền của con người.
Sau nhiều thập kỷ dài chiến tranh và thực hiện nền kinh tế kế hoạch hoá
tập trung, từ năm 1986, Việt Nam đã thực hiện chính sách đổi mới, xây dựng
nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa với mục tiêu dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Trong quá trình xây dựng
và phát triển đất nước, mô hình Nhà nước pháp quyền đã được chính thức đề
cập, cân nhắc và chọn lựa áp dụng tại Việt Nam từ năm 1991. Tuy nhiên,
cũng như nhiều quốc gia đang trong quá trình chuyển đổi khác, việc xây dựng
chế độ pháp quyền tại Việt Nam vẫn còn trong giai đoạn vừa triển khai vừa
tổng kết và rút kinh nghiệm. Hệ thống lý luận về chế độ pháp quyền xã hội
1


chủ nghĩa còn chưa được quan tâm phát triển đúng mức, bên cạnh đó, một số
nhà hoạch định chính sách còn nhìn nhận chế độ pháp quyền, đặc biệt là chế
độ pháp quyền phương Tây với thái độ khá thận trọng.
Thực tế đã chứng minh tầm quan trọng của lý luận đối với sự phát triển
của mỗi quốc gia, dân tộc. Việc nhận thức một cách sâu sắc bản chất của các
quá trình xã hội, các quan hệ xã hội có ý nghĩa quan trọng trong việc đưa ra
các quyết sách chính trị. Việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa Việt Nam hiện nay cần phải được tiến hành trên cơ sở một khung lý
luận vững chắc, có vai trò giá đỡ cho tư duy khi giải quyết các nhiệm vụ cụ
thể liên quan. Một trong những nhiệm vụ then chốt đó là làm rõ khái niệm
“Nhà nước pháp quyền”.
Từ những lý do trên, đòi hỏi phải có một cách tiếp cận khái niệm Nhà

nước pháp quyền dưới góc độ bản chất, quy luật nhằm xác định rõ những dấu
hiệu đặc trưng của chúng. Trên cơ sở đó, tôi chọn đề tài “Khái niệm Nhà
nước pháp quyền - tiếp cận dưới góc độ triết học” làm đề tài luận văn của
mình.
2. Tổng quan tình hình nghiên cứu
Nhà nước pháp quyền là một nội dung không hề mới trong những
nghiên cứu gần đây bởi tính cấp thiết của nó trong việc đáp ứng nhu cầu cả về
lý luận và thực tiễn đối với các lĩnh vực luật học, chính trị học… thu hút sự
quan tâm của đông đảo các nhà nghiên cứu trên thế giới nói chung và Việt
Nam nói riêng. Ta có thể điểm qua một số các công trình ở các mảng nghiên
cứu sau:
Thứ nhất, nhóm các đề tài nghiên cứu về Nhà nước pháp quyền và Nhà
nước pháp quyền ở Việt Nam.
Tác phẩm Bàn về tinh thần pháp luật của Môngtétxkiơ và Bàn về khế
ước xã hội của Rútxô do Hoàng Thanh Đạm dịch được coi là các tác phẩm
kinh điển khi bàn về Nhà nước pháp quyền. Hai cuốn sách trên mang những
2


giá trị to lớn về mặt lịch sử, là cội nguồn để nghiên cứu những vấn đề của
Nhà nước pháp quyền. Ở đó, các tác giả đã phân tích lịch sử ra đời, quá trình
vận động và phát triển của Nhà nước pháp quyền trong lịch sử. Đặc biệt, cả
hai cuốn sách đều nêu bật lên được tinh thần tự do, bình đẳng, bác ái… trên
cơ sở quyền con người – yếu tố được coi là nền tảng của Nhà nước pháp
quyền trong những nghiên cứu về sau này.
Cuốn Chế độ dân chủ. Nhà nước và xã hội của N. M. Voskresenskaia,
N. B. Davletshinna được xuất bản bởi Nhà xuất bản Tri thức năm 2009 là một
công trình sử dụng các kinh nghiệm quốc tế để xây dựng các nguyên tắc dân
chủ, cuốn sách đã đề cập đến khía cạnh nhà nước và pháp quyền, chế độ liên
bang và các hình thức tổ chức nhà nước ở Nga cũng như sự khác nhau giữa

nước Nga ở quá khứ với nước Nga ở hiện tại, đồng thời đưa ra những nhận
định về tương lai của quốc gia này.
Công trình nghiên cứu của GS.TS Hoàng Chí Bảo: Giá trị bền vững và
sức sống của Chủ nghĩa Mác-Lênin và chủ nghĩa xã hội khoa học đã vạch ra
tư tưởng của các nhà kinh điển về chủ nghĩa xã hội. Trong đó, tác giả đã làm
rõ khía cạnh quyền con người, quyền công dân – một trong những yếu tố căn
bản để có thể xây dựng nhà nước pháp quyền ở Việt Nam hiện nay.
Công trình nghiên cứu của Lê Minh Thông với nội dung Đổi mới hoàn
thiện bộ má nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân ở Việt Nam hiện nay đã triển khai được về tư tưởng Hồ Chí
Minh về tổ chức bộ máy nhà nước của dân, do dân, vì dân; tư tưởng Hồ Chí
Minh về Nhà nước pháp quyền; nêu lên được quan điểm của Đảng Cộng sản
Việt Nam về việc tổ chức bộ máy nhà nước trước và sau đổi mới. Ngoài ra,
công trình còn làm rõ được quá trình đổi mới mô hình bộ máy nhà nước qua
các bộ luật của các thời kỳ lịch sử, thực trạng bộ máy nhà nước xã hội chủ
nghĩa từ 1992 đến nay, từ đó nêu ra được phương hướng đổi mới mô hình tổ
chức bộ máy nhà nước ở Việt Nam hiện nay.
3


Luận án của Tiến sĩ Trương Quốc Chính về Quan điểm của chủ nghĩa
Mác, Ăng-ghen, Lênin về nhà nước xã hội chủ nghĩa và việc vận dụng để xây
dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân Việt Nam hiện nay đã nêu bật lên
được quan niệm của Mác, Ăng-ghen, Lênin về nhà nước và nhà nước xã hội
chủ nghĩa, nêu lên sự vận dụng chủ nghĩa Mác – Lênin về nhà nước xã hội
chủ nghĩa trong tiến trình xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân ở Việt
Nam. Đồng thời nêu lên được các nguyên tắc, giải pháp có tính định hướng
trong xây dựng nhà nước của dân, do dân, vì dân ở Việt Nam hiện nay.
Công trình “Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam của dân, do dân, vì
dân – Lý luận và thực tiễn” do Nguyễn Duy Quý và Nguyễn Tất Viễn chủ

biên (Nxb Chính trị Quốc gia, 2010) đã khái quát lịch sử hình thành và phát
triển của học thuyết nhà nước pháp quyền; nêu lên quan điểm của chủ nghĩa
Mác – Lênin, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về nhà nước pháp
quyền; khái quát những đặc trưng cơ bản và chức năng của nhà nước pháp
quyền XHCN Việt Nam, đồng thời chỉ ra được các yếu tố quy định, chi phối
cũng như phương hướng và các giải pháp chủ yếu xây dựng nhà nước pháp
quyền XHCN ở Việt Nam hiện nay.
Bài viết “Về một số nét đặc thù của nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam” của tác giả Phạm Văn Đức (Tạp chí Triết học số 9/2005)
nêu lên được các đặc trưng cơ bản, mang nét riêng của nhà nước pháp quyền
Việt Nam. Từ đó đi đến khẳng định nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam là
sự thống nhất giữa cái phổ biến và cái đặc thù thông qua sự so sánh những
điểm giống và khác nhau về mô hình nhà nước pháp quyền của Việt Nam và
trên thế giới nói chung.
Thứ hai, nhóm các đề tài nghiên cứu về các cách tiếp cận Nhà nước
pháp quyền
Dưới góc độ lịch sử, cuốn Sơ thảo lịch sử nhà nước và pháp quyền Việt
Nam của Đinh Gia Trinh đã khảo cứu về lịch sử Nhà nước pháp quyền từ
4


thời kỳ dựng nước cho đến nay. Mỗi đặc điểm về các mặt kinh tế, chính trị,
văn hóa … là những yếu tố tác động tích cực đến kiến trúc thượng tầng để từ
đó nhìn nhận, đánh giá đâu là nguyên nhân căn bản để có biện pháp tác động
phù hợp cho quá trình xây dựng đất nước.
Tác giả Nguyễn Hữu Khiển với công trình nghiên cứu Phân tích triết
học những vấn đề cơ bản về chính trị và khoa học chính trị đã đưa ra những
luận giải về các nhóm lợi ích trong đời sống chính trị, Đảng chính trị, Nhà
nước và quyền lực chính trị, văn hóa chính trị, vấn đề dân tộc, cục diện chính
trị thế giới…. có thể trở thành điểm tựa cho việc nghiên cứu và hiểu sâu hơn

về nền chính trị Việt Nam trong bức tranh chung của thế giới.
Công trình nghiên cứu của Nguyễn Minh Đoan với đề tài Xây dựng và
hoàn thiện hệ thống pháp luật Việt Nam trong bối cảnh xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa đã luận giải dưới góc độ luật học những vấn đề
khá chi tiết về tính hệ thống của pháp luật Việt nam, về các yêu cầu đối với
hoạt động xây dựng luật pháp, trách nhiệm của người xây dựng luật pháp;
phát huy vai trò, trí tuệ của các nhà khoa học trong việc xây dựng luật, đồng
thời nêu ra được tính thống nhất của việc phải xây dựng một hệ thống luật
pháp sao cho phù hợp với bối cảnh kinh tế thị trường ở Việt Nam hiện nay
theo mô hình Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đáng kể nhất phải nhắc đến bài báo "Khái niệm nhà nước pháp quyền
từ góc nhìn Triết học" của Tiến sĩ Trần Ngọc Liêu đăng trên Tạp chí Triết học
số 11 năm 2009. Bài báo đã đưa ra định nghĩa khái niệm Nhà nước pháp
quyền, nội dung và bản chất của Nhà nước pháp quyền, khẳng định Nhà nước
pháp quyền là một trình độ phát triển tất yếu của nhà nước. Theo đó, Nhà
nước pháp quyền tư bản chủ nghĩa là hình thức chưa thể hiện hết nội dung
còn Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là nhà nước đã thể hiện hết nội
dung của Nhà nước pháp quyền, là Nhà nước pháp quyền theo nghĩa đầy đủ
nhất.
5


Nhìn chung, các công trình nghiên đã bước đầu đưa ra các cách hiểu
khác nhau về khái niệm Nhà nước pháp quyền và việc ứng dụng mô hình Nhà
nước pháp quyền vào việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
Việt Nam hiện nay. Tuy nhiên, tôi nhận thấy chưa có đề tài nào đi sâu nghiên
cứu và phân tích một cách có hệ thống khái niệm Nhà nước pháp quyền dưới
góc độ Triết học nhằm chỉ rõ bản chất, những vấn đề có tính quy luật trong
quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền nói chung và Nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam nói riêng. Đây là hướng nghiên cứu chính của

luận văn.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
- Mục đích nghiên cứu: Luận văn phân tích cách tiếp cận khái niệm
Nhà nước pháp quyền dưới góc độ triết học, từ đó chỉ ra bản chất, quy luật và
những yếu tố ảnh hưởng đến quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền cũng
như việc vận dụng nó trong việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
- Để đạt được mục đích nêu trên, luận văn đặt ra yêu cầu phải thực hiện
những nhiệm vụ sau:
+ Khái quát lý luận tư tưởng về nhà nước pháp quyền và phân tích các
cách tiếp cận khác nhau khái niệm Nhà nước pháp quyền.
+ Phân tích cách tiếp cận khái niệm Nhà nước pháp quyền từ góc độ
triết học, chỉ ra bản chất, một số vấn đề có tính quy luật và những yếu tố ảnh
hưởng đến quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền, từ đó vận dụng vào quá
trình xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
- Cơ sở lý luận của luận văn là: Quan điểm Mác-xít về nhà nước, tư
tưởng của Hồ Chí Minh về Nhà nước pháp quyền của dân, do dân và vì dân.
- Về phương pháp nghiên cứu: Luận văn sử dụng các phương pháp
phân tích, tổng hợp, logic - lịch sử, so sánh, diễn dịch, quy nạp...
6


5. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Khái niệm Nhà nước pháp quyền từ cách tiếp
cận triết học.
- Phạm vi nghiên cứu: Xem xét khái niệm Nhà nước Pháp quyền từ
cách tiếp cận triết học trên một số phương diện như: bản chất nhà nước pháp
quyền, tính quy luật trong xây dựng nhà nước pháp quyền.
6. Đóng góp của luận văn

Luận văn trình bày một cách hệ thống tư tưởng về Nhà nước pháp
quyền, các cách tiếp cận khái niệm Nhà nước pháp quyền, từ đó làm rõ cách
tiếp cận triết học khái niệm Nhà nước pháp quyền. Đồng thời bước đầu chỉ ra
việc vận dụng cách tiếp cận triết học khái niệm Nhà nước pháp quyền trong
việc xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam hiện nay.
7. Ý nghĩa lý luận và thực tiễn của luận văn
- Ý nghĩa lý luận: Luận văn bổ sung về mặt lý luận cách hiểu về nhà
nước pháp quyền dưới góc độ triết học.
- Ý nghĩa thực tiễn: Luận văn có thể làm tài liệu tham khảo cho sinh
viên chuyên ngành Luật học, Chính trị học, Triết học…
8. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và danh mục tài liệu tham khảo, luận văn
gồm 2 chương, 5 tiết.

7


B. NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: TƯ TƯỞNG VÀ KHÁI NIỆM NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN
1.1. Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền trong lịch sử
1.1.1. Quá trình hình thành tư tưởng Nhà nước pháp quyền
Khái niệm Nhà nước pháp quyền đã trải qua một quá trình hình thành
và phát triển lâu dài trong suốt lịch sử tư tưởng nhân loại. Ngày nay, người ta
vẫn tranh luận với nhau về việc: Phương Đông có tư tưởng về nhà nước pháp
quyền hay không. Điều này phụ thuộc vào quan niệm thế nào là Nhà nước
pháp quyền? Những nhà tư tưởng như thế nào thì được coi là có tư tưởng nhà
nước pháp quyền? Trên thực tế, phải đến thế kỷ thứ XIX khái niệm nhà nước
pháp quyền mới xuất hiện, nhà luật học người Đức là Molh Valker là một
trong những người đầu tiên dùng thuật ngữ “nhà nước pháp quyền”. Những
dấu hiệu của một nhà nước pháp quyền là: luật pháp thượng tôn trong xã hội,

quyền lực thuộc về nhân dân và có sự phân chia hoặc phân công quyền lực.
Đương nhiên, không thể ngay từ đầu đã có những quan điểm đầy đủ về những
dấu hiệu này, bởi vậy những nhà tư tưởng nào có quan niệm về việc thượng
tôn luật pháp, phân chia quyền lực, khẳng định quyền lực thuộc về nhân dân
thì đều được coi là có tư tưởng về nhà nước pháp quyền. Thông thường khi
nhắc đến Nhà nước pháp quyền, người ta thường nghĩ đến Nhà nước pháp
quyền ở phương Tây, tuy nhiên mầm mống tư tưởng về Nhà nước pháp quyền
xuất hiện ở cả phương Đông và phương Tây.
Tư tưởng về Nhà nước pháp quyền ở phương Đông
Xã hội Trung Hoa thời Xuân Thu (khoảng 770 – 475 tr.CN) có sự
chuyển biến từ giai đoạn chiếm hữu nô lệ sang chế độ phong kiến, khi đó
tiếng nói của nhà Chu không còn giá trị, trật tự lễ nghĩa bị đảo lộn, đạo đức
suy đồi. Xã hội vô cùng rối ren và loạn lạc, sự tranh giành quyền lực của các
phe phái trong xã hội khiến cho Trung Hoa rơi vào cảnh chiến tranh liên miên
trên toàn lãnh thổ, điều này đặt ra yêu cầu phải giải thể chế độ nhà nước kiểu
8


thị tộc của nhà Chu, thay vào đó là chế độ phong kiến nhằm giải quyết các
vấn đề xã hội lúc bấy giờ. Khi đó, nhiều tư tưởng lớn ra đời – đặc biệt là tư
tưởng về vấn đề “quốc trị” – đưa ra các cách thức quản lý xã hội nhằm thiết
lập lại trật tự trong xã hội. Những tư tưởng về đường lối trị nước đó cũng
đồng thời bao hàm nhiều yếu tố liên quan đến pháp quyền và có vai trò quan
trọng trong việc xây dựng nhà nước pháp quyền.
Quan điểm “vô vi” của Đạo Lão Trang
Mầm mống tư tưởng về quản lý nhà nước được bắt đầu từ quan niệm
“Vô vi nhi trị” của Lão Tử. Ông cho rằng, xã hội trở lên loạn lạc là do con
người phải phục tùng theo những lễ nghi, xã hội càng có tổ chức thì càng
nguy hại. Trong quan niệm của Lão Tử, vạn vật đều có bản tính tự nhiên của
mình, chúng tồn tại, vận động, biến hoá theo lẽ tự nhiên vốn có của nó, bởi

vậy, ông chủ trương xây dựng một xã hội “huyền đồng” – một xã hội không
có phân biệt đẳng cấp, không có dục vọng, không có pháp lệnh [Dẫn theo 18,
tr.109]. Để xây dựng một xã hội như vậy Lão Tử chủ trương phải bỏ hết
những gì trái với đạo tự nhiên vô vi, vượt quá bản tính, khả năng, nhu cầu tự
nhiên cần thiết của con người. Muốn trị nước bằng vô vi, Lão Tử kêu gọi đưa
xã hội và cuộc sống con người trở về với trạng thái tự nhiên, nguyên thuỷ,
chất phác, không ham muốn, dục vọng, không thể chế, pháp luật, không ràng
buộc bởi truyền thống đạo đức, không tri thức văn hoá, kĩ thuật. Theo bản tính
tự nhiên,mọi người tự làm những việc mà mỗi con người cần phải làm một
cách tự nhiên. Không chỉ vậy, Lão Tử còn chủ trương đưa đức tính con người
trở lại với thời kỳ trẻ thơ, hồn nhiên, chân chất, vô dục. Ông muốn con người
thấu suốt mọi lẽ của tự nhiên mà sống hòa hợp với tự nhiên, không tự mãn,
không tự phụ,không xao động, không phô trương, không thái quá hay bất
cập.Do đó, Lão Tử phản đối những hiện tượng bất bình đẳng trong xã hội và
mơ ước trở lại đời sống chất phác của thời đại công xã nguyên thuỷ, đồng
thời, ông chủ trương bất bạo động, phản đối việc gây chiến tranh bạo lực vì
9


ông cho đó là sự tàn bạo, là tai hoạ của đời sống con người. Để làm được
những điều trên, Lão Tử cho rằng những nhà cầm quyền phải lo cho dân no
ấm, dùng sự thanh liêm của mình để khiến dân nể phục, từ đó nhân dân sẽ dần
dần trở về với trạng thái tự nhiên, chất phác mà không bị những khuôn phép
chính trị gò bó. Nhà nước pháp quyền và triết lý vô vi của Lão Tử gặp nhau ở
điểm giới hạn hợp lý sự can thiệp của công quyền vào đời sống của nhân dân.
Lão Tử chủ trương một xã hội lý tưởng trong đó nhà cầm quyền cần thực hiện
“vô vi nhi trị” (làm mà như không làm gì mà lại không gì là không làm) tức là
điều hành mọi việc theo lẽ tự nhiên của con người, quản lý nhân mà để nhân
dân không thấy bị đè nén, những thành quả nhân dân được hưởng thử do nhà
nước đem lại nhưng để cho nhân dân tự thấy đó là thành quả của chính mình.

Triết lý của Đạo Lão Trang cho rằng cần để cho xã hội phát triển một cách tự
nhiên, giảm thiểu các quy định của pháp luật, một khi đã đặt ra pháp luật thì
pháp luật phải tôn trọng bản tính tự nhiên của con người. Lão Trang cũng đặt
ra vấn đề tự do là để mọi thứ thuận theo tự nhiên. Những quan niệm này gần
với quan niệm về pháp luật tự nhiên của học thuyết Nhà nước pháp quyền ở
phương Tây cận đại [Dẫn theo 39,tr.239]. Trang Tử coi tự do là bản tính tự
nhiên của con người, còn học thuyết pháp quyền tự nhiên cho rằng tự do là
quyền tự nhiên của con người được luật hóa. Trang Tử phản đối pháp luật vì
nó hạn chế sự tự do của con người, điều này cũng có phần đúng nhưng việc
ông phủ nhận hoàn toàn pháp luật cho thấy ông không chỉ ra được vai trò bảo
vệ tự do của pháp luật. Học thuyết pháp quyền tự nhiên thừa nhận việc đặt ra
pháp luật là hạn chế tự do nhưng pháp luật là cần thiết cho xã hội. Nếu tất cả
mọi người đều tự do tuyệt đối thì tự do của người này sẽ thủ tiêu tự do của
người khác và hệ quả tất yếu là sẽ có cuộc chiến tranh của tất cả chống lại tất
cả như cách nói của Hobbes [39,tr.239]. Không cực đoan như Trang Tử, Lão
Tử cho rằng phải giảm thiểu các quy định của pháp luật và khi đặt ra pháp
luật cần phải tôn trọng tính tự nhiên của con người. Pháp luật phải ghi nhận
10


những quy luật sinh hoạt phổ biến của xã hội loài người, không đi ngược lại
chúng và cũng không ôm cả xã hội vào lòng mình bởi xã hội còn được điều
chỉnh bởi nhiều yếu tố khác nhau như lợi ích, các định chế đạo đức, tập
quán...Lão Tử cho rằng muốn quản lý hiệu quả phải hiểu được những bản tính
tự nhiên của con người mà xây dựng pháp luật. Pháp luật không tạo ra bản
tính tự nhiên của con người mà chỉ ghi nhận và tạo lập cơ chế đảm bảo phát
triển bản tính tự nhiên đó. Pháp luật đặt ra theo ý chí chủ quan của nhà nước
thì dễ bị xã hội từ chối [Dẫn theo 39,tr.242]. Chính vì vậy, theo Lão Tử, nhà
nước không nên đặt ra nhiều quy định cấm mà nên định ra những khung rộng
rãi cho người dân có nhiều cơ hội lựa chọn cách hành xử, không nên giới hạn

hành vi của người dân bằng những quy định quá chi tiết. Lão Tử nói: ”Sắc
lệnh càng tỉ mì thì dân càng lo âu, càng giới hạn hành vi của người dân thì
dân càng dễ nổi loạn, chống đối. Sự chi tiết hóa các đạo luật bằng một khối
lượng lớn các văn bản pháp luật sẽ dễ xâm phạm quyền con người. Nhiều khi
luật rất thông thoáng nhưng các văn bản pháp quy tạo ra những rào cản. Một
thế giới ngập tràn nghị định và thông tư không nên có trong một nhà nước
pháp quyền. Trong một nhà nước pháp quyền người dân phải được sống dưới
các đạo luật do chính dân biểu của mình biểu quyết” [Dẫn theo 39,tr.244].
Như vậy, quan niệm của Lão Tử nói riêng và Đạo gia nói chung mang đậm
tính nhân văn ở chỗ không gò buộc con người vào bất cứ một khuôn phép
nào, theo đó luật pháp không phải là phương án triệt để để loại trừ những tệ
nạn trong xã hội và nếu muốn hướng thiện thì phải dùng tư cách thánh nhân
để cảm hóa kẻ xấu, để cho vạn vật phát triển tự nhiên. Sự tiến bộ trong quan
niệm của Lão Tử thể hiện ở chỗ thừa nhận sự tồn tại tất yếu của bản tính tự
nhiên của con người, đề đảm bảo và duy trì được bản tính tự nhiên ấy thì
những nhà cầm quyền phải thuận theo lẽ tự nhiên để cai trị dân chúng. Tư
tưởng này có vai trò quan trọng đối với mô hình nhà nước pháp quyền hiện
đại vì việc nhận thức và bảo vệ quyền tự nhiên của con người là một trong
11


những nội dung quan trong của luật pháp – đây là yếu tố cơ bản của nhà nước
pháp quyền. Tuy nhiên, điểm hạn chế trong quan niệm của Lão Tử là đưa xã
hội trở về xã hội nguyên thủy, chất phác tự nhiên, con người sống hòa mình
với thiên nhiên theo bản năng vốn có của mình nảy sinh mâu thuẫn giữa
quyền lợi của mỗi cá nhân với quyền lợi của xã hội – gây ra sự hỗn loạn trong
xã hội. Mặt khác, quan niệm của Lão Tử không được xét đến trong bối cảnh
sự vận động và phát triển của kinh tế và các quan hệ xã hội nên cũng chỉ bộc
lộ được vai trò trấn an xã hội trong trạng thái tĩnh, hay nói cách khác là chỉ có
tác dụng trong xã hội giản đơn, không có sự thay đổi về các yếu tố kinh tế hay

xã hội.
Quan niệm Đức trị của Khổng Tử
Trong khi Lão Tử chủ trương “vô vi nhi trị” – thuận theo lẽ tự nhiên để
quản lý xã hội,Khổng Tử lại đưa ra quan niệm dùng đạo đức để quản lý xã
hội. Ông chủ trương phục lễ của nhà Chu để khôi phục thiên hạ, nêu “chính
danh” để khôi phục chế độ thân phong, từ đó, Khổng Tử dùng đức trị - bản
thân người thống trị lấy đạo đức của mình để cảm hóa người bị trị, làm cho họ
không chống lại những người thống trị nữa.Trong xã hội đó, Vua vâng mệnh
trời để trị dân những mệnh trời phải phù hợp với lòng dân và người cầm
quyền phải dựa vào dân. Chủ trương đức trị đòi hỏi kẻ thống trị phải tu
dưỡng, dùng “cung, khoan, tín, mẫn, huệ” để cảm hóa. Từ đó, ông đưa ra
chính sách huệ dân, đòi hỏi người cầm quyền phải tiết dụng, phải yêu người,
sử dụng sức dân đúng lúc, chú ý làm cho dân đông đúc và giàu mạnh. Ông
chủ trương sử dụng lễ nhạc để giáo hóa người dân, cách thức quản lý xã hội
này sử dụng những quy phạm đạo đức thay thế cho những quy phạm pháp
luật. Ông lập luận rằng “Hướng dẫn người ta bằng chính lệnh, chỉnh đốn
người ra bằng hình luật thì người ta bất đắc dĩ làm theo nhưng không có liêm
sỉ. Ngược lại, hướng dẫn người ta bằng đức, chỉnh đốn người ta bằng lễ thì
người ta có lòng liêm sỉ và quy phục” [Luận ngữ, Thiên vi chính]. Với lập
12


luận này, Khổng Tử dường như xem nhẹ và không thấy được vai trò của luật
pháp. Tư tưởng trị nước này chỉ phát huy được tác dụng khi quản lý xã hội
trong sự bình ổn mà không phải chịu chế tài nhằm duy trì sự bình ổn xã hội
trong một giai đoạn nhất định. Hạn chế của Khổng Tử thể hiện ở chỗ không
đảm bảo được sự ổn định xã hội trong thời gian dài và yêu cầu người cầm
quyền phải là người có đạo đức mới quản lý được nhà nước và khi toàn bộ
phương thức cai trị phụ thuộc vào đạo đức của người cầm quyền sẽ khó tạo ra
sự phát triển xã hội và tính rủi ro cao. Tuy nhiên, tư tưởng này lại mang đến

những hiệu quả nhất định đối với xã hội Trung Hoa lúc bấy giờ cũng như giai
đoạn đầu của chế độ phong kiến sơ kỳ. Nó đưa ra yêu cầu chuẩn mực của đội
ngũ những người cầm quyền – thể hiện khía cạnh đạo đức không thể thiếu khi
xây dựng nhà nước pháp quyền mà ở đó việc điều hành nhà nước phải dựa
trên sự kết hợp giữa đạo đức và pháp luật mà cụ thể hơn là pháp luật phải
được xây dựng trên nền tảng đạo đức.
Tư tưởng Pháp trị của Hàn Phi
Xét về phương diện lịch sử, người khởi xướng quan niệm sử dụng luật
pháp để quản lý xã hội ở Trung Hoa là Thân Bất Hại, sau được bổ sung và
phát triển bởi Quản Trọng, Tử Sản, Thương Uởng, Hàn Phi – Sau này, người
ta gọi tư tưởng Pháp trị và trường phái tư tưởng này là Pháp gia. Đầu tiên, ta
cần phân biệt hai khái niệm “pháp quyền” và “pháp trị”: Trong pháp quyền,
luật pháp bảo vệ quyền lợi của nhân dân. Luật pháp chính là quyền tự nhiên
của con người được luật hóa . Trong pháp trị, luật pháp bảo vệ lợi ích của giai
cấp thống trị. Các nhà tư tưởng trong cùng trường phái Pháp gia lại không
thống nhất với nhau, nếu như Thận Đáo đề cao “Thế” – tầm quan trọng của
địa vị, uy tín, trình độ của những người nắm pháp luật mà cụ thể là Vua và hệ
thống quan lại… thì Thân Bất Hại lại đứng đầu nhóm duy “Pháp” - cho rằng,
pháp luật là yếu tố quan trọng nhất, bởi lẽ, nếu pháp luật đầy đủ, nghiêm minh
thì nước mạnh, nếu pháp luật thiếu, yếu, lỏng lẻo thì nước yếu. Trong khi đó,
13


Thương Ưởng khẳng định rằng, “Thuật” (phương pháp, sách lược) là nhân tố
có tầm quan trọng trong đường lối trị nước chẳng hạn như thuật bổ nhiệm
quan lại dựa trên chính danh, trên nhu cầu thực tế, thuật giám sát và thưởng
phạt dựa trên nguyên tắc “theo danh mà trách thực”, “theo việc mà trách
công” quan lại phải chịu trách nhiệm và bổn phận về việc mình làm, không đổ
lỗi cho người khác, cho hoàn cảnh, không trốn tránh trách nhiệm. Nhìn chung,
các nhà tư tưởng kể trên đều lấy pháp luật làm công cụ cơ bản để cai trị đất

nước và đề ra nguyên tắc “Pháp bất ly thân”, tức là mọi người đều phải tuân
thủ theo pháp luật. Trong đó, các ông đều chủ trương tôn trọng vua vì vua là
người đặt ra pháp luật, nhưng vua phải yêu thương dân chúng thì dân chúng
mới phục tùng vua. Pháp luật mà vua ban hành phải phù hợp với lợi ích của
nhân dân, không chỉ vậy mà còn phải mang tính chắc chắn. Mọi người đều
phải tuân thủ pháp luật, như vậy, nếu pháp luật nghiêm minh thì người cầm
quyền có thể không cần tài đức mà vẫn trị được nước.
Tuy nhiên, người đưa ra học thuyết tương đối hoàn chỉnh về Pháp trị và
áp dụng nó đem lại kết quả hữu hiệu nhất trong việc thống nhất Trung Hoa
dưới thời Tần Thủy Hoàng là Hàn Phi Tử. Hàn Phi sống trong thời kỳ Chiến
Quốc, nếu như nói rằng thời kỳ Xuân Thu – Chiến Quốc là thời kỳ đầy biến
động trong lịch sử Trung Quốc thì thời kỳ Chiến Quốc là giai đoạn biến động
nhất. Tư tưởng pháp trị đã được Hàn Phi phát triển lên đỉnh cao dựa trên sự kế
thừa, tổng hợp và phát triển học thuyết của những bậc Pháp gia tiền bối để tạo
nên một học thuyết hoàn chỉnh về đường lối pháp trị. Nếu như trước Hàn Phi,
như đã nói, Pháp gia hình thành lên ba phái cơ bản: phái trọng “pháp” của
Thương Ưởng, phái trọng “thế” của Thận Đáo, phái trọng “thuật” của Thân
Bất Hại, thì Hàn Phi đề cao cả ba yếu tố này, và kết hợp chúng một cách
nhuần nhuyễn trong học thuyết của mình. Trong đường lối pháp trị của ông,
“pháp”, “thế”, “thuật” là những công cụ của pháp trị, ba yếu đó tố thống nhất,
không thể tách rời, và không thể thiếu bất cứ yếu tố nào, yếu tố nọ gắn bó và
14


phụ trợ cho yếu tố kia. Khi Hàn Phi nhắc đến ”pháp”, đó chính là pháp luật,
là cái “trị chúng chi pháp” mà Doãn Văn tử đã nói đến. Ông đã chỉ rõ: “Pháp
luật là mệnh lệnh ban bố rõ ràng ở nơi cửa công, hình phạt chắc chắn đối với
lòng dân, thưởng cho những kẻ cẩn thận giữ pháp luật, nhưng phạt những kẻ
làm trái lệnh”[19,tr.478]. Có thể thấy được pháp trong tư tưởng của Hàn Phi
chính là những điều luật lệnh, được công bố rộng rãi, làm quy chuẩn cho mọi

người thi hành, và lấy thưởng phạt làm công cụ để thực hiện. Đã nói đến pháp
trị thì lẽ dĩ nhiên pháp luật phải là cái được đặt lên hàng đầu, Hàn Phi đã chỉ
ra những yêu cầu, tiêu chuẩn đó. Trước nhất, theo Hàn Phi, pháp luật phải
khách quan, phù hợp với thực tế. Quan niệm này của Hàn Phi đúng với pháp
luật ngày nay. Một điều luật được đưa vào cuộc sống thì không có nghĩa là nó
bất biến. Cuộc sống phải thay đổi, và sự thay đổi ấy sẽ làm cho những điều
luật bộc lộ những ưu điểm và hạn chế của mình. Điểm hợp lý sẽ được giữ
vững, còn những điểm không còn phù hợp thì phải thay đổi. Đó là điều tất
yếuvì nếu pháp luật xa rời thực tế cuộc sống, đi chậm hơn những biến động
của thời cuộc thì nó không thể phát huy được tác dụng của mình, thậm chí có
thể kéo lùi sự tiến bộ và phát triển của xã hội. Yêu cầu tiếp theo mà Hàn Phi
đề ra là pháp luật cần phải được phổ biến. Đây là một bước tiến, một đóng
góp của ông. Tất nhiên là không phải đến Hàn Phi, người ta mới nghĩ đến việc
phổ biến pháp luật nhưng cũng cần phải thấy rằng, trong giới cầm quyền lúc
đó vẫn còn phổ biến tư tưởng coi pháp luật là thứ công cụ cần phải giữ cho
riêng mình biết thì mới dễ trị dân. Họ cho rằng pháp luật phải là thứ độc
quyền của giới quý tộc, chỉ quý tộc mới được biết, nếu để dân chúng cũng
biết thì họ sẽ không còn kiêng nể gì giới quý tộc nữa. Pháp luật là thứ đặt ra
làm tiêu chuẩn, nên Hàn Phi rất nhấn mạnh đến yêu cầu công bằng của pháp
luật. Đối với pháp luật không có và không được đặt ra những ngoại lệ, không
được vì những điều riêng tư bởi chính những điều riêng tư là cái làm rối loạn
pháp luật. Pháp là cốt lõi, là xương sống của pháp trị. Tuy nhiên, ông cho
15


rằng pháp có thể làm cho nước mạnh, nhưng chưa đủ để đảm bảo cho sự vững
chắc của ngôi vua. Hàn Phi nhận rõ rằng nhà vua một mặt không thể thiếu
được sự trợ giúp của bề tôi, nhưng mặt khác, chính bầy tôi là những kẻ có thể
gây hại đến nhà vua nhiều nhất, bởi họ chỉ giúp việc cho nhà vua vì cái lợi
riêng của mình mà thôi, cho nên nếu có cơ hội, họ có thể làm phản bất cứ lúc

nào. Hơn nữa, pháp mới chỉ vạch ra rằng trong công việc của bề tôi, làm đúng
thì thưởng, làm sai thì phạt. Tuy nhiên, để phân biệt thế nào là đúng và sai,
Hàn Phi cho rằng cần một yếu tố nữa, đó là “thuật”. Thuật là toàn bộ những
phương thức, cách thức, những mưu lược, thủ đoạn của bậc vua chúa để dò
xét bầy tôi, trừ những kẻ gian, chọn người, giao việc, xét việc. Tựu chung lại,
nói đến thuật là hướng đến bầy tôi và công việc của họ, nên cũng có thể nói
thuật bao hàm hai nội dung cơ bản: thuật xét đoán, sử dụng con người và
thuật xét đoán công việc. Trong thuật xét đoán, sử dụng con người, cụ thể
hơn, xét đoán, sử dụng bầy tôi, một nguyên tắc cơ bản của Hàn Phi là luôn
luôn nghi ngờ, luôn luôn dò xét. Nhìn chung, mặc dù có nhiều điểm mang
tính chất độc đoán, song những quan điểm về thuật của Hàn Phi chứa đựng
những hiệu quả rất lớn. Bởi lẽ nó chú trọng vào công dụng, vào kết quả thực
tế, lấy kết quả ấy làm thước đo năng lực. Với những nguyên tắc dùng người
và xét việc như vậy, thuật của Hàn Phi thực sự rất hữu dụng trong việc xây
dựng một bộ máy quan lại chặt chẽ và tập trung, khi mà tất cả đều nằm trong
sự kiểm soát của nhà vua, khi mà mỗi chức vụ đều được gắn với những trách
nhiệm nhất định, những tiêu chuẩn cụ thể nhất định, và buộc phải làm theo.
Tất nhiên, với đường lối như vậy, ở trạng thái lý tưởng nhất, mọi bề tôi đều
theo cái danh đã định sẵn mà tự làm theo sao cho phù hợp, thì nhà vua không
cần làm gì mà tất cả đều tự vận hành, như vậy là có thể đạt đến “vô vi nhi trị”.
Pháp và thuật là hai công cụ của pháp trị. Một thứ rõ ràng minh bạch, một thứ
kín đáo, ẩn tàng. Sự kết hợp giữa chúng đủ để đem lại một sức mạnh to lớn
cho bậc đế vương. Nhưng cả hai thứ công cụ ấy sẽ không được sử dụng một
16


cách hiệu quả nếu không có một yếu tố nữa, đó là "thế”. Vậy thế là gì mà lại
có vai trò to lớn như vậy? Theo Hàn Phi, thế danh có một mà thực thì rất
nhiều. Chẳng hạn, có cái thế tự nhiên, có cái thế do con người làm ra và khi
ông nhắc đến thế tức là cái thế do con người làm ra. Đó cũng chính là cái thế

mà Thận Đáo đã nhắc đến: “… cái thế và địa vị là đủ để nhờ cậy, còn sự khôn
ngoan sáng suốt không đủ cho người ta hâm mộ” [19,tr.467]. Nói cách khác,
thế mà Hàn Phi đề cập tới chính là uy thế, quyền thế của ông vua, là điểm tựa,
là cái nền để ông vua trị nước.
Sự phân biệt giữa ba yếu tố pháp thế thuật chỉ là tương đối. Trên thực
tế, không cái nào hoàn toàn tách rời cái nào, mà vua chúa cũng không thể
thiếu bất kì yếu tố nào trong số đó. Thiếu pháp thì việc cai trị trở nên mù
quáng, có thế cũng chỉ làm đất nước loạn thêm, có thuật cũng không thể ngăn
kẻ dưới lừa dối nhà vua, không giúp gì cho việc trị nước được. Thiếu thuật thì
ngôi vua bị đe dọa, có thế cũng không vững, có pháp cũng chỉ làm lợi cho bọn
bầy tôi. Thiếu thế thì nhà vua mất đi nền tảng, chỗ dựa, có pháp cũng không
ai theo, có thuật cũng không thể thi hành. Có thể nói, Hàn Phi là một nhà
chính trị, nhà quản lý hơn là một nhà làm luật. Ông không đặt ra luật pháp cụ
thể, nhưng ông đã có những đóng góp to lớn trong việc đề ra những tiêu
chuẩn, những chuẩn mực cơ bản đối với pháp luật. Những điều luật, bộ luật
có thể thay đổi theo từng thời đại nhưng những chuẩn mực cơ bản mà Hàn
Phi đưa ra thì cho đến ngày nay vẫn còn có một ý nghĩa to lớn, và để lại
những bài học quý báu cho việc xây dựng và thực thi pháp luật. Xã hội càng
tiến bộ, luật pháp càng trở nên phức tạp hơn. Cái luật pháp của thời đại ngày
nay, tất nhiên, khác xa với luật pháp cách đây hơn hai ngàn năm, nhưng cũng
cần phải thừa nhận rằng, nhiều khi, chúng ta cần phải soi chiếu lại những tư
tưởng của Hàn Phi về tiêu chuẩn của pháp luật, để thấy rõ hơn chúng ta cần
tiếp thu những gì trong thực tế xây dựng pháp luật hiện nay. Và chúng ta cần
thiết phải đặt ra những câu hỏi để thấy chúng ta đang thiếu gì và đang cần gì.
17


Như vậy, sư phát triển xã hội có giai cấp ở Trung Quốc cổ đại đã bắt
đầu đưa ra những tư tưởng liên quan đến yếu tố của sự hình thành nhà nước
pháp quyền trong đó rõ nhất là sự ghi nhận sự tồn tại của con người và xã hội

theo những quy luật tự nhiên tất yếu và tính hiệu quả của việc dùng pháp luật
trong quản lý xã hội. Tuy nhiên, những tư tưởng đó mới đạt đến nhà nước
pháp trị, thu phục người dân chủ yếu bằng tính hà khắc của hình phạt hơn là
tính tự giác. Điều đó thể hiện ở chỗ ngay từ khi có nhà nước, những nhà tư
tưởng đã nhận thấy xu hướng lạm dụng và thèm khát quyền lực của người
cầm quyền. Tuy nhiên việc tìm kiếm các phương thức quản lý xã hội hiệu quả
lại gặp nhiều mâu thuẫn và chưa đủ điều kiện để tiến tới nhà nước pháp quyền
hoàn chỉnh.
Tư tưởng Nhà nước pháp quyền ở các nước phương Tây
Tư tưởng Nhà nước pháp quyền ở Hy Lạp và La Mã cổ đại
Về mặt lịch sử, những tư tưởng khởi đầu về nhà nước pháp quyền đã
hình thành rất sớm ở Hy Lạp và La Mã ngay từ thời kỳ cổ đại. Các nhà triết
học đã tìm kiếm hình thức, nguyên tắc và cơ cấu để thiết lập mối quan hệ qua
lại, sự phụ thuộc lẫn nhau, sự tác động giữa quyền lực và pháp luật. Những tư
tưởng này được đưa ra nhằm chống lại quan điểm ấu trĩ, ngụy biện, cho rằng
sức mạnh sinh ra pháp luật hay lẽ phải thuộc về kẻ mạnh được thể hiện qua
một số nhà tư tưởng tiêu biểu sau:
Xô-lông (TK IV TCN) là người đã đặt viên gạch đầu tiên cho tư tưởng
Nhà nước pháp quyền. Ông được coi là một trong những người khởi xướng tư
tưởng về mối quan hệ giữa quyền lực và pháp luật theo cách kế hợp giữa sức
mạnh và pháp luật trong việc tổ chức nhà nước theo nguyên tắc dân chủ. Ông
chủ trương cải cách nhà nước bằng việc đề cao vai trò của pháp luật. Theo
ông, chỉ có pháp luật mới thiết lập được trật tự và tạo nên được sự thống nhất.
Nhà nước và pháp luật là hai công cụ để thực hiện tự do, dân chủ và công
bằng, vì vậy phải kết hợp sức mạnh (quyền lực nhà nước) với pháp luật.
18


Quyền lực cần được đặt ngang hàng với pháp luật và cả hai đều là phương
tiện để đạt tới tự do và công bằng, Xô-lông xác định sẽ giải phóng con người

bằng quyền lực của luật pháp bằng sự kết hợp giữa quyền lực và pháp luật.
Như vậy ông đã đặt pháp luật ngang hàng với nhà nước, sức mạnh không sinh
ra pháp luật mà chính pháp luật tạo cho sức mạnh lẽ công bằng, chính thống.
Có thể nói, Xô-lông chính là người đầu tiên đặt nền tảng cho nguyên lý dân
chủ - một nội dung quan trọng trong nội hàm của khái niệm Nhà nước pháp
quyền sau này.
Xôcrat (496-399 TCN) được coi là người đầu tiên có ý tưởng phân loại
các hình thức nhà nước. Ông cho rằng nhà nước có các hình thức cơ bản sau:
chế độ quân chủ, nền bạo chúa, chế độ quý tộc, nửa quý tộc và nền dân chủ.
Trong đó chế độ quý tộc được ông coi là đúng đắn và có đạo đức nhất. Sự
công bằng nằm ở việc phục tùng pháp luật. Không có việc tuân thủ pháp luật
thì không có pháp luật cũng không có trật tự pháp luật.
Cũng trong thời kỳ này, các nhà tư tưởng đã bàn về vấn đề quyền lực và
kiểm soát quyền lực nhà nước – một trong những nội dung cơ bản của học thuyết
nhà nước pháp quyền hiện đại. Platôn và Arixtốt đã từng phân tích về vai trò của
các cơ quan quyền lực nhà nước như coi cơ quan lập pháp là hội nghị nhân dân,
cơ quan chính phủ và cơ quan thực hiện việc phán xét như những bộ phận chuyên
biệt khác nhau trong một nhà nước hoàn chỉnh, phức tạp.
Platôn coi luật pháp có tính toàn dân là một trong những tiêu chí để
thiết lập nhà nước. Ông cho rằng: chúng ta thừa nhận những nơi mà luật được
định ra vì lợi ích của một số người thì ở đó không có chế độ nhà nước. Chỉ có
thể gọi là nhà nước nếu như có sự công bằng và cũng chỉ có luật mới được coi
là tiêu chuẩn của sự công bằng và cũng chỉ luật mới được coi là tiêu chuẩn
của sự công bằng. Xã hội được Platôn coi như một tổng thể hữu cơ, trong đó
lợi ích của toàn thể cao hơn lợi ích của bộ phận, từ đó đưa ra kết luận: Để
nguyên tắc đó được thừa nhận, nhà nước cần phải phục vụ cho lợi ích của
19



×