Tải bản đầy đủ (.doc) (19 trang)

giá trị truyền thống trong điều kiện hiện nay ở nước ta dưới góc độ triết học, đặc biệt là giá trị sinh thái truyền thống

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (146.08 KB, 19 trang )

Lời nói đầu

Kế thừa, đổi mới và phát triển là đặc trng mang tính quy luật của mọi
quá trình phát triển diễn ra trong tự nhiên, xã hội và t duy. Theo quan điểm
của chủ nghĩa duy vật biện chứng, phát triển chính là sự vận động theo
khuynh hớng đi lên từ thấp đến cao, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện, Kết
quả của quá trình vận động đó là sự ra đời sự vật mới, hoàn thiện hơn sự vật
cũ. Trong quá trình này, những yếu tố tích cực của cái cũ đợc giữ lại, cải biến
để tham gia vào cái mới với t cách là yếu tố cấu thành của nó. Có thể nói,
không có một sự vật mới nào lại ra đời từ h vô, mỗi sự vật mới ra đời luôn
kế thừa những yếu tố, những mặt của cái cũ mà nó phủ định. Cứ nh vậy, mọi
sự vật, hiện tợng trong tự nhiên, xã hội, t duy luôn vận động, phát triển không
ngừng. đó chính là quy luật chung của sự phát triển.
Sự vận động của truyền thống và những giá trị truyền thống cũng không
nằm ngoài quy luật đó. Trong các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc
Việt Nam, giá trị văn hoá sinh thái có một vị thế đặc biệt, đợc thể hiện một
cách độc đáo trong t tởng, đạo đức và lối sống của con ngời Việt Nam. Các
giá trị văn hoá sinh thái truyền thống Việt Nam càng có ý nghĩa hơn trong bối
cảnh toàn cầu hoá hiện nay, khi mà vấn đề bảo vệ môi trờng sống đang là một
trong những vấn đề gay cấn nhất, bức xúc nhất, đồng thời cũng khó giải quyết
nhất của thời đại.
Phần lớn khi nói tới giá trị truyền thống, mọi ngời thờng hay nghĩ tới giá
trị đạo đức truyền thống mà không nghĩ tới giá trị sinh thái truyền thống. Do
đó, đây là đề tài đầu tiên đề cập đến vấn đề sinh thái truyền thống ở Việt
Nam. Đề tài này có một giá trị to lớn, đã giải quyết tốt mối quan hệ giữa
truyền thống và hiện đại, giữa văn hoá và trí tuệ, tạo ra sức mạnh to lớn và
đảm bảo chắc chắn cho sự phát triển nhanh và bền vững của đất nớc trong kỷ
nguyên mới. Tuy nhiên, đề tài cũng còn nhiều hạn chế, thiếu sót.
Nhờ sự hớng dẫn và giúp đỡ tận tình của giảng viên TS. Dơng Thị Liễu
mà tôi có thể hoàn thành đề tài này. Vì vậy, em xin gửi đến cô lời cảm ơn
chân thành nhất.


Chơng 1
Phép biện chứng về phủ định
1. Khái niệm về phủ định và phủ định biện chứng
1.1. Phủ định
Bất cứ sự vật, hiện tợng nào trong thế giới đều trải qua quá trình sinh ra,
tồn tại, phát triển và diệt vong. Sự vật cũ mất đi đợc thay bằng sự vật mới. Sự
thay thế đó là tất yếu trong quá trình vận động và phát triển của sự vật. Không
nh vậy, sự vật không phát triển đợc. Sự thay thế đó đợc triết học gọi là sự phủ
định, tức là sự thay thế sự vật này bằng sự vật khác trong quá trình vận động
và phát triển.

Trong lịch sử triết học, tuỳ theo thế giới quan và phơng pháp luận, các
nhà triết học và trờng phái triết học có quan niệm khác nhau về sự phủ định.
Triết học trớc Mác có tồn tại quan điểm vận động vòng tròn: khi xã hội đạt tới
một trình độ phát triển nào đó, xã hội sẽ trở lại điểm xuất phát, vòng phát
triển mới lại bắt đầu; Pitago cho rằng một chu kỳ phát triển của xã hội hết 78
vạn năm; Phật giáo lại quan niệm kiếp ngời tuân theo vòng luân hồi cát bụi
lại trở về cát bụi. Những nhà triết học theo quan điểm siêu hình coi sự phủ
định là sự diệt vong hoàn toàn của cái cũ, sự phủ định sạch trơn, chấm dứt
hoàn toàn sự vận động và phát triển của sự vật. Họ tìm nguyên nhân của sự
phủ định ở bên ngoài sự vật, ở một lực lợng siêu nhiên nào đó can thiệp làm
phá huỷ, thủ tiêu sự vật, chấm dứt sự phát triển của nó. Trong ý thức thông th-
ờng, khái niệm phủ định thờng đợc thể hiện bằng từ không; phủ định có
nghĩa nói không, bác bỏ một cái gì đó.

Theo quan điểm duy vật biện chứng, sự chuyển hoá từ những thay đổi về
lợng dẫn đến những thay đổi về chất, sự đấu tranh thờng xuyên của các mặt
đối lập làm cho mấu z thuẫn đợc giải quyết,từ đó dẫn đến sự vật cũ mất đi, sự
vật mới ra đời thay thế. Sự thay thế diễn ra liên tục tạo nên sự vận động và
phát triển không ngừng của sự vật. Sự vật mới ra đời là kết quả của sự phủ

định sự vật cũ. Điều đó cũng có nghĩa là sự phủ định là tiền đề, điều kiện cho
sự phát triển liên tục, cho sự ra đời của cái mới thay thế cái cũ. Đó là phủ định
biện chứng.
1.2. Phủ định biện chứng
Phủ định biện chứng là phạm trù triết học dùng để chỉ sự phủ định tự
thân, sự phát triển tự thân, là mắt khâu trong quá trình dẫn tới sự ra đời sự
vật mới, tiến bộ hơn sự vật cũ.
2. Các đặc trng cơ bản của phủ định biện chứng

Phủ định biện chứng có hai đặc trng cơ bản sau đây: thứ nhất, nó mang
tính khách quan, là điều kiện của sự phát triển; thứ hai, nó mang tính kế thừa,
là nhân tố liên hệ giữa cái cũ và cái mới.
2.1.Tính khách quan
Phủ định biện chứng mang tính khách quan do nguyên nhân của sự phủ
định nằm ngay trong bản thân sự vật. Đó chính là kết quả giải quyết những
mâu thuẫn bên trong sự vật. Nhờ việc giải quyết những mâu thuẫn mà sự vật
luôn phát triển, vì thế, phủ định biện chứng là một tất yếu khách quan trong
quá trình vận động và phát triển của sự vật. Đơng nhiên, mỗi sự vật có phơng
thức phủ định riêng tuỳ thuộc vào sự giải quyết mâu thuẫn của bản thân
chúng. Điều đó cũng có nghĩa, phủ định biện chứng không phụ thuộc vào ý
muốn, ý chí của con ngời. Con ngời chỉ có thể tác động làm cho quá trình phủ
định ấy diễn ra nhanh hay chậm trên cơ sở nắm vững quy luật phát triển của
sự vật.

Chẳng hạn, trong lịch sử triết học, sự phát triển của phép biện chứng duy
vật là quá trình phủ định biện chứng liên tục từ phép biện chứng tự phát thời
cổ đại qua phép biện chứng duy tâm của triết học cổ điển Đức đến phép biện
chứng duy vật. Sự phát triển của các học thuyết khoa học là kết quả của
những sự phủ định liên tục những trí thức về sự vật, hiện tợng hay quá trình
của thế giới.


2.2.Tính kế thừa

Phủ định biện chứng là kết quả của sự phát triển tự thân của sự vật, nên
nó không thể là sự thủ tiêu, sự phá huỷ hoàn toàn cái cũ. Cái mới chỉ có thể ra
đời trên nền tảng của cái cũ, chúng không thể từ h vô. Cái mới ra đời là sự
phát triển tiếp tục của cái cũ trên cơ sở gạt bỏ những mặt tiêu cực, lỗi thời, lạc
hậu của cái cũ và chọn lọc, giữ lại cải tạo những mặt còn thích hợp, những
mặt tích cực, bổ sung những mặt mới phù hợp với hiện thực. Sự phát triển
chẳng qua chỉ là sự biến đổi trong đó giai đoạn sau bảo tồn những mặt tích
cực đợc tạo ra ở giai đoạn trớc và bổ sung thêm những mặt mới phù hợp với
hiện thực.

Điều đó nói lên rằng, phủ định biện chứng mang tính kế thừa. Trong quá
trình phủ định biện chứng, sự vật khẳng định lại những mặt tốt, mặt tích cực
và chỉ phủ định những cái lạc hậu, cái tiêu cực. Do đó, phủ định đồng thời
cũng là khẳng định. Ví dụ, trong sinh vật các giống loài đều có tính di truyền,
các thế hệ con cái đều kế thừa các yếu tố tích cực của các thế hệ bố mẹ. Ông
cha ta thờng nói:Con nhà lông chẳng giống lông cũng giống cánh là ý nói
vậy. Trong lịch sử phát triển của xã hội loài ngời, xã hội mới ra đời trên cơ sở
kế thừa những giá trị vật chất và tinh thần của xã hội trớc, đồng thời bổ sung
thêm những giá trị mới. Trong lĩnh vực nhận thức các học thuyết khoa học ra
đời sau bao giờ cũng kế thừa những giá trị t tởng của các học thuyết khoa học
ra đời trớc,

Diễn đạt t tởng đó, V.I.Lênin viết: Không phải sự phủ định sạch trơn,
không phải sự phủ định không suy nghĩ, không phải sự phủ định hoài nghi,
không phải sự do sự, cũng không phải sự nghi ngờ là cái đặc trng và cái bản
chất trong phép biệc chứng mà là sự phủ định coi nh là vòng khâu của liên
hệ, vòng khâu của sự phát triển, với sự duy trì cái khẳng định.


Những điều phân tích trên cho thấy, phủ định biện chứng không chỉ là sự
khắc phục cái cũ, sự vật cũ, mà còn là sự liên kết giữa cái cũ với cái mới, sự
vật cũ với sự vật mới, giữa sự khẳng định với sự phủ định, quá khứ với hiện
thực. Phủ định biện chứng là mắt khâu tất yếu của mối liên hệ và sự phát
triển.

Quá khứ không bao giờ lại biến mất hoàn toàn.Trong dòng chảy vô tận
của thời gian, những nhân tố của quá khứ sẽ để lại dấu ấn nhất định ở hiện tại.
Những nhân tố của quá khứ sẽ tham gia vào việc tạo lập cái hiên tại, tạo nên
sợi dây liên hệ sinh động giữa quá khứ và hiện tại.

Song, ngay cả đối với nhân tố tích cực của cái bị phủ định đợc giữ lại, nó
vẫn đợc duy trì dới dạng lọc bỏ. Chẳng hạn, trong khi phủ định chủ nghĩa t
bản với t cách là một chế độ lỗi thời, chũ nghĩa xã hội cũng kế thừa toàn bộ
những thành quả của sự phát triển tiến bộ xã hội đã đạt đợc trong chủ nghĩa t
bản. Song, những yếu tố đợc giữ lại đó cũng phải đợc cải tạo, đợc biến đổi
trên cơ sở những nguyên tắc của chủ nghĩa xã hội để trở thành những yếu tố
nội tại của xã hội xã hội chủ nghĩa.

3. Quy luật phủ định của phủ định. Hình thức xoáy ốc
của sự phát triển

Phủ định biện chứng mới nói lên một giai đoạn, một nấc thang trong quá
trình phát triển. Với t cách là kết quả của phủ định làn thứ nhất, cái mới
cũng chứa đựng trong bản thân mình xu hớng dẫn tới những lần phủ định tiếp
theo phủ định của phủ định. Chỉ có thông qua phủ định của phủ định mới
dẫn tới việc ra đời một sự vật, trong đó có sự lặp lại một số đặc trng cơ bản
của cái xuất phát ban đầu, nhng trên cơ sở cao hơn. Đến đây mới hoàn thành
một chu kỳ phát triển. Khuynh hớng chung nh vậy của sự phát triển đợc khái

quát thành nội dung cơ bản của quy luật phủ định của phủ định.

Ph.ăngghen đã đa ra một thí dụ để hiểu về quá trình phủ định này: Hãy
lấy ví dụ hạt đại mạch. Có hàng nghìn triệu hạt đại mạch giống nhau đợc xay
ra, nấu chín và đem làm rợu, rồi tiêu dùng đi. Nhng nếu một hạt đại mạch nh
thế gặp những điều kiện bình thờng đối với nó, nếu nó rơi vào một miếng đất
thích hợp, thì nhờ ảnh hởng của sức nóng và độ ẩm, đối với nó sẽ diễn ra một
sự biến hoá riêng, nó nảy mầm: hạt đại mạch biến đi, không còn là hạt đại
mạch nữa, nó bị phủ định, bị thay thế bởi cái cây do nó đẻ ra, đấy là sự phủ
định hạt đại mạch. Nhng cuộc sống bình thờng của cái cây này sẽ nh thế nào?
Nó lớn lên, ra hoa, thụ phấn và cuối cùng sinh ra những hạt thóc mới, và khi
hạt đại mạch đó chín thì thân cây chết đi, bản thân nó bị phủ dịnh. Kết quả
của sự phủ định này là chúng ta lại có hạt đại mạch nh ban đầu, nhng không
phải chỉ là một hạt thóc mà nhiều gấp mời, hai mơi, ba mơi lần.

Ví dụ trên cho thấy, từ sự khẳng định ban đầu (hạt thóc ban đầu), trải
qua sự phủ định lần thứ nhất (cây lúa phủ định hạt thóc) và sự phủ định lần
thứ hai (những hạt thóc mới phủ định cây lúa), sự vật dờng nh quay trở lại sự
khẳng định ban đầu (hạt thóc), nhng trên cơ sở cao hơn (số lợng hạt thóc
nhiều hơn, chất lợng hạt thóc cũng sẽ thay đổi, song khó nhận thấy ngay).

Sơ đồ cụ thể:

Khẳng định (hạt thóc) phủ định làn thứ nhất (cây lúa) phủ định lần
thứ hai (hạt thóc).

Sự phát triển theo khuynh hớng phủ định của phủ định đã đợc một số
nhà biện chứng tự phát nêu ra từ lâu. Song, do cha nhận thức sâu sắc tính biện
chứng của quá trình phát triển, một số nhà triết sau này đã tuyệt đối hoá tính
lặp lại sau một chu kỳ phát triển, từ đó hình thành quan niệm siêu hình xem

sự phát triển nh là một quá trình diễn ra theo vòng tròn khép kín.

Phủ định của phủ định với t cách là một quy luật cơ bản của phép biện
chứng lần đầu tiên đợc trình bày trong triết học Hêghen. Nhng quy luật đó đ-
ợc xây dựng trên cơ sở duy tâm khách quan và theo công thức ba đoạn một
cách máy móc.

Việc quan sát thấu đáo các quá trình tự nhiên, xã hội và t duy đã chỉ ra
rằng, sự vận động diễn ra theo rất nhiều xu hớng.Tính vô cùng tận của thế
giới vật chất cũng biểu hiện cả trong tính vô cùng tận của các khuynh hớng
vận động, trong đó, sự vận động theo vòng tròn khép kín chỉ là một trong
những khuynh hớng có thể có, đó không phải là khuynh hớng duy nhất.

Sự phát triển biện chứng thông qua những lần phủ định biện chứng, nh
trên đã nói, là sự thống nhất giữa loại bỏ, giữ lại (kế thừa) và phát triển. Mỗi
lần phủ định biện chứng đợc thực hiện sẽ mang lại những nhân tố tích cực
mới. Do đó, sự phát triển thông qua những lần phủ định biện chứng sẽ tạo ra
xu hớng tiến lên không ngừng, sự vật sẽ ngày càng phát triển.

Quy luật phủ định của phủ định biểu hiện sự phát triển của sự vật là do
mâu thuẫn trong bản thân sự vật quyết định. Mỗi lần phủ định là kết quả đấu
tranh và chuyển hoá giữa các mặt đối lập trong bản thân sự vật giữa mặt
khẳng định và mặt phủ định. Sự phủ định lần thứ nhất đợc thực hiện một cách
căn bản làm cho sự vật cũ chuyển thành cái đối lập với mình. sự phủ định lần
thứ hai đợc thực hiện dẫn tới sự vật mới ra đời. Sự vật này đối lập với cái đợc
sinh ra ở lần phủ định thứ nhất. Nh vậy, về hình thức, sẽ trở lại cái xuất phát,
song, thực chất, không phải giống nguyên nh cũ, mà dờng nh lặp lại cái cũ,
nhng trên cơ sở cao hơn. Đặc điểm quan trọng nhất của sự phát triển biện
chứng thông qua phủ định của phủ định chính là sự phát triển dờng nh quay
trở lại cái cũ, nhng trên cơ sở cao hơn.


Nói một cách khái quát, qua một số lần phủ định, sự vật hoàn thành một
chu kỳ phát triển. Phủ định lần thứ nhất tạo ra sự đối lập với cái ban đầu, đó là
một bớc trung gian trong sự phát triển. Sau những lần phủ định tiếp theo, tái
lập cái ban đầu, nhng trên cơ sở mới cao hơn, nó thể hiện rõ rệt bớc tiến của
sự vật. Những lần phủ định tiếp theo đó đợc gọi là sự phủ định của phủ định.
Phủ định của phủ định làm xuất hiện cái mới nh là kết quả tổng hợp tất cả
những yếu tố tích cực đã đợc phát triển từ trong cái khẳng định ban đầu và cả
trong những lần phủ định tiếp theo, những yếu tố tích cực đợc khôi phục, đợc
duy trì và phát triển. Cái tổng hợp này là sự thống nhất biện chứng tất cả
những cái tích cực ở giai đoạn trớc và ở cái mới xuất hiện trong quá trình phủ
định. Do vậy, cái mới với t cách là kết quả phủ định của phủ định có nội dung
toàn diện và phong phú hơn cái khẳng định ban đầu và cái kết quả của lần phủ
định thứ nhất.

Sự phủ định của phủ định là giai đoạn kết thúc của một chu kỳ phát
triển, đồng thời lại là điểm xuất phát của một chu kỳ phát triển tiếp theo. Sự
vật lại tiếp tục phủ định biện chứng chính mình để phát triển. Cứ nh vậy sự
vật mới ngày càng mới hơn.

Quy luật phủ định của phủ định khái quát xu hớng tất yếu tiến lên của sự
vật xu hớng phát triển. Song sự phát triển đó không phải diễn ra theo đờng
thẳng, mà theo đờng xoáy ốc. Đề cập tới con đờng đó của sự phát triển biện
chứng, V.I.Lênin viết : Sự phát triển hình nh diễn lại những giai đoạn đã qua,
nhng dới một hình thức khác, ở một trình độ cao hơn (phủ định của phủ định);
sự phát triển có thể nói là theo đờng trôn ốc chứ không theo đờng thẳng.

Diễn tả quy luật phủ định của phủ định bằng đờng xoáy ốc chính là
hình thức cho phép biểu đạt đợc rõ ràng nhất các đặc trng của quá trình phát
triển biện chứng : tính kế thừa, tính lặp lại nhng không quay trở lại và tính

chất tiến lên của sự phát triển. Mỗi vòng mới của đờng xoáy ốc thể hiện
một trình độ cao hơn của sự phát triển, đồng thời dờng nh quay lại cái đã qua,
dờng nh lặp lại vòng trớc. Sự nối tiếp nhau của các vòng thể hiện tính vô tận
của sự phát triển, tính vô tận của sự tiến lên từ thấp đến cao.

Nghiên cứu quá trình phát triển của sự vật theo quy luật phủ đinhj của
phủ định, chúng ta không đợc hiểu một cách máy móc là mọi sự vật trong thế
giới hiện thực đều phải trải qua hai lần phủ định mới hoàn thành một chu kỳ
phát triển của chúng. Trong hiện thực, một chu kỳ phát triển của sự vật cụ thể
có thể bao gồm số lợng các lần phủ định nhiều hơn hai. Có sự vật trải qua hai
lần phủ định, có sự vật phải trải qua ba, bốn, năm lần phủ định, mới hoàn
thành một chu kỳ phát triển. Điều đó phụ thuộc vào tính chất của một quá
trình phát triển cụ thể, nhng ít nhất cũng phải hai lần.Chẳng hạn:

Vòng đời của con tằm : trứng - tằm nhộng ngài trứng. ở đây
vòng đời của tằm phải trải qua bốn lần phủ định.

Các nguyên tố hoá học trong bảng Hệ thống tuần hoàn do Menđêleep
thể hiện rõ điều khái quát nêu trên. Các nguyên tố hoá học phải trải qua rất
nhiều lần phủ định mới hoàn thành chu kỳ phát triển của chúng.

Mặt khác, trong số rất nhiều lần phủ định của một chu kỳ phát triển biện
chứng, tất cả các lần phủ định đó vẫn có thể khái quát lại là hai lần : phủ định
biện chứng lần thứ nhất là loại phủ định chuyển cái xuất phát thành cái đối
lập với mình, phủ định biện chứng lần thứ hai là loại phủ định chuyển cái
trung gian thành cái đối lập của nó, và do đó làm xuất hiện sự vật dờng nh lặp
lại cái xuất phát, nhng trên cơ sở mới cao hơn.

Từ sự phân tích đã đợc nêu ra ở trên, chúng ta khái quát về nội dung cơ
bản của quy luật phủ định của phủ định nh sau:


Quy luật phủ định của phủ định nêu lên mối liên hệ, sự kế thừa giữa cái
bị phủ định và cái phủ định; do sự kế thừa đó, phủ định biện chứng không
phải là sự phủ định sạch trơn, bác bỏ tất cả sự phát triển trớc đó, mà là điều
kiện cho sự phát triển, nó duy trì và gìn gĩ nội dung tích cực của các giai
đoạn trớc, lặp lại một số đặc điểm cơ bản của cái xuất phát, nhng trên cơ sở
mới cao hơn; do vậy, sự phát triển có tính chất tiến lên không phải theo đờng
thẳng, mà theo đờng xoáy ốc .

4.ý nghĩa phơng pháp luận

Nghiên cứu về quy luật phủ định của phủ định, chúng ta có thể rút ra
một số ý nghĩa phơng pháp luận sau đây :
Quy luật phủ định của phủ định giúp chúng ta nhận thức đúng đẵn về xu
hớng phát triển của sự vật. Quá trình phát triển của bất kỳ sự vật nào cũng
không bao giờ đi theo một đờng thẳng, mà diễn ra quanh co, phức tạp, trong
đó bao gồm nhiều chu kỳ khác nhau. Chu kỳ sau bao giờ cũng tiến bộ hơn
chu kỳ trớc. Xã hội và các lĩnh vực của đời sống xã hội cũng nh cuộc sống
của con ngời đều diễn ra theo chiều hớng đó. Xã hội loài ngời phát triển từ
công xã nguyên thuỷ, qua chiếm hữu nô lệ, phong kiến, t bản sẽ đến xã hội
phủ định xã hội t bản chủ nghĩa cộng sản mà giai đoạn đầu là xã hội xã hội
chủ nghĩa. Xã hội t bản đã, đang và sẽ tạo ra những tiền đề phủ định chính nó,
đặt nền móng cho xã hội phát triển cao hơn nó trong tơng lai.

ở mỗi chu kỳ phát triển sự vật có những đặc điểm riêng biệt. Do đó,
chúng ta phải hiểu những đặc điểm đó để có cách tác động phù hợp sao cho
sự phát triển nhanh hoặc phát triển chậm. Điều này phụ thuộc vào tác dụng
của sự vật đối với đời sống của con ngời. Chẳng hạn, nếu sự vật có ích lợi cho
con ngời thì phải đẩy nhanh sự phát triển của nó, còn nếu nó có hại thì phải
kìm hãm sự phát triển của nó.


Theo quy luật phủ định của phủ định, mọi sự vật luôn luôn xuất hiện cái
mới thay thế cái cũ, cái tiến bộ thay thế cái lạc hậu; cái mới ra đời từ cái cũ
trên cơ sở kế thừa tất cả những nhân tố tích cực của cái cũ, do đó nó luôn luôn
biểu hiện là một giai đoạn phát triển cao của sự vật vận dụng vào xem xét sự
vật, điều này tránh cho chúng ta thái độ phủ định sạch trơn cái cũ.

Trong giới tự nhiên, cái mới xuất hiện một cách tự phát; còn trong xã
hội, cái mới ra đời gắn liền với hoạt động có ý thức của con ngời. Chính vì
thế, trong công tác, chúng ta phải biết phát hiện và quý trọng cái mới, phải tin
tởng vào tơng lai phát triển của cái mới. Khi mới ra đời, cái mới luôn còn yếu
ớt, ít ỏi; vì vậy, chúng ta phải ra sức bồi dỡng, tạo điều kiện cho nó chiến
thắng cái cũ, phát huy u thế của nó. Trong khi đấu tranh chống lại cái cũ,
chúng ta phải biết sàng lọc, bỏ thô lấy tinh, biết giữ lấy những gì là tích cực,
là có giá trị của cái cũ, cải tạo cái cũ cho phù hợp với những điều kiện mới,
phải chống thái độ h vô chủ nghĩa trong khi nhìn nhận lịch sử, đánh giá lại
quá khứ. Chẳng hạn, trớc tình trạng tạm thời khủng hoảng,thoái trào hiện nay
của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô cũ và Đông Âu, không chỉ có những
kẻ chống cộng, có cả một số ngời vốn là macxit cũng ra sức phủ nhận những
thành quả to lớn mà chủ nghĩa xã hội đã tạo dựng đợc ở những nớc trớc đó.
Họ không thấy đợc rằng, trong hơn 70 năm tồn tại, chủ nghĩa xã hội ở Liên
Xô đã để lại những giá trị tích cực có ảnh hởng lâu dài đối với lịch sử toàn thế
giới.

Trong khi chống thái độ h vô chủ nghĩa, phủ định sạch trơn quá khứ,
chúng ta cũng phải khắc phục thái độ bảo thủ, kh kh giữ lại cả những cái lỗi
thời cản trở sự phát triển của lịch sử. Khi đề cập lệnh lạc này trên lĩnh vực văn
hoá, Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ơng khoá VIII nhận định
rằng, trong những năm gần đây, Nhiều hủ tục cũ lan tràn, nhất là trong việc
cới, việc tang, lễ hội .

Theo quan điểm biện chứng về sự phát triển, trong quá trình phủ định,
chúng ta phải biết kế thừa có chọn lọc những cái vốn là tinh hoa của cái cũ, sử
dụng chúng nh là tiền đề của sự nảy sinh cái mới, tiến bộ hơn, biết giữ hình
thức và cải tạo nội dung cho phù hợp nh ông cha ta đã nói : bình cũ, rợu
mới. Hơn nữa chúng ta phải biết lựa chọn để tiếp thu cái mới cho phù hợp
chống cả t tởng cũ ngời, mới ta trong đời sống xã hội và cuộc sống của con
ngời.

Chơng 2
Giá trị truyền thống trong điều kiện
hiện nay ở nớc ta
1. Giá trị truyền thống
Truyền thống, theo tiếng Latinh, là sự kế thừa di sản xã hội có giá trị,
đợc truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Theo đó, có thể coi truyền thống là
một bộ phận tơng đối ổn định của ý thức xã hội, đợc lặp đi lặp lại trong suốt
tiến trình hình thành và phát triển các nền văn hoá tinh thần và vật chất, là
một giá trị nhất định đối với từng nhóm ngời, từng giai cấp, cộng đồng và xã
hội nói chung. Truyền thống có chuẩn mực riêng, thể hiện một giá trị nào đó
đợc các chủ thể lựa chọn nó làm cơ sở cho phơng thức hoạt động của họ.

Bất cứ một dân tộc nào trên thế giới cũng đều có truyền thống của mình.
Có thể coi truyền thống là phức hợp những t tởng, tình cảm, phong tục, tập
quán, thói quen, lối ssống, ý chí, của chính dân tộc đó đợc hình thành trong
quá trình lịch sử lâu dài, đã trở nên ổn định, mang đặc trng dân tộc và đợc
truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Truyền thống là một bộ phận của ý thức xã hội mà ý thức xã hội lại luôn
chịu sự quy định của tồn tại xã hội. Bởi vậy, truyền thống của một dân tộc
không phải tự nhiên mà có, cũng không phải do con ngời tự lựa chọn cho
mình; nó đợc hình thành, đợc quy định bởi chính những điều kiện lịch sử,

kinh tế, xã hội mà dân tộc đó đã trải qua.
Chức năng của truyền thống là chuyển tải các chuẩn mực định hớng giá
trị của hành vi và hoạt động nhằm bảo tồn cốt cách của một nền văn hoá và
lối sống nhất định. Trong điều kiện giao lu văn hoá giữa các quốc gia, dân tộc
và rộng hơn là trên phạm vi toàn cầu, đòi hỏi các chủ thể xã hội phải có định
hớng hoạt động đúng đắn, nói cách khác là đề ra các chơng trình hoạt động
văn hoá thích hợp để sao cho hoà nhập mà không bị hoà tan, tức là không
đánh mất các giá trị truyền thống của mình trong tiếp biến văn hoá.
Hình thức tồn tại của truyền thống phụ thuộc vào khả năng chuyển tải
các chuẩn mực định hớng giá trị, với t cách là những mẫu tợng bền vững, lặp
đi lặp lại. Trong lễ nghi, tập quán, các giá trị truyền thống mang ý nghĩa biểu
tợng, dẫn dắt chủ thể vào môi trờng văn hoá và đến lợt mình, các giá trị
truyền thống ấy thông qua đó mà đợc bảo tồn, bổ sung thêm những cái mới,
có giá trị đã đợc thẩm định theo không gian, thời gian và chuyển tải cho các
thế hệ tiếp theo.

Phơng thức tác động vừa mang tính tự nhiên, vừa thông qua sự sàng lọc
của chủ thể hoạt động văn hoá. Mặc dù cả hai phơng thức tác động đều dựa
trên uy tín của truyền thống cái uy tín đã đợc chủ thể hoạt động thừa nhận
thông qua sự suy ngẫm, tiếp cận giá trị một cách có ý thức và trở thành yếu tố
quan trọng trong chơng trình hoạt động của nó. Nếu chủ thể hoạt động tiếp thu
truyền thống một cách vô thức hoặc có thể là mù quáng, thì truyền thống đó tác
động tới các yếu tố khác trong đời sống xã hội thờng chỉ đạt đợc ý nghĩa nhất
định nào đó chứ cha phải là giá trị, có khi lại trở thành phản giá trị.
2. Giá trị truyền thống trong lịch sử phát triển dân
tộc Việt Nam
Trong suốt lịch sử phát triển của dân tộc cho đến cuối thế kỷ XIX - đầu
thế kỷ XX, các giá trị truyền thống Việt Nam đã có một nội dung và vị thế ổn
định. Sự ổn định đó đợc quy định trực tiếp bởi tinh thần dân tộc với nòng cốt
là tinh thần yêu nớc đặc trng của Việt Nam, nhng sâu xa hơn và căn bản hơn,

nó đợc quy định bởi cơ sở kinh tế xã hội đặc thù của dân tộc Việt Nam.
Khi Pháp xâm lợc Việt Nam, hệ giá trị truyền thống lần đầu tiên vấp phải
thách thức của một hệ giá trị mới, hoàn toàn xa lạ - các giá trị của nền văn
minh kĩ thuật phơng Tây. Đó không chỉ là vấn đề của riêng Việt Nam mà là
chung cho cả khu vực Đông và Nam á khi đó. Thực tiễn lịch sử cho thấy, dân
tộc nào dung hoà đợc các giá trị truyền thống với các giá trị hiện đại, hay nói
cách khác, tìm đợc phơng thức biểu hiện mới của giá trị truyền thống trong
thời hiện đại, thì sẽ phát triển. Các giá trị truyền thống phải đợc biến đổi phù
hợp với tinh thần thời đại. Trong quá trình biến đổi đó, các giá trị truyền
thống đợc gạn lọc, đợc kết hợp với các giá trị mới để tạo nên một hệ giá trị
mang tinh thần của thời đại nhng lại có đặc điểm của dân tộc. Nói cách khác,
tinh thần dân tộc đã đợc phát triển lên một dạng thức mới vừa bảo tồn đặc
tính riêng của dân tộc, vừa phản ánh đợc tinh thần của thời đại, hay giá trị
truyền thống tìm đợc vị thế của nó trong giá trị nhân loại.
Với cuộc đụng đầu giữa hai nền văn hoá Đông Tây hồi đầu thế kỷ
XX, các giá trị truyền thống của Việt Nam đã phải trải qua những biến động
sâu sắc và căn bản. Nói đến giá trị truyền thống của Việt Nam là nói đến một
hệ giá trị đa dạng, tổng hợp và hỗn dung các giá trị văn hoá bản địa, Phật giáo,
Lão giáo và Nho giáo. Trong đó, sợi chỉ đỏ xuyên suốt, sâu nối và liên kết các
giá trị này thành một chỉnh thể đa diện là tinh thần dân tộc, là lòng yêu nớc đặc
trng của dân tộc Việt Nam. Nho giáo, theo thời gian, nh một chiếc áo khoác
mỗi ngày mỗi rộng trùm lên các giá trị khác, khiến cho mọi giá trị truyền
thống đợc cố định, đợc trình bày theo hình thức của Nho giáo cho đến khi bị
nhà cầm quyền Pháp cáo chung. Vì thế, nhiều sự lầm tởng, đồng nhất các giá
trị khác với Nho giáo đã xảy ra. Đứng trớc thách thức của các giá trị mới của
xã hội công nghiệp theo bớc chân thực dân Pháp tràn vào đất nớc ta hồi đầu thế
kỷ XX, các giá trị truyền thống đã có sự biến đổi nh thế nào về nội dung và vị
thế của nó trong thời kỳ lịch sử mới này của dân tộc ra sao.
Sức công phá của nền văn minh kỹ thuật công nghiệp, sự trợ giúp của
nhà nớc bảo hộ Pháp với việc chấm dứt nền giáo dục khoa cử của Việt nam

vào thập kỷ thứ hai của thế kỷ XX và sức chinh phục mới mẻ, mạnh mẽ của
các học thuyết Tây phơng tràn vào Việt nam đã tạo ra xu hớng Tây hoá
ngày càng rộng rãi trong đời sống dân tộc. Do vậy, tình hình t tởng khi đó là
hết sức phức tạp, và trên thực tế, đã có một cuộc đấu tranh t tởng xung quanh
vấn đề giá trị. Các trí thức khi đó đồng nhất Nho giáo với giá trị truyền thống
của dân tộc. Thực chất của cuộc đấu tranh này là nhằm xác định vị thế của hệ
giá trị truyền thống mà Nho giáo là tiêu biểu trong đời sống tinh thần hiện đại
của dân tộc khi đó với sự hiện diện của các triết thuyết phơng Tây và số
phận nô lệ của Việt Nam. Qui mô của cuộc đấu tranh này dù chỉ giới hạn
trong lĩnh vực học thuật, nhng ý nghĩa của nó đã mở rộng ra nhiều phơng diện
khác nh chính trị, văn hoá, xã hội

Ngoài các ý kiến yếu ớt, kém sức thuyết phục của các nhà Nho thủ cựu
mong muốn duy trì nền cổ học, thời kỳ này đã có ba xu hớng mới trong việc
nhận định, đánh giá về Nho giáo.
Xu hớng thứ nhất chịu ảnh hởng của khoa học, kỹ thuật và các triết
thuyết phơng Tây, ngời ta đã phủ nhận hoàn toàn vị trí và vai trò của Nho giáo
trong đời sống hiện thời của dân tộc, coi Nho giáo là lỗi thời, thủ cựu, không
đủ năng lực chấn hng dân tộc theo kịp với các dân tộc văn minh khác. Đại
diện cho xu hớng này là Phan Khôi một nhà nho theo Tây học. Ông cho
rằng do ảnh hởng của thuyết Trung dung mà xã hội nớc ta hoá ra một cái xã
hội ơng ơng dở dở, trắng không ra trăng, đen không ra đen, ở đời thì giữ
cách không khôn không dại, xử sự thì chuộng cái lối không mềm không
cứng, vì thế nên bỏ cái thuyết Trung dung này đi. Với lập luận nh vậy, theo
ông, các giá trị truyền thống đã không còn chỗ đứng trong đời sống dân tộc
khi đó và cách thức tốt nhất để phát triển dân tộc là triệt đẻ trừ bỏ các giá trị
truyền thống và tiếp thu hết khả năng các giá trị mới của thời đại dựa trên
thực nghiệm chủ nghĩa, nền dân chủ và khoa học phơng Tây.
Xu hớng thứ hai , khi thấy nguy cơ các giá trị truyền thống có thế bị mai
một do sự sùng bái các giá trị mới ngoại nhập, muốn cứu vãn tình thế bị nô

dịch về văn hoá, ngời ta chủ trơng giữ gìn quốc hồn, quốc tuý bằng cách
dung hoà Nho giáo với các học thuyết phơng Tây mới du nhập. đại diện cho
xu hớng này là Trần Trọng Kim, Phan Bội Châu. Cố gắng khai thác những
điểm mạnh trong kinh điển Nho giáo, so sánh chúng với những điểm tơng tự
trong các học thuyết triết học phơng Tây khác để chứng minh rằng nền cổ học
của dân tộc là hết sức uyên bác toàn diện, và về thực chất đã bao chứa hầu hết
các giá trị đợc truyền tải trong các triết thuyết phơng Tây, Trần Trọng Kim
cho là sai lầm khi mà vào lúc dân tộc cha có cái mới (hệ giá trị mới), chúng ta
đã vội vàng xoá bỏ cái cũ (giá trị truyền thống) cái mà dân tộc đã từng
sùng thợng và duy trì xã hội hàng nghìn năm nay. Theo ông, nếu ta biết cố
gây lấy cái sở trờng của mình, và lại học thêm lấy cái sở trờng của ngời, thì
chắc có thể dần dần gây nên cái tinh thần tốt đẹp mạnh mẽ, đủ làm cho ta
cũng cờng thịnh đợc.
Xu hớng thứ ba, giải quyết mối quan hệ truyền thống hiện đại trên
một phơng diện hoàn toàn mới là phê phán các giá trị Nho giáo theo quan
điểm biện chứng duy vật. Đại diện cho xu hớng này là nhà lý luận macxit
Đào Duy Anh. Khi sử dụng phơng pháp biện chứng duy vật để phê phán
Khổng giáo, ông khẳng định rằng mặc dù, xu hớng theo Tây học đã chi phối
mạnh mẽ đời sống xã hội Việt nam khi đó, nhng những giá trị cũ không phải
đã mất hết giá trị, mà trái lại, chúng vẫn thờng xuyên gây ảnh hởng tới mọi
mặt của đời sống xã hội, tạo nên những xung đột không tránh khỏi trong gia
đình, ngoài xã hội. Vì thế, theo ông, Khổng giáo vẫn là một vấn đề quan
trọng, thết yếu. Việc giải quyết mối quan hệ giữa các giá trị truyền thống và
hiện đại không phải dựa trên ý chí của nhà lý luận, mà phải dựa trên cơ sở
thực tiễn, dựa vào nền tảng kinh tế xã hội mà trên đó, các giá trị cũ hoặc
mới đợc thừa nhận hay phế bỏ. Theo ông, cả Nho giáo và các triết thuyết xa
của phơng Tây đều đã hoàn thành nhiệm vụ lịch sử của chúng và do vậy, việc
nghiên cứu Nho giáo chỉ có ý nghĩa để hiểu lịch sử và hiện tình t tởng Việt
Nam, chứ không phải để đề cao hay phủ nhận Nho giáo. Đào Duy Anh đã mở
ra một cánh cửa mới cho trí thức Việt Nam: cần phải tiếp cận những giá trị

đích thực hiện đại của nhân loại trên cơ sở hiểu rõ giá trị truyền thống của
dân tộc. Với ông, những giá trị mới của nhân loại khi đó, không gì khác ngoài
học thuyết của Mác.
Nền văn hoá mới mà Đảng Cộng Sản Việt Nam chủ trơng xây dựng gồm
có ba nguyên tắc dân tộc hoá, đại chúng hoá và khoa học hoá, trong đó,
nguyên tắc dân tộc hoá đợc đặt lên hàng đầu.
3. Nội dung và vị thế của giá trị truyền thống Việt Nam
trong giá trị nhân loại
Cuối thế kỷ XIX - đầu thế kỷ XX, trong thế bị động khi chạm trán với
xu hớng xâm chiếm phơng Đông của các nớc t bản phơng Tây, ở Việt Nam đã
có sự khủng hoảng về giá trị kéo dài gần nửa thế kỷ. Do yêu cầu đấu tranh
giành lại và bảo vệ độc lập dân tộc, các giá trị truyền thống đã có sự biến đổi
sâu sắc, trong đó chỉ một số giá trị tiếp tục đợc thừa nhận và phát huy nh tinh
thần yêu nớc, tình đoàn kết dân tộc, các giá trị đạo đức truyền thống,
Những giá trị đó đợc kết hợp với các giá trị của chủ nghĩa xã hội nh nam nữ
bình đẳng, tinh thần cộng sản chủ nghĩa, ý thức bảo vệ tài sản xã hội chủ
nghĩa, tạo nên một hệ giá trị mới. Các giá trị Nho giáo cũ tuy không đợc
thừa nhận về mặt chính thống, nhng trên thực tế, chúng vẫn tác động ngấm
ngầm trong đời sống xã hội. Hệ giá trị mới này có độ bền vững tơng đối lớn
trong suốt thời kỳ chiến tranh, nhng bắt đầu có dấu hiệu bất cập với xã hội từ
sau khi đất nớc thống nhất, cả nớc đi lên chủ nghĩa xã hội. Các dấu hiệu đó
ngày càng trỏ nên mạnh mẽ và có nguy cơ trở thành khủng hoảng về giá trị,
đặc biệt trong những năm gần đây, trớc ảnh hởng của quá trình toàn cầu hoá.
Tuy nhiên, với việc vận dụng chủ nghĩa Mác Lênin vào sự nghiệp giải
phóng dân tộc của Việt Nam, Đảng Cộng Sản Việt Nam đã bằng thực tiễn
cách mạng vẻ vang của mình xác lập vị thế của các giá trị truyền thống trong
mối quan hệ thống nhất, biện chứng truyền thóng hiện đại.
Trong Báo cáo Chính trị tại Đại hội toàn quốc lần thứ IX, Đảng đã xác
định: Xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc vừa là mục
tiêu vừa là động lực thúc đẩy sự phát triển kinh tế xã hội. Mọi hoạt động

văn hoá nhằm xây dựng con ngời Việt Nam toàn diện về chính trị, t tởng, trí
tuệ, đạo đức, thể chất, năng lực sáng tạo, có ý thức cộng đồng, lòng nhân ái,
khoan dung, tôn trọng nghĩa tình, lối sống có văn hoá, quan hệ hài hoà trong
gia đình, cộng đồng và xã hội. Văn hoá trở thành nhân tố thúc đẩy con ngời tự
hoàn thiện nhân cách, kế thừa truyền thống cách mạng của dân tộc, phát huy
tinh thần yêu nớc, ý chí tự lực, tự cờng xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nh vậy,
vị thế của giá trị truyền thống trong hệ giá trị hiện đại của dân tộc đã đợc xác
lập về mặt lý thuyết. Nhng, để có nền văn hoá tiên tiến thì các giá trị hiện đại
nào sẽ đợc tiếp nhận và tiếp nhận nh thế nào? Để có nền văn hoá đậm đà bản
sắc dân tộc thì đâu là nhân tố truyền thống làm nên bản sắc đó, qui định đặc
trng dân tộc đó?
4. Giá trị truyền thống trong điều kiện hiện nay ở nớc
ta dới góc độ triết học, đặc biệt là giá trị sinh thái
truyền thống
Trong các giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc Việt Nam, giá trị văn
hoá sinh thái có một vị thế đặc biệt, đợc thể hiện một cách độc đáo trong t t-
ởng, đạo đức và lối sống của con ngời Việt Nam. Các giá trị văn hoá sinh thái
truyền thống Việt Nam càng có ý nghĩa hơn trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện
nay, khi mà vấn đề bảo vệ môi trờng sống đang là một trong những vấn đề gay
cấn nhất, bức xức nhất, đồng thời cũng khó giải quyết nhất của thời đại.
4.1. Văn hoá sinh thái và những giá trị văn hoá sinh thái truyền thống
Việt Nam
Theo nghĩa rộng, có thể hiểu văn hoá sinh thái là tất cả những giá trị vật
chất và tinh thần do con ngời sáng tạo ra trong quá trình tác động và biến đổi
giới tự nhiên nhằm tạo ra một môi trờng sống phù hợp hơn, đáp ứng đầy đủ
hơn những nhu cầu sống ngày càng tăng của con ngời, sự tồn tại và phát triển
không ngừng của xã hội. Các giá trị văn hoá sinh thái đợc thể hiện trong mọi
lĩnh vực, từ t tởng, quan niệm, biểu tợng, đạo đức, thẩm mỹ, ý thức sinh thái
và lối sống sinh thái đến nhng tạo phẩm ăn hoá sinh thái mang tính vật chất
nh nghệ thuật, kiến trúc, hội hoạ, Những giá trị này đợc hình thành và

khẳng định một cách trực tiếp từ mối quan hệ qua lại và tác động lẫn nhau
giữa con ngời Việt Nam truyền thống với những điều kiện thiên nhiên vốn có.
Môi trờng thiên nhiên Việt Nam với đặc điểm vừa đẹp, vừa hào phóng,
lại vừa rất khắc nghiệt là nền tảng đầu tiên để hình thành nên bản sắc văn hoá
dân tộc nói chung, văn hoá sinh thái nói riêng. Những điều kiện đó giữ vai trò
quan trọng trong việc định hớng hoạt động của con ngời và đồng thời quyết
định cả xu hớng vận động của các giá trị truyền thống trong suốt chiều dài
lịch sử dân tộc. Nói cách khác, các giá trị văn hoá sinh thái truyền thống là
kết quả của quá trình con ngời Việt Nam sống, hoạt động và thể hiện mình
trong những điều kiện cụ thể, đặc thù của thiên nhiên Việt Nam.
Trong hệ giá trị văn hoá sinh thái truyền thống, nổi lên một số giá trị cơ
bản sau đây:
Giá trị về triết lý sống:
Triết lý sống chung nhất của ngời phơng Đông nói chung, ngời Việt
Nam nói riêng, là sống hài hoà với thiên nhiên, đợc xây dựng trên cơ sở kết
hợp nhuần nhuyễn giữa triết học nhân sinh phơng Đông vốn chịu ảnh hởng
sâu sắc của đạo Phật, đạo Nho và đạo Lão với lối t duy thực tế và lối sống
thực dụng của ngời dân lao động luôn sống gắn bó với thiên nhiên. Triết lý
sống này đợc thể hiện ở ba quan niệm cơ banr phản ánh ba mức độ khác nhau
của mối quan hệ giữa con ngời và thiên nhiên:
Một là, quan niệm Thiên - Địa - Nhân hoà đồng hay Thiên - Nhân
hợp nhất. Đây là quan niệm sơ khai nhất của con ngời về mối quan hệ của
họ với thiên nhiên. Con ngời và thiên nhiên là một khối liên thông bền chặt,
không thể tách rời. Điều này đợc thể hiện rõ rệt trong lĩnh vực lao động sản
xuất. Do nớc ta là một nớc mà nghề nông là chủ yếu, nên lao động sản xuất
phụ thuộc rất nhiều vào thiên nhiên. Chính điều đó đã gắn kết con ngời Việt
Nam từ ngàn xa với thiên nhiên. Do đó, ngay trong những câu tục ngữ từ xa
xa, ta đã thấy đợc vai trò của thiên nhiên đối với lao động sản xuất:
Trông trời, trông đất, trông mây
Trông ma, trông nắng, trông ngày, trông đêm

Trông cho chân cứng đá mềm
Trời êm bể lặng mới yên tấm lòng
Với quan niệm này, con ngời Việt Nam trải qua bao đời, với bao sóng
gió, gian truân vẫn sống hoà đồng với thiên nhiên, gắn bó máu thịt với thiên
nhiên, nơng nhờ và thuận theo thiên nhiên.
Hai là, quan niệm M u sự tại Nhân, thành sự tại Thiên. Trong một xã
hội còn kém phát triển, đặc biệt là lực lợng sản xuất còn quá lạc hậu, con ngời
không dám, hay nói đúng hơn là cha có đủ năng lực và điều kiện để khai thác
thiên nhiên một cách triệt để nhằm mu sinh, mu lợi cho mình, quan niệm này
đã đa con ngời đến chỗ tôn thờ thiên nhiên: ơn trời ma nắng phải thì, lạy
trời ma xuống, Việc mợn danh các thần linh nh đất có Thổ công, sông có
Hà bá, rừng núi có Sơn thần, biển cả có Thuỷ thần, hay các thần Mặt trời,
Sấm sét, Lửa, thể hiện trong các câu chuyện cổ tích, thần thoại chứng tỏ
con ngời Việt Nam không chỉ yêu quý, mà còn rất tôn trọng, biết ơn thiên
nhiên, thậm chí còn phụ thuộc một cách mù quáng vào các lực lợng siêu
nhiên đó. Bởi vì, theo quan niệm dân gian, tôn thờ thần linh chính là tôn thờ
thiên nhiên, bảo vệ thiên nhiên. và, luật tục có thể coi nh bộ luật dân gian
về bảo vệ môi trờng thiên nhiên cũng đã xuất hiện trên cơ sở tôn thờ các
thần linh, tôn thờ thiên nhiên đó.
Ba là, quan niệm Nhân định thắng Thiên . Khác với hai quan niệm
trên, quan niệm này đã tạo cho con ngời tính năng động nhất định trong quan
hệ với thiên nhiên, không chịu bó tay ngồi chờ Trời - Đất ban phát bổng
lộc, phớc lành, mà trong chừng mực nhất định, có thể chiến thắng đợc
thiên tai bằng sức mạnh của chính mình. Khi ma lũ, ngập lụt thì nghiêng
đồng đổ nớc ra sông; khi nắng nóng, khô hạn thì vắt đất ra nớc, thay trời
làm ma. Con ngời chiến đấu với thiên tai, chiến thắng thiên tai để có thể
thích ứng, hoà nhập nhiều hơn với thiên nhiên, chứ hoàn toàn không phải để
xa rời, hay đối lập với nó. Đó chính là sự chinh phục thiên nhiên một cách
hợp lý, trong khuôn khổ giới hạn của nó.
Tình yêu thiên nhiên

Con ngời Việt Nam yêu thiên nhiên, sống gắn bó với thiên nhiên vì họ
hiểu những giá trị, những lợi ích to lớn mà thiên nhiên mang đến cho họ:
rừng vàng, biển bạc, tắc đất, tắc vàng, Lối ví von thiên nhiên nh vàng,
nh bạc không chỉ có nghĩa là thiên nhiên giàu có. mà còn chứng tỏ rằng thiên
nhiên trong tâm khảm ngời Việt Nam là vô cùng quý giá, là nguồn sống,
nguồn của cải vật chất mà con ngời phải tôn trọng, bảo vệ, giữ gìn không chỉ
cho các thế hệ hôm nay, mà còn cho các thế hệ mai sau. Thiên nhiên còn là
nguồn cảm hứng thẩm mỹ vô hạn đối với con ngời:
Đờng vô xứ Nghệ quanh quanh
Non xanh nớc biếc nh tranh hoạ đồ
Thiên nhiên càng trở nên sinh động hơn, đẹp hơn, thi vị hơn khi hoà
quyện với hình ảnh ngời lao động:
Cô kia tát nớc bên đàng
Sao cô múc ánh trăng vàng đổ đi
hay
Trên đồng cạn, dới đồng sâu
Chồng cày, vợ cấy, con trâu đi bừa
Với nguồn cảm hứng thẩm mỹ sâu sắc trớc thiên nhiên, con ngời đã khám
phá ra, xây dựng nên những công trình kiến trúc nh đền, chùa, miếu mạo tuy
không đồ sộ, hoành tráng nhng sâu lắng hài hoà với khung cảnh thiên nhiên và
phù hợp với tâm thức của ngời Việt nh các di tích lịch sử, chùa Hơng (động H-
ơng Tích), chùa Non nớc, chùa Tây Phơng, đền Hùng, động Phong Nha, Côn
Sơn, các lăng tẩm ở cố đô Huế, Đấy thực sự là những hệ sinh thái nhân
văn đẹp, hài hoà giúp con ngời th giãn, thởng ngoạn cảnh đẹp và sự linh thiêng
trong các dịp lễ, hội để có thể phục hồi về sức lực và sự công bằng về tinh thần
sau những ngày lao động nặng nhọc, vất vả.
Con ngời Việt Nam yêu thiên nhiên, bởi vì yêu thiên nhiên còn là cội
nguồn của tình yêu Tổ quốc, hay nói cách khác, lòng yêu nớc bắt nguồn từ
tình yêu thiên nhiên. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng nói: Việt Nam có hai
tiếng Tổ quốc, ta cũng gọi Tổ quốc là đất nớc, có đất và có nớc thì mới thành

Tổ quốc. Có đất lại có nớc thì dân giàu, nớc mạnh. Tình yêu Tổ quốc lòng
yêu nớc của ngời Việt nam không phải là cá biệt, nhất thời, mà đã trở thành
một cái trục chính của ý thức hệ Việt Nam, là cội nguồn sản sinh và nuôi d-
ỡng các giá trị tiêu biểu của văn hoá Việt Nam, và do đó, lòng yêu nớc đã trở
thành chủ nghĩa yêu nớc.
Lòng yêu nớc của con ngời Việt nam bắt đầu từ tình yêu quê hơng, cụ
thể là từ mái nhà tranh, cánh đồng làng, luỹ tre xanh, cây đa, bến nớc, sân
đình, đến tình yêu đất nớc bao la của cả dân tộc, đợc linh thiêng hoá, tâm
linh hoá với các biểu tợng Tre xanh nh
Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay ôm, tay níu tre gần nhau thêm
Thơng nhau tre không ở riêng
Luỹ thành từ đó mà nên hỡi ngời
Câu thơ nh một lời thâu tóm, nhấn mạnh để giải đáp cội nguồn sức sống
hiên ngang, bất khuất, bất diệt của cây tre, của mỗi con ngời nói riêng cũng
nh của đất nớc muôn loài cây cỏ, của dân tộc Việt Nam nói chung. đây là
những phẩm chất truyền thống đẹp đẽ của dân tộc Việt Nam. Ngoài ra còn có
các biểu tợng khác nh Bàn thờ Tổ quốc, Quốc tổ Hùng Vơng, Hồ Chí
Minh, Điện Biên Phủ. tà áo dài, tiếng đàn bầu, mà khi nói đến, ai cũng
biết đấy là Việt Nam.
Con ngời Việt Nam yêu thiên nhiên, nguyện sống gắn bó máu thịt với
mảnh đất thân yêu này. Do đó, ngay từ xa xa đã biết từng bớc, từng bớc cải
tạo để thích ứng, để hội nhập dần dần với nó. Lối sống nơng nhờ vào thiên
nhiên là cách ứng xử thích hợp nhất của con ngời Việt Nam đối với thiên
nhiên. Để có thể sống nơng nhờ vào thiên nhiên mà không hoàn toàn lệ thuộc
vào nó, con ngời buộc phải hiểu nó, nắm đợc quy luật hoạt động của các yếu
tố tự nhiên nh nắng, ma, bão, lũ, trăng, sao, để đề phòng và kịp thời ứng
phó với những biến đổi bất thờng của thiên nhiên, hạn chế đến mức thấp nhất
những tác hại của thiên tai. Thông qua quá trình sống, lao động sản xuất, ngời
nông dân bằng cách tích luỹ kinh nghiệm trên cơ sở quan sát hoạt động của

các sinh vật
Chuồn chuồn bay thấp thì ma
Bay cao thì nắng, bay vừa thì râm
trạng thái của mây, gió, sấm, chớp
Ráng mỡ gà, ai có nhà phải chống
Mống dài thì lụt, mống cụt thì ma
đã dần dần hình thành nên một kho tri thức kinh nghiệm dân gian vô
cùng phong phú, đa dạng và có phần đúng đắn. Cái vốn kinh nghiệm sống đó
trở thành vốn tri thức cần thiết cho con ngời ở mọi thế hệ, nó hóng dẫn, quy
định nếp sống, nếp ăn, nếp mặc, nếp ở, của con ngời Việt Nam.
Một biểu hiện rõ nét nữa của sinh thái truyền thống là ở cách khám,
chữa bệnh dân gian. Các danh y nổi tiếng ở Việt Nam nh Tuệ Tĩnh, Hải Th-
ợng Lãn Ông khi tiếp thu nên y học Trung Quốc đã có những cải biến cho phù
hợp với cây thuốc Việt Nam, con ngời Việt Nam. Ngời Việt chữa bệnh không
chỉ bằng thuốc, mà còn bằng ăn uống, và vì vậy, thuốc chữa bệnh ở xung
quanh con ngời Cả thiên nhiên là một kho thuốc khổng lồ, một kho dợc
liệu khai thác không bao giờ hết. Đó cũng là một cách sống nơng nhờ thiên
nhiên của ngời Việt Nam.
4.2. Giá trị văn hoá sinh thái truyền thống ở Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hoá
*Thực trạng và một số vấn đề cấp bách đang đặt ra trong lĩnh vực môi
trờng sống.
Toàn cầu hoá diễn ra nh một xu thế khách quan trong thời đại hiện nay.
Toàn cầu hoá diễn ra trên nhiều lĩnh vực của đời sống xã hội. Bên cạnh những
mặt tích cực, toàn cầu hoá cũng có mặt tiêu cực. Một trong những thách thức
đó là nguy cơ đánh mất những giá trị truyền thống, đánh mất bản sắc văn hoá,
tức là đánh mất đi những gì là tinh tuý, thiêng liêng nhất của dân tộc.
Mặt khác, trên đất nớc ta đang diễn ra một quá trình đổi mới toàn diện
và sâu sắc. Nền kinh tế thị trờng cùng với quá trình đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đang có tác động mạnh mẽ lên mọi mặt của đời sống xã hội.

Việc mở cửa ra làm ăn với nớc ngoài với tinh thần Việt Nam muốn làm bạn
với tất cả các nớc trên thế giới đã tạo điều kiện và cơ hội thuận lợi để nớc ta
hoà nhập với xu hớng toàn cầu hoá và nền kinh tế tri thức. Tất cả những điều
kiện đó đều đang ảnh hởng đến những truyền thống văn hoá dân tộc, và các
giá trị văn hoá truyền thống đang có những bớc chuyển đổi cho phù hợp.
Thực trạng môi trờng sống ở Việt Nam đang có những diễn biến phức
tạp theo chiều hớng tiêu cực nh nạn cạn kiệt các nguồn tài nguyên thiên nhiên
(đất, rừng, nớc ngọt, các loại khoáng sản và nhiên liệu), sự nghèo dần tính đa
dạng sinh học, nạn ô nhiễm nặng nề môi trờng sống bởi các chất thải sinh
hoạt và sản xuất công nghiệp, việc lạm dụng các chất hoá học trong phòng trừ
dịch hại cho cây trồng và gia súc, việc sử dụng bừa bãi các chất kích thích cây
trồng và vật nuôi nhằm thu lãi nhanh nhất, bất chấp sức khoẻ và mạng sống
của con ngời, sự bùng phát ngày càng rộng rãi các tệ nạn xã hội do sử dụng
chất kích thích dới dạng matuý đã gây ra nhiều bệnh tật hiểm nghèo mà AIDS
là một nguy cơ trầm trọng nhất, đang hàng ngày, hàng giờ bào mòn sức lực
của con ngời và xã hội. Vấn đề môi trờng sống ở Việt Nam đã trở nên cấp
bách và phức tạp hơn bao giờ hết. Nguyên nhân sâu xa của thực trạng môi tr-
ờng Việt Nam hiện nay chính là do sự đồng thời cùng tồn tại đan xen phức
tạp của các nền văn minh cha đợc định hình trên cái nền của văn minh tiểu
nông văn minh nông nghiệp lúa nớc. Do vậy, những giá trị văn hoá - sinh
thái truyền thống cũng đang trong quá trình chuyển đổi mạnh mẽ.
*Hoà nhập mà không hoà tan sự chuyển đổi trên cơ sở kế thừa cái
tốt, cái tích cực, phát huy mặt tốt,mặt tích cực, loại bỏ những cái xấu, sáng
tạo trong việc giải quyết mối quan hệ giữa truyền thống và hiện đại.
Điều này đợc thể hiện rõ nét trong t tởng Hồ Chí Minh. Những triết luận
về văn hoá trong t tởng của Ngời là sự luận giải về các quy luật cơ bản của sự
phát triển văn hoá nh sáng tạo, kế thừa, tiếp thụ những tinh hoa trong giao lu
văn hoá,
Sáng tạo không những là bản chất của văn hoá, mà còn là quy luật phát
triển của văn hoá, vì sự phát triển văn hoá phải đợc bắt nguồn trực tiếp từquá

trình sáng tạo mang tính nhân văn cao cả của con ngời và cộng đồng. Nguyên
lý đó đợc Hồ Chí Minh trình bày rõ trong nhiều triết luận về văn hoá. Ngời
khẳng định: lịch sử nhân loại là do ngời lao động sáng tạo ra, cho nên trong
tất cả các lĩnh vực xã hội từ sản xuất, học tập lý luận đến sự lãnh đạo của
Đảng - đều cần đến sự sáng tạo, đều phải thấm đậm tinh thần nhân văn từ con
ngời, do con ngời và vì con ngời. Ngời lu ý phải đề cao cảnh giá trớc những
hiện tợng phản sáng tạo, cũng có nghĩa là phản văn hoá: Thói quen và truyền
thống lạc hậu cũng là kẻ địch to, nó ngấm ngầm ngăn trở cách mạng tiến bộ.
Quy luật về sự kế thừa di sản văn hoá và gữ gìn, phát triển văn hoá dân
tộc cũng đợc Hồ Chí Minh nhìn nhận một cách biện chứng: Nói là khôi phục
vốn cũ thì nên khôi phục cái gì tốt, còn cái gì không tốt thì phải loại dần ra.
Cách đánh giá của Ngời về cái mới trong sự phát triển văn hoá cũng rất công
bằng, khoa học và thể hiện thái độ tích cực; những gì cũ nhng tốt, vẫn có giá trị
thì phải đợc phát triển thêm. Trong rất nhiều bài nói, bài viết của mình, Ngời
đều căn dặn nhất định phải xây đắp cho đợc một nền văn hoá dân tộc và phải
biết cách kế thừa di sản văn hoá dân tộc. Di sản này là cái gốc không có gì thay
thế đợc. Song, phải có một nhãn quan thấu đáo để thể hiện sự nhuần nhuyễn
giữa logic và lịch sử mới có thể thấy đợc và làm tốt điều đó.
Do đó, triết lý sống hài hoà với thiên nhiên là một giá trị vĩnh hằng và
luôn đúng, là mặt tốt của giá trị văn hoá sinh thái truyền thống mà chúng ta
cần giữ gìn và phát huy. Phát huy ở chỗ chuyển lối sống từ thái cực chỉ biết
phụ thuộc, nơng nhờ vào thiên nhiên, sang thái cực chinh phục, khai thác
thiên nhiên bằng bất cứ giá nào nhằm thoả mãn những lợi ích trớc mắt của
con ngời. Lối sống mới đã phủ định lối sống cũ, thể hiện trình độ cao hơn của
sự phát triển. Triết lý sống hài hoà với thiên nhiên vẫn còn là nguyên lý chủ
đạo trong lối sống văn hoá sinh thái của ngời Việt Nam. Chữ hài hoà giờ
đây phải đợc hiểu: có khai thác thiên nhiên, thậm chí phải khai thác kịp thời,
mạnh mẽ các nguồn tài nguyên thiên nhiên và môi trờng để phát triển đất n-
ớc; song, mặt khác, cần phải biết bù đắp kịp thời cho thiên nhiên và phải
biết dừng khi đã đến giới hạn cho phép, hay đến ngỡng chịu đựng của từng

loại tài nguyên.
Ngày nay, sống hài hoà với thiên nhiên phải tuân theo nguyên tắc phát
triển lâu bền một nguyên tắc của lối sống hiện đại đang đợc toàn nhân loại
quan tâm. Phát triển lâu bền là sự phát triển kinh tế xã hội lành mạnh, dựa
trên việc sử dụng hợp lý tài nguyên và bảo vệ môi trờng; nhằm đáp ứng nhu
cầu của thế hệ con ngời hiện nay và không ảnh hởng bất lợi đối với các thế hệ
trong tơng lai trong việc thoả mãn những nhu cầu của họ. nh vậy , phát triển
lâu bền là một vấn đề mang tính toàn cầu mà mỗi quốc gia, dân tộc trên cơ sở
bản sắc riêng của mình đều phải tham gia và giải quyết vấn đề đó.
Yêu thiên nhiên cũng là một giá trị văn hoá sinh thái sống mãi với thời
gian. Con ngời ta sinh ra ai cũng yêu thiên nhiên nh một bản năng vốn có.
Hơn nữa yêu thiên nhiên còn là cội nguồn của tình yêu Tổ quốc. Truyền
thống yêu nớc của dân tộc ta đợc các thế hệ ngời Việt Nam kế thừa liên tục.
Song, qua mỗi giai đoạn lịch sử của dân tộc, nội dung yêu nớc đã có những
biến đổi nhất định: từ chỗ yêu nớc là trung với vua đến trung với Đảng,
hiếu với dân đợc thể hiện ở nhiệm vụ nào cũng hoàn thành, khó khăn nào
cũng vợt qua và ngày nay yêu nớc là yêu chủ nghĩa xã hội Việt Nam bằng
đóng góp toàn bộ trí lực, thể lực, tài lực góp phần làm cho dân giàu, nớc
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Do đó, ở từng dân tộc, vào
những giai đoạn phát triển khác nhau, tình yêu đó cũng có những biểu hiện
khác nhau, phụ thuộc vào nhiều yếu tố.
Ngày nay yêu thiên nhiên không chỉ bằng cảm tính đơn thuần, mang tính
kinh nghiệm chủ nghĩa, mà yêu thiên nhiên là phải hiểu biết sâu sắc toàn diện
về nó (về cấu trúc và các quy luật hoạt động của từng yếu tố nói riêng, của
toàn bộ thiên nhiên nói chung), về mối quan hệ giữa con ngời và tự nhiên. Từ
đó, con ngời tự nguyện, tự giác có thái độ và hành vi ứng xử đúng đắn đối với
tự nhiên, khai thác và sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trờng
theo nguyên tắc phát triển lâu bền. Điều đó có nghĩa là phải giáo dục ý thức
sinh thái một cách có hệ thống, rộng rãi trong toàn xã hội. Đó là sự bổ sung
thêm cho giá trị yêu thiên nhiên trong thời đại ngày nay.

Nh vậy, có thể nói, những giá trị văn hoá truyền thống đó, về căn bản,
vẫn còn nguyên giá trị đối với ngày nay. Song, về nội dung cụ thể, các giá trị
ấy đang có những sự chuyển đổi cho phù hợp với những điều kiện cụ thể của
thời đại. Những sự chuyển đổi trong các giá trị văn hoá sinh thái ngày nay
đều nhằm vào mục tiêu phát triển lâu bền một chiến lợc phát triển mới của
nhân loại, một trong những xu hớng mà quá trình toàn cầu hoá đang hớng
đến.
lời kết

Thế giới đang chuyển đổi từng giờ, từng phút với tốc độ chóng mặt.
Cùng với sự phát triển ngày càng cao của khoa học kỹ thuật, của đời sống xã
hội là sự xuất hiện những giá trị hiện đại đối với từng quốc gia, từng dân tộc.
Đặc biệt là trong bối cảnh toàn cầu hoá hiện nay, khi mà sự giao lu văn hoá
giữa các quốc gia là không có giới hạn, thì việc những giá trị truyền thống có
thể bị mai một là tất yếu. Vấn đề đặt ra là làm thế nào để vẫn hội nhập vào xu
thế phát triển của thế giới, nhng vẫn giữ đợc cái riêng của dân tộc mình,
không tự đánh mất mình.
Muốn làm đợc điều này phải có khả năng phán đoán, phân biệt và đánh
giá. Dựa vào giá trị truyền thống dân tộc với t cách là cơ sở nền tảng, chúng ta
có thể thực hiện đợc điều trên. giá trị truyền thống là cùng một loại với giá trị
nhân loại. Giá trị nhân loại khi vào nớc ta sẽ cùng với giá trị truyền thống làm
nên giá trị mới của dân tộc. Giá trị nhân loại có thể là một nhân tố nâng cao
giá trị truyền thống, làm cho giá trị truyền thống mang bộ mặt hiện đại, đáp
ứng đợc yêu cầu của con ngời hiện đại nhiều hơn. Mặt khác, giá trị nhân loại
khi đợc con ngời dân tộc chấp nhận, đợc lặp đi lặp lại qua một vài thế hệ cũng
có thể trở thành giá trị truyền thống. Cứ nh thế, giá trị truyền thống ngày một
phong phú thêm, nâng cao hơn.
Giá trị sinh thái truyền thống cũng không nằm ngoài quy luật trên. Nhng
con ngời đang khai thác nguồn tài nguyên quá giới hạn cho phép, làm cạn kiệt
nguồn tài nguyên và gây ô nhiễm cho môi trờng sinh thái. Vậy làm thế nào để

bảo vệ môi trờng sinh thái, bảo vệ môi trờng sống của con ngời ? Ăngghen đã
dạy: Sự việc nhắc nhở chúng ta từng giờ, từng phút rằng chúng ta hoàn toàn
không thống trị đợc giới tự nhiên nh một kẻ xâm lợc thống trj một dân tộc
khác, nh một ngời sống bên ngoài tự nhiên, mà trái lại, bản thân chúng ta, với
cả xơng thịt, máu mủ và đầu óc của chúng ta, là thuộc về giới tự nhiên, chúng
ta nằm trong lòng giới tự nhiên, và tát cả sự thống trị của chúng ta đối với tự
nhiên là ở chỗ chúng ta, khác với tất cả các sinh vật khác, là chúng ta nhận
thức đợc quy luật của giới tự nhiên và có thể sử dụng những quy luật đó một
cách chính xác.
Toàn cầu hoá nh một dòng nớc lớn đang lan tràn khắp mọi miền đất của
hành tinh. Đứng trong đó thì phải biết bơi theo nó. Có bản lĩnh sẽ không sợ
chết chìm, có sự thông minh và sáng tạo sẽ tranh thủ đợc nhiều cơ hội, tránh
khỏi nhiều nguy cơ. Giá trị truyền thống và giá trị hiện đại dân tộc có thể qua
đây mà đợc giữ gìn, nâng cao và phong phú hoá.

danh mục tài liệu tham khảo
1. Giáo trình triết học Mác Lênin, NXB Chính trị quốc gia, năm 2002
2. Lý luận chính trị, số 5, năm 2002
3. Lý luận chính trị, số 6, năm 2002
4. T¹p chÝ TriÕt häc, sè 4, th¸ng 7, n¨m 2001
5. T¹p chÝ TriÕt häc, sè 5, th¸ng 8, n¨m 2001
6. T¹p chÝ TriÕt häc, sè 6, th¸ng 9, n¨m 2001
7. T¹p chÝ TriÕt häc, sè 7, th¸ng 10, n¨m 2001

mục lục
Trang
Lời nói đầu

Chơng 1 2
Phép biện chứng về phủ định 2

1. Khái niệm về phủ định và phủ định biện chứng 2
1.1. Phủ định 2
1.2. Phủ định biện chứng 2
2. Các đặc trng cơ bản của phủ định biện chứng 2
2.1.Tính khách quan 2
2.2.Tính kế thừa 3
3. Quy luật phủ định của phủ định. Hình thức xoáy ốc của sự phát triển. 4
4.ý nghĩa phơng pháp luận 6
Chơng 2 7
Giá trị truyền thống trong điều kiện 7
hiện nay ở nớc ta 7
1. Giá trị truyền thống 7
2. Giá trị truyền thống trong lịch sử phát triển dân tộc Việt Nam 8
3. Nội dung và vị thế của giá trị truyền thống Việt Nam trong giá trị nhân
loại 10
4. Giá trị truyền thống trong điều kiện hiện nay ở nớc ta dới góc độ triết
học, đặc biệt là giá trị sinh thái truyền thống 11
4.1. Văn hoá sinh thái và những giá trị văn hoá sinh thái truyền thống
Việt Nam 11
4.2. Giá trị văn hoá sinh thái truyền thống ở Việt Nam trong bối cảnh
toàn cầu hoá 14
danh mục tài liệu tham khảo 17

×