Tải bản đầy đủ (.docx) (26 trang)

giao dịch tư lợi và kiểm soát giao dịch tư lợi

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (184.75 KB, 26 trang )

A.

PHẦN MỞ ĐẦU

Trên thế giới, kiểm soát giao dịch tư lợi không còn là mới mẻ, nhưng pháp
luật Việt Nam chưa có sự quan tâm thích đáng đến vấn đề này trên cả phương diện
lý luận và thực tiễn. Mặc dù, Luật Doanh nghiệp 1999 đã tạo bước khởi đầu cho
việc xác lập cơ chế kiểm soát giao dịch có khả năng tư lợi và cơ chế này được cải
thiện hơn ở Luật Doanh nghiệp 2005 và Luật Doanh nghiệp 2014. Tuy nhiên,
trước diễn biến phức tạp của các hoạt động kinh doanh vốn đã đa dạng và tiềm ẩn
nhiều nguy cơ tiêu cực thì việc hoàn thiện pháp luật nhằm kiểm soát các giao dịch
có khả năng tư lợi là rất cần thiết và cấp bách.
Bên cạnh đó, với đặc điểm là hình thức công ty đối vốn điển hình, công ty
cổ phần là một sân chơi công bằng và bình đẳng của những người tham gia
(những cổ đông). Khi góp vốn vào công ty, các cổ đông đã tự nguyện cam kết vào
một khế ước chung (hợp đồng thành lập hoặc điều lệ công ty) là cùng hưởng lợi
và cùng chịu rủi ro theo tỷ lệ vốn góp của mình trong công ty. Đây cũng là nguyên
tắc được ghi nhận trong luật công ty của hầu hết các nước trên thế giới. Tính bình
đẳng của “cuộc chơi” thể hiện ở chỗ cổ đông góp vốn nhiều thì hưởng lợi nhiều,
thành viên góp vốn ít thì hưởng lợi ít. Mục đích của các cổ đông khi góp vốn để
thành lập công ty là thông qua hoạt động kinh doanh của công ty họ sẽ sử dụng
một cách hiệu quả nhất số vốn của mình. Họ sở hữu và được hưởng lợi công ty
tương ứng với phần vốn góp của mình trong công ty, và được phân chia lợi nhuận
cũng như chịu nghĩa vụ về tài sản tương ứng với phần vốn đó. Thế nhưng, nếu xảy
ra giao dịch tư lợi, tài sản của công ty bị chảy dần vào túi một hoặc một nhóm cổ
đông có vốn góp chi phối, thậm chí chảy vào túi của người không góp vốn vào
công ty thì những người góp vốn khác trong công ty không những bị giảm sút về
mặt lợi tức mà còn bị chia sẻ về mặt quyền và lợi ích, họ góp vốn đầu tư mà để
người khác chiếm hưởng . Điều này còn ảnh hưởng trầm trọng hơn đối với các cổ
đông thiểu số .Mặc dù cổ đông thiểu số luôn gắn liền với số vốn ít ỏi, và nếu như
họ chỉ đầu tư một mình thì vai trò của họ dường như là khá mờ nhạt, nhưng trên




thực tế, cổ đông thiểu số lại chiếm đại đa số trong các nhà đầu tư. Chính số đông
đã tạo ra vai trò quan trọng của các cổ đông thiểu số trong việc tạo ra nguồn vốn
cho nền kinh tế.
Vì vậy , việc hạn chế và kiểm soát các giao dịch có khả năng tư lợi đóng vai
trò càng quan trọng trong việc bảo vệ cổ đông thiểu số những người thấp cổ bé
họng trong công ty cổ phần và tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh thúc
đẩy nền kinh tế phát triển .


B.

PHẦN NỘI DUNG

1. Khái quát chung
1.1.
Giao dịch tư lợi và kiểm soát giao dịch tư lợi
1.1.1. Khái niệm giao dịch tư lợi và kiểm soát giao dịch tư lợi
- Giao dịch tư lợi

Có rất nhiều cách hiểu và quan niệm khác nhau về giao dịch có khả năng tư
lợi (Hay còn gọi tắt là giao dịch tư lợi).
Khoa học pháp lý gọi giao dịch tư lợi là các giao dịch mà trong đó có thể sẽ
chứa đựng khả năng xung đột về quyền lợi (xung đột giữa quyền lợi của công ty
và quyền lợi của cá nhân người đại diện). Thực chất, mục đích các giao dịch của
công ty là hướng tới quyền lợi của công ty, ý chí trong các giao dịch này là ý chí
của công ty. Tuy nhiên nếu một hoặc một nhóm thành viên không có chung quyền
lợi với doanh nghiệp thì giao dịch đó rất dễ bị biến đổi về bản chất, xảy ra tiêu
cực. Việc trục lợi cá nhân của họ làm ảnh hưởng hoặc gây thiệt hại về quyền lợi,

tài sản cho công ty .
Theo Bộ quy tắc của OECD về Quản trị công ty, giao dịch có khả năng tư
lợi được hiểu thông qua những quy định về giao dịch nội gián (insider trading) và
hành vi lạm dụng kinh doanh để tư lợi (abusive self-dealing), hành vi này xảy ra
khi các cá nhân có quan hệ thân thiết với công ty, bao gồm cả cổ đông nắm quyền
kiểm soát, lợi dụng các quan hệ đó gây tổn hại cho công ty và nhà đầu tư .
Từ những quan điểm trên có thể hiểu: Giao dịch tư lợi là những giao dịch
có sự tham gia của công ty mà những giao dịch này có nguy cơ bị trục lợi bởi một
hoặc một nhóm thành viên hay cổ đông của công ty.
- Kiểm soát giao dịch tư lợi
Kiểm soát giao dịch tư lợi có thể hiểu là hoạt động nhằm kiểm tra, giám sát,
quản lý những giao dịch có khả năng sẽ gây thiệt hại về tài sản, quyền lợi cho
công ty do người có quyền lạm dụng vị thế của mình để thực hiện các giao dịch để
thu lợi riêng nhằm phòng ngừa, phát hiện và ngăn chặn, xửlý các giao dịch tư lợi
trong công ty.


1.1.2. Các giao dịch là đối tượng bị kiểm soát

Qua thực tiễn hoạt động của các công ty cổ phần cho thấy nhóm các giao
dịch thường có nguy cơ phát sinh tư lợi gồm:
-Các giao dịch có giá trị bằng hoặc lớn hơn 35% tổng giá trị tài sản được
ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty,
- Giao dịch giữa công ty và người quản lý công ty;
-Giao dịch giữa công ty và bố, mẹ, anh, chị em ruột của những người quản
lý công ty; giao dịch giữa công ty và cổ đông lớn của công ty;
-Giao dịch giữa các công ty con của cùng một công ty mẹ;
-Giao dịch giữa công ty và các công ty khác, trong đó người quản lý công ty
là cổ đông đa số hoặc bố, mẹ, anh chị em ruột của họ là cổ đông lớn hay thành
viên đa số trong công ty đó...

Cần nhấn mạnh rằng bản thân các giao dịch này được thực hiện một cách
trung thực vì lợi ích của công ty thì vẫn được xem là hợp pháp. Chúng chỉ bị coi
là các giao dịch bất hợp pháp khi người xác lập giao dịch đó có ý đồ tước đi lợi
ích của công ty làm lợi ích riêng của mình.
1.2. Khái niệm cổ đông thiểu số
Khái niệm “cổ đông thiểu số” không được quy định trong Luật Doanh
nghiệp 2014 cũng như các văn bản quy phạm pháp luật khác có liên quan.
Luật Chứng khoán 2006 sửa đổi, bổ sung 2010 thì lại có riêng một tiêu chí
xác định cổ đông lớn, theo đó “Cổ đông lớn là cổ đông sở hữu trực tiếp hoặc gián
tiếp từ 5% trở lên số cổ phiếu có quyền biểu quyết của tổ chức phát hành” (khoản
9, Điều 6).
Xem xét từ những vấn đề trên thì khi xác định một cổ đông là cổ đông thiểu
số phải xem xét ở hai khía cạnh:
-Tổng số cổ phần mà họ sở hữu trong vốn điều lệ công ty phải dưới 5%;


- Tổng số cổ phần mà cổ đông sở hữu không có khả năng áp đặt quan điểm,
ý chí, đường lối, sách lược của mình trong công ty khi các cổ đông thực hiện các
quyền của mình.
Với cách tiếp cận từ vị trí yếu thế của cổ đông thiểu số trong các giao dịch
tư lợi, nhóm cho rằng: muốn các giao dịch trong công ty cổ phần không trở thành
giao dịch tư lợi thì những nhóm lợi ích thao túng công ty phải được kiểm soát, còn
những cổ đông thiểu số cần phải bảo đảm được quyền và lợi ích của mình. Điều
này không chỉ có ý nghĩa đối với cổ đông thiểu số mà còn có ý nghĩa lớn với nền
kinh tế quốc dân.
1.2. Ảnh hưởng của giao dịch tư lợi.

Thứ nhất, xâm phạm lợi ích công ty
-


Thiệt hại về tài sản hữu hình: giao dịch tư lợi làm thiệt hại về mặt vật chất của
công ty, nó làm hạn chế thậm chí triệt tiêu nguồn vốn dùng để tái đầu tư của công
ty. Những lợi ích mà các tài sản đó đem lại đáng nhẽ “chảy” vào quỹ của công ty

-

thì qua các giao dịch tư lợi nó “chảy” vào túi của cá nhân.
Thiệt hại về tài sản vô hình: giao dịch tư lợi làm tài sản của công ty bị thất thoát,
uy tín của công ty cũng vì thế mà bị giảm sút, thương hiệu của công ty bị ảnh
hưởng. Giao dịch tư lợi “rút ruột” công ty dẫn đến tình trạng kinh doanh yếu kém,
khiến nhiều nhà đầu tư không muốn bỏ vốn đầu tư, khách hàng không ký hợp
đồng, hàng hóa khó bán… những cơ hội kinh doanh của công ty bị mất đi.
Thứ hai, xâm phạm đến các cổ đông của công ty
Khi tài sản của công ty chảy dần vào túi của một hoặc một số nhóm thành
viện khác thì lợi ích của họ bị chia cho người khác, họ góp vốn đầu tư để người
khác hưởng lợi. Về hình thức thì công ty bị xâm phạm quyền sở hữu nhưng về
thực chất thì những thành viên của công ty mới là người bị xâm hại quyền sở hữu
đối với tài sản của công ty tương ứng với phần vốn góp của mình. Giao dịch tư lợi
xâm hại đến tài sản của công ty, cũng đồng nghĩa với khả năng xâm hại đến quyền


lợi của các cổ đông trong công ty, đặc biệt là các CĐTS. Bởi lẽ, CĐTS là những
người không có khả năng kiểm soát công ty, họ không thể trực tiếp kiểm soát
được các giao dịch tư lợi của người quản lý, và với số vốn ít ỏi của mình thì thiệt
hại tài sản của công ty ảnh hưởng rất lớn đến nguồn vốn của họ khi lợi tức vốn
được hưởng lại bị chia cho người khác. Hơn nữa, khi những cổ đông lớn thực hiện
giao dịch tư lợi, thì đối với các vấn đề cần được thông qua bằng biểu quyết, các cổ
đông này có thể thông đồng với nhau để phục vụ cho mục đích của mình. Như
vậy, sẽ làm ảnh hưởng đến quyền biểu quyết của các CĐTS vì họ chỉ chiếm tỷ lệ
phiếu bầu tương ứng với cổ phần ít ỏi của mình nên không thể tác động đến các

vấn đề này.
Thứ ba, những nguy cơ ảnh hưởng xấu đến người có quyền và lợi ích
liên quan
Các khách hàng và đối tác của công ty là những người phải chịu ảnh hưởng
không nhỏ do các giao dịch tư lợi. Khi công ty bị cuốn vào các giao dịch tư lợi,
giả sử đối tượng của các giao dịch hướng tới là hàng hóa kém chất lượng thì
người bị tác động đến đầu tiên là những khách hàng tiêu dùng hàng hóa đó.
Không chỉ vậy, những đối tác làm ăn với công ty (trừ chủ thể tham giao giao dịch)
bị mất hợp đồng, mất cơ hội kinh doanh… gây ra thiệt hại cho chính bản thân các
đối tác của công ty.
Thứ tư, những nguy cơ ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế - xã hội
Khi giao dịch tư lợi xảy ra sẽ đe doạ đến môi trường kinh doanh lành mạnh,
tác động đến sự phát triển bền vững của nền kinh tế, làm cạn kiệt ngân sách. Từ
đó làm cho các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nước ngoài sẽ ngần ngại đầu tư
vào Việt Nam. Do đó thị trường đầu tư của Việt Nam sẽ không phát triển, không
phát huy được nội lực, không thể thực hiện được công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước.
2.Kiểm soát giao dịch tư lợi và bảo vệ quyền lợi của cổ đông thiểu số


2.1.

Những quy định của pháp luật về kiểm soát giao dịch tư lợi góp phần bảo vệ
quyền lợi cổ đông thiểu số
Vần đề giao dịch tư lợi tuy không được Luật doanh nghiệp quy định một
cách rõ ràng cụ thể tại một điều luật. Nhưng Luật doanh nghiệp đã có những quy
định nhằm hướng tới kiểm soát các giao dịch tư lợi trong công ty cổ phần.
2.1.1. Những quy định về đối tượng bị kiểm soát
-


Các giao dịch liên quan đến tài sản có giá trị lớn của doanh nghiệp.
Cụ thể, theo quy định tại Khoản 2 điều 162 Luật Doanh nghiệp 2014

“những giao dịch có giá trị bằng hoặc lớn hơn 35% tổng giá trị tài sản được ghi
trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty nếu Điều lệ công ty không quy định
một tỷ lệ hoặc một giá trị khác phải được Đại hội đồng cổ đông, thông qua
(Khoản 3 điều 162 Luật Doanh nghiệp 2014). Đối với các giao dịch có giá trị nhỏ
hơn 35% tổng giá trị tài sản được ghi trong báo cáo tài chính gần nhất của công ty
nếu Điều lệ công ty không quy định một tỷ lệ hoặc một giá trị khác phải được Hội
đồng quản trị chấp thuận”
Những tài sản có giá trị lớn ảnh hưởng rất lớn đến việc tồn tại của một công
ty, do đó Luật doanh nghiệp quy định những giao dịch này phải được ĐHĐCĐ
hay HĐQT quyết định mà không phải trao quyền cho người đại diện của công ty
quyết định. Việc quy định này nhằm ngăn chặn người đại diện hợp pháp có thể
nảy sinh ý đồ tư lợi, san sẻ lợi ích của công ty vào túi riêng của họ gây thiệt hại
lớn về tài sản cho công ty và chủ nợ, thành viên khác của công ty. Cơ chế trên,
nếu được sử dụng hợp lý, sẽ buộc cổ đông lớn phải tính đến quyền, lợi ích và mối
quan tâm của cổ đông thiểu số, giúp cổ đông thiểu số có cơ hội ảnh hưởng đến các
quyết định của công ty; qua đó, cân bằng được mối quan hệ lợi ích với cổ đông
lớn, bảo vệ hợp lý các quyền và lợi ích của cổ đông thiểu số.
-

Các giao dịch giữa công ty với những người có liên quan
Theo quy định tại khoản 1 điều 162 Luật Doanh nghiệp 2014 thì “Hợp đồng

giao dịch giữa công ty với các đối tượng sau đây phải được Đại hồi đồng cổ đông


hoặc Hội đồng quản trị chấp thuận: Cổ đông, người đại diện ủy quyền của cổ đông
sở hữu trên 10% tổng số cổ phần phổ thông của công ty và những người có liên

quan của họ; Thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và
người có liên quan của họ; Doanh nghiệp quy định tại khoản 2 Điều 159 Luật
này”.
Như vậy nếu cơ chế trên được tuân thủ một cách đúng đắn, sẽ buộc cổ đông lớn
phải tính đến quyền, lợi ích và mối quan tâm của cổ đông thiểu số, lợi ích chung
của cả công ty; kiểm soát các cổ đông này lợi dụng quyền hạn của mình để hòng
trục lợi; góp phần bảo vệ các quyền và lợi ích của cổ đông thiểu số.
2.1.2. Những quy định về điều kiện và tiêu chuẩn của người tham gia quản lý doanh

nghiệp
Người tham gia quản lý doanh nghiệp là những người điều phối các hoạt
động của doanh nghiệp, cũng chính là người trực tiếp hoặc gián tiếp có quyền
trong việc thiết lập các giao dịch của doanh nghiệp với các chủ thể khác. Vì yếu tố
lợi ích trong các giao dịch, xuất phát từ ý chí chủ quan của người quản lý công ty
tham gia giao dịch, bằng thẩm quyền của mình những người này có thể lạm dụng
để tư lợi cho mình, áp đặt ý chí cá nhân vào ý chí của pháp nhân.
Từ nguy cơ này, Luật doanh nghiệp đã đưa ra các điều kiện và tiêu chuẩn
cơ bản để trở thành người quản lý của công ty và được quy định tại các Điều 65,
Điều 151 LDN 2014.
Chẳng hạn như, đối với thành viên độc lập Hội đồng quản trị theo quy định
tại điểm b khoản 1 Điều 134 của Luật này phải có các tiêu chuẩn và điều kiện sau
đây, trừ trường hợp pháp luật về chứng khoán có quy định khác:
- Không phải là người đang làm việc cho công ty, công ty con của công ty;
không phải là người đã từng làm việc cho công ty, công ty con của công ty ít nhất
trong 03 năm liền trước đó.
- Không phải là người đang hưởng lương, thù lao từ công ty, trừ các khoản
phụ cấp mà thành viên Hội đồng quản trị được hưởng theo quy định;


- Không phải là người có vợ hoặc chồng, cha đẻ, cha nuôi, mẹ đẻ, mẹ nuôi,

con đẻ, con nuôi, anh ruột, chị ruột, em ruột là cổ đông lớn của công ty; là người
quản lý của công ty hoặc công ty con của công ty;
- Không phải là người trực tiếp hoặc gián tiếp sở hữu ít nhất 1% tổng số cổ
phần có quyền biểu quyết của công ty;
- Không phải là người đã từng làm thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm
soát của công ty ít nhất trong 05 năm liền trước đó
Hay điều kiện đối với Giám đốc (Tổng giám đốc) thì đối với công ty con
của công ty có phần vốn góp, cổ phần do Nhà nước nắm giữ trên 50% vốn điều lệ
Giám đốc hoặc Tổng giám đốc không được là vợ hoặc chồng, cha đẻ, cha nuôi,
mẹ đẻ, mẹ nuôi, con đẻ, con nuôi, anh ruột, chị ruột, em ruột, anh rể, em rể, chị
dâu, em dâu của người quản lý công ty mẹ và người đại diện phần vốn nhà nước
tại công ty đó.
Ngoài ra người quản lý công ty còn phải tuân theo quy định tại khoản 2
điều 18 LDN“tổ chức cá nhân không có quyền thành lập và quản lý doanh nghiệp
tại Việt Nam”.
2.1.3. Quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ pháp lý của người quản lý công
ty
Khi ở vị trí quản lý trong công ty, người quản lý đã được hưởng nhiều lợi
ích: lợi ích kinh tế; lợi ích chính trị, tinh thần… Với những lợi ích nhận được cũng
như những quyền hạn được trao thì người quản lý phải có trách nhiệm thực hiện
các công việc vì lợi ích của công ty. Ràng buộc trách nhiệm là một công cụ để cổ
đông kiểm soát vốn đầu tư của họ nên pháp luật đặc biệt chú trọng điều này. Bởi
nhà đầu tư thường không trực tiếp đứng ra quản lý sử dụng vốn đầu tư của mình
đặc biệt là những nhà đầu tư nhỏ lẻ mà nó được trao cho một số người quản lý
thay mặt họ nắm quyền quản lý. Nhằm kiểm soát những giao dịch của công ty do
người quản lý thực hiện tránh nguy cơ trục lợi từ người quản lý, Luật Doanh


nghiệp 2014 đã có những quy định về trách nhiệm cũng như nghĩa vụ của người
quản lý.

-

Nghĩa vụ cẩn trọng và trung thành

Nghĩa vụ này được quy định cụ thể tạiĐiều 160 về trách nhiệm của người
quản lý công ty, theo đó thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám
đốc và người quản lý khác có trách nhiệm sau đây:


Thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao theo đúng quy định của Luật này,

pháp luật có liên quan, Điều lệ công ty, nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông;
• Thực hiện các quyền và nghĩa vụ được giao một cách trung thực, cẩn trọng, tốt
nhất nhằm bảo đảm lợi ích hợp pháp tối đa của công ty;
• Trung thành với lợi ích của công ty và cổ đông; không sử dụng thông tin, bí quyết,
cơ hội kinh doanh của công ty, địa vị, chức vụ và sử dụng tài sản của công ty để tư
lợi hoặc phục vụ lợi ích của tổ chức, cá nhân khác;
• Thông báo kịp thời, đầy đủ, chính xác cho công ty về doanh nghiệp mà họ và
người có liên quan của họ làm chủ hoặc có phần vốn góp, cổ phần chi phối; thông
báo này được niêm yết tại trụ sở chính và chi nhánh của công ty.
- Công khai các lợi ích liên quan
Tại Khoản 2, Điều 159 Luật Doanh nghiệp 2014 cũng đã có quy định
vềcông khai các lợi ích liên quan. Cụ thể, trường hợp Điều lệ công ty không có
quy định khác chặt chẽ hơn, việc công khai hóa lợi ích và người có liên quan của
công ty thực hiện theo quy định sau đây:
Thành viên Hội đồng quản trị, Kiểm soát viên, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc và
người quản lý khác của công ty phải kê khai các lợi ích liên quan của họ với công
ty, bao gồm:



Tên, mã số doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính, ngành, nghề kinh doanh của doanh
nghiệp mà họ có sở hữu phần vốn góp hoặc cổ phần; tỷ lệ và thời điểm sở hữu
phần vốn góp hoặc cổ phần đó;




Tên, mã số doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính, ngành, nghề kinh doanh của doanh
nghiệp mà những người có liên quan củahọ cùng sở hữu hoặc sở hữu riêng phần
vốn góp hoặc cổ phần trên 10% vốn điều lệ;
- Trách nhiệm giải trình
Để hạn chế những xung đột, mâu thuẫn giữa lợi ích cá nhân, và lợi ích công
ty có thể xảy ra khi người quản lý thực hiện các giao dịch, Luật Doanh nghiệp có
quy định tại Điều 159 khoản 5 như sau:Thành viên Hội đồng quản trị, Giám đốc
hoặc Tổng giám đốc nhân danh cá nhân hoặc nhân danh người khác để thực hiện
công việc dưới mọi hình thức trong phạm vi công việc kinh doanh của công ty đều
phải giải trình bản chất, nội dung của công việc đó trước Hội đồng quản trị, Ban
kiểm soát và chỉ được thực hiện khi được đa số thành viên còn lại của Hội đồng
quản trị chấp thuận; nếu thực hiện mà không khai báo hoặc không được sự chấp
thuận của Hội đồng quản trị thì tất cả thu nhập có được từ hoạt động đó thuộc về
công ty.
2.1.4. Quy định về kiểm soát nội bộ công ty

Để kiểm soát hiệu quả các giao dịch tư lợi, pháp luật doanh nghiệp cũng có
những quy định về tổ chức quản lý công ty theo hướng có sự phân công các nhiệm
vụ, chức năng cho từng cơ quan khác nhau, đặc biệt là việc xây dựng cơ chế kiểm
soát nội bộ công ty. Việc kiểm soát này được thực hiện thông qua Ban kiểm soát
của công ty (nếu công ty lựa chọn mô hình có BKS) hay quy định ít nhất 20% số
thành viên Hội đồng quản trị phải là thành viên độc lập và có Ban kiểm toán nội
bộ trực thuộc Hội đồng quản trị( đối với mô hình công ty không có BKS). Luật

Doanh nghiệp 2014 đã có những quy định cụ thể về hoạt động của BKS từ Điều
163 đến Điều 169.
Có thể nói những quy định về quyền, nghĩa vụ của BKS, điều kiện tiêu
chuẩn thành viên BKS, thù lao của thành viên BKS…hay quy định về thành viên
độc lập trong HĐQT đều có ý nghĩa quan trọng trong việc hạn chế và phát hiện
kịp thời các giao dịch tư lợi trong công ty cổ phần.
2.1.5.Quy định về công khai hóa thông tin


Pháp luật đã có quy định chặt chẽ chế độ công khai hóa thông tin của công
ty, cho phép mọi người trong đó có các thành viên, cổ đông đều có quyền được
biết về những thông tin liên quan đến công ty. Vấn đề này được quy định tại
Điều 171 LDN về công khai thông tin công ty cổ phần, cụ thể:
- Công ty cổ phần phải gửi báo cáo tài chính hằng năm đã được Đại hội
đồng cổ đông thông qua đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền theo quy định của
luật về kế toán và pháp luật có liên quan.
- Công ty cổ phần công bố trên trang thông tin điện tử (nếu có) của mình
các thông tin sau đây:Điều lệ công ty;Sơ yếu lý lịch, trình độ học vấn và kinh
nghiệm nghề nghiệp của các thành viên Hội đồng quản trị, Kiểm soát viên, Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc công ty;Báo cáo tài chính hằng năm đã được Đại hội
đồng cổ đông thông qua;Báo cáo đánh giá kết quả hoạt động hằng năm của Hội
đồng quản trị và Ban kiểm soát.
- Công ty cổ phần không phải là công ty niêm yết phải thông báo cho Cơ
quan đăng ký kinh doanh nơi công ty có trụ sở chính chậm nhất 03 ngày sau khi
có thông tin hoặc có thay đổi các thông tin về họ, tên, quốc tịch, số hộ chiếu, địa
chỉ thường trú, số cổ phần và loại cổ phần của cổ đông là cá nhân nước ngoài; tên,
mã số doanh nghiệp, địa chỉ trụ sở chính, số cổ phần và loại cổ phần và họ, tên,
quốc tịch, số hộ chiếu, địa chỉ thường trú người đại diện theo ủy quyền của cổ
đông là tổ chức nước ngoài.
- Công ty cổ phần đại chúng thực hiện công bố, công khai thông tin theo

quy định của pháp luật về chứng khoán. Công ty cổ phần mà Nhà nước nắm giữ
trên 50% vốn điều lệ công bố, công khai thông tin theo quy định tại Điều 108 và
Điều 109 của Luật này.
2.1.6. Những quy định về xử lý vi phạm trong các giao dịch vì mục đích tư lợi

Để kiểm soát hiệu quả các giao dịch có khả năng tư lợi, không thể không
nói đến cơ chế xử lý vi phạm trong giao kết và thực hiện giao dịch tư lợi. Rất đơn
giản để hiểu điều này, bởi một hành vi sai trái nếu không có chế tài xử lý thì nó có


thể sẽ tiếp tục xảy ra trong tương lai. Đồng thời, nếu chế tài xử lý không thích
đáng, phù hợp sẽ không có tính răn đe, đôi khi còn phản tác dụng. Đối với các
giao dịch có khả năng tư lợi cũng vậy. Pháp luật đưa ra các chế tài để xử lý hành
vi vi phạm trong giao kết và thực hiện các giao dịch có khả năng tư lợi. Cụ thể là
tại khoản 4 điều 162 Luật doanh nghiệp 2014:
“Hợp đồng, giao dịch bị vô hiệu và xử lý theo quy định của pháp luật khi được ký
kết hoặc thực hiện mà chưa được chấp thuận theo quy định tại khoản 2 và khoản 3
Điều 162, gây thiệt hại cho công ty; người ký kết hợp đồng, cổ đông, thành viên
Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có liên quan phải liên đới
bồi thường thiệt hại phát sinh, hoàn trả cho công ty các khoản lợi thu được từ việc
thực hiện hợp đồng, giao dịch đó”.
Với những quy định trên đây, có thể nói Luật doanh nghiệp đã xác lập được
cơ chế để kiểm soát các giao dịch tư lợi trong công ty. Nếu kiểm soát tốt các giao
dịch tư lợi thì sẽ góp phần bảo vệ quyền lợi của các cổ đông, thành viên trong
công ty đặc biệt là cổ đông thiểu số. Bởi lẻ cổ đông thiểu số là những người yếu
thế trong công ty, là những “ông chủ thấp cổ bé họng”, không trực tiếp giám sát
các hoạt động của công ty. Hơn nữa với đặc điểm là hình thức công ty đối vốn
điển hình, công ty cổ phần là một chơi công bằng và bình đẳng của những người
tham gia (những cổ đông). Khi góp vốn vào công ty, các cổ đông cùng hưởng lợi
và cùng chịu rủi ro theo tỷ lệ vốn góp của mình trong công ty. Tính bình đẳng của

“cuộc chơi” thể hiện ở chỗ cổ đông góp vốn nhiều thì hưởng lợi nhiều, thành viên
góp vốn ít thì hưởng lợi ít. Mục đích của các cổ đông khi góp vốn để thành lập
công ty là thông qua hoạt động kinh doanh của công ty họ sẽ sử dụng một cách
hiệu quả nhất số vốn của mình. Họ sở hữu và được hưởng lợi công ty tương ứng
với phần vốn góp của mình trong công ty, và được phân chia lợi nhuận cũng như
chịu nghĩa vụ về tài sản tương ứng với phần vốn đó. Thế nhưng, nếu xảy ra giao
dịch tư lợi, tài sản của công ty bị chảy dần vào túi một hoặc một nhóm cổ đông có
vốn góp chi phối, có địa vị (cổ đông lớn) thậm chí chảy vào túi của người không


góp vốn vào công ty thì những người góp vốn khác trong công ty không những bị
giảm sút về mặt lợi tức mà còn bị chia sẻ về mặt quyền và lợi ích, họ góp vốn đầu
tư mà để người khác chiếm hưởng, như vậy rõ ràng là bất công cho họ.
Pháp luật hiện hành không quy định theo hướng liệt kê các giao dịch chỉ
cần quyết định của cá nhân có quyền, mà pháp luật sử dụng phương pháp loại trừ.
Tức là ấn định những giao dịch nào phải thông qua ĐHĐCĐ, HĐQT theo nguyên
tắc đa số. Như vậy, trong hoạt động kinh doanh thì nhưGiámđốc/ Tổng giám đốc
vẫn có quyền quyết định một số vấn đề liên quan đến công việc kinh doanh hàng
ngày mà không cần phải thông qua HĐQT hay ĐHĐCĐ. Vì vậy mà giao dịch tư
lợi có thể xảy ra nếu như Giámđốc/ Tổng giám đốc nhân danh công ty để trục lợi
cá nhân.
Do đó, việc quy định liên đới về trách nhiệm là cần thiết để những người có
quyền này phải xem xét, cân nhắc khi thực hiện các giao dịch,
2.2.

Những quy định của pháp luật về bảo vệ quyền lợi cổ đông thiểu số tác động
tới kiểm soát giao dịch tư lợi
Trong công ty cổ phần, Luật Doanh nghiệp 2014 quy định khá đầy đủ và
chi tiết các quyền của cổ đông đồng thời quy định các biện pháp bảo vệ quyền lợi
của các cổ đông nói chung và quyền lợi của cổ đông thiểu số nói riêng. Nhờ các

quyền mà pháp luật trao cho mình các cổ đông đặc biệt là các cổ đông thiểu số đã
có những tác động góp phần kiểm soát một số giao dịch tư lợi. Nhóm đưa ra một
số quyền sau:
- Quyền biểu quyết thông qua nghị quyết của Đại hội đồng cổ đông

Theo quy định của Luật Doanh nghiệp 2014, thì các cổ đông phổ thông có
quyền tham gia biểu quyết tại các cuộc họp ĐHĐCĐ (Khoản 1 Điều 114). Quyền
biểu quyết của cổ đông gắn liền với việc sở hữu cổ phần. Dù họ sở hữu số cổ phần
ít hay nhiều thì quyền này vẫn được đảm bảo. Bằng việc tham gia họp hay biểu
quyết thông qua các quyết định của đại hội đồng cổ đông, các cổ đông có thể tham
gia vào quá trình thông qua các quyết định của công ty về các vấn đề thuộc thẩm


quyền của ĐHĐCĐ (Khoản 2 Điều 135). Các cổ đông cũng là “kênh” giám sát
hoạt động chung của công ty. Cụ thể về việc thông qua nghị quyết của ĐHĐCĐ
đối với công ty cổ phần được quy định tại khoản 1, khoản 2 Điều 144 Luật Doanh
nghiệp 2014. Nhằm đảm bảo quyền biểu quyết của cổ đông thiểu số, pháp luật đã
giới hạn tỉ lệ tối thiểu để thông qua nghị quyết do công ty thỏa thuận quy định
trong Điều lệ.
Như vậy, pháp luật đã đảm bảo cho các cổ đông thiểu số có thể thể hiện
được ý chí của mình tại công ty bằng việc tham gia thông qua các quyết định của
công ty, có điều kiện để tham gia giám sát hoạt động công ty góp phần hạn chế
các giao dịch tư lợi và thông qua đó có thể tự bảo vệ quyền lợi cho mình.
-

Quyền đề cử người vào Hội đồng quản trị hay Ban kiểm soát

Theo Luật Doanh nghiệp 2014 để góp phần bảo vệ những cổ đông thiểu số
trước sự chèn ép của các cổ đông lớn, pháp luật trao cho họ quyền được đề cử
người vào HĐQT hay BKS nhằm thay họ quản lý công ty cũng như giám sát

những hoạt động kinh doanh của công ty, hạn chế tình trạng lạm quyền, hạn chế
giao dịch tư lợi đảm bảo lợi ích chính đáng cho mình. Tại điểm a khoản 2 Điều
144 “Cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trong
thời hạn liên tục ít nhất sáu tháng hoặc một tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều
lệ công ty có các quyền: Đề cử người vào Hội đồng quản trị và Ban kiểm soát”.
Tại khoản 3, Điều 144 Luật Doanh nghiệp 2014 có đề cập đến vấn đề bầu
dồn phiếu trong việc bầu thành viên HĐQT và BKS “Trường hợp Điều lệ công ty
không quy định khác, việc biểu quyết bầu thành viên Hội đồng quản trị và Ban
kiểm soát phải thực hiện theo phương thức bầu dồn phiếu, theo đó mỗi cổ đông có
tổng số phiếu biểu quyết tương ứng với tổng số cổ phần sở hữu nhân với số thành
viên được bầu của Hội đồng quản trị hoặc Ban kiểm soát và cổ đông có quyền dồn
hết hoặc một phần tổng số phiếu bầu của mình cho một hoặc một số ứng cử viên.
Người trúng cử thành viên Hội đồng quản trị hoặc Kiểm soát viên được xác định
theo số phiếu bầu tính từ cao xuống thấp, bắt đầu từ ứng cử viên có số phiếu bầu


cao nhất cho đến khi đủ số thành viên quy định tại Điều lệ công ty. Trường hợp có
từ 02 ứng cử viên trở lên đạt cùng số phiếu bầu như nhau cho thành viên cuối
cùng của Hội đồng quản trị hoặc Ban kiểm soát thì sẽ tiến hành bầu lại trong số
các ứng cử viên có số phiếu bầu ngang nhau hoặc lựa chọn theo tiêu chí quy chế
bầu cử hoặc Điều lệ công ty.”
-

Quyền của cổ đông được cung cấp thông tin liên quan đến hoạt động của công ty
Đây là một trong những quyền cơ bản, quan trọng của cổ đông trong công
ty cổ phần có quy định tại các điểm đ, e Khoản 1 Điều 114 Luật Doanh nghiệp
2014. Tuy nhiên đối với các thông tin quan trọng về Báo cáo tài chính giữa năm
và hằng năm, biên bản, nghị quyết của HĐQT, báo cáo của Ban kiểm soát, thì
pháp luật yêu cầu chỉ có cổ đông sở hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên
mới được thực hiện. Tuy nhiên để bảo vệ quyền của cổ đông thiểu số, pháp luật

cũng cho phép các cổ đông thiểu số lập nhóm cổ đông để thực hiện quyền dược
cung cấp thông tin thông qua đại diện của mình. Từ đó, nắm bắt được thông tin về
hoạt động của công ty, có thêm hiểu biết về các giao dịch của những người quản
lí, tăng khả năng phát hiện kịp thời cũng như phòng tránh các giao dịch tư lợi
trong công ty.
-

Quyền khởi kiện

Trước đây, Luật Doanh nghiệp 2005 cũng trao quyền khởi kiện Hội đồng
quản trị, Giám đốc hoặc Tổng giám đốc cho cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu tối
thiếu 1% cổ phần liên tục trong 6 tháng. Tuy nhiên, họ không được trực tiếp khởi
kiện ngay từ đầu mà phải thông qua BKS. Ban kiểm soát sẽ khởi kiện theo yêu
cầu của cổ đông, nhóm cổ đông này. Luật Doanh nghiệp 2014 quy định quyền
trực tiếp khởi kiện các chức danh quản lý của cổ đông, nhóm cổ đông này ngay từ
ban đầu mà không phải thông qua BKS. Cụ thể, cổ đông, nhóm cổ đông có quyền
tự mình khởi kiện hoặc nhân danh công ty để khởi kiện Hội đồng quản trị, Giám
đốc hoặc Tổng giám đốc. Ngoài ra, đáng chú ý là chi phí khởi kiện trong trường
hợp cổ đông, nhóm cổ đông khởi kiện nhân danh công ty sẽ tính vào chi phí của


công ty. Điều này sẽ tạo điều kiện cho cổ đông thiểu số bảo vệ quyền và lợi ích
hợp pháp của mình nhanh chóng hơn trước những giao dịch tư lợi được thực hiện
bởi các thành viên trong công ty.
2.3. Thực trạng về kiểm soát giao dịch tư lợi trong công ty cổ phần

Có thể nói, những quy định của pháp luật nước ta về kiểm soát các giao
dịch có khả năng tư lợi trong công ty cổ phần đã phần nào phù hợp với các thông
lệ quốc tế tốt. Pháp luật nước ta đã có sự học hỏi kinh nghiệm của của các quốc
gia khác trên thế giới. Nhìn chung, khung quản trị công ty ở nước ta được hình

thành với đầy đủ các yếu tố cấu thành theo như thông lệ phổ biến về quản trị
doanh nghiệp. Quyền của các cổ đông đã được quy định tương đối đầy đủ, cụ thể.
Vai trò, chức năng, nhiệm vụ và thẩm quyền của từng cơ quan trong cơ cấu quản
trị nội bộ công ty cổ phần đã được quy định tương đối rõ ràng. Vấn đề về giao
dịch với các bên có liên quan và cơ chế kiểm soát các bên có liên quan cũng đã
được quan tâm, quy định và áp dụng. Tuy nhiên trong quá trình áp dụng pháp luật
vẫn còn một số vướng mắc và một số thực trạng của việc kiểm soát các giao dịch
có khả năng tư lợi trong công ty cổ phần.

Thứ nhất, việc xây dựng và cơ chế đánh giá hoạt động của người quản lý
Về điều kiện và tiêu chuẩn của người quản lý công ty cổ phần đã được pháp
luật quy định, cụ thể là luật doanh nghiệp 2014. Mặc dù, pháp luật đã đưa ra
những điều kiện, tiêu chuẩn của người quản lý từ Chủ tịch HĐQT, thành viên
HĐQT, GĐ (TGĐ), cá nhân giữ chức danh quản lý khác có thẩm quyền nhân danh
công ty ký kết giao dịch…( như Điều 151, 157,..). Tuy nhiên quy trình lựa chọn
thành viên HĐQT chưa được xây dựng, cơ chế đánh giá hiệu quả hoạt động của
những người quản lý (đặc biệt là những người đại diện trong công ty) bị lãng quên
trong các công ty cổ phần hiện nay. Vì vậy mà những vi phạm của người quản lý
trong công ty về giao kết các hợp đồng tư lợi khó phát hiện hoặc phát hiện không
kịp thời.


Ngoài ra, một thực tế hiện nay là các công ty cổ phần vẫn
đang thực hiện chế độ kiêm nhiệm, nghĩa là Chủ tịch HĐQT đồng thời là Giám
đốc, Tổng giám đốc. Đối với các công ty cổ phần nhà nước còn tồn tại chế độ
kiêm nhiệm chức năng quản lý nhà nước. Và người đại diện cho cổ đông nhà nước
vừa hành xử như một nhà đầu
tư, vừa có tính chất của một cơ quan hành chính nhà nước. Như thế chúng ta có
thể thấy nguy cơ lạm dụng quyền lực sẽ rất cao.
Thứ hai, thực trạng về công khai thông tin trong công ty cổ phần

Nhiều công ty cổ phần công bố thông tin với mức độ và hình thức khác
nhau, nhưng chủ yếu thông qua các cách thức thông tin nội bộ hoặc chế độ báo
cáo với người quản lý. Các bên liên quan, cơ quan quản lý nhà nước không dễ tiếp
cận với các thông tin chính sách thù lao cho HĐQT và các cán bộ quản lý cấp cao,
thông tin về thành viên HĐQT; giao dịch với các bên có liên quan; các yếu tố rủi
ro có thể tiên liệu; các vấn đề liên quan đến người lao động và các bên có quyền
lợi liên quan; cơ cấu chính sách quản trị…Mặc dù hiện nay pháp luật Việt Nam đã
dần dần quy định về quyền được thông tin của các cổ đông nói chung và cổ đông
thiểu số nói riêng trong công ty, đây là bước đầu cho sự tiến bộ.
Về nội dung thông tin công bố, nhìn chung các công ty chưa đảm bảo công
bố thông tin kịp thời, chính xác và dễ tiếp cận về các vấn đề thực tiễn liên quan
đến công ty bao gồm: tình hình tài chính, tình hình hoạt động, sở hữu và quản trị
công ty. Những nội dung thông tin được công bố với tỷ lệ cao theo kết quả điều
tra là những thông tin tối thiểu mà pháp luật bắt buộc phải công bố như: mục tiêu
và chính sách thực hiện mục tiêu của doanh nghiệp, báo cáo kiểm toán độc lập,
báo cáo tài chính năm. Những thông tin cần thiết cho cải thiện quản trị doanh
nghiệp mà đòi hỏi doanh nghiệp phải tự nỗ lực và chủ động công bố (như chính
sách quản lý rủi ro; các giao dịch với người có liên quan, lương thưởng của cán bộ
quản lý cao cấp, giao dịch nội bộ…) thì tỷ lệ doanh nghiệp thực hiện là không
cao. Dẫn đến nhiều trường hợp các cổ đông lớn, những người điều hành công ty


tạo những giao dịch mà mang lại lợi ích cho một nhóm cá nhân nhiều hơn lợi ích
toàn công ty mà những việc đó các cổ đông khác không biết được. Do đó, với
những ý nêu trên thì những cổ đông thiểu số, những người thấp cổ bé họng chịu
thiệt thòi về vấn đề thông tin trong công ty sẽ ảnh hưởng lợi ích trực tiếp của
chính họ.
Thứ ba, quyền của các cổ đông không được bảo đảm thực hiện
Trong các công ty cổ phần, cổ đông có các quyền theo pháp luật quy định,
tuy nhiên, phần lớn các quyền này được thực hiện tại Đại hội đồng cổ đông. Do

đó, các quyền của một số cổ đông có được bảo vệ hay không là phụ thuộc vào
việc họ có cơ hội và điều kiện để tham gia và quyết định tại Đại hội đồng cổ đông
hay không. Điều này được thể hiện qua các chỉ tiêu như điều kiện về tỷ lệ cổ
phần, thời gian nắm giữ liên tục để được dự họp ĐHĐCĐ, phương tiện mời họp,
thời gian mời họp, thông tin về cuộc họp… Có những công ty cổ đông lớn cố ý
tham gia biểu quyết các hợp đồng, giao dịch của công ty với người có quyền và
lợi ích liên quan của họ trong khi luật không cho phép tham gia biểu quyết.
Thứ tư, xem xét về nghĩa vụ của người quản lý
Như đã phân tích ở điểm thứ nhất, việc xác định nghĩa vụ của người quản lý
đóng vai trò vô cùng quan trọng trong kiểm soát các giao dịch có khả năng tư lợi.
Cụ thể tại điều 160 của Luật Doanh Nghiệp về trách nhiệm của người quản lý.
Nhưng thực trạng hiện nay vấn đề vi phạm nghĩa vụ của người quản lý diễn ra phổ
biến trong các công ty cổ phần, gây khó khăn đối với hoạt động kiểm soát các
giao dịch tư lợi. Từ việc khai báo thông tin không đầy đủ rõ ràng, đến hành xử
thiếu thận trong trong quá trình quản lý, điều hành công ty và việc lạm dụng chức
vụ quyền hạn để tư lợi riêng. Không hiếm các vị lãnh đạo trong công ty tiến hành
các giao dịch để tư lợi riêng hay có những doanh nghiệp “vệ tinh”phục vụ lợi ích
của công ty thì ít nhưng phục vụ cho cá nhân và gia đình thì nhiều.
Thứ năm, giám sát chưa thực sự hiệu quả


Kiểm soát nội bộ là cấu thành quan trọng và là điểm mấu chốt trong cải
thiện quản trị công ty cổ phần. Tuy nhiên, thực tế cho thấy, hiệu quả hoạt động của
BKS còn yếu kém. Theo thông lệ quản trị doanh nghiệp quốc tế, chức năng chủ
yếu của Ban kiểm soát hay kiểm soát viên là bảo vệ lợi ích của chủ sở hữu của cổ
đông công ty; giám sát các hoạt động của HĐQT, GĐ (TGĐ) trong thực hiện
nhiệm vụ do chủ sở hữu và các cổ đông giao. Trên thực tế, hoạt động của Ban
kiểm soát, kiểm soát viên có sự lệch hướng: Ban kiểm soát và kiểm soát viên chủ
yếu thực hiện kiểm soát hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung của doanh
nghiệp và kiểm soát hoạt động tài chính. Tại Việt Nam, các cơ quan nhà nước,

hoặc các bên thứ ba thường thì quan tâm đến người nào là đại diện theo pháp luật
của công ty chứ ít khi quan tâm ai là thành viên hoặc trưởng BKS của công ty.
Nói chung, Kiểm soát nội bộ còn hình thức và kém hiệu quả, đặc biệt là đối
với các công ty cổ phần phi đại chúng.
Từ khi Luật Doanh Nghiệp 2014 có hiệu lực đã cho phép thêm một mô hình
cơ cấu tổ chức công ty cổ phần là công ty không có Ban Kiểm Soát mà thành viên
HĐQT ít nhất 20% số thành viên HĐQT độc lập. Các thành viên độc lập thực hiện
chức năng giám sát và tổ chức kiểm soát đối với việc quản lý công ty. Tuy vậy,
hiệu quả thu lại từ quy định đổi mới này cũng chư thật sự nổi bật.
3. Những bất cập pháp luật còn tồn tại và giải pháp góp phần kiểm

soát giao dịch tư lợi và bảo vệ cổ đông thiểu số.
Thấy rằng việc kiểm soát giao dịch tư lợi trong doanh nghiệp nói chung và
trong công ty cổ phần nói riêng có vai trò vô cùng quan trọng. Kiểm soát tốt
không chỉ đảm bảo được quyền lợi cho các nhà đầu tư tốt hơn, cho cổ đông công
ty tốt hơn, đặc biệt là những cổ đông thiểu số mà còn gớp phần tạo dựng, phát
triển nên một môi trường kinh doanh lành mạnh, công bằng.
Giữa kiểm soát giao dịch tư lợi trong công ty và bảo vệ cổ đông thiểu số có
mối quan hệ tương hỗ với nhau. Bởi lẽ khi giao dịch tư lợi được kiểm soát hiệu


quả thì quyền lợi của cổ đông thiểu số sẽ được đảm bảo hơn và ngược lại, khi cổ
đông bảo vệ được quyền lợi cho mình cũng tức là lúc này họ đã có nền tảng, chỗ
dựa để từ đó có thể góp phần vào việc kiểm soát giao dịch tư lợi. Tuy nhiên có thể
thấy các giao dịch tư lợi đang ngay càng được thực hiện với những thủ đoạn tinh
vi hơn và việc phát hiện không hề đơn giản. Các quy định của pháp luật hiện nay
đã góp phần rất lớn trong việc tạo ra cơ chế để kiểm soát các giao dịch này nhưng
dường như vẫn còn những điểm hạn chế, nên chăng cần khắc phục.
Thứ nhất, như đã trình bày ở trên thì pháp luật đã có những quy định để
hạn chế phần nào khả năng thực hiện các giao dịch tư lợi để thông qua đó bảo vệ

quyền lợi của cổ đông thiểu số như quy định về những giao dịch nào phải được
đại hội đồng cổ đông thông qua, hội đồng quản trị thông qua…
Tuy nhiên, một vấn đề là thành viên hội đồng quản trị đa phần là những cổ
đông lớn, những cổ đông nắm quyền lực trong công ty. Vậy khi triệu tập họp
ĐHĐCĐ để thông qua các hợp đồng chẳng hạn thì có trường hợp chỉ cần sự biểu
quyết thông qua của những cổ đông này là đã đủ điều kiện để hợp đồng đó được
triển khai trên thực tế. Mặc dù các cổ đông thiểu số cũng được tham gia cuộc họp,
được biểu quyết, được cung cấp các thông tin về giao dịch nhưng tiếng nói thực
sự của họ nằm ở đâu?
Liên quan về quyền yêu cầu huỷ nghị quyết, tại Điều 147 Luật Doanh
nghiệp 2014 dường như chỉ giới hạn quyền cho cổ đông hoặc nhóm cổ đông sở
hữu từ 10% tổng số cổ phần phổ thông trở lên trong thời hạn liên tục ít nhất 06
tháng hoặc tỷ lệ khác nhỏ hơn quy định tại Điều lệ công ty. Như vậy, giả sử số cổ
phần dưới 10% thì những cổ đông đó lại không đủ điều kiện để thực hiện quyền
này.
Tiếp theo nữa, cổ đông sở hữu ít hơn 10% tổng số cổ phần phổ thông chỉ có
quyền xem xét, tra cứu, trích lục các thông tin trong danh sách cổ đông có quyền
biểu quyết; điều lệ công ty, biên bản họp ĐHĐCĐ, các nghị quyết của ĐHĐCĐ..


còn với các nghị quyết của HĐQT, báo cáo tài chinh giữa năm, hàng năm thì lại
không được xem xét trong khi số lượng các giao dịch thuộc thẩm quyền thông qua
của HĐQT là tương đối lớn.
Do đó, giải pháp cho vấn đề này là : cần mở rộng phạm vi quyền cho cổ
đông thiểu số trong việc tiếp cận thông tin cụ thể là quyền xem xét, trích lục các
nghị quyết của HĐQT, các báo cáo tài chinh của công ty. Đồng thời cũng quy định
rõ cách thức để các cổ đông thiểu số thực hiện quyền này. Đảm bảo cho các cổ
đông nắm bắt được tinh hình hoạt động của công ty, phát hiện kịp thời những sai
phạm, kiểm soát được các giao dịch tư lợi, thông qua đó góp phần bảo vệ quyền
lợi chính đang của mình.

Thứ hai, theo quy định của pháp luật hiện hành thì chưa có một khái niệm
cụ thể, rõ ràng về giao dịch tư lợi cũng như những giao dịch nào là thuộc giao
dịch tư lợi. Những quy định hiện nay còn mang tính chung chung, phạm vi quy
định còn hẹp. Vậy với trường hợp những giao dịch đơn phương như cho giãn
nợ… hay “tặng quà” cho đối tác kinh doanh thì có khả năng là giao dịch tư lợi hay
không?
Thực tế cho thấy rằng, có khá nhiều trường hợp những người nắm quyền quản lý
công ty lợi dụng việc này để hòng tư lợi cho bản thân và hoạch toán những chi phí
đó vào chi phí của công ty.
Vì vậy, cần bổ sung chế định riêng, cụ thể về giao dịch tư lợi trong đó quy
định rõ ràng về khái niệm, đối tượng giao dịch tư lợi, kiểm soát giao dịch tư lợi…
cùng với các vấn đề khác có liên quan vừa góp phần đảm bảo cho việc quản trị từ
phía công ty đối với các giao dịch tư lợi cũng như giúp cho các cổ đông có cơ chế
rõ ràng để tự bảo vệ quyền lợi của minh.
Thứ ba, các chế tài để xử lý trường hợp “giao dịch tư lợi” theo quy định
của pháp luật doanh nghiệp hiện hành còn chưa đủ sức răn đe. Theo như quy định
tại Khoản 4 Điều 162 Luật doanh nghiệp 2014 thì “người ký kết hợp đồng, cổ


đông, thành viên Hội đồng quản trị hoặc Giám đốc hoặc Tổng giám đốc có liên
quan phải liên đới bồi thường thiệt hại phát sinh, hoàn trả cho công ty các khoản
lợi thu được từ việc thực hiện hợp đồng, giao dịch đó”. Ngoài ra, từ quy định này
thấy rằng chưa có quy định cụ thể về việc bồi thường thiệt hại cho cổ đông, đặc
biệt là với những cổ đông thiểu số mà mới chỉ dừng ở quy định là bồi thường cho
công ty.
Vậy nên, chế tài cần phải nghiêm khắc hơn, quy kết rõ lỗi, trách nhiệm của
từng chủ thể. Bên cạnh việc bồi thường thiệt hại là đương nhiên thì cần bổ sung
các chế tài xử lý khác.
Thứ tư, Luật Doanh nghiệp 2014 đã có điểm khá tích cực so với Luật
Doanh nghiệp 2005 là xây dựng nên hai mô hình tổ chức của công ty cổ phần,

trong đó có mô hình gồm ĐHĐCĐ, HĐQT, GĐ hoặc TGĐ và trong đó, ít nhất
20% số thành viên HĐQT phải là thành viên độc lập. Quy định này nhằm góp
phần nâng cao tính độc lập của HĐQT, tuy nhiên việc bổ nhiệm cũng như giám sát
việc bổ nhiệm các thành viên này như thế nào thì trong Luật vẫn chưa được quy
định rõ.
Vì vậy, cần thiết phải có quy định về việc công bố thông tin đầy đủ về các
thành viên độc lập, song song với việc công bố thông tin thì cũng cần kiểm tra
một cách cẩn trọng trước khi trình ĐHĐCĐ phê duyệt và bổ nhiệm, tránh việc bổ
nhiệm các thành viên độc lập chỉ là hình thức. Điều đó sẽ góp phần đảm bảo tính
độc lập này phát huy được hiệu quả trên thực tế, qua đó góp phần kiểm soát các
giao dịch tư lợi một cách hiệu quả hơn, bảo vệ quyền lợi không chỉ cho riêng cổ
đông thiểu số mà còn của các cổ đôn khác trong công ty.
Thứ năm, pháp luật doanh nghiệp hiện hành mới có quy định về quyền
khởi kiện đối với thành viên HĐQT, giám đốc, tổng giám đốc công ty tại Điều 161
Luật Doanh nghiệp 2014 mà chưa có quy định về khởi kiện đối với thành viên
Ban Kiểm soát. Pháp luật trao quyền cho Ban kiểm soát đó là giám sát nhưng


dường như lại chưa có cơ chế xử lý rõ ràng nếu Ban kiểm soát có những sai sót, vi
phạm nghiêm trọng trong quá trình thực hiện quyền hạn, nhiệm vụ của mình.
Trong khi,về vấn đề kiểm soát giao dịch tư lợi hay việc bảo vệ quyền lợi của cổ
đông thì vai trò của Ban kiểm soát là khá quan trọng. Quy định như hiện nay dễ
đẫn đến tư tưởng là kiểm soát được thì tốt, còn không thì chấp nhận đó là những
sai sót, rủi ro trong khi thực hiện.
Do đó, nên mở rộng quyền khởi kiện của cổ đông không chỉ với thành viên
HĐQT, giám đốc, tổng giám đốc mà với cả với thành viên ban kiểm soát. Đồng
thời có cơ chế quy kết trách nhiệm cụ thể đối với ban kiểm soát.
Thứ sáu, để kiểm soát tốt giao dịch tư lợi từ đó góp phần để các cổ đông
thiểu số được bảo vệ quyền lợi chính đáng thì vai trò của cơ quan nhà nước là
không thể thiếu. Cơ quan nhà nước cũng phải thật minh bạch, tận tâm, xây dựng

được cách thức giám sát, kiểm tra hiệu quả. Sự giám sát, kiểm tra, thanh tra một
cách sát sao, xử lý nhiêm khắc sai phạm của cơ quan nhà nước sẽ phần nào giúp
hạn chế những giao dịch này.
Thứ bảy, công tác quản trị, kiểm soát nội bộ trong công ty cần phải được
nâng cao. Đặc biệt là BKS cần có ý thức trách nhiệm hơn về nhiệm vụ của mình
và thực hiện nghiêm túc. Cần xác định rõ mục tiêu kiểm soát, đối tượng kiểm soát
ở đây là gì. Bên cạnh những quy định trong văn bản pháp luật, trong công ty cần
có những quy chế nội bộ cụ thể, rõ rang, chế độ thưởng phạt ra sao, quy kết trách
nhiệm như thế nào….
Thứ tám, một giải pháp rất quan trọng đó là từ chính sự nỗ lực của các cổ
đông nói chung và các cổ đông thiểu số nói riêng, các cổ đông phải biết cách tận
dụng những quyền của mình để tự bảo vệ. Các cổ đông thiểu số cần phải biết liên
kết, tập hợp lại với nhau, tăng cường sự trao đổi thông tin để cùng bảo vệ nhau,
ngăn chặn những sự xâm phạm tới quyền của mình, ngăn chặn kịp thời những
giao dịch tư lợi, đảm bảo rằng họ cũng là những người chủ thực sự của công ty.


C.

PHẦN KẾT LUẬN

Trong bất kỳ thời đại nào, một quốc gia muốn phát triển nền kinh tế thì cần phải
thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn nhàn rỗi từ người dân và nguồn vốn
đầu tư từ nước ngoài. Tuy nhiên, để huy động được các nguồn vốn từ các nhà đầu
tư, thì chúng ta cần phải đặt ra các cơ chế pháp lý để bảo vệ họ, đảm bảo quyền,
lợi ích chính đáng mà họ thu được từ hoạt động đầu tư. Một khi quyền lợi của các
cổ đông không được đảm bảo, thì họ sẽ không đầu tư hoặc lựa chọn các lĩnh vực
đầu tư khác an toàn và hiệu quả hơn như gửi tiết kiệm ở ngân hàng, hoặc cũng có
thể mang tiền đi đầu tư ở những nơi có cơ chế bảo vệ nhà đầu tư tốt hơn.
Như vậy, việc bảo vệ cổ đông thiểu số mang nhiều ý nghĩa dưới nhiều góc độ

khác nhau, nhưng đầu tiên phải kể đến mục tiêu nhằm khuyến khích các cổ đông
thiểu số bỏ tiền ra kinh doanh. Các cổ đông lớn, dù với số vốn lớn đủ để họ mang
lại lợi nhuận cao cho chính họ và đóng góp quan trọng trong nền kinh tế, nhưng
thực tế đã chứng minh họ không phải là số đông đủ để giúp nền kình tế vận hành
và phát triển một cách tốt nhất nếu như không có sự đồng lòng, sát cánh của
những cổ đông thiểu số dù ít tiền nhưng luôn chiếm số đông.
Chính vì các lẽ đó , kiểm soát giao dịch có khả năng tư lợi là một trong những nội
dung pháp lý cần thiết trong tổ chức và quản lý công ty cổ phần. Với ý nghĩa quan
trọng để bảo vệ quyền và lợi ích của các nhà đầu tư, người có quyền lợi liên quan,
công ty, nhà nước cũng như vai trò tạo ra môi trường kinh doanh lành mạnh, kiểm
soát giao dịch có khả năng tư lợi đã trở thành một đề tài nóng hiện nay. Đặc biệt là
vấn đề giao dịch tư lợi trong thời gian qua ở nước ta đã và đang diễn ra rất phức
tạp gây ra những hậu quả nghiêm trọng.


×