Tải bản đầy đủ (.doc) (46 trang)

DE CUONG MON DANG CONG SAN VIET NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (322.56 KB, 46 trang )

ĐỀ CƯƠNG THẢO LUẬN
MÔN NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
Câu 1: Đảng Cộng
sản Việt Nam ra
lời (3/2/1930) là
tất yếu của lịch sử
Việt Nam thời
Pháp thuộc? Vì
sao Việt Nam
không chấp nhận
đa nguyên, đa
đảng?
Nội dung:
+ Tình hình thế
giới, trong nước
tác động đến sự ra
đời của Đảng
CSVN.
+ Sự ra đời của
các phong trào
yêu
nước
=>
nguyên nhân và
kết quả thất bại
+ Vai trò của
Nguyễn Ái Quốc
trong việc thành
lập Đảng CSVN

Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời năm 1930 là sản phẩm của những điều kiện khách quan và chủ quan của cuộc đấu tranh


dân tộc và giai cấp ở Việt Nam trong thời đại mới. Đó cũng là kết quả của quá trình lựa chọn con đường cứu nước, giải
phóng dân tộc; là sự tích cục chuẩn bị về tư tưởng, chính trị và tổ chức của một tập thể chiến sỹ cách mạng mà người có
công đầu là Nguyễn Ái Quốc – Hồ Chí Minh.
A.

Đảng cộng sản Việt Nam ra đời là một tất yếu khách quan

1. Bối cảnh TG và trong nước tác động đến xã hội VN những năm cuối thế kỷ 19 đầu thế kỷ 20.
a. Những tác động của tình hình TG
Cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, CNTB đã chuyển từ giai đoạn tự do cạnh tranh sang giai đoạn độc quyền (CNĐQ)
tiến hành chiến tranh xâm lược và áp bức các dân tộc thuộc địa (VN có tài nguyên phong phú, vị trí chiến lược quan trọng
nên là tầm ngắm của CNĐQ). Lúc bấy giờ diễn ra 3 mâu thuẫn chính là mâu thuẫn giữa giai cấp vô sản với giai cấp tư sản,
mâu thuẫn giữa những nước đế quốc già (Anh, Pháp..) và những nước đế quốc trẻ (Đức, Nhật…), mâu thuẫn giữa các dân
tộc thuộc địa và CNĐQ ngày càng gay gắt. Trong đó, mâu thuẫn giữa CNĐQ với nhân dân thuộc địa là mâu thuẫn lớn nhất
và có tính chất thời đại, do đó vấn đề chống ĐQ giải phóng dân tộc là một vấn đề cấp thiết và chỉ có Đảng của gia cấp vô
sản mới thực hiện được sứ mệnh lịch sử này.
Năm 1917 CMT10 Nga thắng lợi đã làm biến đổi sâu sắc tình hình thế giới. Thắng lợi của CMT10 đã biến học
thuyết Mác thành hiện thực, khẳng định vai trò lãnh đạo của Đảng vô sản đối với phong trào đấu tranh giải phóng dân tộc,
là một tấm gương sáng đối với các quốc gia bị bóc lột trong đó có VN, từ đó cổ vũ phong trào đấu tranh cách mạng của
giai cấp vô sản trên toàn thế giới, mở ra một thời đại mới với mô hình cách mạng mới là mô hình cách mạng vô sản. Chính
vì những nguyên nhân này đòi hỏi CMVN phải có Đảng Cộng Sản để lãnh đạo CMVN.
Tháng 3/1919 QTCS thành lập đã tạo tiền đề và điều kiện cơ bản thúc đẩy phong trào cách mạng thế giới (vạch ra
cương lĩnh chính trị, phương hướng đấu tranh giải phóng các dân tộc thuộc địa trên lập trường cách mạng vô sản; vạch ra
cương lĩnh, đường lối đấu tranh của CMVN; truyền bá chủ nghĩa Mác-Lênin vào VN, đào tạo đội ngũ cán bộ cốt cán của
CMVN như Nguyễn Ái Quốc, Trần Phú, Lê Hồng Phong …) tạo tiền đề quan trọng cho quá trình thành lập Đảng cách
mạng của VN.
1


b. Đòi hỏi từ lịch sử xã hội Việt Nam : Quá trình xâm lược, cai trị của thực dân Pháp và tác động của nó đối với xã hội

VN
Năm 1858 TDP xâm lược VN, năm 1884 VN trở thành thuộc địa của Pháp. Pháp thực hiện chính sách bóc lột, cai
trị với VN trên các mặt kinh tế, chính trị, văn hóa.
Trong xả hội VN hiện tồn tại 2 mâu thuẫn cơ bản: mâu thuẫn dân tộc (mâu thuẫn giữa dân tộc VN và TD Pháp) và
mâu thuẫn giai cấp (mâu thuẫn giữa nông dân và địa chủ).
Tính chất xã hội VN thay đổi từ xã hội phong kiến độc lập sang xã hội thuộc địa nửa phong kiến nên xã hội VN có
sự phân hóa sâu sắc, xuất hiện nhiều giai cấp mới (địa chủ, nông dân, tiểu tư sản, tư sản, công nhân)
Ngoài những đặc điểm chung của giai cấp công nhân quốc tế, giai cấp công nhân Việt Nam còn có những đặc điểm
riêng:
+Giai cấp công nhân VN tuy ra đời muộn và chiếm 1 tỷ lệ ít trong thành phần dân cư, nhưng do kế thừa được
truyền thống đấu tranh anh dũng kiên cười của dân tộc mà giai cấp công nhân nước ta luôn tỏ rõ là một giai cấp kiên
cường, bất khuất.
+ Giai cấp công nhân VN ra đời trong nỗi nhục mất nước cộng với nỗi khổ vì 3 tầng ách áp bức bóc lột của giai
cấp tư sản, thực dân và địa chủ làm cho lợi ích giai cấp và lợi ích dân tộc kết hợp làm 1, khiến động cơ cách mạng, nghị
lực cách mạng và tính triệt để của CM của giai cấp công nhân được nhân lên gấp bội.
+ Giai cấp công nhân VN ra đời trước giai cấp tư sản VN, lại có Đảng lãnh đạo nên luôn giữ được sự đoàn kết
thống nhất và giữ vững vai trò lãnh đạo của mình
+ Giai cấp công nhân VN đa số xuất thân từ nông dân, có mối liên hệ máu thịt với nông dân. Đó là điều kiện hết
sức thuận lợi để thực hiện sự liên minh giai cấp, trước hết là đối với giai cấp nông dân. Ngày nay, trong quá trình công
nghiệp hóa, hiện đại hóa nông thôn, sẽ có nhiều người nông dân làm việc ở các cơ sở công nghiệp và trở thành công nhân
ở chính ngay quê hương mình…
Tuy nhiên số lượng công nhân nước ta còn ít, trình độ văn hóa, tay nghề, khoa học kỹ thuật còn thấp, cách thức làm
việc có nơi, có chỗ còn tỏ ra tùy tiện, manh mún. Do vậy để đảm đương được sứ mệnh lịch sử của mình, một trong những
điều kiện quan trọng là giai cấp công nhân VN phải liên minh được với giai cấp nông dân, tầng lớp trí thức và các tầng lớp
nhân dân khác.
2


Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng VN nhưng khi chưa có Đảng thì giai cấp này không thể thực
hiện sứ mệnh lịch sử giải phóng dân tộc nên cần thiết phải có sự hình thành Đảng Cộng Sản để đưa ra những đường lối

đúng đắn giúp giai cấp này thực hiện sứ mệnh của mình.
2. Các phong trào yêu nước trước khi có Đảng:
Các phong trào đấu tranh yêu nước hình thành để giải quyết hai mâu thuẫn cơ bản trong xã hội. Từ khi TD Pháp xâm
lược (1958) đến những năm 20 của thế kỷ XX, tiếp tục truyền thống yêu nước bất khuất, kiên cường chống giặc ngoại
xâm, các phong trào chống TD Pháp theo ý thức hệ PK (phong trào CẦn Vương, khởi nghĩa BA Đình, Bãi Sậy, Hương
Khê…) hay theo ý thức hệ tư tưởng tư sản (phong trào Đông Du, Duy TÂn) của nhân dân diễn ra rất sôi nổi và liên tục.
→ Các phong trào yêu nước trên đều biểu dương tinh thần yêu nước, bất khuất của dân tộc VN nhưng hầu hết đều thất bại
vì:

Các phong trào yêu nước từ các lập trường phong kiến đã thất bại là do không có đường lối đúng đắn vì giai cấp
phong kiến, địa chủ đã không còn khả năng dẫn dắt dân tộc thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc đến thắng lợi.

Các phong trào yêu nước theo khuynh hướng tư sản do đường lối chính trị không rõ ràng, nhất là không biết dựa
vào quần chúng nhân dân mà chủ yếu dựa vào uy tín cá nhân nên không tạo sức mạnh tổng hợp, không tạo ra được sự
thống nhất cao trong những người lãnh đạo phong trào, chính vì vậy nên khi người lãnh đạo bị bắt thì phong trào cũng tan
rã theo.
→ Thất bại của các phong trào yêu nước theo khuynh hướng phong kiến hay tư sản đã nói lên 1 sự thật: con đường cứu
nước của các phong trào CMVN đều rơi vào tình trạng bế tắc. XH VN lâm vào tình trạng khủng hoảng trầm trọng cả về
đường lối cứu nước và giai cấp lãnh đạo cách mạng vì thiếu một chính Đảng chân chính tổ chức và lãnh đạophong trào đấu
tranh cách mạng, thiếu 1 đường lối chính trị đúng đắn, chưa tập hợp được đông đảo quần chúng nhân nhân tham gia cách
mạng, chưa có phương pháp cách mạng khoa học ….
Xuất phát từ những thực tế đó đòi hỏi phải có 1 đường lối cách mạng đúng đắn và 1 tổ chức cách mạng có khả năng tập
hợp mọi tầng lớp nhân dân đưa phong trào yêu nước đi đến thắng lợi.
4. Vai trò của Nguyễn Ái Quốc trong quá trình thành lập ĐCSVN
*** Sinh ra trong một gia đình tri thức yêu nước, lớn lên từ một miền quê có truyền thống đấu tranh quật khởi, Nguyễn
Ái Quốc từ rất sớm đã có “chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng đồng bào”. Người rất khâm phục tinh thần yêu nước của các
3


bậc tiền bối như Phan Đình Phùng, Phan Bội Châu, Phan Châu Trinh… nhưng không tán thành con đường cứu nước của

các cụ. Xuất phát từ lòng yêu nước với khát vọng giải phóng dân tộc, cùng với thiên tài trí tuệ, nhãn quan chính trị sắc bén
và trên cơ sở rút kinh nghiệm thất bại của các thế hệ cách mạng tiền bối, ngày 5/6/1911, Nguyễn Ái Quốc đã quyết tâm ra
đi tìm con đường cứu nước mới hữu hiệu hơn.
*** Trên hành trình đi và tìm được con đường cứu nước NAQ đã đi qua 4 châu lục, 28 quốc gia và đã trải qua 12 nghề
để kiếm sống. Sự kiện đánh dấu bước ngoặt trong tư tưởng và lập trường chính trị của Nguyễn Ái Quốc trên cuộc hành
trình lao động, tìm kiếm, khảo nghiệm con đường cứu nước mới cho dân tộc diễn ra vào tháng 7/1920, NAQ được đọc bản
sơ thảo lần thứ nhất luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa của Lênin. Lý luận của Lênin và lập trường đúng
đắn của quốc tế cộng sản về cách mạng giải phóng các dân tộc thuộc địa đã giải đáp những vấn đề cơ bản và chỉ dẫn hướng
phát triển của sự nghiệp cứu nước, giải phóng dân tộc. NAQ tiếp tục học tập để bổ sung hoàn thiện tư tưởng cứu nước,
đồng thời tích cực truyền bá chủ nghĩa Mác -Lênin về VN nhằm chuẩn bị tiền đề về tư tưởng, chính trị và tổ chức cho sự ra
đời chính đảng tiên phong ở VN.
- Về tư tưởng: Truyền bá chủ nghĩa Mác –Lênin thông qua báo chí (tờ báo Le Paria - người cùng khổ với tác phẩm nổi
tiếng của NAQ là Bản án chế độ thực dân Pháp xuất bản năm 1925, Đường Kách Mệnh xuất bản năm 1927).
-Về chính trị:Đã hình thành 1 hệ thống luận điểm chính trị (gồm 5 luận điểm chính, sau này phát triển thành những nội
dung cơ bản trong cương lĩnh chính trị của Đảng). Hệ thống này có một số nội dung cơ bản sau:
+ Chỉ có giải phóng giai cấp vô sản thì mới giải phóng được dân tộc; cả 2 cuộc giải phóng này chỉ có thể là sự nghiệp của
chủ nghĩa cộng sản và của cách mạng thế giới.
+ Xác định cách mạng giải phóng dân tộc là 1 bộ phận của cách mạng vô sản thế giới. Cách mạng giải phóng dân tộc có
thể thành công trước cách mạng chính quốc, góp phần thúc đẩy cách mạng chính quốc.
+ Trong nước nông nghiệp lạc hậu, nông dân là lực lượng đông đảo nhất, bị đế quốc phong kiến áp bức bóc lột nặng nề, vì
vậy cần phải thu phục và lôi cuốn được nông dân, cần phải xây dựng khối công-nông làm động lực cách mạng.
+, Cách mạng muốn giành được thắng lợi, trước hết phải có đảng cách mạng nắm vai trò lãnh đạo. Đảng muốn vững phải
trang bị chủ nghĩa Mác-Lênin: trước hết phải có đảng cách mệnh, để trong thì vận động và tổ chức dân chúng, ngoài thì
liên lạc với dân tộc bị áp bức và giai cấp vô sản mọi nơi.
+ Cách mạng là sự nghiệp của quần chúng nhân dân. Cách mạng là việc chung của cả dân chúng chứ không phải là việc
4


của 1 người. Vì vậy cần phải hợp tác, giác ngộ và từng bước tổ chức quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao.
Những quan điểm đó được truyền bá qua hội VNCM thanh niên truyền bá trong nước làm cho quần chúng nhân dân và các

phong trào yêu nước VN chuyển biến mạnh mẽ.
-Về tổ chức:
Tháng 6/1925, thành lập Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên tại Quảng Châu (Trung Quốc). Sau khi thành lập,
Hội đã mở các lớp đào tạo, bồi dưỡng lý luận chủ nghĩa Mác – Lê nin cho những người trong tổ chức Hội Việt Nam Cách
mạng Thanh niên. Ngoài ra hội còn cử người đi học trường đại học Cộng sản Phương Đông (Liên Xô), trường Quân chính
Hoàng Phố (Trung Quốc). Để tuyên truyền Hội còn xuất bản tờ báo Thanh niên in bằng chữ quốc ngữ.
Từ đầu năm 1926, Hội Việt Nam Cách mạng Thanh niên đã bắt đầu phát triển cơ sở trong nước, đầu năm 1927 các kỳ bộ
được thành lập, ngoài ra còn chú trọng xây dựng cơ sở trong Việt Kiều ở Thái Lan.
Với không khí dâng lên cao mạnh mẽ của phong trào đấu tranh cách mạng, chỉ trong vòng 7 tháng (từ tháng 6/1929
đến tháng 1/1930), cả nước lần lượt đã ra đời ba tổ chức cộng sản. Đó là, Đông Dương Cộng sản Đảng (tháng 6/1929), An
Nam Cộng sản Đảng (tháng 10/1929) và Đông Dương Cộng sản liên đoàn (tháng 1/1930). Lúc này, việc thống nhất các tổ
chức cộng sản thành một Đảng Cộng sản duy nhất, đủ khả năng lãnh đạo phong trào cách mạng cả nước vừa là yêu cầu tất
yếu khách quan, vừa là chỉ thị của Quốc tế Cộng sản.
Từ cuối năm 1928 đến đầu năm 1929, phong trào dân tộc và dân chủ ở nước ta, đặc biệt là phong trào công nông theo con
đường cách mạng vô sản, đã phát triển mạnh mẽ. Trước tình hình đó, Hội Việt Nam cách mạng thanh niên không còn đủ
sức để lãnh đạo nữa. Cần phải thành lập một Đảng Cộng sản để tổ chức và lãnh đạo giai cấp công nhân, giai cấp nông dân
cùng các lực lượng yêu nước và cách mạng khác đấu tranh chống đế quốc và phong kiến tay sai, giành lấy độc lập và tự
do.
Từ ngày 3 đến ngày 7/2/1930, tại Hương Cảng, sau một thời gian ngắn gấp rút chuẩn bị, với tư cách là đại diện của
Quốc tế Cộng sản, Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị thống nhất các tổ chức cộng sản Việt Nam thành một tổ chức duy
nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản Việt Nam. Hội nghị đã thông qua Chính cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Điều lệ tóm tắt
của Đảng và Lời kêu gọi do Nguyễn Ái Quốc soạn thảo. Tất cả các tài liệu này được xem là Cương lĩnh chính trị đầu tiên
của Đảng ta. Nội dung Cương lĩnh chính trị đã nêu rõ đường lối chiến lược và sách lược phù hợp với tình hình thực tế của
cách mạng Việt Nam, đó là đấu tranh giành độc lập dân tộc, thực hiện mục tiêu người cày có ruộng và tiến lên chủ nghĩa

5


xã hội.
Kết luận: ĐCSVN ra đời là bước ngoặt quan trọng trong lịch sử CMVN. Sự kiện lịch sử vĩ đại ấy đã chấm dứt sự khủng

hoảng về đường lối cứu nước và tổ chức lãnh đạo phong trào yêu nước VN đầu thế kỷXX, đáp ứng khát vọng giải phóng
dân tộc của nhân dân VN, là nền tảng vững chắc cho dân tộc VN tiếp nối trên con đường độc lập dân tộc và CNXH.
ĐCSVN ra đời khẳng định được vai trò lãnh đạo của giai cấp Công nhân VN. ĐCSVN ra đời là sự kết hợp của chủ nghĩa
Mac – Lênin và phong trào yêu nước, phong trào công nhân VN.
B. Vì sao hiện nay Việt Nam không chấp nhận đa nguyên, đa đảng?
Nguyên: học thuyết, tư tưởng
Đa nguyên: đa học thuyết, đa tư tưởng.
- Lịch sử ở Việt Nam cũng có thời kỳ đa đảng. Năm 1946, ngoài Đảng Cộng sản còn có sự tồn tại của hai đảng đối lập
là Việt Nam Quốc dân Đảng, Việt Nam Cách mạng đồng minh hội, khi quân Tưởng Giới Thạch rút khỏi Việt Nam, hai
đảng đó cũng giải tán theo. Sau 1954, ngoài Đảng Cộng sản Việt Nam, còn tồn tại Đảng Dân chủ Việt Nam, Đảng Xã hội
Việt Nam. Cả hai đảng này đều thừa nhận vai trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam. Sau đó hai đảng này đã tuyên bố
tự giải tán và chỉ còn Đảng Cộng sản Việt Nam. Vai trò độc quyền lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam là một sản
phẩm tự nhiên, mang tính khách quan của lịch sử đất nước.
- Nhân dân Việt Nam đã thừa nhận Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng duy nhất lãnh đạo, không chấp nhận đa nguyên,
đa đảng. Đảng Cộng sản Việt Nam được nhân dân che chở, xây dựng. Nhân dân Việt Nam trìu mến gọi Đảng Cộng sản
Việt Nam là "Đảng ta". Bài học từ sự sụp đổ chế độ XHCN ở Liên Xô và Đông Âu còn nguyên giá trị. Từ khi chấp nhận
bỏ Điều 6, Hiến pháp Liên Xô, đã dẫn đến tình trạng xuất hiện đa đảng và hậu quả là Đảng Cộng sản Liên Xô mất quyền
lãnh đạo, chế độ XHCN ở Liên Xô sụp đổ. Các tầng lớp nhân dân Việt Nam nhận thức rõ hơn ai hết, nếu chấp nhận đa
đảng, chế độ XHCN sẽ sụp đổ, đất nước sẽ rối loạn, đời sống nhân dân cả vật chất và tinh thần rơi vào tay các thế lực
không trung thành với lợi ích của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc ta.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là đội tiên phong của giai cấp công nhân, đồng thời là đội tiên phong của nhân dân lao động
và của dân tộc Việt Nam; đại biểu trung thành lợi ích của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của dân tộc. Đảng
lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động, phát huy truyền
6


thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa trí tuệ của nhân loại, nắm vững quy luật khách quan, xu thế thời đại và thực tiễn
của đất nước để đề ra Cương lĩnh chính trị, đường lối cách mạng đúng đắn, phù hợp với nguyện vọng của nhân dân.
- Đảng là một tổ chức chặt chẽ, thống nhất ý chí và hành động, lấy tập trung dân chủ làm nguyên tắc tổ chức cơ bản,
thực hiện tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách, thương yêu đồng chí, kỷ luật nghiêm minh, đồng thời thực hiện các nguyên

tắc : tự phê bình và phê bình, đoàn kết trên cơ sở Cương lĩnh chính trị và Điều lệ Đảng, gắn bó mật thiết với nhân dân,
Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.
- Đảng Cộng sản Việt Nam là đảng cầm quyền, tôn trọng và phát huy quyền làm chủ của nhân dân, chịu sự giám sát
của nhân dân; dựa vào nhân dân để xây dựng Đảng; đoàn kết và lãnh đạo nhân dân tiến hành sự nghiệp cách mạng. Đảng
lãnh đạo hệ thống chính trị, đồng thời là một bộ phận của hệ thống ấy. Đảng lãnh đạo, tôn trọng và phát huy vai trò của
Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các đoàn thể chính trị - xã hội.
- Đảng kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế trong sáng của giai cấp công nhân, góp phần tích
cực vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội của nhân dân thế giới. Đảng Cộng sản Việt Nam
được xây dựng vững mạnh về chính trị, tư tưởng và tổ chức, thường xuyên tự đổi mới, tự chỉnh đốn, không ngừng nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên, sức chiến đấu và năng lực lãnh đạo cách mạng của Đảng.
- Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cách mạng Vn đã đạt được những thắng lợi to lớn như: CMT8 thành công, công cuộc giải
phóng dân tộc, thống nhất đất nước (chiến thắng Điện Biên Phủ, đại thắng mùa xuân…), thắng lợi trong công cuộc đổi mới
đất nước từ 1986 đến nay.
CÂu 2: Sự lãnh
A. Sự lãnh đạo của Đảng trong cao trào giải phóng dân tộc 1939 -1945:
đạo của Đảng
1. Bối cảnh lịch sử:
trong cao trào giải
phóng dân tộc
a. Tình hình thế giới:
1939 – 1945? Liên
Ngày 01/9/1939, Đức tấn công Ba Lan mở đầu cho cuộc chiến tranh thế giới thứ hai.
hệ thực tiễn sự
Ngày 3/9/1939, Anh, Pháp tuyên chiến với Đức, Pháp chính thức lâm chiến. Ngay sau khi chiến tranh bùng nổ, Mặt
lãnh đạo của
Đảng về thời cơ, trận nhân dân Pháp tan vỡ, Đảng cộng sản Pháp bị đặt ngoài vòng pháp luật.
thuận lợi của cách
 Cuộc chiến tranh TG thứ 2 không chỉ làm thay đổi cục diện chính trị trên TG mà còn tác động trực tiếp đến các
mạng VN hiện
nước thuộc địa và phụ thuộc, trong đó có Việt Nam.

nay?
b. Tình hình trong nước:
Nội dung:
7


+ Tình hình thế
giới, trong nước
+
Sử
chuyển
hướng và chỉ đạo
chiến lược của
Đảng
+ Sự chỉ đạo của
Đảng trong cao
trào kháng Nhật
cứu nước.
+ Tổng khởi nghĩa
tháng 8 năm 1945.
+ Liên hệ thực
tiễn

Ở Đông Dương, chính quyền thực dân Pháp ra lệnh cấm tuyên truyền cộng sản, giải tán các tổ chức chính trị và đóng
cửa các tờ báo tiến bộ, tiến hành khám xét và bắt giam hàng nghìn đảng viên Đảng cộng sản Đông Dương. Đồng thời,
chúng còn vơ vét, bóc lột nhân dân Đông Dương và ra lệnh tổng động viên nhằm bắt thanh niên Việt Nam đưa sang Pháp
tham gia chiến tranh.
 Những chính sách đó đã làm cho mâu thuẫn giữa nhân dân Việt Nam với thực dân Pháp lên cao và đòi hỏi Đảng
ta phải thay đổi sách lược đấu tranh cho phù hợp.
Ngày 22/9/1940, lợi dụng Pháp thua Đức, pháp xít Nhật đã tiến vào LẠng Sơn và đỗ bộ vào HẢi Phòng.

Ngày 23/9/1940, tại Hà Nội, Pháp kí hiệp định đầu hàng NHật, từ đó dân ta phải chịu cảnh “một cổ hai tròng” áp bức,
bóc lột của Pháp – Nhật
 Mâu thuẫn giữa dân tộc ta và chủ nghĩa ĐQ và pháp xít Nhật được đẩy thành cao trào và gay gắt hơn bao giờ hết.
2. Sự chuyển hướng và chỉ đạo chiến lược cách mạng của Đảng:
-

Đảng ta chuẩn bị về mặt đường lối thể hiện qua 3 hội nghị: HN TƯ VI, VII, VIII.
a. Hội nghị trung ương Đảng lần VI (11-1939)
Nội dung hội nghị:

 Nhận định kẻ thù: Kẻ thù chủ yếu trước mắt là bọn đế quốc phát xít Pháp Nhật.
 Xác định nhiệm vụ: Đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc lên hàng đầu và cấp bách của cách mạng Đông Dương lúc
này.
 Khẩu hiệu đấu tranh: Tạm gác khẩu hiệu “cách mạng ruộng đất”,thay bằng khẩu hiệu tịch thu ruộng đất của bọn đế
quốc,Việt gian chia cho dân cày.
 Mặt trận: Chủ trương thành lập Mặt trân dân tộc thống nhất phản đế Đông Dương nhằm tập hợp rộng rãi mọi tầng
lớp giai cấp, các dân tộc Đông Dương chỉ mũi nhọn của cách mạng vào kẻ thù chủ yếu trước mắt là chủ nghĩa đế quốc
phát xit.
 Hình thức và phương pháp đấu tranh: Dùng bạo lực cách mạng tức là đấu tranh chính trị với đấu tranh vũ trang,
khởi nghĩa vũ trang.
b. Hội nghị trung ương Đảng lần VII (11-1940):
Nội dung:
8


 Khẳng định chủ trương của hội nghị lần VI là hoàn toàn đúng đắn.
 Quyết định duy trì củng cố lực lượng du kích Bắc Sơn đồng thời đình chỉ cuộc khởi nghĩa Nam Kỳ.
 Hội nghị nhấn mạnh vấn đề khởi nghĩa vũ trang để giành chính quyền và coi đây là nội dung trung tâm từ đó đề ra
nhiệm vụ khởi nghĩa vũ trang giành chính quyền.
 Hội nghị xác định kẻ thù của nhân dân Đông Dương đó là phát xít Nhật.

 Ngày 13-1-1941 cuộc binh biến Đô Lương do đội Cung dẫn đầu nổ ra.
c. Hội nghị trung ương Đảng lần VIII (5-1941):
Nội dung:
 Phân tích diễn biến tình hình trong nước và thế giới từ đó đặt ra mâu thuẫn cấp bách cần giải quyết đó là mâu thuẫn
giữa nhân dân ta và đế quốc - phát xít Pháp - Nhật.
 Hội nghị tán thành chủ trương chuyển hướng chiến lược của Đảng trong 2 lần hội nghị trung ương VI và trung ương
VII.
 Hội nghị xác định nhiệm vụ giải phóng dân tộc là hàng đầu. Quyền lợi của bộ phận giai cấp đặt dưới sự sinh tử tồn
vong của dân tộc. Trong lúc này nếu không đòi tự do cho toàn thể thì quốc gia dân tộc mãi chịu kiếp trâu ngựa mà quyền
lợi giai cấp đến ngàn vạn năm cũng không đạt được.
 Thực hiện chủ trương tịch thu ruộng đất của Việt gian chia cho dân nghèo, thực hiện giảm tô, giảm tức chia lại
ruộng công tiến đến dân cày phải có ruộng.
 Hội nghị trung ương VIII chủ trương giải quyết vấn đề dân tộc ở Đông Dương trên cơ sở tôn trọng quyền dân tộc tự
quyết, từ đó thành lập Việt Nam Độc Lập Đồng Minh gọi tắt là Việt Minh. Hội bao gồm hội cứu quốc, các tổ chức trong
mặt trận Việt Minh đều có tên là Cứu Quốc.
 Chủ trương khởi nghĩa vũ trang và đồng thời khẳng định cách mạng ở Đông Dương kết thức bằng khởi nghĩa vũ
trang giành chính quyền.
 Hình thức khởi nghĩa từng phần tiến lên tổng khởi nghĩa giành chính quyền.
 Hội nghị chủ trương xây dựng Đảng gấp rút đào tạo cán bộ chuyên môn.
- Chuẩn bị về lực lượng: gồm lực lượng chính trị và lực lượng vũ trang
- Đảng lãnh đạo cao trào kháng Nhật cứu nước:

9-3-1945 quân đội Nhật đồng loại nổ súng lật đổ chính quyền Pháp ở Đông Dương.

Đảng đề ra chủ trương:
Nổi dậy từng phần
Tại chiến khu Việt Bắc, liên tỉnh ủy Cao–Bắc–Lạng quyết định nổi dậy cướp chính quyền ở những nơi đã đủ điều
9



kiện. Việt Nam Tuyên truyền Giải phóng quân và Cứu quốc quân phối hợp với nhân dân nổi dậy. Hàng loạt
các xã, tỉnh, châu thuộc các vùng Cao Bằng,Bắc Cạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Tuyên Quang đều bị Việt Minh chiếm giữ.
Tại Bắc Giang, nhiều xã thuộc vùng Thượng Yên Thế, Hữu Lũng, Bố Hạ, Hòa Hiệp v.v., quần chúng nổi dậy biểu
tình thị uy vũ trang, lập Ủy ban giải phóng. Việt Minh huy động hàng ngàn quần chúng kéo đi cướp vũ khí của lính đồn,
nhiều tri huyện, tri phủ phải bỏ chạy. Toàn bộ huyện Hiệp Hòa, một phần Yên Thế, Phú Bình đều do quân nổi dậy kiểm
soát.
Tại Bắc Ninh, sau đêm Nhật đảo chính Pháp, chi bộ Đảng của xã Trung Màu (Tiên Du) lãnh đạo quần chúng khởi
nghĩa lập chính quyền ở hai xã Trung Màu và Dương Hút. Trong tình hình đó, tỉnh ủy Bắc Ninh chủ trương đẩy mạnh
công tác tuyên truyền đưa phong trào quần chúng tiến lên. Do đó, chỉ trong tháng 3 và tháng 4, số hội viên Việt
Minh trong tỉnh đã tăng lên hàng vạn người.
Tại Hưng Yên, đêm 11-3–1945, đội dân quân - tự vệ và du kích địa phương đã đánh đồn Bần Yên Nhân, cướp được
toàn bộ vũ khí.
Hàng ngàn đảng viên cộng sản, cán bộ Việt Minh đang bị giam trong các nhà tù Nghĩa Lộ, Sơn La, Hỏa Lò (Hà
Nội), Buôn Ma Thuột, Hội An (Quảng Nam) v.v. nhân cơ hội Nhật–Pháp bắn nhau và tình hình hỗn loạn đã đấu tranh đòi
tự do, hoặc nổi dậy phá nhà lao, vượt ngục ra ngoài hoạt động.
Tại Quảng Ngãi, ngày 11–3–1945, những đảng viên, cán bộ cộng sản đang bị giam trong trại tập trung Ba Tơ, khi
nghe tin Nhật đảo chính Pháp, đã phá trại giam, cướp súng, thành lập đội du kích Ba Tơ. Đây là đội du kích đầu tiên
của miền Trung do Đảng Cộng sản Đông Dương tổ chức, lãnh đạo, trở thành lực lượng nòng cốt trong cuộc nổi dậy giành
chính quyền ở Quảng Ngãi và các tỉnh khác.
Tại Nam Kỳ, trong tháng 3 và tháng 4, chỉ thị của Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương chưa đến được, nhưng
một số địa phương có phong trào mạnh từ trước cũng có những hình thức đấu tranh chống lại nhiều quận trưởng, tỉnh
trưởng, như ở Mỹ Tho.[2]
Phá kho thóc cứu đói
Khi phong trào khởi nghĩa từng phần lên cao, cũng là lúc Bắc Kỳ, bắc Trung Kỳ, diễn ra nạn đói trầm trọng do chính
sách vơ vét, tích trữ lương thực của Nhật và Pháp. Để giải quyết nạn đói và thúc đẩy phong trào đi lên, Hội nghị Ban
thường vụ Trung ương quyết định tiến hành phá kho thóc, giải quyết nạn đói.
10


Tại Bắc Giang, Bắc Ninh, hàng ngàn quần chúng đi phá kho thóc của Nhật, Pháp; thu hàng ngàn tấn thóc chia cho

nông dân. Tại Vĩnh Yên, Phúc Yên, hàng chục kho thóc bị phá. Tại Phú Thọ trong một thời gian ngắn có 14 kho thóc bị
phá.
Tại Ninh Bình, ngày 15 – 3 quần chúng các huyện Nho Quan, Gia Viễn đã phá 12 kho thóc, thu hàng trăm tấn thóc
chia cho dân nghèo. Tại Thái Bình, trong tháng 3 và tháng 4, nhân dân các huyện Phụ Dực, Thư Trì, Tiền Hải, Vũ Tiên,
Tiên Hưng đã thu 1.000 tấn thóc chia cho dân.
Tại Hải Dương, nhân dân phá 39 kho thóc và lấy 43 thuyền gạo với 2.000 tấn. Riêng các huyện phía Nam đã phá 26
kho thóc, thu 26 thuyền với hơn 1.000 tấn gạo. Tại Hưng Yên, Hòn Gai, Hà Đông, Sơn Tây, người dân phá kho thóc, gạo
của Nhật.
Tại ngoại thành Hà Nội, người dân tiến hành phá các kho thóc, gạo của Nhật ở phố Bắc Ninh, phố Lê Lợi, Phà Đen,
thu hàng trăm tấn. Tại các tỉnh Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh, Quảng Bình cũng diễn ra nhiều cuộc phá kho thóc, cứu đói.
Phong trào phá kho thóc, cứu đói dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Đông Dương là một trong những hình thức tập
dượt quần chúng đấu tranh từ thấp đến cao, kết hợp đấu tranh kinh tế, chính trị, vũ trang, chuẩn bị cho Tổng khởi nghĩa.[2]
-

Tiếp tục tăng cường lực lượng vũ trang chuẩn bị cho tổng khở nghĩa.
Chuẩn bị về thời cơ và chớp thời cơ:

+Tháng 9 năm 1944, Đảng đã dự kiến rằng, mâu thuẫn Nhật - Pháp sẽ dẫn tới Nhật đảo chính lật đổ Pháp và
chỉ ra phương hướng hành động cho toàn Đảng.
+Tháng 10 năm 1944, Hồ Chí Minh gửi thư kêu gọi đồng bào toàn quốc chuẩn bị khởi nghĩa. Ngày 9 tháng 3
năm 1945, Nhật đảo chính Pháp, chiếm Đông Dương. Pháp nhanh chống đầu hàng, Ban Thường vụ Trung ương Đảng họp
từ ngày 9 tháng 3 năm 1945 đến ngày 10 tháng 3 năm 1945 đã đánh giá tình hình, ra chỉ thị: “Nhật, Pháp bắn nhau và hành
động của chúng ta”. Nội dung chủ yếu của bản Chỉ thị: Xác định kẻ thù chính, cụ thể, trước mắt và duy nhất của nhân dân
Đông Dương là phát xít Nhật. Phát động cao trào kháng Nhật, cứu nước mạnh mẽ làm tiền đề cho cuộc khởi nghĩa. Tuy
nhiên Đảng ta xác định, sự kiện Nhật đảo chính Pháp chỉ làm cho tình hình chính trị tại Đông Dương lâm vào khủng hoảng
chứ thời cơ cho khởi nghĩa chưa thật sự chín muồi.
+Tháng 8 năm 1945, tình thế cách mạng trực tiếp đã xuất hiện. Cuộc khủng hoảng chính trị ở Đông Dương đã
đến tột độ. Phe phát xít thua trận, phát xít Nhật đã đầu hàng đồng minh vô điều kiện. Chính phủ bù nhìn Trần Trọng Kim
11



hoang man cực độ. Đồng thời, ta đã xây dựng lực lượng cách mạng hùng hậu. Nhân dân ta không thể chịu đựng bị áp bức
được nữa. Quyết tâm chiến đấu để giành độc lập tự do cho dân tộc, không khí cách mạng sôi sục. Bên cạnh đó, cách mạng
phải chạy đua gấp rút với quân Anh, Mỹ trước khi chúng vào Đông Dương giải giáp quân phát xít, mượn danh nghĩa pháp
lý để chiếm nước ta. Trong tình hình đó, Hội nghị toàn quốc của Đảng họp từ ngày 13 đến ngày 15 tháng 8 năm 1945 tại
Tân Trào (Tuyên Quang). Sau khi phân tích những điều kiện chủ quan và khách quan đã chín muồi để cuộc tổng khởi
nghĩa có thể nổ ra và thắng lợi. Hội nghị quyết định: Đảng phải kịp thời phát động và lãnh đạo toàn dân tổng khởi nghĩa
giành chính quyền từ tay phátxít Nhật trước khi quân Đồng minh vào Đông Dương. Hồ Chí Minh đã kiên quyết khẳng
định: “Lúc này thời cơ thuận lợi đã tới, dù hi sinh tới đâu, dù phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải cương quyết
giành cho được độc lập”.
+Hưởng ứng sự lời kêu gọi của Đảng, nhân dân cả nước đã vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền từ tay phát
xít Nhật và chính quyền tay sai. Chỉ trong vòng 12 ngày, từ ngày 14 đến ngày 25 tháng 8 năm 1945, nhân dân ta đã giành
được chính quyền trong cả nước. Cách mạng Tháng Tám thành công rực rỡ.
+Như vậy, ta thấy rằng Đảng ta đã nhanh chóng chớp lấy thời cơ “Nghìn năm có một” để thực hiện thắng lợi
cuộc cách mạng. Thời cơ của Cách mạng Tháng Tám trực tiếp xuất hiện khi.
- Nhân dân ta không thể sống trong cảnh bị áp bức, bóc lột như thế được nữa. Ta xây dựng được một lực
lượng cách mạng hùng hậu, với ý chí quyết tâm cao độ “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”.
- Phát xít Nhật đầu hàng quân đồng minh.
- Chính phủ tay sai hoang mang cực độ, mất hết ý chí chiến đấu.
- Khi quân Đồng minh chưa kịp nhảy vào Đông Dương giải giáp quân phát xít.
+Những yếu tố trên kết hợp tạo thành điều kiện thuận lợi khiến cho thời cơ để nổ ra cuộc Cách mạng Tháng
Tám đã chín muồi. Đây là thời cơ “nghìn năm có một”, chỉ xuất hiện một lần trong lịch sử. Thời cơ không tự nhiên có mà
do chúng ta tác động nó, thúc đẩy nó ra đời. Trong suốt 15 năm Đảng ta luôn luôn chú trọng tới việc xây dựng lực lượng,
củng cố đội ngũ Đảng viên để làm nồng cốt cho cuộc cách mạng. Thực hiện tuyên truyền, giác ngộ vận động quần chúng
nhân dân dưới mọi hình thức, trên tất cả các mặt trận. Và khi thời cơ xuất hiện, đạt đến độ chín muồi, Đảng ta đã nhanh
chóng cướp lấy cơ hội này, phát động khởi nghĩa giành chính quyền. Thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, tuyên
bố với nhân dân Việt Nam và thế giới, công nhận nền độc lập của dân tộc Việt Nam, chặn đứng âm mưu xâm lược của kẻ

12



thù.
+Sự thành công của Cách mạng Tháng Tám là minh chứng hùng hồn cho nghệ thuật tạo thời cơ, chớp lấy thời
cơ, khởi nghĩa giành chính quyền của Đảng ta. Thể hiện sự lãnh đạo sáng suốt, tài tình của Đảng, dù lúc đó mới được 15
tuổi. Ngày nay, trong thời kỳ hội nhập quốc tế, Đảng ta cũng cần phải sáng suốt lãnh đạo nhân dân ta nhanh chóng chớp
lấy thời cơ, tạo thời cơ cho chính mình. Bằng việc đi tắt đón đầu, nhạy bén tiếp thu các thành tựu khoa học kỹ thuật,…để
tạo điều kiện phát triển toàn diện đất nước. Xây dựng một nước Việt Nam giàu mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đưa
nước ta tiến lên chủ nghĩa xã hội để xứng đáng với sự nghiệp mà cha ông ta đã dày công xây dựng
B. Liên hệ thực tiễn sự lãnh đạo của Đảng về thời cơ, thuận lợi của cách mạng VN hiện nay:
Trên thế giới: Hoà bình, hợp tác và phát triển vẫn là xu thế lớn, nhưng sẽ có những diễn biến phức tạp mới, tiềm
ẩn nhiều bất trắc khó lường. Những căng thẳng, xung đột tôn giáo, sắc tộc, ly khai, chiến tranh cục bộ, tranh chấp lãnh thổ,
bạo loạn chính trị, can thiệp, lật đổ, khủng bố vẫn sẽ diễn ra gay gắt; các yếu tố đe dọa an ninh phi truyền thống, tội phạm
công nghệ cao trong các lĩnh vực tài chính - tiền tệ, điện tử - viễn thông, sinh học, môi trường... còn tiếp tục gia tăng.
Cục diện thế giới đa cực ngày càng rõ hơn, xu thế dân chủ hoá trong quan hệ quốc tế tiếp tục phát triển nhưng các
nước lớn vẫn sẽ chi phối các quan hệ quốc tế. Toàn cầu hoá và cách mạng khoa học - công nghệ phát triển mạnh mẽ, thúc
đẩy quá trình hình thành xã hội thông tin và kinh tế tri thức. Kinh tế thế giới mặc dù có dấu hiệu phục hồi sau khủng hoảng
nhưng vẫn còn nhiều khó khăn, bất ổn; chủ nghĩa bảo hộ phát triển dưới nhiều hình thức; cơ cấu lại thể chế, các ngành,
lĩnh vực kinh tế diễn ra mạnh mẽ ở các nước; tương quan sức mạnh kinh tế giữa các nước, nhất là giữa các nước lớn có
nhiều thay đổi. Cạnh tranh về kinh tế - thương mại, tranh giành các nguồn tài nguyên, năng lượng, thị trường, công nghệ,
nguồn vốn, nguồn nhân lực chất lượng cao... giữa các nước ngày càng gay gắt. Những vấn đề toàn cầu như: an ninh tài
chính, an ninh năng lượng, an ninh lương thực, biến đổi khí hậu, nước biển dâng cao, thiên tai, dịch bệnh... sẽ tiếp tục diễn
biến phức tạp. Cuộc đấu tranh của nhân dân các nước trên thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân sinh, dân chủ và tiến
bộ xã hội tiếp tục phát triển. Cuộc đấu tranh dân tộc và giai cấp vẫn diễn biến phức tạp.
Khu vực có nhiều diễn biến rất phức tạp; kinh tế thế giới phục hồi chậm; khủng hoảng chính trị ở nhiều nơi,
nhiều nước; cạnh tranh về nhiều mặt ngày càng quyết liệt giữa các nước lớn tại khu vực; diễn biến phức tạp trên Biển
Đông,... đã tác động bất lợi đến nước ta.

13



Khu vực châu Á - Thái Bình Dương, trong đó có khu vực Đông Nam Á, vẫn sẽ là khu vực phát triển năng động,
nhưng còn tồn tại nhiều nhân tố gây mất ổn định; tranh chấp lãnh thổ, biển đảo ngày càng gay gắt. Xuất hiện các hình thức
tập hợp lực lượng và đan xen lợi ích mới. ASEAN tiếp tục đẩy mạnh liên kết khu vực, xây dựng cộng đồng, có vai trò
ngày càng quan trọng trong khu vực, song còn nhiều khó khăn, thách thức.
Ở trong nước: Những thành tựu, kinh nghiệm của 25 năm đổi mới (1986 - 2011) đã tạo ra cho đất nước lực và thế,
sức mạnh tổng hợp lớn hơn nhiều so với trước. Năm năm tới là giai đoạn kinh tế nước ta tiếp tục phục hồi, lấy lại đà tăng
trưởng sau thời kỳ suy giảm; sẽ thực hiện nhiều hơn các hiệp định thương mại tự do song phương và đa phương; khắc
phục những hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực kinh tế, văn hoá, xã hội, xây dựng Đảng và hệ thống chính trị. Tuy nhiên,
nước ta đứng trước nhiều thách thức lớn, đan xen nhau, tác động tổng hợp và diễn biến phức tạp, không thể coi thường
thách thức nào. Nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới vẫn tồn tại. Tình trạng
suy thoái về chính trị, tư tưởng, đạo đức, lối sống của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên gắn với tệ quan liêu, tham
nhũng, lãng phí vẫn nghiêm trọng, làm giảm sút niềm tin của nhân dân vào Đảng và Nhà nước. Các thế lực thù địch tiếp
tục thực hiện âm mưu “diễn biến hoà bình”, gây bạo loạn lật đổ, sử dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền” hòng làm
thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Trong nội bộ, những biểu hiện xa rời mục tiêu của chủ nghĩa xã hội, “tự diễn biến”, “tự
chuyển hoá” có những diễn biến phức tạp.
Trong nước, cùng với những ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính và suy thoái kinh tế toàn cầu, những hạn chế,
khiếm khuyết vốn có của nền kinh tế, những hạn chế, yếu kém trong lãnh đạo, quản lý và những vấn đề mới phát sinh đã
làm cho lạm phát tăng cao, ảnh hưởng nghiêm trọng đến ổn định kinh tế vĩ mô, tốc độ tăng trưởng và đời sống nhân dân.
Thiên tai, dịch bệnh, biến đổi khí hậu gây thiệt hại nặng nề. Nhu cầu bảo đảm an sinh xã hội, phúc lợi xã hội ngày càng
cao. Đồng thời, chúng ta phải dành nhiều nguồn lực để bảo đảm quốc phòng, an ninh và bảo vệ chủ quyền đất nước trước
những diễn biến mới, phức tạp của tình hình khu vực và quốc tế.
Nền kinh tế vượt qua nhiều khó khăn, thách thức, quy mô và tiềm lực được nâng lên; kinh tế vĩ mô cơ bản ổn định,
lạm phát được kiểm soát; tăng trưởng kinh tế được duy trì ở mức hợp lý, từ năm 2013 dần phục hồi, năm sau cao hơn năm
trước. Đổi mới mô hình tăng trưởng, cơ cấu lại nền kinh tế và thực hiện ba đột phá chiến lược được tập trung thực hiện,
bước đầu đạt kết quả tích cực. Giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, y tế có bước phát triển. An
sinh xã hội được quan tâm nhiều hơn và cơ bản được bảo đảm, đời sống của nhân dân tiếp tục được cải thiện. Chính trị xã hội ổn định; quốc phòng, an ninh được tăng cường; kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc, giữ vững hòa bình, ổn định. Quan hệ đối ngoại, hội nhập quốc tế ngày càng sâu
14



rộng, hiệu quả. Vị thế, uy tín quốc tế của nước ta tiếp tục được nâng cao. Dân chủ xã hội chủ nghĩa và sức mạnh đại đoàn
kết toàn dân tộc tiếp tục được phát huy. Công tác xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị được chú trọng và đạt kết
quả quan trọng.
Tuy nhiên, đổi mới chưa đồng bộ và toàn diện. Một số chỉ tiêu kinh tế - xã hội chưa đạt kế hoạch; nhiều chỉ tiêu,
tiêu chí trong mục tiêu phấn đấu để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành nước công nghiệp theo hướng hiện đại chưa
đạt được. Nhiều hạn chế, yếu kém trong các lĩnh vực giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, văn hóa, xã hội, y tế
chậm được khắc phục. Đời sống của một bộ phận nhân dân, nhất là ở vùng sâu, vùng xa còn nhiều khó khăn. Bốn nguy cơ
mà Đảng ta chỉ ra vẫn còn tồn tại, có mặt diễn biến phức tạp. Tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống
của một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên và tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí chưa bị đẩy lùi. Một số mặt công tác
xây dựng Đảng, xây dựng hệ thống chính trị chuyển biến chậm.
Ở trong nước, thế và lực, sức mạnh tổng hợp của đất nước tăng lên, uy tín quốc tế của đất nước ngày càng được
nâng cao. Nước ta sẽ thực hiện đầy đủ các cam kết trong cộng đồng ASEAN và WTO, tham gia các hiệp định thương mại
tự do thế hệ mới, hội nhập quốc tế với tầm mức sâu rộng hơn nhiều so với giai đoạn trước. Thời cơ, vận hội phát triển mở
ra rộng lớn. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khó khăn, thách thức. Bốn nguy cơ mà Đảng ta đã chỉ ra vẫn tồn tại, nhất là nguy cơ
tụt hậu xa hơn về kinh tế so với các nước trong khu vực và trên thế giới; nguy cơ "diễn biến hòa bình" của thế lực thù địch
nhằm chống phá nước ta; tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống, những biểu hiện "tự diễn biến", "tự
chuyển hóa" trong một bộ phận cán bộ, đảng viên, công chức, viên chức; sự tồn tại và những diễn biến phức tạp của tệ
quan liêu, tham nhũng, lãng phí,...
CÂu 3: Sự đúng
đắn, sáng tạo của
Đảng ta trong
đường lối cách
mạng giải phóng
dân tộc, thống
nhất đất nước
thời kỳ 1946
-1975? Liên hệ

A. Sự đúng đắn, sáng tạo của Đảng ta trong đường lối cách mạng giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước thời
kỳ 1946 – 1954:

 Đảng lãnh đạo kháng chiến chống TD Pháp (12/1946 – 7/1954)
1.

Âm mưu của TD Pháp:

Pháp âm mưu quay trở lại tái chiếm đóng Đông Dương lần thứ 2. Pháp hi vọng sẽ “đánh nhanh, thắng nhanh”. Cho
nên tất cả các hoạt động đối ngoại của Việt Nam đều bị vô hiệu hóa bởi dã tâm xâm lược của TD Pháp.
2. Đường lối kháng chiến chống thực dân Pháp của Đảng ta:

15


nhiệm vụ bảo vệ
tổ quốc VN
XHCN hiện nay
(văn kiện ĐH XII)
Nội dung:
+ Đảng lãnh đạo
kháng chiến
chống TD Pháp
(12/1946 – 7/1954)
+ Đảng lãnh đạo
kháng chiến
chống Mỹ, cứu
nước (1954 1975)
+ Liên hệ nhiệm
vụ bảo vệ tổ quốc
VN XHCN hiện
nay ( văn kiện ĐH
XII)


a. Quá trình hình thành đường lối kháng chiến:
Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được thể hiện qua 4 văn kiện chính là: Lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến của Hồ Chí Minh (19/12/1946), Chỉ thị "Toàn dân kháng chiến" của trung ương Đảng (12/12/1946), Chỉ thị “Toàn
quốc kháng chiến” của Chủ tịch Hồ Chí Minh (19/12/1946) và tác phẩm "Kháng chiến nhất định thắng lợi" của đồng chí
Trường Chinh (9/1947).
b. Nội dung đường lối kháng chiến của Đảng ta:
+ Mục đích kháng chiến: là để tiếp tục sự nghiệp cách mạng tháng Tám, đánh thực dân Pháp xâm lược, hoàn thành
giải phóng dân tộc, giành độc lập và thống nhất thật sự cho Tổ quốc.
+ Tính chất kháng chiến: Cuộc kháng chiến của ta là chiến tranh nhân dân, chiến tranh chính nghĩa. Vì vậy, cuộc
kháng chiến của ta có tính chất dân tộc giải phóng và dân chủ mới.
+ Chính sách kháng chiến: "Liên hiệp với dân tộc Pháp, chống phản động thực dân Pháp. Đoàn kết với Miên - Lào
và các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà bình. Đoàn kết chặt chẽ toàn dân, thực hiện toàn dân kháng chiến ...phải tự cấp, tự
túc về mọi mặt".
+ Nhiệm vụ kháng chiến:
1.

Đánh đuổi thực dân Pháp xâm lược để giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc.

2.
Trong quá trình kháng chiến không thể không thực hiện những cải cách dân chủ, tiến hành từng bước
chính sách ruộng đất của Đảng nhằm bồi dưỡng sức dân, củng cố khối liên minh công nông, phân hoá cô lập kẻ
thù.
3.

Không chỉ đấu tranh cho ta mà còn bảo vệ hoà bình thế giới.

+ Phương châm tiến hành kháng chiến: tiến hành cuộc chiến tranh nhân dân, thực hiện kháng chiến toàn dân, toàn
diện, lâu dài, dựa vào sức mạnh là chính.
Kháng chiến toàn dân: Là toàn dân đánh giặc, lấy lực lượng vũ trang, có ba thứ quân làm nòng cốt… "Bất kỳ

đàn ông, đàn bà không chia tôn giáo, đảng phái, dân tộc, bất kỳ người già, người trẻ. Hễ là người Việt Nam đứng lên đánh
thực dân Pháp", thực hiện mỗi người dân là một chiến sỹ, mỗi làng xóm là một pháo đài.




Kháng chiến toàn diện: Đánh địch về mọi mặt chính trị, quân sự, kinh tế, văn hoá, ngoại giao. Trong đó:
16


Kháng chiến về chính trị: Thực hiện đoàn kết toàn dân, tăng cường xây dựng Đảng, chính quyền, các đoàn thể
nhân dân; đoàn kết với Miên, Lào và các dân tộc yêu chuộng tự do, hoà bình.
Kháng chiến vê quân sự: Thực hiện vũ trang toàn dân, xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân, tiêu diệt địch, giải
phóng nhân dân và đất đai, thực hiện du kích chiến tiến lên vận động chiến, đánh chính quy, là "triệt để dùng du kích, vận
động chiến. Bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài.... vừa đánh vừa võ trang thêm, vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ".
Kháng chiến về kinh tế: Phá hoại kinh tế địch như đường giao thông, cầu, cống, xây dựng kinh tế tự cung tự cấp,
tập trung phát triển nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và công nghiệp quốc phòng theo nguyên tắc: “Vừa
kháng chiến vừa xây dựng đất nước”.
Kháng chiến về văn hoá: Xoá bỏ văn hoá thực dân, phong kiến, xây dựng nền văn hoá dân chủ mới theo ba
nguyên tắc: dân tộc, khoa học, đại chúng.
Kháng chiến về ngoại giao: Thực hiện thêm bạn bớt thù, biểu dương thực lực. "Liên hiệp với dân tộc Pháp,
chống phản động thực dân pháp", sẵn sàng đàm phán nếu Pháp công nhận Việt Nam độc lập.
Kháng chiến lâu dài: Là để chống âm mưu đánh nhanh, thắng nhanh của Pháp, để có thời gian để củng cố,
xây dựng lực lượng, nhằm chuyển hoá tương quan lực lượng từ chỗ ta yếu hơn địch đến chỗ ta mạnh hơn địch, đánh thắng
địch.


Kháng chiến dựa sức mình là chính, trước hết phải độc lập về đường lối chính trị, chủ động xây dựng và phát
triển thực lực của cuộc kháng chiến, đồng thời coi trọng viện trợ quốc tế.





Triển vọng kháng chiến: Mặc dù lâu dài, gian khổ, khó khăn, song nhất định thắng lợi.

Đường lối kháng chiến của Đảng với những nội dung cơ bản như trên là đúng đắn và sáng tạo, vừa kế thừa được
kinh nghiệm của tổ tiên, đúng với các nguyên lý về chiến tranh cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa phù hợp với
hoàn cảnh đất nước lúc bấy giờ. Đường lối kháng chiến của Đảng được công bố sớm đã có tác dụng đưa cuộc kháng chiến
từng bước đi tới thắng lợi vẻ vang.
Thực hiện đường lối kháng chiến của Đảng, từ năm 1947 đến năm 1950, Đảng ta chỉ đạo cuộc chiến đấu giam chân
địch trong các đô thị, củng cố các vùng tự do lớn, đánh bại cuộc hành quân lớn của địch lên Việt Bắc; lãnh đạo đẩy mạnh
xây dựng hậu phương, tìm cách chống phá thủ đoạn "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt"
của thực dân Pháp. Thắng lợi của chiến dịch Biên giới cuối năm 1950 đã giáng một đòn nặng nề vào ý chí xâm lược của
17


địch, quân ta giành được quyền chủ động chiến lược trên chiến trường chính Bắc Bộ.
c. Bổ sung và phát triển hoàn chỉnh:
+ Tính chất xã hội Việt Nam có ba tính chất: Dân chủ nhân dân một phần thuộc địa nửa phong kiến. Ba tính chất đó
đang đấu tranh lẫn nhau, nhưng mâu thuẫn chủ yếu lúc này là mâu thuẫn giữa tính chất dân chủ nhân dân và tính chất
thuộc địa. Mâu thuẫn đó đang được giải quyết trong quá trình kháng chiến của dân tộc Việt Nam chống thực dân Pháp và
can thiệp Mỹ.
+ Đối tượng cách mạng Việt Nam có hai đối tượng:
•Đối tượng chính là chủ nghĩa đế quốc xâm lược cụ thể lúc này là đế quốc Pháp và bọn can thiệp Mỹ.
•Đối tượng phụ hiện nay là phong kiến, cụ thể là phong kiến phản động.
+ Nhiệm vụ cách mạng:
•Đánh đuổi bọn đế quốc xâm lược, giành độc lập và thống nhất thật sự cho dân tộc.
•Xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, làm cho người cày có ruộng.
•Phát triển chế độ dân chủ nhân dân gây cơ sở cho chủ nghĩa xã hội.
Ba nhiệm vụ đó khăng khít với nhau. Song nhiệm vụ chính trước mắt là hoàn thành giải phóng dân tộc.

+ Động lực của cách mạng gồm: Công nhân, nông dân, tiểu tư sản, tư sản dân tộc. Ngoài ra còn có những thân sĩ
(địa chủ) yêu nước và tiến bộ. Những giai cấp, tầng lớp và phần tử đó họp lại thành nhân dân, mà nền tảng là công nông,
lao động trí óc. Giai cấp công nhân là giai cấp lãnh đạo cách mạng.
+ Sắp xếp loại hình cách mạng: Đảng ta căn cứ vào 3 loại hình cách mạng của Lênin (cách mạng giải phóng dân
tộc, cách mạng tư sản kiểu mới và cách mạng vô sản) gọi cách mạng Việt Nam là cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân.
Đồng chí Trường Chinh giải thích:
Gọi là cách mạng dân tộc vì nó đánh đổ đế quốc giành độc lập cho dân tộc.
Gọi là cách mạng dân chủ vì nó đánh đổ giai cấp phong kiến giành lại ruộng đất cho nông dân.
Gọi là cách mạng nhân dân vì nó do nhân dân tiến hành cuộc cách mạng ấy.

18


Đây là sự bổ sung và phát triển lý luận cách mạng của Đảng ta vào học thuyết Mác- Lênin mà công lao to lớn thuộc
về đồng chí Trường Chinh.
+ Phương hướng tiến lên của cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân: Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân nhất định
sẽ tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một quá trình lâu dài và đại thể trải qua ba giai đoạn:
•Giai đoạn thứ nhất, nhiệm vụ chủ yếu là hoàn thành giải phóng dân tộc.
•Giai đoạn thứ hai, nhiệm vụ chủ yếu là xoá bỏ những di tích phong kiến và nửa phong kiến, thực hiện triệt để
người cày có ruộng, phát triển kỹ nghệ, hoàn chỉnh chế độ dân chủ nhân dân.
•Giai đoạn thứ ba, nhiệm vụ chủ yếu là xây dựng cơ sở cho chủ nghĩa xã hội, tiến lên thực hiện chủ nghĩa xã
hội
Ba giai đoạn ấy không tách rời nhau, mà mật thiết liên hệ, xen kẽ với nhau.
+ Giai cấp lãnh đạo và mục tiêu của Đảng: "Người lãnh đạo cách mạng là giai cấp công nhân. Đảng lao động Việt
Nam là Đảng của giai cấp công nhân và của nhân dân lao động Việt Nam. Mục đích của Đảng là phát triển chế độ dân chủ
nhân dân, tiến lên chế độ xã hội chủ nghĩa ở Việt Nam, để thực hiện tự do, hạnh phúc cho giai cấp công nhân, nhân dân lao
động và tất cả các dân tộc đa số, thiểu số ở Việt Nam.
+ Chính sách của Đảng: có 15 chính sách lớn nhằm phát triển chế độ dân chủ nhân dân, gây mầm mống cho chủ
nghĩa xã hội và đẩy mạnh kháng chiến đến thắng lợi.
+ Quan hệ quốc tế: Việt Nam đứng về phe hoà bình và dân chủ, phải tranh thủ sự giúp đỡ của các nước xã hội chủ

nghĩa và nhân dân thế giới, của Trung Quốc, Liên Xô, thực hiện đoàn kết Việt - Trung - Xô và đoàn kết Việt - Miên - Lào.
 Đảng lãnh đạo kháng chiến chống Mỹ, cứu nước (1954 - 1975)
1. Âm mưu của đế quốc Mỹ: Tình hình miền Nam sau tháng 7/1954:
Sau Hiệp định Giơnevơ, cách mạng Việt Nam vừa có những thuận lợi mới, vừa đứng trước nhiều khó khăn, phức
tạp.
- Thuận lợi: Hệ thống xã hội chủ nghĩa tiếp tục lớn mạnh cả về kinh tế, quân sự, khoa học - kỹ thuật, nhất là của
19


Liên Xô; phong trào giải phóng dân tộc tiếp tục phát triển ở Châu Á, Châu Phi và khu vực Mỹ La Tinh, phong trào hoà
bình dân chủ lên cao ở các nước tư bản; miền Bắc hoàn toàn được giải phóng, làm căn cứ địa chung cho cả nước; thế và
lực của cách mạng đã lớn mạnh hơn sau chín năm kháng chiến; có ý chí độc lập thống nhất Tổ quốc của nhân dân từ Bắc
chí Nam.
- Khó khăn: Đế quốc Mỹ có tiềm lực kinh tế, quân sự hùng mạnh, âm mưu làm bá chủ thế giới với các chiến lược
toàn cầu phản cách mạng; thế giới bước vào thời kỳ chiến tranh lạnh, chạy đua vũ trang giữa hai phe xã hội chủ nghĩa và
tư bản chủ nghĩa; xuất hiện sự bất đồng trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, nhất là giữa Liên Xô và Trung Quốc; đất nước ta
bị chia làm hai miền, kinh tế miền Bắc nghèo nàn, lạc hậu, miền Nam trở thành thuộc địa kiểu mới của Mỹ và đế quốc Mỹ
trở thành kẻ thù trực tiếp của nhân dân ta.
Đảng lãnh đạo đồng thời hai chiến lược cách mạng ở hai miền khác nhau là đặc điểm lớn nhất của cách mạng Việt
Nam sau tháng 7/1954. Đặc điểm bao trùm và các thuận lợi khó khăn nêu trên là cơ sở để Đảng ta phân tích, hoạch định
đường lối chiến lược chung cho cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới
2. Đường lối cách mạng kháng chiến chống Mỹ:
a. Quá trình hình thành đường lối kháng chiến:
Đường lối toàn quốc kháng chiến của Đảng được thể hiện qua 4 văn kiện chính là: Văn kiện Hội nghị lần thứ 6 của
Ban Chấp hành Trung ương khóa II (7/1954), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương khóa II
(12/1957), Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II (1/1959), Văn kiện Hội nghị Bộ
chính trị (6/9/1954)
Nội dung đường lối kháng chiến của Đảng ta:
• Hội nghị lần thứ 6 của Ban Chấp hành Trung ương khóa II (7/1954)
Chúng ta cũng cần nhận rõ do chiến tranh trường kỳ, nhân dân ta phải đóng góp sức người, sức của cũng nặng. Nếu

chiến tranh kéo dài thì có thể sinh ra những hiện tượng mệt mỏi và khó khǎn của chúng ta có thể nhiều hơn.
Đế quốc Mỹ là kẻ thù chính của nhân dân yêu chuộng hoà bình thế giới, và hiện đang trở thành kẻ thù chính trực
tiếp của nhân dân Đông Dương.
Hội nghị hoàn toàn đồng ý với đường lối của Hồ Chủ tịch và của Bộ Chính trị trong thời gian vừa qua: dùng
phương pháp thương lượng để lập lại hoà bình ở Đông Dương. Hội nghị quyết định về phương châm, sách lược đấu tranh
20


của ta trong giai đoạn mới là chĩa mũi nhọn đấu tranh vào đế quốc Mỹ và hiếu chiến Pháp, dựa trên cơ sở những thắng lợi
đã đạt được mà phấn đấu để thực hiện hoà bình ở Đông Dương, phá tan âm mưu của đế quốc Mỹ kéo dài và mở rộng chiến
tranh Đông Dương củng cố hoà bình và thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập và dân chủ trong toàn quốc.
Khẩu hiệu của ta là: hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ. Để thực hiện khẩu hiệu ấy, ta phải củng cố công nông
liên minh, đoàn kết các tầng lớp nhân dân khác, tranh thủ những nhân sĩ yêu nước, yêu hoà bình và dân chủ, lập thành mặt
trận rộng rãi chống đế quốc Mỹ, hiếu chiến Pháp và những bọn Việt gian tay sai của chúng.
Vì hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ mà nhân dân và quân đội ta kháng chiến anh dũng chín nǎm nay và đã thu
nhiều thắng lợi. Ngày nay do tình hình mới, ta thay đổi phương châm chính sách và sách lược đấu tranh cốt để thực hiện
một cách thuận lợi mục đích trước mắt. Đây là một sự thay đổi quan trọng về phương châm và sách lược cách mạng,
nhưng mục đích của cách mạng vẫn là một.
Nhiệm vụ và công tác trước mắt của toàn Đảng và toàn dân ta là:
1- Tranh thủ và củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất hoàn thành độc lập, dân chủ trong toàn quốc.
2- Tǎng cường lực lượng quân sự, xây dựng một quân đội nhân dân hùng mạnh, thích hợp với yêu cầu của
tình thế mới.
3- Tiếp tục thực hiện người cày có ruộng; ra sức phục hồi sản xuất, chuẩn bị điều kiện kiến thiết nước nhà.
Cũng như kháng chiến, đấu tranh để giành lấy và củng cố hoà bình, thực hiện thống nhất, hoàn thành độc lập, dân
chủ trong toàn quốc là một quá trình đấu tranh gian khổ và phức tạp. Chúng ta phải luôn luôn tỉnh táo trước mọi âm mưu
của đế quốc Mỹ, hiếu chiến Pháp và phe lũ. Chúng ta phải ra sức đấu tranh đến cùng, luôn luôn bồi dưỡng và nâng cao
tinh thần phấn đấu, nắm vững ngọn cờ hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ để hoàn thành nhiệm vụ nặng nề và vẻ vang
trong giai đoạn trước mắt.
Toàn Đảng từ trên đến dưới hãy thống nhất tư tưởng và hành động, đoàn kết nhất trí hơn nữa chung quanh Hồ Chủ
tịch và Trung ương,tuyệt đối tin tưởng vào Hồ Chủ tịch và Trung ương; kiên quyết vượt mọi khó khǎn, ra sức phấn đấu để

bất cứ hoà hay là đánh, ta cũng chủ động và thắng lợi.
• Nghị quyết Hội nghị lần thứ 13 Ban Chấp hành Trung ương khóa II (12/1957)
Hội nghị lần thứ mười ba Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã đánh giá thắng lợi về khôi phục kinh tế và đề ra
nhiệm vụ soạn thảo đường lối cách mạng trong giai đoạn mới

21


Hội nghị nhận định: do sự cố gắng của toàn Đảng, toàn dân, sự giúp đỡ nhiệt tình của các nước anh em, đến cuối
năm 1957 miền Bắc nước ta đã căn bản hoàn thành thắng lợi nhiệm vụ khôi phục kinh tế; mức sản xuất công nghiệp và
nông nghiệp đã xấp xỉ bằng năm 1939.
Để tăng cường đoàn kết và tính chiến đấu của Đảng, củng cố vai trò lãnh đạo của giai cấp công nhân, tập trung ý chí
và hành động của toàn Đảng, Báo cáo đã phân tích, nhận định về một số vấn đề:
1. Nhiệm vụ cách mạng trước mắt của toàn Đảng, toàn dân.
2. Giải quyết đúng đắn những mâu thuẫn trong xã hội Việt Nam.
3. Nhận định về nền chuyên chính dân chủ nhân dân của ta.
4. Khôi phục và phát triển kinh tế.
5. Cải tiến quan hệ giữa lãnh đạo và quần chúng, chống bệnh quan liêu.
6. Tăng cường đoàn kết quốc tế.
Sau khi chỉ rõ nguyên nhân của những khuyết điểm về tư tưởng và tác phong của cán bộ, đảng viên, Báo cáo khẳng
định: "Nhiệm vụ quan trọng của Đảng ta hiện nay là phải thực hiện sự thống nhất tư tưởng, đoàn kết toàn Đảng làm cho
Đảng ta, muôn người như một, thống nhất hành động, chấp hành những nhiệm vụ công tác trước mắt và phát huy cao độ
tác dụng lãnh đạo cách mạng của Đảng trong giai đoạn mới"
• Nghị quyết Hội nghị lần thứ 15 Ban Chấp hành Trung ương Đảng khóa II (1/1959)
+ Hội nghị xác định tính chất xã hội miền Nam sau 1954 là xã hội thuộc địa kiểu mới và nửa phong kiến.
+ Mâu thuẫn cơ bản của xã hội miền Nam là mâu thuẫn giữa nhân dân ta ở miền Nam với đế quốc Mỹ xâm lược và
tay sai của chúng. Mâu thuẫn giữa nhân dân miền Nam mà chủ yếu là nông dân với địa chủ phong kiến. Trong hai mâu
thuẫn trên, thì mâu thuẫn chủ yếu ở miền Nam là mâu thuẫn giữa nhân dân ta ở miền Nam với đế quốc mỹ xâm lược cùng
tập đoàn thống trị Ngô Đình Diệm - tay sai của đế quốc Mỹ, đại diện cho bọn địa chủ phong kiến và tư sản mại bản thân
Mỹ phản động nhất.

+ Nhiệm vụ chiến lược của cách mạng Việt Nam:
•Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
•Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam.
Hai nhiệm vụ chiến lược đó tuy tính chất khác nhau, nhưng quan hệ hữu cơ với nhau nhằm phương hướng chung là
22


giữ vững hoà bình, thực hiện thống nhất nước nhà, tạo điều kiện thuận lợi để đưa cả nước Việt Nam tiến lên chủ nghĩa xã
hội.
+ Nhiệm vụ cơ bản của cách mạng miền Nam là: đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh chống đế quốc Mỹ xâm
lược, đánh đổ tập đoàn thống trị độc tài Ngô Đình Diệm, thành lập một chính quyền liên hiệp dân tộc dân chủ ở miền
Nam, thực hiện độc lập dân tộc và các quyền tự do dân chủ, cải thiện đời sống nhân dân, giữ vững hoà bình, thực hiện
thống nhất nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, tích cực góp phần bảo vệ hoà bình ở Đông Nam á và trên thế giới.
+ Con đường phát triển cơ bản của cách mạng miền Nam là khởi nghĩa giành chính quyền về tay nhân dân. Đó là con
đường lấy sức mạnh của quần chúng, dựa vào lực lượng chính trị của quần chúng là chủ yếu, kết hợp với lực lượng vũ
trang để đánh đổ quyền thống trị của đế quốc và phong kiến, dựng lên chính quyền thống trị của đế quốc và phong kiến,
dựng lên chính quyền cách mạng của nhân dân.
+ Phương pháp cách mạng: Cần có sách lược lợi dụng mâu thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù phân hoá cao độ đế quốc Mỹ
và tay sai của chúng. Sử dụng, kết hợp những hình thức đấu tranh hợp pháp, nửa hợp pháp, phối hợp chặt chẽ phong trào ở
đô thị với phong trào nông thôn và vùng căn cứ. Cần kiên quyết giữ vững đường lối hoà bình thống nhất nước nhà. Đồng
thời hội nghị dự báo đế quốc Mỹ là tên đế quốc hiếu chiến nhất cho nên trong bất kỳ điều kiện nào, cuộc khởi nghĩa của
nhân dân miền Nam có khả năng chuyển thành cuộc đấu tranh vũ trang trường kỳ và thắng lợi nhất định thuộc về ta.
+ Về mặt trận: Hội nghị chủ trương cần có mặt trận dân tộc thống nhất riêng ở miền Nam có tính chất, nhiệm vụ và
thành phần thích hợp nhằm tập hợp tất cả các lực lượng chống đế quốc và tay sai.
+ Về vai trò của Đảng bộ miền Nam: Hội nghị chỉ rõ sự tồn tại và trưởng thành của Đảng bộ miền Nam dưới chế độ
độc tài phát xít là một yếu tố quyết định thắng lợi phong trào cách mạng miền Nam. Phải củng cố Đảng vững mạnh về
chính trị, tư tưởng, tổ chức, đề cao công tác bí mật, triệt để khả năng hoạt động hợp pháp và nửa hợp pháp để che dấu lực
lượng đề phòng sự xâm nhập phá hoại của bọn gián điệp và những phần tử đầu hàng, phản bội chui vào phá hoại Đảng.
Nghị quyết hội Nghị lần thứ 15 có ý nghĩa lịch sử to lớn, chẳng những đã mở đường cho cách mạng miền Nam tiến
lên, mà còn thể hiện rõ bản lĩnh độc lập tự chủ, sáng tạo của Đảng ta trong những năm tháng khó khăn của cách mạng.

Quá trình đề ra và chỉ đạo thực hiện các nghị quyết, chủ trương nói trên chính là quá trình hình thành đường lối chiến
lược chung cho cách mạng cả nước, được hoàn chỉnh tại Đại hội lần thứ III của Đảng.

23


• Văn kiện Hội nghị Bộ chính trị (6/9/1954)
Từ tháng 9-1954, Bộ Chính trị đã họp và ra Chỉ thị riêng về tình hình mới và nhiệm vụ công tác mới cho các đảng
bộ miền Nam. Trong 2 năm đầu, Đảng chủ trương lãnh đạo nhân dân đấu tranh đòi thực hiện Hiệp định Giơnevơ, đòi củng
cố hoà bình, thực hiện các quyền tự do dân chủ, cải thiện dân sinh, thực hiện thống nhất đất nước trên cơ sở độc lập, dân
chủ. Đảng lãnh đạo nhân dân đấu tranh chống khủng bố, đàn áp của ngụy quân, nguỵ quyền, chống chính sách “tố cộng,
diệt cộng” của Mỹ-ngụy, bảo vệ và xây dựng lực lượng cách mạng, căn cứ địa cách mạng, xây dựng và mở rộng Mặt trận
dân tộc thống nhất, đồng thời tích cực nghiên cứu, chuẩn bị tìm con đường đấu tranh thích hợp để hạn chế tổn thất, đẩy
cách mạng miền Nam tiến lên.
Bổ sung và phát triển hoàn chỉnh:
• Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III (9-1960) tại Hà Nội đã xác định:
+ Nhiệm vụ chung: "Tăng cường đoàn kết toàn dân, kiên quyết đấu tranh giữ vững hoà bình, đẩy mạnh cách mạng
xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, đồng thời đẩy mạnh cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam, thực hiện thống nhất
nước nhà trên cơ sở độc lập và dân chủ, xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu
mạnh, thiết thực góp phần tăng cường phe xã hội chủ nghĩa và bảo vệ hoà bình ở Đông Nam Á và thế giới".
+ Nhiệm vụ chiến lược: Cách mạng Việt Nam trong giai đoạn hiện tại có hai nhiệm vụ chiến lược:
•Một là, tiến hành cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc.
•Hai là, giải phóng miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bọn tay sai, thực hiện thống nhất nước
nhà, hoàn thành độc lập và dân chủ trong cả nước.
+ Mục tiêu chiến lược: "Nhiệm vụ cách mạng ở miền Bắc và nhiệm vụ cách mạng ở miền Nam thuộc hai chiến lược
khác nhau, mỗi nhiệm vụ nhằm giải quyết yêu cầu cụ thể của mỗi miền trong hoàn cảnh nước nhà tạm bị chia cắt. Hai
nhiệm vụ đó lại nhằm giải quyết mâu thuẫn chung của cả nước giữa nhân dân ta với đế quốc Mỹ và bọn tay sai của chúng,
thực hiện mục tiêu chung trước mắt là hoà bình thống nhất Tổ quốc".
+ Mối quan hệ của cách mạng hai miền: Do cùng thực hiện một mục tiêu chung nên "Hai nhiệm vụ chiến lược ấy có
quan hệ mật thiết với nhau và có tác dụng thúc đẩy lẫn nhau".

24


+ Vị trí, tác dụng:
•Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc có nhiệm vụ xây dựng tiềm lực và bảo vệ căn cứ địa của cả nước, hậu
thuẫn cho cách mạng miền Nam, chuẩn bị cho cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội về sau, nên giữ vai trò quyết định nhất đối
với sự phát triển của toàn bộ cách mạng Việt Nam và đối với sự nghiệp thống nhất cả nước.
•Cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân ở miền Nam giữ vai trò quyết định trực tiếp đối với sự nghiệp giải phóng
miền Nam khỏi ách thống trị của đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai, thực hiện hoà bình thống nhất nước nhà, hoàn thành cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân trong cả nước.
+ Con đường thống nhất đất nước: Trong khi tiến hành đồng thời hai chiến lược cách mạng, Đảng kiên trì con đường
hoà bình thống nhất theo tinh thần Hiệp nghị Giơnevơ, sẵn sàng thực hiện hiệp thương tổng tuyển cử hoà bình thống nhất
Việt Nam, vì đó là con đường tránh được sự hao tổn xương máu cho dân tộc ta và phù hợp với xu hướng chung của thế
giới. "Nhưng chúng ta phải luôn luôn nâng cao cảnh giác, sẵn sàng đối phó với mọi tình thế. Nếu đế quốc Mỹ và bọn tay
sai của chúng liều lĩnh gây ra chiến tranh hòng xâm lược miền Bắc, thì nhân dân cả nước ta sẽ kiên quyết đứng dậy đánh
bại chúng, hoàn thành độc lập và thống nhất Tổ quốc".
+ Triển vọng của cách mạng Việt Nam: Cuộc đấu tranh nhằm thực hiện thống nhất nước nhà là một quá trình đấu
tranh cách mạng gay go, gian khổ, phức tạp và lâu dài chống đế quốc Mỹ và bè lũ tay sai của chúng ở miền Nam. Thắng
lợi cuối cùng nhất định thuộc về nhân dân ta, Nam Bắc nhất định sum họp một nhà, cả nước sẽ đi lên chủ nghĩa xã hội.
• Văn kiện HN Bộ chính trị 1961
Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương Đảng (BCHTW Đảng) ngày 23-1-1961 đã quyết định thành lập Trung
ương Cục miền Nam (gọi tắt là Cục R) thay thế Xứ ủy Nam Bộ, là một bộ phận của BCHTW Đảng, để chỉ đạo trực tiếp ở
miền Nam.
Đặc biệt, Chỉ thị ngày 31-1-1961 và Nghị quyết đầu tháng 2-1961 của Bộ Chính trị về nhiệm vụ quân sự trong 5
năm 1961-1965 và phương hướng nhiệm vụ của cách mạng miền Nam (sau đó được Nghị quyết của Hội nghị Bộ Chính trị
tháng 12-1962 bổ sung thêm) đã chủ trương chuyển từ khởi nghĩa từng phần phát triển lên thành chiến tranh cách mạng
trên quy mô toàn miền.
• Văn kiện HNTW lần 9 (11/1963)
25



×