Tải bản đầy đủ (.pdf) (103 trang)

Đảng bộ huyện phú lương (thái nguyên) lãnh đạo thực hiện xóa đói, giảm nghèo từ năm 1997 đến năm 2010

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.15 MB, 103 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------

TRẦN THỊ THANH HƯƠNG

ĐẢNG BỘ HUYỆN PHÚ LƯƠNG (THÁI NGUYÊN)
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Hà Nội - 2016


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI

TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
---------------------

TRẦN THỊ THANH HƯƠNG

ĐẢNG BỘ HUYỆN PHÚ LƯƠNG (THÁI NGUYÊN)
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60.22.03.15

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ


Người hướng dẫn khoa học: TS. Phùng Thị Hiển

Hà Nội - 2016


LỜI CAM ĐOAN
Tôi xin cam đoan đây là công trình nghiên cứu của riêng tôi. Các số liệu
trích dẫn trong luận văn là trung thực, có nguồn gốc rõ ràng. Những kết luận khoa
học của luận văn chưa từng được công bố trong bất kỳ công trình nào.
Hà Nội, ngày

tháng

năm 2016

Tác giả
Trần Thị Thanh Hương

i


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ....................................................................................................................1
1. Lý do chọn đề tài .....................................................................................................1
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài ..............................................................2
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu ...........................................................................5
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu ..........................................................................6
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu..............................................................6
6. Những đóng góp về khoa học của luận văn ............................................................7
7. Kết cấu của luận văn ...............................................................................................7

NỘI DUNG ................................................................................................................8
Chương 1 QUAN NIỆM CHUNG VỀ XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO VÀ NHỮNG
THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN TRONG THỰC HIỆN XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO
Ở HUYỆN PHÚ LƯƠNG (THÁI NGUYÊN) ........................................................8
1.1. Quan niệm về chung về xóa đói, giảm nghèo ...................................................8
1.1.1. Quan niệm về đói nghèo ....................................................................................8
1.1.2. Quan niệm về xóa đói, giảm nghèo .................................................................12
1.2. Những thuận lợi, khó khăn trong thực hiện xóa đói, giảm nghèo ở huyện
Phú Lương (Thái Nguyên)......................................................................................21
1.2.1. Thuận lợi .........................................................................................................21
1.2.2. Khó khăn .........................................................................................................28
Tiểu kết chương 1 ....................................................................................................30
Chương 2 CHỦ TRƯƠNG VÀ QUÁ TRÌNH CHỈ ĐẠO CỦA ĐẢNG BỘ
HUYỆN PHÚ LƯƠNG (THÁI NGUYÊN) THỰC HIỆN XÓA ĐÓI, GIẢM
NGHÈO TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2010 ............................................................31
2.1. Chủ trương và quá trình chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương (Thái
Nguyên) thực hiện xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 1997-2005 .............................31
2.1.1. Chủ trương của tỉnh Thái Nguyên và Đảng bộ huyện Phú Lương về xóa đói,
giảm nghèo giai đoạn 1997 – 2005 ............................................................................31
2.1.2. Quá trình chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương thực hiện xóa đói, giảm
nghèo giai đoạn 1997 – 2005 ....................................................................................34
ii


2.1.3. Kết quả thực hiện xóa đói, giảm nghèo từ năm 1997 đến năm 2005 .............41
2.2. Chủ trương và quá trình chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương (Thái
Nguyên) thực hiện xóa đói, giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010 ................................43
2.2.1. Chủ trương của tỉnh Thái Nguyên và Đảng bộ huyện Phú Lương về xóa đói
giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010 ...........................................................................43
2.2.2. Quá trình chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương thực hiện xóa đói, giảm

nghèo giai đoạn 2006 – 2010 ....................................................................................46
2.2.3. Kết quả thực hiện xóa đói, giảm nghèo từ năm 2006 đến năm 2010 .............58
Tiểu kết chương 2 ....................................................................................................59
Chương 3 NHẬN XÉT VÀ MỘT SỐ KINH NGHIỆM ......................................60
3.1. Nhận xét ............................................................................................................60
3.1.1. Ưu điểm ...........................................................................................................60
3.1.2. Hạn chế ...........................................................................................................64
3.2. Một số kinh nghiệm ..........................................................................................67
KẾT LUẬN ..............................................................................................................73
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ...............................................................76

iii


DANH MỤC BẢNG
Bảng 1: Chuẩn mực đói nghèo năm 1996 .................................................................10
Bảng 2: Chuẩn nghèo của Việt Nam qua các giai đoạn ............................................11
Bảng 3: Tình hình phân bố đất đai huyện Phú Lương năm 2005 .............................24
Bảng 4: Tổng hợp kết quả giảm nghèo giai đoạn 2006 – 2010 ................................59

iv


DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT

BHYT

: Bảo hiểm y tế

CNH-HĐH : Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa

CP

: Chính Phủ

DTTS

: Dân tộc thiểu số

GQVL

: Giải quyết việc làm

HĐND

: Hội đồng nhân dân

NQ

: Nghị quyết

UBND

: Ủy ban nhân dân



: Quyết định

SXKD


: Sản xuất kinh doanh

XĐGN

: Xóa đói, giảm nghèo

v


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Đói nghèo là một phạm trù lịch sử có tính tương đối ở từng thời kỳ và ở mọi
quốc gia. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 1,2 tỷ người đang sống trong cảnh đói
nghèo, kể cả nước có thu nhập cao nhất thế giới vẫn có một tỷ lệ dân số sống trong
tình trạng nghèo nàn cả về vật chất và tinh thần. Tỷ lệ người nghèo ở mỗi nước
cũng khác nhau, đối với nước giàu thì tỷ lệ đói nghèo nhỏ hơn các nước kém phát
triển song khoảng cách giàu nghèo lại lớn hơn rất nhiều. Trong xu thế hợp tác và
toàn cầu hoá hiện nay thì vấn đề xoá, đói giảm nghèo (XĐGN) không còn là trách
nhiệm của một quốc gia mà đã trở thành mối quan tâm của cả cộng đồng quốc tế.
Việt Nam là một trong những nước có thu nhập khá thấp so với các nước trên thế
giới, do đó chương trình mục tiêu quốc gia về XĐGN là một chiến lược lâu dài cần
được sự quan tâm giúp đỡ của cộng đồng quốc tế, kết hợp chặt chẽ với tinh thần tự
lực, tự cường, đoàn kết của cả dân tộc để đẩy lùi đói nghèo tiến kịp trình độ phát
triển kinh tế của các nước tiên tiến. Chúng ta đều biết đòi nghèo là lực cản trên con
đường tăng trưởng và phát triển của quốc gia, nghèo khổ luôn đi liền với trình độ
dân trí thấp, tệ nạn xã hội, bệnh tật phát triển, ảnh hưởng đến an ninh chính trị, trật
tự an toàn xã hội…
Trong thời kỳ nước ta đang thực hiện công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại
hoá (CNH-HĐH) phát triển kinh tế thị trường như hiện nay, vấn đề XĐGN càng trở
nên khó khăn hơn vì khoảng cách giàu nghèo ngày càng giãn ra. Muốn đạt được

hiệu quả thiết thực nhằm giảm nhanh và bền vững tỷ lệ đói nghèo, nâng cao mức
sống cho người dân thì mỗi địa phương, mỗi vùng phải có chương trình XĐGN
riêng phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội, đất đai, thổ nhưỡng của mình nhằm
thực hiện mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Phú Lương là một huyện miền núi phía Bắc của tỉnh Thái Nguyên, cách
thành phố Thái Nguyên 22 km, gồm 14 xã và 2 thị trấn với diện tích tự nhiên là
368,82 km2, có dân số trên 105 ngàn người. Hiện nay Phú Lương vẫn là một huyện
nghèo, có diện tích rộng, dân cư phân bố không đều, kinh tế chính trị phát triển
chưa đồng đều giữa các vùng. Thu nhập bình quân đầu người còn thấp, tỷ lệ đói
nghèo của huyện còn cao.
1


Nhận thấy tầm quan trọng của công tác xóa đói, giảm nghèo trong chiến lược
phát triển kinh tế trên địa bàn, huyện Phú Lương đã tích cực thực hiện chương trình
XĐGN và thu được một số kết quả đáng kể: Theo số liệu tổng điều tra hộ nghèo
năm 2006 toàn huyện không còn hộ đói, hộ nghèo là 7.943 hộ chiếm tỷ lệ 31,51%
so với tổng số hộ toàn huyện. Tính bình quân cả giai đoạn 2000 – 2005 thì mỗi năm
giảm hơn 2% hộ nghèo. Tuy nhiên kết quả giảm nghèo chưa vững chắc, nguy cơ tái
nghèo cao. Còn những hạn chế đó là do việc thực hiện chương trình XĐGN ở các
địa bàn không đều, nhận thức tầm quan trọng của chương trình XĐGN của các cấp
lãnh đạo và người dân chưa đầy đủ. Thực tế đó đặt ra cho huyện Phú Lương nhiệm
vụ tiếp tục đẩy mạnh và nâng cao chất lượng thực hiện chương trình XĐGN trong
thời gian tới.
Việc thực hiện đề tài nhằm rút ra những kinh nghiệm, ưu điểm, hạn chế để áp
dụng cho công tác XĐGN ở các huyện, địa bàn khác trong toàn quốc có điều kiện
tương đồng với huyện Phú Lương. Góp phần nghiên cứu Lịch sử địa phương,
nghiên cứu Lịch sử Đảng của huyện Phú Lương lãnh đạo nhân dân trong huyện
thực hiện chủ trương của Đảng, trong công tác xã hội, xây dựng cuộc sống mới.
Đồng thời đề tài còn làm sáng tỏ truyền thống đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau của nông

dân Việt Nam nói chung và huyện Phú Lương nói riêng trong công cuộc xây dựng
cuộc sống mới. Qua đó giáo dục đức tính giúp đỡ lẫn nhau cho các thế hệ hiện tại,
đặc biệt là thế hệ trẻ ngày nay. Ngoài ra nghiên cứu đề tài còn cho thêm bài học về
bảo vệ phát triển nông nghiệp, sử dụng đất đai có hiệu quả và bài học về cách mạng
xanh trong nông nghiệp.
Vì những lý do đó, tôi đã chọn đề tài “Đảng bộ huyện Phú Lương (Thái
Nguyên) lãnh đạo thực hiện xóa đói giảm nghèo từ năm 1997 đến năm 2010” làm
đề luận văn nghiên cứu chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Xóa đói, giảm nghèo là một vấn đề mang tính thời sự luôn được Đảng, Nhà
nước và các cấp bộ, ngành, các cơ quan đơn vị, các nhà khoa học quan tâm nghiên
cứu dưới nhiều góc độ khác nhau. Cho đến nay đã có rất nhiều công trình khoa học,
tác phẩm, bài viết về vấn đề đói nghèo được công bố ở trong và ngoài nước như:
2


Thứ nhất, các nghiên cứu lý luận chung về xóa đói, giảm nghèo và thực
trạng công cuộc XĐGN ở Việt Nam từ các học giả và các tổ chức nước ngoài như:
Công ty Aduki (1996): Vấn đề nghèo ở Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội;
Công trình của Liên hiệp Hội khoa học kỹ thuật ở Việt Nam (2001): Xóa đói giảm
nghèo ở vùng dân tộc thiểu số, phương pháp tiếp cận, nói lên những phương pháp
công tác, đặc biệt là công tác xóa đói, giảm nghèo ở vùng đồng bào dân tộc ít
người miền núi. Ngân hàng thế giới cũng có công trình (2003): Đói nghèo và bất
bình đẳng ở Việt Nam. Tác phẩm đã phân tích thực trạng nghèo đói ở Việt Nam và
đó là một trong những nguyên nhân dẫn tới bất bình đẳng nhiều mặt của người
nghèo; Đại học Harvard – Chương trình Châu Á (2007): “Lựa chọn thành công
bài học từ Đông Á và Đông Nam Á cho tương lai Việt Nam”, đã phân tích những
vấn đề tiềm ẩn nguy cơ xung đột xã hội ở Việt Nam dưới tác động của toàn cầu
hóa, của các chính sách phát triển thiếu hợp lý trong thời gian qua, đặt ra nguy cơ
tái nghèo đói…

Thứ hai, những công trình nghiên cứu về đói nghèo của các nhà khoa học
trong nước: TS. Trần Thị Hằng (2001): Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay, Nxb Thống kê, Hà Nội; Tác phẩm của Dương Phú
Hiệp, Vũ Văn Hòa (2004): Phân hóa giàu nghèo ở một số quốc gia Châu Á – Thái
Bình Dương, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội; Báo cáo phát triển của Việt Nam
(2000): Tấn công nghèo đói. Báo cáo của nhóm công tác chuyên gia Chính phủ Nhà tài trợ - Tổ chức phi Chính phủ, Hội nghị nhóm tư vấn các nhà tài trợ Việt
Nam, 14 - 15/12/1999. Báo cáo đã tổng kết kinh nghiệm xóa đói, giảm nghèo của
các tổ chức phi Chính phủ - Nhà tài trợ ở Việt Nam; Nguyễn Văn Thường (2004):
Một số vấn đề kinh tế xã hội Việt Nam thời kỳ đổi mới, Nxb Chính trị quốc gia, Hà
Nội, nêu lên sự nghiệp đổi mới ở Việt Nam gắn liền với xóa đói, giảm nghèo. Cùng
một chủ đề như vậy cũng có tác phẩm của Ngô Quang Minh (1999): Tác động của
kinh tế Nhà nước góp phần xóa đói, giảm nghèo trong quá trình công nghiệp hóa
hiện đại hóa, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội.
Thứ ba, những công trình nghiên cứu nguyên nhân đói nghèo ở nước ta và
đưa ra những giải pháp xóa đói, giảm nghèo: Nguyễn Đình Huấn (8/1999): Suy
3


giảm năng lực nội sinh ở nông thôn nước ta, nguyên nhân và giải pháp, Tạp chí
Nghiên cứu kinh tế; Nguyễn Thị Hằng, Trần Đình Hoan, Bùi Trọng Thanh (1997):
Vấn đề xóa đói, giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb Lao động – xã hội,
Hà Nội; Hà Quế Lâm (2002): Xóa đói, giảm nghèo ở vùng dân tộc thiểu số nước ta
hiện nay – Thực trạng và giải pháp, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội.
Thứ tư, xóa đói, giảm nghèo cũng là những đề tài học vị thạc sỹ, tiến sỹ:
Lương Thị Hồng (2015): Quá trình thực hiện chính sách xóa đói, giảm nghèo ở Việt
Nam (1991 – 2010), luận án tiến sỹ Sử học, Học viện Khoa học xã hội, Hà Nội;
Trần Đình Đàn (2002): Những giải pháp kinh tế - xã hội chủ yếu nhằm xóa đói,
giảm nghèo ở Hà Tĩnh, luận án tiến sỹ Kinh tế, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí
Minh, Hà Nội; Trần Thị Hằng (2000): Vấn đề giảm nghèo trong nền kinh tế thị
trường ở Việt Nam hiện nay, luận án tiến sỹ Kinh tế, Học viện Chính trị Quốc gia

Hồ Chí Minh, Hà Nội; Hoàng Thị Hiền (2005): Xóa đói, giảm nghèo với đồng bào
dân tộc ít người tỉnh Hòa Bình – Thực trạng và giải pháp, luận văn thạc sỹ Kinh tế,
Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Nguyễn Hoàng Lý (2005): Xóa
đói, giảm nghèo ở tỉnh Gia Lai – Thực trạng và giải pháp, luận văn thạc sỹ Kinh tế,
Học viện Chính trị quốc gia, Hà Nội; Thái Văn Hoạt (2007): Giải pháp xóa đói,
giảm nghèo trên địa bàn tỉnh Quảng Trị trong giai đoạn hiện nay, luận văn thạc sỹ
Kinh doanh và quản lý, Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Hà Nội; Mai Thị
Hà (2011): Đảng bộ huyện Nga Sơn (tỉnh Thanh Hóa) lãnh đạo thực hiện xóa đói,
giảm nghèo từ năm 2000 đến năm 2010, luận văn thạc sỹ Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam, Trung tâm đào tạo bồi dưỡng giảng viên lý luận Chính trị, Hà Nội;
Hoàng Thị Ngọc Hà (2012): Đảng bộ tỉnh Cao Bằng lãnh đạo công tác xóa đói,
giảm nghèo từ năm 2001 đến năm 2010, Luận văn thạc sỹ Lịch sử Đảng Cộng sản
Việt Nam, Đại học Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội; Trần Thị Xoa (2014):
Đảng bộ tỉnh Bắc Ninh lãnh đạo thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo từ năm
1997 đến năm 2010, Luận văn thạc sỹ Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam, Đại học
Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội.
Thứ năm, có những công trình đề cập đến chính sách của Đảng và Nhà nước
liên quan tới xóa đói, giảm nghèo: Nguyễn Thị Hằng (2001): Bàn về mục tiêu,
4


nhiệm vụ và những biện pháp lớn của công tác di dân xây dựng kinh tế mới đến
năm 2000, Nxb Nông nghiệp, Hà Nội; Lê Huy Ngọ (2001): Phát triển nông nghiệp
nông thôn miền núi trong sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa, Nxb Nông
nghiệp, Hà Nội; Ngôn Nghiệp (2004): Công tác tuyên truyền ở vùng dân tộc và
miền núi trong tình hình mới, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội; Lê Hải Đường (2004):
Đổi mới phương thức chuyển giao Khoa học và Công nghệ vào vùng dân tộc và
miền núi, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội; Hoàng Xuân Thuận (2004): Quản lý Nhà
nước về khoa học ở vùng dân tộc miền núi, Nxb Văn hóa Dân tộc, Hà Nội; Nguyễn
Anh Cường, Phạm Quốc Thành (10/2014): Xóa đói, giảm nghèo, giảm trừ bất bình

đẳng xã hôi – Kết quả và một số kinh nghiệm, Tạp chí Lịch sử Đảng, Hà Nội.
Nhìn chung các công trình nghiên cứu đã đề cập đến nhiều khía cạnh của vấn
đề xóa đói, giảm nghèo. Thực trạng nghèo đói trên thế giới và Việt Nam cũng như
nguyên nhân của nghèo đói, sự nghiệp xóa đói, giảm nghèo trên toàn quốc, ở cấp
tỉnh và một số huyện, kinh nghiệm xóa đói, giảm nghèo thành công cũng như chưa
thành công. Kết quả nghiên cứu của các công trình đó có giá trị tham khảo tốt để
thực hiện đề tài luận văn. Tuy nhiên đến nay chưa có công trình khoa học nào
nghiên cứu một cách toàn diện dưới góc độ của khoa học chuyên ngành Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam về sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương đối với
công tác xóa đói, giảm nghèo trên địa bàn huyện từ năm 1997 đến năm 2010.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng nghiên cứu
Đề tài nghiên cứu về sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương lãnh đạo
công tác xóa đói, giảm nghèo từ năm 1997 đến năm 2010.
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Về thời gian: Luận văn tập trung nghiên cứu quá trình Đảng bộ huyện Phú Lương
lãnh đạo thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo từ năm 1997 đến năm 2010.
Về không gian: Luận văn nghiên cứu về công tác xóa đói, giảm nghèo trên
địa bàn huyện Phú Lương (Thái Nguyên).
Về nội dung: Luận văn nghiên cứu chủ trương và sự chỉ đạo của Đảng bộ
huyện Phú Lương thực hiện xóa đói, giảm nghèo; những thành công và hạn chế
5


trong thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo của huyện Phú Lương từ năm 1997
đến năm 2010; những kinh nghiệm rút ra từ thực tiễn tiến hành công tác xóa đói,
giảm nghèo trên địa bàn huyện.
4. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu
4.1. Mục đích
Nghiên cứu làm rõ vai trò của Đảng bộ huyện Phú Lương (Thái Nguyên)

trong công tác xóa đói, giảm nghèo từ năm 1997 đến năm 2010; Nêu ra những
thành tựu và hạn chế, trên cơ sở đó rút ra một số kinh nghiệm trong lãnh đạo, chỉ
đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương để tiếp tục vận dụng thực hiện hiệu quả hơn chủ
trương, đường lối của Đảng về công tác xóa đói, giảm nghèo trong giai đoạn hiện
nay.
4.2. Nhiệm vụ
- Trình bày khái quát, hệ thống chủ trương của Đảng về xóa đói, giảm nghèo,
phân tích sự cần thiết khách quan phải thực hiện xóa đói, giảm nghèo.
- Làm rõ quá trình lãnh đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương (Thái Nguyên)
trong công tác xóa đói, giảm nghèo từ năm 1997 đến năm 2010.
- Đánh giá thành tựu và hạn chế, từ đó rút ra bài học kinh nghiệm từ quá
trình Đảng bộ huyện Phú Lương lãnh đạo thực hiện xóa đói, giảm nghèo trên địa
bàn huyện từ năm 1997 đến năm 2010.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
5.1. Cơ sở lý luận
Dựa trên cơ sở lý luận, thế giới quan khoa học của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh; Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam và chính sách của
Nhà nước về giải quyết các vấn đề xã hội, trực tiếp là xóa đói, giảm nghèo, nâng
cao đời sống cho nhân dân.
5.2. Phương pháp nghiên cứu
Luận văn được thực hiện chủ yếu bằng phương pháp lịch sử, phương pháp
lôgic và sự kết hợp giữa hai phương pháp đó. Ngoài ra tác giả còn sử dụng một số
phương pháp khác như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học,
khảo sát thực tiễn...
6


6. Những đóng góp về khoa học của luận văn
Luận văn hệ thống hóa tư liệu về quá trình Đảng bộ huyện Phú Lương lãnh
đạo thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo từ năm 1997 đến năm 2010.

Góp phần làm sáng tỏ những thành công, hạn chế và những bài học kinh
nghiệm trong thực hiện công tác xóa đói, giảm nghèo của Đảng bộ huyện Phú
Lương trong những năm 1997 – 2010.
Kết quả nghiên cứu của luận văn có thể là nguồn tài liệu về quá trình Đảng
bộ huyện Phú Lương lãnh đạo thực hiện xóa đói, giảm nghèo nói riêng, tư liệu lịch
sử về huyện Phú Lương nói chung và làm cơ sở để đưa công tác xóa đói, giảm
nghèo trong giai đoạn tiếp theo thành công hơn.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục, nội
dung của luận văn gồm 3 chương.
Chương 1: Quan niệm chung về xóa đói, giảm nghèo và những thuận lợi, khó
khăn trong thực hiện xóa đói, giảm nghèo ở huyện Phú Lương (Thái Nguyên).
Chương 2: Chủ trương và quá trình chỉ đạo của Đảng bộ huyện Phú Lương
(Thái Nguyên) thực hiện xóa đói, giảm nghèo từ năm 1997 đến năm 2010.
Chương 3: Nhận xét và một số kinh nghiệm.

7


NỘI DUNG
Chương 1
QUAN NIỆM CHUNG VỀ XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO VÀ NHỮNG
THUẬN LỢI, KHÓ KHĂN TRONG THỰC HIỆN XÓA ĐÓI, GIẢM NGHÈO
Ở HUYỆN PHÚ LƯƠNG (THÁI NGUYÊN)
1.1. Quan niệm về chung về xóa đói, giảm nghèo
1.1.1. Quan niệm về đói nghèo
Đói nghèo là vấn đề xã hội mang tính toàn cầu. Cho đến nay, đói nghèo vẫn
là nỗi ám ảnh đối với các quốc gia trên thế giới. Loài người chúng ta đã chứng kiến
những thảm họa của các cuộc chiến tranh tàn sát, thiên tai, dịch bệnh và những hậu
quả do nạn đói gây ra vô cùng khủng khiếp. Vấn nạn đói nghèo không những cướp

đi nhiều sinh mạng, làm cho hàng triệu người không được hưởng thụ những thành
quả của nền văn minh tiến bộ mà còn gây ra hậu quả nghiêm trọng về kinh tế, xã
hội đối với sự phát triển, tàn phá môi trường sinh thái.
Vấn đề đói nghèo nếu không được giải quyết thì không một mục tiêu nào của
thế giới cũng như quốc gia đặt ra như tăng trưởng kinh tế, cải thiện đời sống, ổn
định hòa bình, công bằng, bình đẳng, bảo đảm các quyền con người được thực hiện.
Rõ ràng vấn đề xóa đói, giảm nghèo trở thành vấn đề toàn cầu phải được quan tâm,
chú ý và giải quyết.
Khái niệm đói nghèo có thể tách ra, phân tích và nhận dạng giữa đói và nghèo:
Đói là tình trạng một bộ phận dân cư nghèo có mức sống dưới mức tối thiểu
và thu nhập không đủ đảm bảo nhu cầu về vật chất để duy trì cuộc sống. Sự nghèo
khổ, sự bần cùng được biểu hiện là đói là tình trạng con người không có cái ăn, ăn
không đủ lượng dinh dưỡng tối thiểu cần thiết để duy trì sự sống hàng ngày và
không đủ sức để lao động để tái sản xuất sức lao động. Về mặt năng lượng nếu
trong một ngày, con người chỉ được thỏa mãn mức 1500calo/ngày thì đó là thiếu
đói, dưới mức đó là đói gay gắt. Đó là các hộ dân cư hàng năm thiếu ăn, đứt bữa từ
một đến ba tháng, thường vay mượn cộng đồng và thiếu khả năng chi trả. Giá trị đồ
dùng trong nhà không đáng kể, nhà ở dột nát, con thất học, bình quân thu nhập dưới

8


13kg gạo/người/tháng (tương đương 45.000 VND) (1998 – 2000). Đói nghèo ở
nước ta, ngoài những đặc điểm xét về phương diện kinh tế còn có những đặc điểm
về phương diện xã hội.
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có những điều kiện thỏa mãn
những nhu cầu tối thiểu và cơ bản nhất trong cuộc sống và có mức thu nhập thấp
hơn mức sống của cộng đồng xét trên mọi phương diện: ăn, mặc, ở, vệ sinh, giáo
dục, y tế và nhiều nhu cầu khác. Theo cách hiểu khác: Nghèo là một bộ phận dân cư
có mức sống dưới ngưỡng quy định của sự nghèo. Nhưng ngưỡng nghèo còn phụ

thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng địa phương, từng thời kỳ, từng giai đoạn phát
triển kinh tế - xã hội cụ thể của từng địa phương hay từng quốc gia.
Nghèo chia thành nhiều mức khác nhau: nghèo tuyệt đối, nghèo tương đối,
nghèo có nhu cầu tối thiểu. Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc
diện nghèo không có khả năng thỏa mãn nhu cầu tối thiểu của cuộc sống như: ăn,
mặc, ở, đi lại…Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân cư thuộc diện nghèo,
có mức sống dưới mức sống trung bình của cộng đồng và địa phương đang xét.
Nghèo có nhu cầu tối thiểu là tình trạng một bộ phận dân cư có những đảm bảo tối
thiểu để duy trì cuộc sống như đủ ăn, đủ mặc, đủ ở và một số sinh hoạt hàng ngày
nhưng ở mức tối thiểu.
Trên đây là những khái niệm chung nhất, phương pháp đánh giá, nhận diện
nét chủ yếu, phổ biến về nghèo đói, trọng tâm của vấn đề là nhu cầu của con
người. Tuy vậy, trong khái niệm chưa thể hiện rõ chuẩn mực đánh giá về mặt định
lượng, chưa tính đến sự khác biệt, chênh lệch giữa các vùng lãnh thổ, quốc gia,
các điều kiện cụ thể; sự phát triển của sản xuất, tăng cường kinh tế làm tăng thêm
nhu cầu của đời sống con người, tạo ra những biến đổi của xã hội. Do đó khái
niệm về “nghèo” và “đói nghèo” cũng biến động theo nó. Thực tế cho thấy các chỉ
số xác định đói nghèo thường được gắn liền với điều kiện kinh tế - xã hội, hiện
tượng đói nghèo có tính lịch sử và đang có sự biến động trong sự vận động chung
của đất nước.
Ở nước ta, việc xác định chuẩn nghèo luôn thay đổi theo từng thời kỳ. Bộ Lao
động – Thương binh và Xã hội là cơ quan được Chính phủ giao trách nhiệm nghiên
9


cứu và xem xét chuẩn mực nghèo đói của cả nước qua từng thời kỳ. Chuẩn mực nghèo
đói là một khái niệm động, phụ thuộc vào phương pháp tiếp cận, điều kiện kinh tế và
thời gian, từ đó xác lập được chuẩn mực đói nghèo.
Năm 1996 chuẩn mực đói nghèo được đánh giá như sau:
Bảng 1: Chuẩn mực đói nghèo năm 1996

Thu nhập bình quân đầu
Loại hộ

người/tháng

Địa bàn

Hiện vật
kg gạo/người

Nông thôn miền núi,

Dưới 15kg

< 60.000

Dưới 20kg

< 80.000

Thành Thị

Dưới 25kg

< 100.000

Cả nước

Dưới 13kg


< 52.000

hải đảo
Nghèo

Nông

thôn

đồng

bằng, trung du
Đói

Giá trị đồng

(Nguồn: Bộ Lao động – Thương binh và xã hội năm 1996)
Chuẩn mực đói nghèo năm 1997 được đánh giá tại quy định số 1751/LĐTBXH
ngày 20/5/1997 của Bộ Lao động – Thương binh và Xã hội như sau:
Hộ đói: là hộ có mức thu nhập bình quân một người trong hộ một tháng quy
ra gạo dưới 13kg, tương đương với 45.000 đồng /người/tháng (tính cho mọi vùng)
Hộ nghèo: Là những hộ có mức thu nhập bình quân quy ra gạo: vùng nông
thôn miền núi, hải đảo dưới 15kg/người/tháng (tương đương với 70.000 đồng);
vùng nông thôn đồng bằng, trung du dưới 20kg/người/tháng; vùng thành thị dưới
25kg/người/tháng (tương đương với 90.000 đồng). Chuẩn mực này áp dụng đến hết
năm 2000.
Từ ngày 1/1/2001 nước ta áp dụng chuẩn nghèo mới theo quyết định số
1143/2000 của Bộ Lao động -Thương binh và Xã hội:
Vùng nông thôn miền núi và hải đảo: Hộ nghèo là những hộ có thu nhập bình
quân dưới 80.000 đồng/người/tháng, tương đương với 960.000 đồng/người/năm.


10


Vùng nông thôn đồng bằng: Hộ nghèo là những hộ có mức thu nhập dưới
100.000 đồng/người/, tương đương với 1.200.000 đồng/người/năm.
Vùng thành thị: Hộ nghèo là hộ có mức thu nhập bình quân dưới 150.000
đồng/người/tháng, tương tương với 1.800.000 đồng/người/năm.
Chuẩn mực nghèo đói năm 2003 được đánh giá như sau:
Hộ đói: Ở nông thôn là những hộ có thu nhập bình quân dưới 8kg
gạo/người/tháng; Ở thành thị là những hộ có thu nhập bình quân dưới 13kg
gạo/người/tháng.
Hộ nghèo: Ở nông thôn là những hộ có mức thu nhập bình quân dưới 13kg
gạo/người/tháng; Ở thành thị là những hộ có thu nhập bình quân dưới 18kg
gạo/người/tháng.
Theo quyết định số 170/2005/QĐ – TTg của Thủ tướng Chính phủ, thì
chuẩn nghèo mới được áp dụng cho giai đoạn 2006 – 2010 được áp dụng như sau:
Khu vực thành thị: 260.000 đồng/người/tháng.
Khu vực nông thôn (cho cả miền núi và đồng bằng): 200.000
đồng/người/tháng.
Chuẩn nghèo đói Việt Nam do Tổng cục Thống kê và Bộ Lao động –
Thương binh và Xã hội đưa ra ở các giai đoạn khác nhau, đây là những chuẩn nghèo
quốc gia. Chuẩn nghèo được xác định dựa trên nhiều yếu tố nhưng trong đó thu
nhập theo đầu người/tháng (được tính bằng VNĐ hoặc tương đương kg gạo) là chỉ
tiêu hàng đầu.
Bảng 2: Chuẩn nghèo của Việt Nam qua các giai đoạn
Thu nhập theo đầu người/tháng
Giai đoạn

1996 – 2000

2001 – 2005
2006 – 2010

Nông thôn miền

Nông thôn đồng

núi, hải đảo

bằng, trung du

<55.000 ~

<70.000 ~

< 90.000 ~

< 15kg gạo

< 20kg gạo

< 25kg gạo

< 80.000

<100.000

< 150.000

< 200.000

(Nguồn: Tạp chí khoa học, số 2, 2007)

11

Thành phố

< 260.000


Như vậy, chuẩn nghèo đói luôn thay đổi biến động, phụ thuộc vào phương
pháp, cách tiếp cận, điều kiện kinh tế - xã hội và thời gian.
Đói nghèo là hậu quả của nhiều nguyên nhân, nhưng những nguyên nhân
chính gây ra đói nghèo có thể phân chia theo 3 nhóm:
Nhóm nguyên nhân do điều kiện kinh tế - xã hội: khí hậu khắc nghiệt, thiên
tai, bão lụt, hạn hán, đất đai cằn cỗi, địa hình phức tạp, giao thông khó khăn, kinh tế
chậm phát triển, hậu quả chiến tranh để lại.
Nguyên nhân chủ quan của người nghèo: thiếu kiến thức làm ăn, thiếu vốn,
đông con, thiếu lao động, không có việc làm, mắc các tệ nạn xã hội hay lười lao động.
Nhóm nguyên nhân thuộc về cơ chế chính sách: thiếu hoặc không đồng bộ về
chính sách đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng cho các khu vực khó khăn; chính sách
khuyến khích sản xuất; vốn tín dụng, hướng dẫn cách làm ăn, khuyến nông – lâm –
ngư nghiệp, chính sách trong giáo dục, đào tạo, y tế…
Đói nghèo là hiện tượng kinh tế xã hội, nó ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống
của cả cộng đồng xã hội, phổ biến ở mọi quốc gia nhưng không hề giải quyết triệt để
vấn đề này trong một thời gian ngắn và trên quy mô toàn xã hội. Vì vậy, vấn đề xóa
đói, giảm nghèo chỉ có thể giải quyết dần từng bước và là cả một quá trình lâu dài.
1.1.2. Quan niệm về xóa đói, giảm nghèo
Quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về xóa đói, giảm nghèo:
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã đi vào lịch sử như một lãnh tụ tối cao của Đảng
và của dân tộc, người thầy vĩ đại của cách mạng Việt Nam, nhà hoạt động lỗi lạc

của phong trào giải phóng dân tộc, phong trào cộng sản và công nhân quốc tế,
người bạn của các dân tộc bị áp bức và nhân loại của thế kỷ XX. Lịch sử dân tộc
và lịch sử nhân loại sẽ mãi mãi ghi nhớ tên tuổi chói lọi Hồ Chí Minh – Anh hùng
giải phóng dân tộc, danh nhân văn hóa thế giới. Những di sản của Người sẽ sống
mãi với thời gian, với cuộc đấu tranh cho hòa bình, độc lập dân tộc, dân chủ và
tiến bộ xã hội, cho quyền được sống và được hưởng tự do, hạnh phúc của các dân
tộc, của mỗi con người.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin vào
điều kiện cụ thể của cách mạng Việt Nam. Do đó, tư tưởng nhân văn Hồ Chí Minh
12


đối với con người, đặc biệt là những người nghèo khổ xuất phát từ quan điểm Mác
xít về con người và giải phóng con người. Chủ tịch Hồ Chí Minh khi còn niên thiếu
đã sớm hiểu biết và rất đau xót trước cảnh thống khổ của đồng bào. Lúc bấy giờ,
Người đã có chí đuổi thực dân Pháp, giải phóng dân tộc. Với tình yêu thương đồng
bào phải chịu cảnh nước mất, nhà tan, Người đã ra đi tìm đường cứu nước, giải phóng
dân tộc. Trong hành trang ra đi tìm đường cứu nước của Hồ Chí Minh, yêu nước và
thương dân là hai yếu tố quan trọng nhất. Người đã từng khẳng định rằng: Lòng yêu
nước của tôi với nhân dân và nhân loại không bao giờ thay đổi. Đó chính là sự đồng
cảm của những con người cùng cảnh ngộ, những người dân mất nước, nô lệ lầm than.
Chăm lo đời sống của nhân dân chính là chăm lo đến lợi ích của họ. Hồ Chí
Minh trong tư tưởng cũng như trong hành động, luôn xuất phát từ nhu cầu, lợi ích
của người lao động. Khi cách mạng mới thành công, tại phiên họp ngày 3/9/1945
của Hội đồng Chính phủ, Hồ Chí Minh đã đề ra 6 nhiệm vụ cấp bách, trong đó có
nhiệm vụ chống nạn đói. Điều này thể hiện bản chất của Chính quyền cách mạng và
tình yêu thương của Bác đối với những người nghèo khổ. Người đã kêu gọi đồng
bào cả nước “Sẻ cơm nhường áo”: “Hỡi đồng bào yêu quý! Từ tháng giêng đến
tháng bảy năm nay, ở Bắc Bộ nước ta đã có 2 triệu người chết đói. Kế đó lại bị nước
lũ, nạn đói càng tăng lên, nhân dân càng khốn khổ. Lúc chúng ta nâng bát cơm lên

mà ăn, nghĩ đến kẻ đói khổ, chúng ta không khỏi động lòng” [33, tr. 31]. Trong bài
phát biểu tại cuộc họp đầu tiên của Ủy ban nghiên cứu kế hoạch kiến quốc (thành
lập ngày 31/12/1945), Hồ Chí Minh nhấn mạnh: “…Chúng ta giành được tự do, độc
lập rồi mà dân cứ chết đói, chết rét thì tự do, độc lập cũng không để làm gì. Dân chỉ
biết rõ giá trị của tự do, của độc lập khi mà dân được ăn no, mặc đủ. Chúng ta phải
thực hiện ngay:
Làm cho dân đủ ăn
Làm cho dân đủ mặc
Làm cho dân có chỗ ở
Làm cho dân được học hành
Cái mục đích chúng ta đi đến là bốn điều đó. Đi đến để dân nước ta xứng với
tự do, độc lập và giúp sức cho tự do, độc lập” [33, tr. 152]. Bác còn ra lời kêu gọi mọi
13


người giúp đỡ người nghèo: “Tôi xin đề nghị với đồng bào cả nước và tôi xin thực
hiện trước: Cứ mười ngày nhịn ăn một bữa, mỗi tháng nhịn ăn ba bữa. Đem gạo đó
(mỗi bữa một bơ) để cứu dân nghèo” [33, tr. 31]. Bằng tình yêu thương với những
người nghèo khổ, Người đã gương mẫu thực hành tiết kiệm để cứu đói. Nhờ vậy mà
phong trào “sẻ cơm nhường áo” đã thu hút đông đảo nhân dân cả nước tham gia.
Chính sách độc ác của phát xít Nhật và thực dân Pháp như: ép thu thóc, bắt
nhổ lúa trồng đay đã làm cho hơn 2 triệu đồng bào Bắc Bộ bị chết đói vào cuối năm
1944 đầu năm 1945, kế đó lại bị lụt, bị hạn, lại bị bọn thực dân Pháp gây chiến
tranh ở Nam Bộ làm cho việc đem gạo từ Nam ra Bắc gặp rất nhiều khó khăn. Nạn
đói cũng hết sức nguy hiểm. Muốn chống giặc đói cũng phải huy động và tổ chức
tất cả lực lượng của đồng bào cả nước: “Nạn đói đã đến rồi. Nếu chúng ta không lập
tức tìm hết mọi cách để chống nó thì trong vài tháng nữa, nạn đói sẽ đè lên đầu dân
ta” [33, tr. 93]. Người đã đề ra một số cách chống đói như: cấm nấu rượu, vùng này
san sẻ thức ăn cho vùng khác, ra sức tăng gia trồng trọt các loại cây ngắn ngày. Nói
tóm lại, bất cứ cách gì, hễ làm gì cho dân ta đỡ đói lúc này và ngăn ngừa nạn đói

mùa sau chúng ta đều phải làm cả. Theo Người: “Công việc chống đói cũng như
công việc to lớn khác, phải kiên quyết, phải phấn đấu, phải sẵn sàng hy sinh, phải
đoàn kết nhất trí. Ví dụ: cấm nấu rượu gạo, cấm bánh ngọt trong mấy tháng thì
những người có nghề đó chắc phải thiệt thòi. Nhưng các đồng bào đó cũng sẵn lòng
hy sinh lợi ích của mình để cứu cho đồng bào khỏi nạn đói. Chắc không ai thấy
đồng bào chết đói mà nỡ lòng no ấm một mình” [34, tr. 94].
Người cho rằng: “Chống nạn đói cũng như chống một cuộc ngoại xâm, ta nhất
định thành công vì đồng bào ta ai cũng sẵn lòng hăng hái. Nhưng các bạn phụ trách
các địa phương phải biết cách tuyên truyền, biết cách giải thích cho ai nấy đều hiểu
rõ, đều thực hành. Các bạn phải có sáng kiến để tìm ra cách được việc mà không mất
lòng dân. Nhất là đối với chữ Cần, chữ Kiệm, chữ Hy sinh, chữ Công bằng thì các
bạn phải thực hành trước; phải làm gương cho dân chúng noi theo” [34, tr. 94].
Trong “Lời kêu gọi nhân dịp phát động phong trào sản xuất và tiết kiệm”
(3/1952), Hồ Chủ Tịch đã nói: “Lâu nay, chúng ta đòi hỏi nhân dân đóng góp. Từ
14


đây, chúng ta phải ra sức hướng dẫn và giúp đỡ nhân dân hơn nữa trong việc sản
xuất và tiết kiệm, cải thiện đời sống nhân dân, để làm cho dân giàu, nước mạnh. Có
như thế nhân dân mới càng thấy Chính phủ hết lòng, hết sức phục vụ nhân dân” [34,
tr. 441]. Như vậy, xuất phát từ bản chất của chế độ ta và nhạy cảm trước nhu cầu
cấp thiết của nhân dân, Người đã đưa ra nhiều chính sách và giúp đỡ nhân dân hơn
nữa trong sản xuất và tiết kiệm.
Bài nói chuyện tại Hội nghị sản xuất cứu đói (13/6/1955), Người đã nói:
“Tục ngữ có câu: “Dân dĩ thực vi thiên” nghĩa là dân lấy ăn làm trời, nếu không có
ăn là không có trời. Lại có câu: “Có thực mới vực được đạo” nghĩa là không có ăn
thì chẳng làm được việc gì cả. Vì vậy, chính sách của Đảng và Chính phủ là phải
hết sức chăm nom đến đời sống của nhân dân. Nếu dân đói là Đảng và Chính phủ
có lỗi, nếu dân rét là Đảng và Chính phủ có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và Chính phủ
có lỗi, nếu dân ốm là Đảng và Chính phủ có lỗi” [35, tr. 572]. Bác luôn là người

quan tâm, chăm lo cho dân từ “miếng cơm manh áo”. Người hiểu rõ những nhu cầu
thiết yếu của họ, từ đó đã thu phục được lòng dân và tập hợp được sức mạnh của
quần chúng nhân dân đoàn kết đấu tranh xây dựng và bảo vệ tổ quốc. “Vì vậy cán
bộ Đảng và Chính quyền từ trên xuống dưới đều phải hết sức quan tâm đến đời
sống của nhân dân, phải lãnh đạo, tổ chức, giáo dục nhân dân tăng gia sản xuất và
tiết kiệm. Nếu dân đủ ăn, đủ mặc thì những chính sách của Đảng và Chính phủ đưa
ra sẽ dễ dàng thực hiện. Nếu dân đói, rét, dốt, bệnh thì chính sách của ta dù có hay
mấy cũng không thực hiện được” [35, tr. 572]. Vì vậy: “Phải biết giáo dục, lãnh
đạo, giúp đỡ nhân dân tham gia sản xuất và tiết kiệm. Phải tiết kiệm là vì nếu được
bữa nào xào bữa ấy thì sẽ thiếu vốn. Nếu cán bộ khéo léo lãnh đạo và thiết thực
giúp đỡ đồng bào và đồng bào cố gắng tăng gia sản xuất và tiết kiệm thì dân sẽ no
ấm, mọi việc trôi chảy, thuế khóa dễ thu, tài chính dồi dào, dân no thì nước giàu”
[35, tr. 572]. Người đã chỉ ra cách làm cụ thể để tăng gia sản xuất và thực hành tiết
kiệm nhằm chăm lo đến đời sống của nhân dân: “Vì nước ta là một nước nông
nghiệp, mọi việc đều dựa vào nông nghiệp…cho nên chính sách tăng gia sản xuất
và tiết kiệm là chính sách căn bản của chúng ta. Tăng gia sản xuất và tiết kiệm để
nâng cao đời sống của nhân dân, khôi phục kinh tế, mở mang văn hóa và đề phòng
đói, chống đói” [35, tr. 572-573].
15


Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam, chủ tịch Hồ Chí Minh là
nhà lãnh đạo kiệt xuất, nhà tư tưởng vĩ đại, một tấm gương trong sáng về đạo đức,
lối sống, tấm gương tiêu biểu về tính nhất quán quyết tâm thực hiện xóa đói, giảm
nghèo, không những chỉ riêng trong nước mà mong muốn của Người là xóa đói
khổ cho tất cả mọi người trên thế gian. Trước lúc đi xa Người vẫn không thôi canh
cánh bên lòng mối quan tâm đến con người và căn dặn: “Đảng cần phải có kế
hoạch thật tốt để phát triển kinh tế và văn hóa, nhằm không ngừng nâng cao đời
sống của nhân dân”. “Toàn Đảng, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu, xây dựng một
nước Việt Nam hòa bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và giàu mạnh, góp phần

xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng thế giới” [36, tr. 500].
Tư tưởng của Hồ Chí Minh về chống đói nghèo đã được Đảng ta phát triển
thành đường lối chiến lược toàn diện về tăng trưởng kinh tế và xóa đói, giảm nghèo
với mục tiêu xây dựng một nước Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”.
Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xóa đói, giảm nghèo:
Dưới ánh sáng của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh Đảng ta
đã quyết tâm, kiên định đi theo con đường chủ nghĩa xã hội, xây dựng một chế độ
xã hội mới vì con người, phấn đấu vì mục tiêu cao cả dân giàu, nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Không chỉ chú trọng đúng mức đến vấn đề xóa đói,
giảm nghèo trong xã hội, với nhãn quan chính trị nhạy bén và với trách nhiệm cao
cả trước nhân dân, Đảng đã đưa ra chương trình mục tiêu quốc gia “xóa đói, giảm
nghèo”. Trên cơ sở đó nhà nước đã có 14 chương trình cấp quốc gia và dự án đang
được thực thi có nội dung gắn với xóa đói, giảm nghèo.
Xóa đói, giảm nghèo vừa là nhiệm vụ lâu dài vừa là nhiệm vụ trọng tâm
trước mắt. Trước đổi mới, với cơ chế quản lý tập trung, quan liêu bao cấp, mặc dù
thu nhập và đời sống của các tầng lớp dân cư phần nào được cải thiện, nhưng vẫn có
hơn 70% dân số nghèo. Sau Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng
(12/1986), chúng ta đổi mới cơ chế quản lý kinh tế, chuyển từ bao cấp sang phát
triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần, vận hành theo cơ chế thị trường có sự
quản lý của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, nền kinh tế nước ta bắt đầu
16


có bước phát triển, đem lại sự phát triển năng động trong sản xuất kinh doanh, dịch
vụ và lĩnh vực khác của đời sống xã hội. Khi chuyển sang nền kinh tế thị trường nảy
sinh những mặt tiêu cực cần chú ý giải quyết như sự phân hóa giàu nghèo gây nên
bất bình đẳng trong xã hội, cho nên xóa đói, giảm nghèo là nội dung và nhiệm vụ
cần thực hiện để đảm bảo công bằng xã hội. Thực tiễn cho thấy có nhiều nguyên
nhân nảy sinh nghèo đói, do đó việc XĐGN được Đảng và nhà nước ta đặc biệt

quan tâm, coi đó là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, vừa là nhiệm vụ trọng tâm trước mắt
trong quá trình phát triển kinh tế xã hội ở nước ta.
Chủ trương xóa đói, giảm nghèo của Đảng Cộng sản Việt Nam lần đầu tiên
được đề cập trong Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng
(9/1991). Nghị quyết chỉ rõ: Cùng với quá trình đổi mới, tăng trưởng kinh tế phải
tiến hành công tác XĐGN, thực hiện công bằng xã hội, tránh sự phân hóa giàu
nghèo quá giới hạn cho phép.
Cương lĩnh xây dựng đất nước đang trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
được Đại hội VII thông qua đã khẳng định: “Phương hướng lớn của chính sách xã
hội là phát huy nhân tố con người trên cơ sở bảo đảm công bằng, bình đẳng quyền
lợi và nghĩa vụ của công dân; kết hợp tốt tăng trưởng kinh tế với tiến bộ xã hội và
công bằng xã hội; giữa đời sống vật chất và đời sống tinh thần; giữa đáp ứng các nhu
cầu trước mắt với chăm lo lợi ích lâu dài; giữa cá nhân với tập thể và cộng đồng xã
hội” [26, tr. 139]. Đến hội nghị Trung ương lần thứ 5 khóa VII đã chủ trương: Trợ
giúp người nghèo bằng cách cho vay vốn, hướng dẫn cách cho vay vốn, hướng dẫn
cách làm ăn, hình thành quỹ xóa đói, giảm nghèo ở các địa phương trên cơ sở dân
giúp dân, Nhà nước giúp dân và tranh thủ các nguồn tài trợ quốc tế, phấn đấu tăng
hộ giàu đi đôi với XĐGN. Hội nghị đã đưa ra tiếp tục đổi mới và phát triển mạnh mẽ
kinh tế xã hội nông thôn, do đó phải khuyến khích mọi người làm giàu hợp pháp, đi
đôi với XĐGN, phấn đấu để mọi gia đình đều khá giả, đủ ăn, thu hẹp diện nghèo,
vùng nghèo. Hưởng ứng phong trào XĐGN từ đó đề ra những giải pháp phù hợp để
xóa đói, giảm nghèo, chuyển từ trợ giúp bằng bao cấp sang giáo dục, thuyết phục,
kèm cặp, hỗ trợ để người nghèo cùng cộng đồng tự chủ vươn lên làm ăn khá giỏi,
thực hiện một bước công bằng xã hội.
17


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã đề ra mục tiêu cụ thể
cho công tác xóa đói, giảm nghèo đến năm 2000 là giảm tỷ lệ hộ nghèo của cả
nước từ 20-25% hiện nay xuống còn khoảng 10% vào năm 2000, bình quân giảm

300.000 hộ/năm. Trong 2-3 năm đầu của kế hoạch 5 năm tập trung xóa cơ bản nạn
đói kinh niên. Để triển khai Nghị quyết Đại hội VIII của Đảng, Chính phủ đã đưa
ra chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói, giảm nghèo theo Nghị quyết số
133/1998/QĐ-TTg ngày 23/7/1998 của Thủ tướng Chính phủ. Chương trình 133
chỉ rõ: Nhà nước và các cấp Bộ ngành sẽ tiến hành hỗ trợ đầu tư cơ sở hạ tầng cho
xã nghèo; giải quyết đất canh tác, định cư, di dân vào vùng kinh tế mới; hỗ trợ
đồng bào đặc biệt khó khăn; hỗ trợ sản xuất phát triển ngành nghề; hỗ trợ người
nghèo trong giáo dục và đào tạo; hướng dẫn cách làm ăn cho người nghèo kết hợp
với khuyến nông, khuyến ngư; đào tạo cán bộ làm công tác xóa đói, giảm nghèo;
tín dụng ưu đãi đối với hộ nghèo.
Tiếp đó là quyết định số 135/1998/QĐ-TTg ngày 31/7/1998 của Thủ tướng
Chính phủ phê duyệt Chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó
khăn miền núi. Chương trình 135 nêu rõ: mục tiêu cuả giai đoạn 1998 – 2000 về cơ
bản không còn các hộ đói kinh niên, mỗi năm giảm được 4 – 5% hộ nghèo; bước
đầu cung cấp cho đồng bào có nước sinh hoạt, thu hút phần lớn trẻ em trong độ tuổi
đến trường; kiểm soát được một số bệnh hiểm nghèo, có đường giao thong dân sinh
đến các trung tâm cụm xã, phần lớn đồng bào được hưởng thụ văn hóa thông tin.
Chương trình 135 có đóng góp rất quan trọng vào việc nâng cao đời sống vật chất,
tinh thần cho nhân dân vùng sâu, vùng xa, tạo điều kiện thuận lợi để các vùng này
từng bước thoát khỏi tình trạng đói nghèo, lạc hậu, chậm phát triển, góp phần đảm
bảo trật tự an toàn xã hội và an ninh quốc phòng. Để đạt được mục tiêu đó trước hết
cần phải thực hiện 5 nhiệm vụ chủ yếu là: Quy hoạch dân cư; phát triển sản xuất;
xây dựng trung tâm cụm xã; xây dựng cơ sở hạ tầng thiết yếu; đào tạo cán bộ.
Tháng 11/1999 Chính phủ đã tổ chức Hội nghị quốc gia về xóa đói, giảm nghèo.
Sau Hội nghị Chính phủ đã chỉ đạo phân công cán bộ, đoàn thể và các tỉnh khác
giúp các tỉnh nghèo, khuyến khích các cơ quan, xí nghiệp, tổng công ty nhận giúp
xã, huyện xóa đói, giảm nghèo.
18



×