Tải bản đầy đủ (.pdf) (109 trang)

đảng bộ huyện kim thành lãnh đạo thực hiện xóa đói giảm nghèo tu nam 1997 den nam 2007

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.73 MB, 109 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

——————————————

NGUYỄN VĂN TUÂN

ĐẢNG BỘ HUYỆN KIM THÀNH (TỈNH HẢI DƢƠNG)
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2007

LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

HÀ NỘI - 2010


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRUNG TÂM ĐÀO TẠO, BỒI DƢỠNG GIẢNG VIÊN LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ

——————————————

NGUYỄN VĂN TUÂN

ĐẢNG BỘ HUYỆN KIM THÀNH (TỈNH HẢI DƢƠNG)
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2007

Chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số:

60 22 56



LUẬN VĂN THẠC SĨ LỊCH SỬ

Ngƣời hƣớng dẫn khoa học: PGS, TS. Lê Văn Yên

HÀ NỘI - 2010


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ............................................................................................................. 1

Chương 1. QUAN NIỆM VỀ XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO VÀ ĐẶC ĐIỂM ĐỊA
LÝ, KINH TẾ - XÃ HỘI HUYỆN KIM THÀNH (TỈNH HẢI DƯƠNG) ...... 8
1.1. Quan niệm về đói nghèo và chủ trương của Đảng về xóa đói,
giảm nghèo ......................................................................................... 8
1.1.1. Quan niệm về đói nghèo ......................................................... 8
1.1.2. Tình hình đói nghèo và chủ trương của Đảng ....................... 17
1.2. Một số đặc điểm địa lý, kinh tế - xã hội huyện Kim Thành (tỉnh
Hải Dương) ...................................................................................... 24
1.2.1. Tình hình kinh tế - xã hội huyện Kim Thành trước năm
1997 ..................................................................................... 24
1.2.2. Đặc điểm địa lý, kinh tế - xã hội huyện Kim Thành (tỉnh
Hải Dương) từ năm 1997 đến năm 2007 ............................... 28
Chương 2. CHỦ TRƯƠNG VÀ SỰ CHỈ ĐẠO THỰC HIỆN XOÁ ĐÓI, GIẢM
NGHÈO CỦA ĐẢNG BỘ HUYỆN KIM THÀNH (TỈNH HẢI DƯƠNG)
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2007 ............................................................................ 32

2.1. Chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện xoá đói, giảm nghèo của
Đảng bộ huyện Kim Thành những năm 1997-2001 .......................... 32
2.1.1. Chủ trương của Đảng bộ huyện Kim Thành về xóa đói,

giảm nghèo 1997-2001 ........................................................ .32
2.1.2. Quá trình chỉ đạo của Đảng bộ huyện Kim Thành thực hiện
xoá đói, giảm nghèo 1997 -2001 ........................................... 34
2.2. Chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện xoá đói, giảm nghèo của
Đảng bộ huyện Kim Thành những năm 2001-2007 .......................... 44
2.2.1. Chủ trương của Tỉnh uỷ Hải Dương và Đảng bộ huyện
Kim Thành về xoá đói, giảm nghèo ...................................... 44
2.2.2. Quá trình chỉ đạo thực hiện xoá đói, giảm nghèo của
Đảng bộ huyện Kim Thành (tỉnh Hải Dương) những năm
2001-2007 ............................................................................ 48
Chương 3. KẾT QUẢ VÀ KINH NGHIỆM......................................................... 65
3.1. Thành tựu, hạn chế ........................................................................... 65


3.1.1. Thành tựu và nguyên nhân.................................................... 65
3.1.2. Hạn chế ................................................................................ 72
3.2. Kinh nghiệm..................................................................................... 75
3.2.1. Để thực hiện tốt Chương trình xoá đói, giảm nghèo phải
làm chuyển biến nhận thức thông suốt trong nội bộ Đảng
đến quần chúng từ cấp huyện đến cấp xã, thôn về chủ
trương xoá đói, giảm nghèo .................................................. 76
3.2.2. Đảng bộ và chính quyền địa phương phải làm tốt công
tác tuyên truyền vận quần chúng nhân dân tham gia ............. 77
3.2.3. Đảng bộ, các cấp, các ngành phải kịp thời đưa ra các giải
pháp thích hợp trợ giúp và các chính sách chăm lo cho
người dân kịp thời ..................................................................78
3.2.4. Đảng bộ và chính quyền địa phương phải nâng cao năng
lực thực hiện và kịp thời nhân rộng mô hình, cá nhân, tập
thể điển hình về công tác xoá đói, giảm nghèo ..................... 79
3.2.5. Tìm ra những thế mạnh của từng hộ, địa phương để tìm ra

nguyên nhân và giải pháp, phối kết hợp nhiều biện pháp
cùng một lúc ......................................................................... 80
KẾT LUẬN ....................................................................................................... 82
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................... 86
PHỤ LỤC .......................................................................................................... 95


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Nhân loại đang bước vào thế kỷ XXI nhưng đói nghèo đã và đang là
một thách thức lớn, mang tính cấp bách toàn cầu. Ngay cả những nước có nền
kinh tế phát triển cao vẫn còn không ít bộ phận dân cư sống ở dưới mức
nghèo khổ. Đối với mỗi quốc gia, đói nghèo đang là một cản trở lớn cho sự
phát triển về kinh tế, là nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự bất ổn định về chính
trị - xã hội. Vì vậy, đói nghèo không chỉ là vấn đề kinh tế, mà còn là vấn đề
xã hội mà không một quốc gia, địa phương nào không quan tâm đến chính
sách đói nghèo trong quá trình phát triển của mình. Nhận thức được tác hại vô
cùng to lớn của đói nghèo, các quốc gia trên thế giới đều phải tìm các biện
pháp khác nhau để khắc phục tình trạng đói nghèo của nước mình. Vì thế, các
nhà lãnh đạo của các quốc gia, các tổ chức quốc tế luôn giành sự quan tâm
đặc biệt cho vấn đề này.
Đối với nước ta, công tác xoá đói, giảm nghèo được coi là một chủ
trương, một chính sách xã hội rộng lớn, thu hút sự quan tâm của Đảng, Nhà
nước và đông đảo quần chúng nhân dân ta. Ngay sau khi Cách mạng Tháng
Tám năm 1945 thành công, Đảng ta đứng đầu là Chủ tịch Hồ Chí Minh đã
xác định đói nghèo là một trong ba thứ giặc cần phải chống. Người nói: “Giặc
đói sắp theo gót giặc Pháp để chôn vùi dân ta” [42, tr.85]. Trong Lời kêu gọi
thi đua ái quốc, Người đã chỉ ra mục đích đầu tiên của thi đua ái quốc là “diệt
giặc đói” và cách diệt giặc này là: “Dựa vào: lực lượng của dân. Tinh thần của
dân và để gây hạnh phúc cho dân” [43, tr.444]. Có thể khẳng định rằng, tư

tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chủ trương, chính
sách của Đảng và Nhà nước về xoá đói, giảm nghèo. Trong từng giai đoạn
cách mạng, Đảng và Nhà nước ta luôn luôn quan tâm và tiến hành một cách
sáng tạo cuộc chiến chống đói nghèo và lạc hậu.

1


Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII (tháng 6-1991), Đảng đã đề ra
chủ trương xoá đói, giảm nghèo. Đây là một chủ trương, quyết sách lớn trong
việc thực hiện hiện mục tiêu: “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh”. Ngay khi ra đời, chủ trương trên hợp với lòng dân, nên chỉ
trong một thời gian ngắn đã trở thành phong trào rộng khắp các tỉnh, thành
trong cả nước. Thông qua quá trình khảo sát, nghiên cứu và tổng kết thực tiễn,
năm 1998, Chính phủ đã xây dựng và phê chuẩn Chương trình xoá đói, giảm
nghèo với tư cách là “Chương trình mục tiêu quốc gia”. Chương trình được
chia làm hai giai đoạn: giai đoạn I (2001 - 2005) và giai đoạn II (2006 - 2010).
Qua thống kê của Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội có thể thấy rõ qua
từng năm đã có sự tiến triển vượt bậc về giảm tỉ lệ đói nghèo ở nước ta.
Kim Thành là một huyện nằm ở phía Đông tỉnh Hải Dương, với diện
tích 11364,9 ha, gồm 1 thị trấn, 20 xã, dân số là 127.112 người. Là một huyện
mới được tái lập năm 1997, được tách từ huyện Kim Môn (Kim Thành và
Kinh Môn). Kim Thành vốn là một huyện nghèo của tỉnh Hải Dương, cơ sở
hạ tầng còn thấp kém, trình độ dân trí thấp, mức gia tăng dân số là khá cao,
thu nhập bình quân trên đầu người còn thấp, đời sống còn có nhiều khó khăn.
Từ khi có chủ trương, chính sách đổi mới của Đảng và Nhà nước, một bộ
phận dân cư có vốn, có kiến thức đã tiếp thu được những tiến bộ của khoa học
và công nghệ, tiếp cận được thị trường nên nhanh chóng trở thành những bộ
phận có thu nhập khá giả. Một bộ phận khác, do nhiều nguyên nhân nên gặp
rất nhiều khó khăn trong sản xuất và đời sống, đã trở thành người nghèo hoặc

nghèo trầm trọng. Một bộ phận khác sau khi có chính sách hỗ trợ về xoá đói,
giảm nghèo của Đảng và Nhà nước đã từng bước vươn lên, song vẫn tiềm ẩn
nguy cơ tái nghèo. Tính đến năm 2007, toàn huyện Kim Thành còn khoảng
15,7% hộ đói nghèo trong toàn bộ dân cư toàn huyện, trong đó có khoảng
6,7% hộ rất nghèo.

2


Trong những năm gần đây, dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Kim
Thành, cuộc vận động xoá đói, giảm nghèo đã và đang được đẩy mạnh, đạt
được những thành tựu rất đáng tự hào, đời sống của nhân dân dần được cải
thiện, việc làm của người dân bước đầu được giải quyết, nhiều tấm gương
điển hình về làm giàu xuất hiện. Bên cạnh đó, lãnh đạo công tác xoá đói, giảm
nghèo gặp không ít khó khăn, trắc trở, còn nhiều hạn chế bất cập như chưa chỉ
đạo chặt chẽ, thiếu các biện pháp triệt để, chưa kịp thời tổng kết rút kinh
nghiệm…
Do nội dung, tính chất, tầm quan trọng của vấn đề nghiên cứu và do yêu
cầu thực tiễn của công tác xoá đói, giảm nghèo ở huyện Kim Thành, chúng tôi
chọn đề tài Đảng bộ huyện Kim Thành (tỉnh Hải Dương) lãnh đạo thực hiện
xoá đói, giảm nghèo từ năm 1997 đến năm 2007 làm luận văn thạc sĩ khoa
học Lịch sử, chuyên ngành Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam.
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Đói nghèo và xoá đói, giảm nghèo là một vấn đề vô cùng quan trọng và
mang tính toàn cầu. Ở Việt Nam, đây là một vấn đề được Đảng, Nhà nước và
nhiều cơ quan, ban, ngành quan tâm và tập trung giải quyết. Cho đến nay, đã
có nhiều công trình nghiên cứu đánh giá thực trạng và giải pháp về đói nghèo
và xoá đói, giảm nghèo. Song, dưới góc độ của một công trình nghiên cứu,
đây vẫn là một vấn đề khá mới mẻ. Đăc biệt, nghiên cứu ở địa bàn cấp huyện
cho đến nay chưa nhiều. Hiện nay, trên phạm vi toàn quốc đã có một số công

trình nghiên cứu và một số bài báo, tạp chí tập trung chủ yếu ở các nhóm sau:
Nhóm 1: Các chuyên luận, chuyên khảo đó in thành sỏch viết về vấn đề
xoá đói, giảm nghèo ở nước ta được phát hành:
- Nguyễn Thị Hằng, Nguyễn Xuân Triều (1993), Đói nghèo ở Việt
Nam, Nxb Lao động - Xã hội, Hà Nội.
- Vấn đề đói nghèo ở Việt Nam (1996), Nxb. Chính trị quốc gia, Hà Nội.

3


- Nguyễn Thị Hằng, Trần Đình Hoan, Bùi Trọng Thanh (1997), Vấn đề
xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay, Nxb. Lao động - Xã hội,
Hà Nội.
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (1999), Hệ thống văn bản pháp
luật hiện hành về xoá đói, giảm nghèo, Nxb. Lao động - Xã hội, Hà Nội.
Nhóm 2: Các bài báo khoa học viết về xoá đói, giảm nghèo được đăng
trên các báo, tạp chí:
- Hà Thị Khiết (2006), “Hội Liên hiệp phụ nữ Việt Nam với hoạt động
xóa đói, giảm nghèo cho phụ nữ”, Tạp chí Cộng sản điện tử, số 117.
- Lê Quang Trung (2006), “Nâng cao năng lực lãnh đạo đội ngũ cán bộ
chủ chốt người dân tộc miền núi phía Bắc”, Tạp chí Xây dựng Đảng.
- Phúc Hưng (2008), “Học để xoá đói, giảm nghèo”, Dân trí. Com.
- Hoàng Trọng Khôi (2010), “Từ thành tựu xoá đói, giảm nghèo khởi
xướng chương trình an sinh mới”, Báo điện tử Sài Gòn Giải phóng.
Nhóm 3: Những luận văn, luận án của học viên cao học, nghiên cứu
sinh lấy xoá đói, giảm nghèo làm đề tài nghiên cứu dưới nhiều góc độ khác
nhau:
- Nguyễn Trung Tính (1997), Đảng bộ thành phố Hồ Chí Minh lãnh
đạo thực hiện xoá đói, giảm nghèo (1992 - 1997), Luận văn Thạc sĩ Lịch sử,
Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội.

- Giang Thị Thoa (2001), Đảng bộ tỉnh Ninh Bình lãnh đạo thực hiện
chính sách xoá đói, giảm nghèo (1992 - 2000), Luận văn Thạc sĩ Lịch sử
Đảng.
- Đào Tấn Nguyên (2004), Giải pháp tín dụng góp phần thực hiện xoá
đói, giảm nghèo của ngân hàng chính sách xã hội Việt Nam, Luận án tiến sĩ
Kinh tế.
Nhóm 4: Các đề tài, hội thảo khoa học:

4


- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (1999), Những giải pháp tăng
cường nguồn lực thực hiện mục tiêu xoá đói, giảm nghốo, Hội thảo khoa học,
Hà Nội.
- Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội (2000), Chuẩn nghèo đói ở
Việt Nam, Hội thảo khoa học, Hà Nội.
- Phạm Duy Khiêm (1999), Điều tra hiện trạng xoá đói, giảm nghèo và
đề xuất các giải pháp xoá đói, giảm nghèo ở nông thôn tỉnh Hải Dương, Đề
tài nghiên cứu khoa học.
- Nguyễn Hữu Oanh (2006), Nghiên cứu tổng kết chương trình xoá đói,
giảm nghèo giai đoạn 2001 - 2005 và phương hướng thực hiện chương trình
2006 - 2010, Đề tài nghiên cứu khoa học.
Các công trình nghiên cứu nói trên, đã có nhiều đóng góp quan trọng
vào việc làm rõ một số vấn đề mang tính lý luận và thực tiễn của chương
trình xoá đói, giảm nghèo ở Việt Nam. Song, nghiên cứu về vấn đề xóa đói,
giảm nghèo ở huyện Kim Thành (Hải Dương) cho đến nay chưa có đề tài
nghiên cứu. Do đó, Luận văn sẽ trình bày quá trình Đảng bộ huyện Kim
Thành (Hải Dương) vận dụng quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước và
Tỉnh uỷ Hải Dương để lãnh đạo phong trào xoá đói, giảm nghèo trong
huyện, qua đó, chỉ rõ những thành tựu và hạn chế, nguyên nhân của những

hạn chế trong quá trình thực hiện. Luận văn góp phần làm sáng tỏ một số
vấn đề thuộc về lý luận và thực tiễn trong chủ trương xoá đói, giảm nghèo
của Đảng.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích
- Làm rõ những quan điểm, chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện xóa đói,
giảm nghèo của Đảng bộ huyện Kim Thành (tỉnh Hải Dương) từ năm 1997
đến năm 2007;
- Làm rõ những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân hạn chế của quá trình
Đảng bộ huyện Kim Thành (tỉnh Hải Dương) lãnh đạo thực hiện xóa đói,

5


giảm nghèo trong những năm 1997-2007, trên cơ sở đó, rút ra những kinh
nghiệm có cơ sở khoa học, phục vụ hiện tại.
* Nhiệm vụ
Để đạt được mục đích trên, luận văn thực hiện các nhiệm vụ cụ thể sau:
- Phân tích các quan điểm của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, của Đảng ta về đói nghèo và xoá đói, giảm nghèo.
- Làm rõ thực trạng và nguyên nhân đói nghèo của một bộ phận dân cư
huyện Kim Thành từ năm 1997 đến năm 2007.
- Làm rõ quá trình huyện Kim Thành vận dụng chủ trương của Đảng và
Nhà nước về xoá đói, giảm nghèo, định ra chủ trương và biện pháp chỉ đạo
thực hiện xoá đói, giảm nghèo trên địa bàn huyện.
- Đánh giá những thành tựu, hạn chế và nguyên nhân; rút ra những bài
học kinh nghiệm từ quá trình lãnh đạo thực hiện xoá đói, giảm nghèo của Đảng
bộ huyện Kim Thành để vận dụng vào giai đoạn mới.
4. Đối tƣợng và phạm vi nghiên cứu
* Đối tượng nghiên cứu

Nghiên cứu quá trình Đảng bộ huyện Kim Thành (tỉnh Hải Dương)
lãnh đạo thực hiện xóa đói, giảm nghèo.
* Phạm vi nghiên cứu
+ Về nội dung: Tập trung nghiên cứu quan điểm, chủ trương và sự chỉ
đạo của Đảng bộ huyện Kim Thành (tỉnh Hải Dương), nhằm thực hiện xoá
đói, giảm nghèo.
+ Về thời gian: Nghiên cứu quá trình lãnh đạo xóa đói, giảm nghèo của
Đảng bộ huyện Kim Thành (tỉnh Hải Dương) từ năm 1997 đến năm 2007.
+ Về không gian: Tập trung nghiên cứu công tác xoá đói, giảm nghèo
trên địa bàn huyện Kim Thành (tỉnh Hải Dương).
5. Phƣơng pháp nghiên cứu

6


- Trên cơ sở lý luận là chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối của Đảng ta, đề tài dựa vào phương pháp luận duy vật
biện chứng và duy vật lịch sử.
- Từ việc phân tích những tài liệu thực tế thu thập được. Luận văn còn
sử dụng các phương pháp khảo sát, điều tra, phân tích tổng hợp, thống kê và
so sánh; kết hợp lý luận với thực tiễn, kết hợp logic và lịch sử để hoàn thành
mục tiêu và nhiệm vụ của luận văn.
6. Đóng góp của luận văn
- Luận văn trình bày một cách có hệ thống những chủ trương, chính
sách, biện pháp mà Đảng bộ huyện Kim Thành (tỉnh Hải Dương) đề ra, nhằm
thực hiện xoá đói, giảm nghèo trong những năm 1997-2007.
- Luận văn làm rõ những thành tựu, hạn chế, nguyên nhân của những hạn
chế trong quá trình Đảng bộ huyện Kim Thành (tỉnh Hài Dương) lãnh đạo xoá
đói, giảm nghèo; bước đầu tổng kết, đúc rút những kinh nghiệm phục vụ hiện
tại.

- Luận văn có thể sử dụng để phục vụ công tác viết lịch sử Đảng bộ
huyện Kim Thành (tỉnh Hải Dương), hoặc là tài liệu tham khảo cho những
nghiên cứu có liên quan.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, phụ lục, danh mục tài liệu tham khảo,
luận văn gồm có 3 chương, 6 tiết:
Chƣơng 1: Quan niệm về xoá đói, giảm nghèo và đặc điểm địa lý, kinh
tế - xã hội huyện Kim Thành (Tỉnh Hải Dương).
Chƣơng 2: Chủ trương và sự chỉ đạo thực hiện xoá đói, giảm nghèo của
Đảng bộ huyện Kim Thành (tỉnh Hải Dương) (1997 - 2007).
Chƣơng 3: Kết quả và kinh nghiệm

7


Chƣơng 1
QUAN NIỆM VỀ XOÁ ĐÓI, GIẢM NGHÈO VÀ ĐẶC ĐIỂM ĐỊA LÝ,
KINH TẾ - XÃ HỘI HUYỆN KIM THÀNH (TỈNH HẢI DƢƠNG)
1.1. Quan niệm về đói nghèo và chủ trƣơng của Đảng về xóa đói,
giảm nghèo
1.1.1. Quan niệm về đói nghèo
1.1.1.1. Quan niệm chung về đói nghèo
Đói nghèo là một hiện tượng kinh tế - xã hội mang tính toàn cầu. Nó
không chỉ tồn tại ở các quốc gia có nền kinh tế kém phát triển, mà còn tồn
tại ngay ở những quốc gia có nền kinh tế phát triển cao. Trong đời sống
thực tiễn cũng như trong nghiên cứu khoa học cho đến nay chưa có sự
thống nhất tuyệt đối về khái niệm đói nghèo. Mỗi quốc gia đều sử dụng
một khái niệm khác nhau về định mức và đưa ra các chỉ số đói nghèo khác
nhau để xác định giới hạn đói nghèo. Giới hạn đói nghèo của mỗi quốc gia
được xác định bằng mức thu nhập tối thiểu để người dân có thể tồn tại, đó

là mức thu nhập mà họ có thể mua sắm những vật dụng cơ bản phục vụ cho
việc ăn, ở, mặc và các nhu cầu cần thiết khác. Trong đời sống thực tiễn
cũng như trong nghiên cứu khoa học về các vấn đề kinh tế - xã hội, chúng
ta thường thấy các khái niệm như: đói nghèo, nghèo khổ, giàu nghèo.
Khái niệm đói nghèo có thể tách ra, phân tích và nhận dạng giữa đói và
nghèo:
Đói là một khái niệm thường được nhận diện ở hai dạng: thiếu đói và
đói gay gắt. Thiếu đói là tình trạng một bộ phận dân cư có mức sống dưới tối
thiểu, chỉ đủ khả năng đảm bảo mức lương thực bữa đói, bữa no và có những
khi phải đứt bữa từ một, hai hoặc ba tháng. Đói gay gắt là tình trạng của một
bộ phận dân cư có mức sống tối thiểu, đói ăn, đứt bữa, đang phải sống trong
một tình trạng hết sức khó khăn. Chúng ta thấy khái niệm này vẫn thuần tuý

8


là đói ăn thuộc phạm trù kinh tế - vật chất. Nó khác với đói thông tin, đói
hưởng thụ văn hoá…
Nghèo là tình trạng một bộ phận dân cư chỉ có những điều kiện thoả
mãn những nhu cầu tối thiểu và cơ bản nhất trong cuộc sống và có mức thu
nhập thấp hơn mức sống của cộng đồng xét trên mọi phương diện: ăn, mặc, ở,
vệ sinh, giáo dục, y tế và nhiều nhu cầu khác… Theo cách hiểu khác: Nghèo
là một bộ phận dân cư có mức sống dưới ngưỡng quy định của sự nghèo.
Nhưng ngưỡng nghèo còn phụ thuộc vào đặc điểm cụ thể của từng địa
phương, từng thời kỳ, từng giai đoạn phát triển kinh tế - xã hội cụ thể của
từng địa phương hay từng quốc gia.
Nghèo chia thành nhiều mức khác nhau: nghèo tuyệt đối, nghèo tương
đối, nghèo có nhu cầu tối thiểu. Nghèo tuyệt đối là tình trạng một bộ phận dân
cư thuộc diện nghèo không có khả năng thoả mãn nhu cầu tối thiểu của cuộc
sống như: ăn, ở, mặc, đi lại… Nghèo tương đối là tình trạng một bộ phận dân

cư thuộc diện nghèo có mức sống dưới mức sống trung bình của cộng đồng và
địa phương đang xét. Nghèo có nhu cầu tối thiểu là tình trạng một bộ phận
dân cư có những đảm bảo tối thiểu để duy trì cuộc sống như đủ ăn, đủ mặc,
đủ ở và một số sinh hoạt hàng ngày nhưng ở mức tối thiểu.
Về mặt kinh tế, khái niệm nghèo đồng nghĩa với nghèo khổ, nghèo
túng, thiếu đói. Đường giới hạn nghèo khổ biểu hiện dưới dạng thu nhập gia
đình tính theo đầu người. Nếu các gia đình có thu nhập tính theo đầu người ở
dưới đường giới hạn nghèo khổ thì bị coi là nghèo. Giới hạn nghèo khổ khác
nhau ở mỗi quốc gia và thay đổi theo trình tự phát triển kinh tế - xã hội qua
từng thời kỳ của quốc gia đó. Chẳng hạn, Liên hợp quốc đã xác định ở các
nước đang phát triển, những người có mức sống dưới 1USD/ngày thì bị coi là
nghèo khổ. Đối với những nước phát triển thì đường nghèo khổ được xác định
là có mức sống dưới 14 USD/ngày tính theo mức mua tương đương.

9


Hiện nay, quốc tế có xu hướng xem xét, định nghĩa về sự nghèo đói
theo phạm vi rộng hơn, nhằm vào một loạt vấn đề như giáo dục, y tế và những
tiêu chuẩn khác được coi là thuộc về nhu cầu cơ bản của con người: “Hệ
thống nhu cầu cơ bản tối thiểu (Maximum Need Bases - MNB) của Philíppin
đã định nghĩa nghèo đói ở ba lớp nhu cầu:
- Tồn tại: Thực phẩm/dinh dưỡng, sức khỏe, nước, vệ sinh, ăn mặc.
- An toàn: Nhà ở, thu nhập, việc làm, hoà bình.
- Khả năng: Giáo dục cơ bản (biết chữ), sự tham gia của nhân dân vào
chăm sóc gia đình và chăm sóc tâm lý.
Theo hệ thống yêu cầu trên có tới 33 chỉ số cụ thể để đánh giá. Xu
hướng quốc tế sẽ sử dụng những tiêu chuẩn cơ bản này để xem xét và đánh
giá đói nghèo một cách hệ thống trong mục tiêu hướng tới sự phát triển ổn
định, bền vững.

Để xác định mức giàu nghèo chính xác hơn, bên cạnh chỉ tiêu thu nhập
quốc dân, Liên hợp quốc đã đưa ra thêm: “Chỉ số chất lượng vật chất cuộc
sống” (The Physical Quality of life Index - PQLI) và “Chỉ số phát triển con
người” (Human Development Index - HDI).
- Chỉ số chất lượng vật chất cuộc sống - PQLI: Được tính toán dựa trên
3 tiêu chí cơ bản là tuổi thọ dự báo, tỉ lệ tử vong của trẻ sơ sinh, tỉ lệ xoá nạn
mù chữ. Chỉ số này tuy còn quá ít và không đề cập trực tiếp đến thu nhập
nhưng phản ánh được những khía cạnh cơ bản của sự phát triển xã hội và gián
tiếp nói lên mức độ công bằng xã hội của một nước.
- Chỉ số phát triển con người - HDI: Chỉ số này trải từ 0 (mức thấp nhất)
đến 1 (mức độ phát triển con người cao nhất) và được tính toán dựa trên ba chỉ
số về phát triển là tuổi thọ, kiến thức (đo bằng tuổi bình quân của người lớn
biết chữ và số năm đi học), thu nhập (được đo bằng thu nhập bình quân đầu
người thực tế đã được điều chỉnh). So với chỉ tiêu PQLI thì chỉ số HDI có tính

10


bao quát lớn, do đó thể hiện được ba khía cạnh quan trọng của con người về
tuổi tác, trí tuệ và mức sống.
Trước đây, khi nghiên cứu về đói nghèo, nhiều người thường đánh
đồng đói nghèo với mức thu nhập thấp. Coi thu nhập là tiêu chí chủ yếu để
đánh giá sự đói nghèo của con người. Quan niệm này có ưu điểm là giúp
thuận lợi trong việc xác định số người nghèo dựa theo chuẩn nghèo, ngưỡng
nghèo. Thực tế đã chứng minh việc xác định đói nghèo theo thu nhập chỉ nói
lên một khía cạnh của đói nghèo. Thu nhập thấp không phản ánh hết nội dung
của đói nghèo, nó không cho chúng ta thấy hết được mức thiệt thòi, thiếu thốn
của người dân nghèo. Cho nên, quan niệm này còn hạn chế chưa thể coi là
quan niệm chuẩn để chỉ đói nghèo.
Hiện nay, do sự phát triển của nền kinh tế thế giới, xu thế quốc tế hoá

về kinh tế ngày càng sâu rộng hơn, quan điểm đói nghèo cũng được hiểu sâu
rộng hơn, theo nhiều hướng tiếp cận nên có những góc nhìn, đánh giá và
phương thức giải quyết đói nghèo khác nhau.
Tại Hội nghị về giảm nghèo đói khu vực Châu Á - Thái Bình Dương
(9-1993) ở Băng Cốc - Thái Lan do ESCAP tổ chức đã đưa ra khái niệm về
đói nghèo: “Đói nghèo là tình trạng của một bộ phận dân cư không được
hưởng và thoả mãn nhu cầu cơ bản của con người mà những nhu cầu ấy
phụ thuộc vào trình độ phát triển kinh tế - xã hội, phong tục tập quán của
từng vùng và những phong tục ấy được xã hội thừa nhận” [69, tr.9].
Hội nghị thượng đỉnh thế giới về phát triển xã hội tổ chức tại
Copenhagen - Đan Mạch, năm 1995, đưa ra một định nghĩa rõ ràng hơn về
đói nghèo như sau: Người nghèo là tất cả những ai mà thu nhập thấp hơn dưới
1 USD mỗi ngày cho mỗi người, số tiền được coi như đủ mua những sản
phẩm thiết yếu để tồn tại.
Trong báo cáo Khắc phục sự nghèo khổ của con người, năm 1998,
UNDP cho rằng:

11


- Sự nghèo khổ của con người: là thiếu những quyền cơ bản của con
người như biết đọc, biết viết, được tham gia vào các quyết định của cộng
đồng và được nuôi dưỡng tạm đủ.
- Sự nghèo khổ về tiền tệ là thiếu thu nhập chính đáng và khả năng chi
tiêu tối thiểu.
- Sự nghèo khổ cực độ là sự khốn cùng không có khả năng thoả mãn
nhu cầu tối thiểu của con người.
- Sự nghèo khổ chung là mức độ nghèo kém nghiêm trọng hơn được
xác định như sự không có khả năng thoả mãn những nhu cầu về lương thực,
chi phí lương thực chủ yếu, những nhu cầu này đôi khi được xác định khác

nhau ở nước này hay nước khác.
Khác với cách tiếp cận trên, Ngân hàng thế giới (WB) đưa ra quan điểm:
Nghèo là một khái niệm đa chiều vượt qua khỏi phạm vi túng thiếu về vật chất.
Như vậy, nghèo không chỉ gồm các chỉ số dựa trên thu nhập, mà còn bao gồm
các vấn đề liên quan đến phúc lợi xã hội: dinh dưỡng, sức khoẻ, giáo dục, nhà
ở, khả năng bị tổn thương, không có quyền phát ngôn và không có tiếng nói.
Ngân hàng thế giới cũng đưa ra tháp tiếp cận nghèo năm 2000 như sau:
1. Tiêu dùng
2. Tiêu dùng + Tài sản
3. Tiêu dùng + Tài sản + Con người
4. Tiêu dùng + Tài sản + Con người + Văn hóa - xã hội
5. Tiêu dùng + Tài sản + Con người + Văn hóa - Xã hội + Chính trị
6. Tiêu dùng + Tài sản + Con người + Văn hóa - Xã hội + Chính trị + Bảo vệ.
1.1.1.2. Quan niệm về đói nghèo ở nước ta và một số nước trên thế giới
Đối với cách nói và trả lời của người nghèo, chúng ta có những cảm
nhận cụ thể, giản đơn, trực diện hơn về các khía cạnh của đói nghèo. Khi trả
lời một số cuộc tham vấn, người dân nước ta cho rằng: Nghèo đói là gì ư?

12


Chính là hôm nay con tôi ăn khoai, ngày mai không biết con tôi ăn gì? Bạn
nhìn nhà ở của tôi thì biết, ngồi trong nhà cũng thấy mặt trời, khi mưa thì
trong nhà cũng như ngoài sân. Một số người khác thì trả lời rằng, nghèo đói
đồng nghĩa với nhà ở bằng tranh tre, nứa lá tạm bợ, xiêu vẹo, dột nát, không
đủ đất đai sản xuất, con cái thất học, khi ốm đau không có tiền chạy chữa…
Còn người nghèo của Kênia đã nói về sự nghèo đói của họ như sau:
Hãy quan sát ngôi nhà và đếm xem có bao nhiêu lỗ thủng trên đó. Hãy nhìn
những đồ đạc trong nhà và quần áo tôi đang mặc trên người. Hãy quan sát tất
cả và ghi lại những gì ông thấy. Cái mà ông thấy chính là nghèo đói.

Như vậy, từ việc nghiên cứu các quan niệm về đói nghèo trên cho
chúng ta thấy ba khía cạnh của người nghèo:
Thứ nhất, người nghèo là những người không được hưởng thụ những
nhu cầu cơ bản ở mức tối thiểu dành cho con người.
Thứ hai, người nghèo có mức sống thấp hơn mức sống trung bình của
cộng đồng dân cư.
Thứ ba, người nghèo thiếu cơ hội lựa chọn, tham gia vào quá trình phát
triển cộng đồng.
Như vậy, về mặt lý luận, đói nghèo hiện nay đang có rất nhiều cách tiếp
cận khác nhau. Tựu chung, có hai cách tiếp cận chính là rộng và hẹp.
Theo cách tiếp cận hẹp, đói nghèo là một phạm trù chỉ mức sống thấp
nhất của một cộng đồng hay một nhóm dân cư so với mức sống của một cộng
đồng hay một nhóm dân cư khác. Cách tiếp cận này còn phiến diện, chưa bao
quát được tính chất tuyệt đối của đói nghèo, nghĩa là mới chỉ đánh giá theo
tiêu chuẩn đói nghèo tương đối. Trên thực tế, đói nghèo lúc nào cũng tồn tại
trong xã hội hiện đại, cho dù ở nước giàu nhất. Nếu đứng trên phương diện so
sánh mức sống, mức thu nhập của các nhóm dân cư thì lúc nào cũng có một
nhóm thấp nhất, các nhóm trung bình và nhóm cao nhất. Đó là đói nghèo tương
đối. Nhưng thực tế ở nhiều quốc gia nghèo, ngay trong nhóm nghèo nhất cũng

13


đã xuất hiện tiểu nhóm nghèo tuyệt đối, nghĩa là họ sống một cuộc sống cùng
cực chạy ăn từng bữa mà con số thống kê bình quân không thể phản ánh đầy
đủ. Hơn thế nữa, theo cách tiếp cận hẹp và phổ biến hiện nay, tăng trưởng kinh
tế thường kéo theo thu nhập trung bình của nhóm nghèo nhất xã hội. Nhưng có
một thực tế là dù thu nhập của nhóm nghèo đó có được cải thiện thì vẫn có một
khoảng cách ngày càng xa giữa thu nhập của nhóm nghèo và nhóm giàu khi
nền kinh tế có sự tăng trưởng nhanh. Chính khoảng cách của nhóm nghèo so

với nhóm giàu mới nói lên mức độ bất bình đẳng của xã hội.
Theo cách tiếp cận rộng, vấn đề đói nghèo xuất phát từ căn nguyên sâu
xa của đói nghèo là do trong xã hội có sự phân hoá, chính sự phân hoá này là
hệ quả của chế độ kinh tế và chế độ xã hội. Khi loài người còn ở thời kỳ
mông muội thì chưa phân ra kẻ giàu - người nghèo. Sự phân công lao động xã
hội càng diễn ra mạnh mẽ thì sự phân hoá xã hội cũng bắt đầu và phát triển.
Trong tác phẩm Nguồn gốc của gia đình, của chế độ tư hữu và của nhà nước,
Ph.Ăngghen đã viết: “Sự phân biệt giữa kẻ giàu người nghèo đã xuất hiện
bên cạnh sự phân biệt giữa người tự do và người nô lệ: cùng với sự phân
công mới là sự phân chia mới xã hội thành các giai cấp. Sự chênh lệch về tài
sản giữa người chủ gia đình riêng rẽ đã phá vỡ cộng đồng gia đình cộng sản
cũ, ở bất cứ đâu mà nó còn được duy trì cho đến bây giờ; đồng thời việc canh
tác chung ruộng đất bằng những phương tiện của cộng đồng cũng tiêu tan”
[41, tr.243].
Ở Việt Nam, khái niệm nghèo đói được mở rộng. Năm 1990, nhu cầu hỗ
trợ của người nghèo chỉ được giới hạn đến nhu cầu “ăn no, mặc ấm” thì ngày
nay người nghèo còn có nhu cầu về nhà ở, giáo dục, y tế, văn hoá… Đây chính
là nhu cầu “giảm nghèo và phát triển”. Điều này có nghĩa là: các chính sách
phát triển kinh tế cần hướng về người nghèo, người nghèo cần được quan tâm
trong việc hoạch định các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội.

14


Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội là cơ quan thuộc Chính phủ
được Nhà nước giao trách nhiệm tiến hành xây dựng chuẩn nghèo qua các thời
kỳ. Chuẩn nghèo được xác định dựa vào nhu cầu chi tiêu, sau đó chuyển sang
sử dụng chi tiêu thu nhập, mục đích là xác định được đối tượng cụ thể của
chương trình tại thôn, xã, lên danh sách được hộ nghèo. Chuẩn nghèo của
Chính phủ do Bộ Lao động - Thương binh và Xã hội công bố đã điều chỉnh qua

5 giai đoạn phù hợp với tình hình, điều kiện cụ thể của đất nước.
Giai đoạn 1993-1995: Hộ đói: thu nhập bình quân đầu người quy gạo
dưới 13kg/người/tháng khu vực thành thị, dưới 8 kg gạo/người/tháng khu vực
nông thôn. Hộ nghèo: thu nhập bình quân quy theo gạo dưới 20
kg/người/tháng ở khu vực thành thị và dưới 15 kg/người/tháng ở khu vực
nông thôn.
Giai đoạn 1995-1997: Hộ đói: là hộ có mức thu nhập bình quân đầu
người quy ra gạo dưới 13kg/người/tháng tính cho một vùng. Hộ nghèo là hộ
có thu nhập: dưới 15kg/người/tháng ở vùng nông thôn miền núi, hải đảo; dưới
20 kg/người/tháng ở vùng nông thôn đồng bằng trung du; dưới
25kg/người/tháng ở khu vực thành thị.
Giai đoạn 1998-2000 (theo Công văn số 1721/LĐTBXH): Hộ đói: là
hộ có thu nhập một tháng quy ra gạo dưới 13kg, tương đương 45.000 đồng
(giá năm 1997 tính cho mọi vùng). Hộ nghèo là hộ có thu nhập tuỳ theo từng
vùng ở các mức tương đương: vùng nông thôn miền núi, hải đảo dưới
15kg/người/tháng, tương đương 55.000 đồng; vùng nông thôn đồng bằng
trung du dưới 20 kg/người/tháng, tương đương 70.000 đồng; vùng thành thị
dưới 25kg/người/tháng, tương đương 90.000 đồng.
Giai đoạn 2001-2005 (theo Quyết định số 1143/2000/QĐ/LĐTBXH):
vùng nông thôn miền núi, hải đảo: thu nhập bình quân 80.000
đồng/người/tháng; vùng nông thôn đồng bằng: thu nhập bình quân 100.000

15


đồng/người/tháng;

vùng

thành


thị:

thu

nhập

bình

quân

150.000

đồng/người/tháng.
Giai đoạn 2006-2010 (Theo Quyết định số 170/2005/QĐ-TTg): Hộ đói
nghèo vùng thành thị: thu nhập bình quân 260.000đồng người/tháng; vùng
nông thôn (cho cả miền núi và đồng bằng): thu nhập bình quân 200.000đồng/
người/tháng.
Với những sự điểu chỉnh chuẩn nghèo của nước ta như trên, chứng tỏ
rằng chuẩn mực nghèo đói là một khái niệm động, phụ thuộc vào phương
pháp tiếp cận, nó phụ thuộc cả vào thời gian và không gian.
Khi xem xét tình trạng hoặc mức độ đói nghèo, chúng ta cần chú ý bốn
vấn đề sau:
Thứ nhất, xem xét hiện tượng đói nghèo trước hết phải xem xét ở lĩnh
vực kinh tế, do đó phải đặc biệt chú ý tới những biểu hiện về mức sống thông
qua các nhu cầu cơ bản, tối thiểu về đời sống vật chất.
Thứ hai, xác định tiêu chí mức độ đói nghèo dựa theo thu nhập bình
quân đầu người trong tháng hoặc trong năm theo hai khu vực điển hình là
vùng thành thị và vùng nông thôn, miền núi, hải đảo.
Thứ ba, quy ra hiện vật, vật phẩm tiêu dùng được tính bằng gạo hoặc

quy thành giá trị được tính bằng tiền.
Thứ tư, xem xét các khoản tiêu dùng từ thu nhập phản ánh mức độ thoả
mãn các nhu cầu tối thiểu để xem đối tượng dân cư nghèo đói và độ chênh
lệch có tính chất vùng và giữa các khu vực, giữa các đối tượng khác nhau để
có chính sách thích hợp giải quyết có hiệu quả về vấn đề xoá đói, giảm nghèo.
Như vậy, từ lý luận và thực tiễn của đói nghèo, chúng ta thấy đói nghèo
là một hiện tượng phổ biến và nan giải. Đây là một bài toán khó đối với tất cả
các quốc gia trên thế giới. Nếu không giải quyết được bài toán này thì hậu quả
của nó là rất lớn, đói nghèo sẽ gây trở ngại đến sự phát triển mọi mặt của đất
nước, tạo ra nhiều bức xúc trong xã hội. Cho nên Việt Nam phải có bước đi

16


vững chắc và nhanh chóng trong vấn đề này. Công cuộc xoá đói, giảm nghèo
ở nước ta dưới sự lãnh đạo của Đảng đã và đang trở thành một phong trào sâu
rộng, huy động được sức mạnh của toàn dân tộc, đã đạt được những thành tựu
to lớn về mọi mặt, song cuộc chiến chống đói nghèo còn gặp phải rất nhiều
hạn chế trong quá trình thực hiện. Cho nên, phải tìm ra nhiều hướng giải
quyết có hiệu quả và thiết thực hơn để nhanh chóng đẩy lùi những nguy cơ
mà đói nghèo gây ra.
1.1.2. Tình hình đói nghèo và chủ trương của Đảng
1.1.2.1. Tình hình đói nghèo
Sau hơn 20 năm tiến hành công cuộc đổi mới đất nước, dưới sự lãnh
đạo của Đảng và Nhà nước, đất nước ta không ngừng lớn mạnh và đi lên. Việt
Nam ra khỏi khủng hoảng kinh tế - xã hội và bước vào thời kỳ mới, đẩy mạnh
công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Nền kinh tế luôn giữ được nhịp độ
tăng trưởng khá, tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng bình quân mỗi năm
trên 7%; cơ cấu kinh tế có sự chuyển dịch tích cực; các vấn đề xã hội được giải
quyết, đời sống nhân dân được cải thiện rõ rệt.

Từ khi có chủ trương xoá đói, giảm nghèo, đặc biệt là thực hiện Chỉ
thị số 23 - CT/TW ngày 29-11-1997 của Bộ Chính trị về Lãnh đạo thực hiện
công tác xoá đói, giảm nghèo, công tác xoá đói, giảm nghèo đã được triển
khai mạnh mẽ ở hầu hết các tỉnh, huyện, nhất là những vùng, xã nghèo; đã
thu hút được nhiều nguồn lực hỗ trợ và đạt kết quả khá. Nhà nước đã đầu tư
thông qua các chương trình quốc gia có liên quan đến chương trình xoá đói,
giảm nghèo khoảng 21 nghìn tỉ đồng, đã tăng cường đầu tư cho những địa
bàn gặp khó khăn. Trong đó dành riêng cho phần xây dựng kết cấu hạ tầng
thuộc Chương trình xoá đói, giảm nghèo khoảng 2000 tỉ đồng.
Trong cả nước, các cấp, ngành, cơ quan đoàn thể đã triển khai nhiều
công việc cụ thể giúp đỡ các hộ nghèo bớt khó khăn, từng bước vươn lên
trong cuộc sống. Tỉ lệ đói nghèo trên tổng số hộ giảm xuống nhanh chóng.

17


Thành quả to lớn trên cho thấy chúng ta đạt được mục tiêu đề ra và được cộng
đồng quốc tế ghi nhận là một trong những nước giảm tỉ lệ đói nghèo nhanh
nhất. Chủ trương xoá đói, giảm nghèo của Đảng đã đi đúng hướng với những
mô hình xoá đói, giảm nghèo phù hợp, nhiều dự án được triển khai thực hiện
ở các địa phương làm cho đời sống của người dân được nâng cao, mức tiêu
dùng bình quân đầu người đạt 4,3 triệu đồng năm 2000. Thực hiện thành công
mục tiêu quốc gia về xoá đói, giảm nghèo từ năm 2001 đến nay, tỉ lệ hộ
nghèo trong toàn quốc giảm từ 17,2% xuống còn 8% vào cuối năm 2004 (còn
1,42 triệu hộ nghèo), giảm được 1,3 triệu hộ so với năm 2001, bình quân mỗi
năm giảm 32 vạn hộ.
Bên cạnh những thành tựu to lớn mà Đảng và nhân dân ta đạt được
như trên nhưng tình hình đói nghèo vẫn đang là vấn đề nóng bỏng đặt ra
cần phải tìm cách giải quyết ở nhiều địa phương trong cả nước. Việt Nam
là một nước nông nghiệp, trình độ dân cư còn thấp, thụ động dễ bị tổn

thương trước biến động của mỗi gia đình và cộng đồng. Nhiều hộ tuy có
mức thu nhập ở trên ngưỡng nghèo nhưng vẫn giáp ranh giới với ngưỡng
nghèo và có nguy cơ tái nghèo. Đến năm 2001, cả nước có tổng số 2.800
nghìn hộ nghèo chiếm 17,2% dân số, điều đó phản ánh mức độ đói nghèo
của nước ta vẫn còn cao so với nhiều nước trong khu vực và thế giới. Thu
nhập bình quân đầu người của nước ta còn thấp mới đạt 501,5 nghìn đồng/
người dân. Chênh lệch giàu nghèo giữa các hộ, khu dân cư, vùng đang dần
trở thành một vấn đề nan giải. Tại Đại hội lần IX (2001) Đảng ta đã đánh
giá: “Tỉ lệ đói nghèo trong toàn quốc mấy năm gần đây tuy có giảm mạnh,
nhưng chưa vững chắc, nếu rơi vào thiên tai, mất mùa thì nhiều hộ vẫn có
thể rơi vào tình trạng đói nghèo trở lại. Đời sống của nhân dân ở một số
vùng sâu, vùng xa, vùng thường bị thiên tai còn rất khó khăn” [20, tr.256].
Đứng trước những vấn đề mà quá trình thực hiện chiến lược xoá đói,
giảm nghèo đặt ra, Đảng ta tiếp tục đưa ra những chủ trương mới phù hợp với

18


tình hình trong nước và quốc tế để nhanh chóng đẩy lùi đói nghèo, nâng cao
đời sống nhân dân góp phần vào phát triển kinh tế - xã hội. Đây là điều kiện
quan trọng để chúng chống lại nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế so với nhiều
nước trong khu vực và thế giới.
1.1.2.2. Chủ trương của Đảng về xoá đói, giảm nghèo
Xoá đói, giảm nghèo là một chủ trương lớn của Đảng và Nhà nước
trong quá trình đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Chủ trương
đã thu hút được sự tham gia tích cực của các cấp, các ngành, các tổ chức quốc
tế và đông đảo quần chúng nhân dân. Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu
về xoá đói, giảm nghèo được cộng đồng quốc tế ghi nhận và đánh giá cao.
Đây là tiêu chí quan trọng góp phần phát triển bền vững của mỗi quốc gia. Để
phát huy các thành quả to lớn đã đạt được, Đảng và Nhà nước ta tiếp tục đề

đưa các chủ trương, biện pháp phù hợp với tình hình mới nhằm đẩy mạnh
công tác xoá đói, giảm nghèo.
Đại hội đại biểu Đảng toàn quốc lần thứ IX (2001) đã tổng kết 5 năm
thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ VIII: “Công tác xoá đói, giảm nghèo đã
được triển khai mạnh mẽ ở hầu hết các tỉnh, nhất là ở các vùng nghèo, xã
nghèo; đã thu hút được nhiều nguồn lực hỗ trợ và đạt được kết quả khá” [20,
tr.244]. Trên cơ sở những thành tựu đạt được qua 5 năm (1996-2001), trong
Mục tiêu tổng quát, nhiệm vụ và các chỉ tiêu chủ yếu phát triển kinh tế - xã hội
5 năm 2001-2005, Đảng ta đã đề ra: “Tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững;
ổn định và cải thiện đời sống nhân dân. Chuyển dịch mạnh cơ cấu kinh tế, cơ
cấu lao động theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Nâng cao rõ rệt hiệu
quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế. Mở rộng kinh tế đối ngoại. Tạo chuyển
biến mạnh về giáo dục và đào tạo, khoa học và công nghệ, phát huy nhân tố
con người. Tạo nhiều việc làm; cơ bản xoá đói, giảm số hộ nghèo; đẩy lùi các
tệ nạn xã hội. Tiếp tục tăng cường kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội; hình thành
một bước quan trọng thể chế kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

19


Giữ vững ổn định chính trị và trật tự an toàn xã hội, bảo vệ vững chắc độc lập,
chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia” [20, tr.90].
Đại hội lần thứ IX của Đảng cũng đề ra chỉ tiêu đến 2005: "Cơ bản xoá
hộ đói, giảm tỉ lệ hộ nghèo xuống còn 10%” [20, tr.29]. Định hướng của
Đảng là: "Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình xoá đói, giảm nghèo.
Quan tâm xây dựng kết cấu hạ tầng cho các vùng nghèo, xã nghèo; đồng thời
nâng cấp, cải tạo các tuyến trục giao thông nối vùng nghèo, xã nghèo với các
trung tâm của những vùng khác, nhằm tạo thêm điều kiện thuận lợi cho vùng
nghèo, vùng khó khăn để phát triển. Đi đôi với việc xây dựng kết cấu hạ tầng,
phải rất coi trọng việc tạo nguồn lực cần thiết để dân cư ở các vùng nghèo,

xã nghèo đẩy mạnh sản xuất, phát triển ngành nghề, tăng nhanh thu nhập.
Phấn đấu đến năm 2005 về cơ bản không còn hộ đói và chỉ còn 10% số hộ
thuộc diện nghèo. Các tỉnh đồng bằng Bắc Bộ, các huyện đồng bằng miền
Trung và các tỉnh Nam Bộ về cơ bản không còn hộ nghèo. Nâng dần mức
sống của các hộ đã thoát nghèo, tránh tình trạng tái nghèo" [20, tr.299].
Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội từ 2001- 2010 của Đảng,
coi lĩnh vực xoá đói, giảm nghèo là một chiến lược dài hơi của Đảng, nhằm
định hướng cho sự phát triển lâu dài, bền vững cho đất nước. Đảng ta đã
khẳng định: "Bằng nguồn lực của Nhà nước và của toàn xã hội, tăng đầu tư
xây dựng kết cấu hạ tầng, cho vay vốn, trợ giúp đào tạo nghề, cung cấp thông
tin, chuyển giao công nghệ, giúp đỡ tiêu thụ sản phẩm… đối với những vùng
nghèo, xã nghèo và nhóm dân cư nghèo. Chủ động di dời một bộ phận nhân
dân không có đất canh tác và điều kiện sản xuất đến lập nghiệp ở những vùng
còn tiềm năng. Nhà nước tạo môi trường thuận lợi, khuyến khích mọi người
dân vươn lên làm giàu chính đáng và giúp đỡ người nghèo. Thực hiện trợ cấp
xã hội đối với những người có hoàn cảnh đặc biệt không thể tự lao động,
không có người bảo trợ, nuôi dưỡng. Phấn đấu đến năm 2010 về cơ bản

20


không còn hộ nghèo. Thường xuyên củng cố thành quả xoá đói, giảm nghèo”
[20, tr.211-212].
Trong 5 năm thực hiện Nghị quyết Đại hội lần thứ IX, đất nước ta đã
đạt được một số thành tựu trong công tác xoá đói, giảm nghèo. Báo cáo của
Ban Chấp hành Trung ương Đảng khoá X (4-2006) về phương hướng, nhiệm
vụ phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2006 - 2010, Đảng ta đã khẳng định:
“Công tác xoá đói, giảm nghèo được đẩy mạnh bằng nhiều hình thức, đã thu
được nhiều kết quả tốt thông qua việc trợ giúp điều kiện sản xuất, tạo việc
làm, cải thiện kết cấu hạ tầng, nhà ở; tạo cơ hội cho người nghèo tiếp cận với

dịch vụ xã hội cơ bản, tăng thu nhập, cải thiện đời sống; động viên các
ngành, các cấp, các đoàn thể quần chúng và các tầng lớp dân cư tham gia.
Đến cuối năm 2005, tỷ lệ nghèo còn 7% (kế hoạch 10%, theo chuẩn Việt Nam
giai đoạn 2001- 2005)” [21, tr.157]. Đồng thời, Đảng ta đã đề ra mục tiêu
tổng quát: “Đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, đạt được bước chuyển biến
quan trọng về nâng cao hiệu quả và tính bền vững của sự phát triển, sớm đưa
nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển. Cải thiện rõ rệt đời sống vật chất,
văn hoá và tinh thần của nhân dân. Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
và phát triển kinh tế tri thức, tạo được nền tảng để đưa nước ta cơ bản trở
thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại vào năm 2020. Giữ vững ổn
định chính trị và trật tự, an toàn xã hội. Bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ và an ninh quốc gia. Nâng cao vị thế của Việt Nam trong
khu vực và trên trường quốc tế” [21, tr.186].
Phương hướng về xoá đói, giảm nghèo trong giai đoạn tiếp theo, Đảng ta
tiếp tục đẩy mạnh: “Đa dạng hoá các nguồn lực và phương thức thực hiện xoá
đói, giảm nghèo theo hướng phát huy cao độ nội lực và kết hợp sử dụng có
hiệu quả sự trợ giúp của quốc tế. Nhà nước tập trung đầu tư xây dựng kết cấu
hạ tầng kinh tế, xã hội và trợ giúp về điều kiện sản xuất, nâng cao kiến thức để
người nghèo, hộ nghèo, vùng nghèo tự vươn lên thoát nghèo và cải thiện mức

21


×