Tải bản đầy đủ (.pdf) (120 trang)

đảng bộ huyện đoan hùng lãnh đạo thực hiện xóa đói giảm nghèo tu nam 1997 den nam 2012

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.59 MB, 120 trang )

ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TRẦN THỊ OANH

ĐẢNG BỘ HUYỆN ĐOAN HÙNG (PHÚ THỌ)
LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO
TỪ NĂM 1997 ĐẾN NĂM 2012

LUẬN VĂN THẠC SĨ
CHUYÊN NGÀNH LỊCH SỬ ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM

Hà Nội - 2014


ĐẠI HỌC QUỐC GIA HÀ NỘI
TRƯỜNG ĐẠI HỌC KHOA HỌC XÃ HỘI VÀ NHÂN VĂN
-----------------------------------------------------

TRẦN THỊ OANH

ĐẢNG BỘ HUYỆN ĐOAN HÙNG (PHÚ THỌ) LÃNH
ĐẠO THỰC HIỆN XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TỪ NĂM
1997 ĐẾN NĂM 2012

Luận văn Thạc sĩ chuyên ngành: Lịch sử Đảng Cộng sản Việt Nam
Mã số: 60 22 03 15

Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Hoàng Hồng


Hà Nội - 2014


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU .......................................................................................................... 4
1. Tính cấp thiết của đề tài. ............................................................................... 4
2. Lịch sử nghiêm cứu vấn đề. .......................................................................... 6
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn. ......................................... 7
3.1. Mục đích nghiên cứu. ................................................................................. 7
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu. ................................................................................. 7
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu. ................................................................ 8
4.1. Đối tượng nghiên cứu ................................................................................ 8
4.2. Phạm vi nghiên cứu. ................................................................................... 8
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu. .................................................. 8
5.1. Nguồn tư liệu .............................................................................................. 8
5.2. Phương pháp nghiên cứu............................................................................ 8
6. Đóng góp của luận văn. ................................................................................. 8
7. Kết cấu của luận văn. .................................................................................... 9
Chương 1: ĐẢNG BỘ HUYỆN ĐOAN HÙNG LÃNH ĐẠO THỰC
HIỆN XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TỪ GIAI ĐOẠN 1997-2005. .............. 10
1.1 Khái quát điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của huyện Đoan Hùng và chủ
trương xóa đói giảm nghèo của Đảng . ........................................................... 10
1.1.1 Khái quát điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của huyện Đoan Hùng. 10
1.1.1.1 Đặc điểm tự nhiên của huyện Đoan Hùng. ......................................... 10
1.1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội của huyện Đoan Hùng .............................. 15
1.1.2 Chủ trương xóa đói giảm nghèo của Đảng............................................ 17
1.2 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ và phương hướng nhiệm vụ của
Đảng bộ huyện Đoan Hùng về thực hiện xóa đói giảm nghèo giai đoạn 1997 2005. ................................................................................................................ 25

1



1.2.1. Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ về thực hiện xóa đói giảm
nghèo. .............................................................................................................. 25
1.2.2 Phương hướng nhiệm vụ của Đảng bộ huyện Đoan Hùng về thực hiện
xóa đói giảm nghèo giai đoạn 1997- 2005. .................................................... 32
1.3 Quá trình chỉ đạo thực hiện xóa đói giảm nghèo của Đảng bộ huyện Đoan
Hùng giai đoạn 1997- 2005. ............................................................................ 35
1.3.1 Thực hiện các dự án nhằm xóa đói giảm nghèo. ................................... 35
1.3.2 Thực hiện các chính sách hỗ trợ trong chương trình mục tiêu Quốc gia
xóa đói giảm nghèo. ........................................................................................ 38
1.2.3 Tạo việc làm mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp cho người lao động, nâng cao
chất lượng lao động; đào tạo cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo và
tăng cường cán bộ cho xã đặc biệt khó khăn. ................................................. 41
1.2.4 Kết quả thực hiện xóa đói giảm nghèo giai đoạn 1997- 2005. .............. 44
Chương 2: ĐẢNG BỘ HUYỆN ĐOAN HÙNG LÃNH ĐẠO THỰC
HIỆN XÓA ĐÓI GIẢM NGHÈO TỪ NĂM 2006 ĐẾN NĂM 2012. ....... 52
2.1 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ và phương hướng nhiệm vụ của
Đảng bộ huyện Đoan Hùng về xóa đói giảm nghèo từ năm 2006 đến năm
2012. ................................................................................................................ 52
2.1.1 Chủ trương của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ. ................................................ 52
2.1.2 Phương hướng nhiệm vụ của Đảng bộ huyện Đoan Hùng. .................. 55
2.2 Quá trình chỉ đạo thực hiện xóa đói giảm nghèo của Đảng bộ huyện Đoan
Hùng từ năm 2006 đến năm 2012. .................................................................. 64
2.2.1 Thực hiện chương trình 135 của chính phủ. .......................................... 64
2.2.2 Thực hiện các chính sách hỗ trợ trong chương trình mục tiêu Quốc gia
về xóa đói giảm nghèo..................................................................................... 70
2.2.3 Tạo việc làm mới, giảm tỷ lệ thất nghiệp cho người lao động, nâng cao
chất lượng lao động; đào tạo cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo và
tăng cường cán bộ cho xã đặc biệt khó khăn. ................................................. 73


2


2.2.4 Phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân trong công tác xóa đói giảm
nghèo. .............................................................................................................. 75
2.2.5 Kết quả thực hiện xóa đói giảm nghèo của Đảng bộ huyện từ năm 2006
đến năm 2012. ................................................................................................. 78
Chương 3: MỘT SỐ NHẬN XÉT VÀ KINH NGHIỆM ........................... 88
3.1 Một số nhận xét. ........................................................................................ 88
3.1.1.Về ưu điểm. ............................................................................................. 88
3.1.2 Về hạn chế. ............................................................................................. 91
3.2 Một số kinh nghiệm. ................................................................................. 92
3.2.1. Bám sát thực tiễn địa phương vùng trung du để có chủ trương và biện
pháp phù hợp trong quá trình thực hiện xóa đói giảm nghèo. ....................... 92
3.2.2. Cần tạo được sự chuyển biến nhận thức về xóa đói giảm nghèo của cả
hệ thống chính trị địa phương và trong nhân dân. ......................................... 94
3.2.3. Can thiệp chính sách muốn hiệu quả, phù hợp với thực tế, trước hết
phải điều tra, nắm vững thực trạng và nguyên nhân đói nghèo mang tính địa
phương............................................................................................................. 95
3.2.4 Xóa đói giảm nghèo chỉ có hiệu quả cao khi mở rộng khả năng xã hội
hóa, thu hút sự tham gia của đa chủ thể, của toàn xã hội, nhất là phát huy chủ
động tích cực của đối tượng đói nghèo. .......................................................... 96
3.2.5. Đẩy mạnh cải cách hành chính, đề cao dân chủ cơ sở, phát huy sự quản
lý giám sát của xã hội trong triển khai thực hiện các chương trình, dự án xóa
đói giảm nghèo. ............................................................................................... 97
3.2.6. Cần gắn kết hoặc lồng ghép chương trình xóa đói giảm nghèo với các
chương trình phát triển kinh tế xã hội khác. ................................................... 99
KẾT LUẬN .................................................................................................. 101
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO ................................................... 104


3


MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài.
Đói nghèo là một phạm trù lịch sử có tính tương đối ở từng thời kỳ và ở
mọi quốc gia. Hiện nay, trên thế giới có khoảng 1,5 tỷ người đang sống trong
cảnh đói nghèo, kể cả nước có thu nhập cao nhất thế giới vẫn có một tỷ lệ dân
số sống trong tình trạng nghèo nàn cả về vật chất và tinh thần. Tỷ lệ người
nghèo ở mỗi nước cũng khác nhau, đối với nước giàu thì tỷ lệ đói nghèo nhỏ
hơn các nước kém phát triển song khoảng cách giàu nghèo lại lớn hơn rất
nhiều. Trong xu thế hợp tác và toàn cầu hoá hiện nay thì vấn đề xoá đói giảm
nghèo (XĐGN) không còn là trách nhiệm của một quốc gia mà đã trở thành
mối quan tâm của cả động đồng Quốc tế. Việt Nam là một trong những nước
có thu nhập thấp nhất thế giới, do đó chương trình mục tiêu quốc gia XĐGN
là một chiến lược lâu dài cần được sự quan tâm giúp đỡ của cộng đồng quốc
tế kết hợp chặt chẽ với tinh thần tự lực, tự cường, đoàn kết của cả dân tộc để
đẩy lùi đói nghèo tiến kịp trình độ phát triển kinh tế của các nước tiên tiến.
Chúng ta đều biết đòi nghèo là lực cản trên con đường tăng trưởng và phát
triển của Quốc gia, nghèo khổ luôn đi liền với trình độ dân trí thấp, tệ nạn xã
hội, bệnh tật phát triển, trật tự an ninh chính trị không ổn định.
Do vậy ở nước ta công tác xóa đói, giảm nghèo được xác định là một
trong những nhiệm vụ trọng tâm của Đảng và nhà nước, đã và đang trở thành
nội dung quan trọng của cấp ủy Đảng, chính quyền, đoàn thể. Công tác này
được bắt đầu từ khi có phân hóa giàu nghèo trong quá trình chuyển đổi sang
nền kinh tế thị trường. Trong quá trình thực hiện công tác xóa đói giảm nghèo
nâng cao sức sống của nhân dân, nước ta đã đạt được những thành tựu quan
trọng và được cả thế giới biết đến. Ngay từ những năm đầu 1991 vấn đề xóa
đói giảm nghèo đã được đề ra trong các diễn đàn, các nghiên cứu và triển khai

thành xóa đói giảm nghèo.

4


Trong thời kỳ nước ta đang thực hiện công cuộc công nghiệp hoá - hiện
đại hoá (CNH-HĐH), phát triển kinh tế thị trường như hiện nay, vấn đề
XĐGN càng khoá khăn và phức tạp hơn so với thời kỳ trước. Muốn đạt được
hiệu quả thiết thực nhằm giảm nhanh tỷ lệ đói nghèo, nâng cao mức sống cho
người dân thì mỗi địa phương, mỗi vùng phải có chương trình XĐGN riêng
phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của mình nhằm thực hiện mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.
Đoan Hùng là một huyện miền núi của tỉnh Phú Thọ. Hiện nay, Đoan
Hùng vẫn là một huyện nghèo, có diện tích rộng, người đông, dân cư phân bố
không đều, trình độ dân trí hạn chế, kết cấu hạ tầng thấp kém, kinh tế phát
triển chưa đồng đều giữa các vùng. Thu nhập bình quân đầu người còn thấp,
tỷ lệ hộ đói nghèo của huyện còn cao.
Quán triệt chủ trương của Đảng và Nhà nước về xóa đói giảm nghèo,
ngay từ những năm đầu của thập kỷ 90 của thế kỷ XX Đảng bộ huyện Đoan
Hùng đã lãnh đạo thục hiện công tác xóa đói, giảm nghèo nhằm nâng cao đời
sống vật chất và tinh thần cho người dân.
Do vậy mà trong thời kỳ 1997-2012, huyện Đoan Hùng - tỉnh Phú Thọ là
một trong những huyện miền núi đạt được nhiều thành tựu về mọi mặt kinh tế
văn hóa xã hội. Một trong những nguyên nhân dẫn đến những thành tựu đó là
Đảng bộ và nhân dân huyện Đoan Hùng đã thực hiện nghiêm chỉnh chủ
trương chính sách xóa đói giảm nghèo của Đảng và nhà nước, khắc phục
được cơ bản những chi bộ Đảng bộ yếu kém, nâng cao lòng tin của dân đối
với Đảng. Quá trình thực hiện xóa đói giảm nghèo là cả một quá trình đấu
tranh không mệt mỏi của nhân dân và lãnh đạo huyện Đoan Hùng, các chi bộ
trực thuộc Đảng bộ Đoan Hùng.

Vậy Đảng bộ Đoan Hùng đã có những chủ trương biện pháp như thế nào,
quá trình đấu tranh để đi đến thống nhất và thực thực hiện thắng lợi mọi
nhiệm vụ ở cấp huyện là cả một vấn đề cần được nghiên cứu.

5


Vì vậy thực hiện mục tiêu xóa đói giảm nghèo (XĐGN) đang là vấn đề
cấp bách đặt ra cho tỉnh trong tiến trình hội nhập và phát triển. Là người con
sinh ra từ mảnh đất Đoan Hùng, Phú Thọ, lớn lên chứng kiến những thay đổi
ở quê hương mình. Sau quá trình tìm hiểu và khảo sát thực tế tôi quyết định
chọn đề tài: “Đảng bộ huyện Đoan Hùng(Phú Thọ) lãnh đạo xóa đói, giảm
nghèo từ năm 1997 đến năm 2012” làm đề tài luận văn thạc sỹ của mình.
2. Lịch sử nghiêm cứu vấn đề.
Đói, nghèo và vấn đề xóa đói giảm nghèo là một vấn đề lớn, bức thiết ở
nước ta hiện nay, đã và đang thu hút các cơ quan các nhà khoa học nghiên
cứu tìm hiểu giải pháp. Kết quả nghiên cứu của công trình được các nhà khoa
học đăng tải trong các cuốn sách, tạp chí và luận văn thạc sỹ, luận án tiến sỹ
và các phương tiện thông tin đại chúng khác. Sau đây là các công trình khoa
học trực tiếp có liên quan.
- “Xóa đói giảm nghèo” của Bộ lao động thương binh xã hội năm (1993)
- Vấn đề xóa đói giảm nghèo ở nông thôn nước ta hiện nay của Nguyễn
Thị Hằng (NXB chính trị quốc gia Hà Nội - 1997).
Tăng trưởng kinh tế, công bằng xã hội và vấn đề xóa đói giảm nghèo ở
Việt Nam, chủ biên GS.PTS Vũ Thị Ngọc Phùng (NXB chính trị quốc gia Hà
Nội - 1999)
- Đói nghèo ở Việt Nam, chủ biên Chu Tiến Quang (NXB Nhà xuất bản
nông nghiệp Hà Nội - 2001)
- Một số chính sách quốc gia về việc làm và xóa đói giảm nghèo của Lê
Quyết, NXB Lao động, Hà Nội -2002.

- Đảng bộ tỉnh Phú Thọ lãnh đạo thực hiện xóa đói giảm nghèo từ năm
1997 đến năm 2010 của tác giả Trần Cao Quý – 2012.
Đánh giá chương trình mục tiêu quốc gia về việc làm và xóa đói giảm
nghèo và chương trình 135 của bộ LĐ –TB & XH và UNDP- 2004.

6


Vấn đề XĐGN đã được nghiên cứu trên phạm vi cả nước, cũng như ở một
số tỉnh. ở tỉnh Phú Thọ :
Đề tài nghiên cứu "Những giải pháp về quản lý nhằm xóa đói giảm nghèo
ở nông thôn Phú Thọ hiện nay" của tác giả Nguyễn Thị Hải năm 2010.
"Phát triển kinh tế với việc xóa đói giảm nghèo ở huyện Thanh Sơn - Phú
Thọ" của tác giả Sa Thị Quyết. Ở đề tài thứ nhất, tác giả nghiên cứu vấn đề
dưới giác độ quản lý kinh tế để từ đó đưa ra những giải pháp về quản lý nhằm
giải quyết vấn đề đói nghèo ở khu vực nông thôn của tỉnh. Còn ở đề tài thứ
hai, chủ yếu tác giả đề cập vấn đề XĐGN kết hợp với phát triển kinh tế trên
phạm vi một huyện.
Nhìn chung từ cách tiếp cận và nghiên cứu của các chuyên ngành khác
nhau các công trình trên đã góp phần làm sáng tỏ về mặt lý luận và thực tiễn
của vấn đề đói nghèo và công tác xóa đói giảm nghèo của nước ta hiện nay.
Kết quả nghiên cứu của các công trình có giá trị tham khảo tốt để thực hiện đề
tài luận văn. Tuy nhiên đến nay chưa có công trình khoa học nào nghiên cứu
một cách toàn diện dưới góc độ khoa học chuyên ngành Lịch sử Đảng cộng
sản Việt Nam về sự lãnh đạo của huyện Đoan Hùng đối với công tác xóa đói
giảm nghèo trên địa bàn huyện từ 1997 – 2012.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn.
3.1. Mục đích nghiên cứu.
Làm rõ quá trình Đảng bộ huyện Đoan Hùng quán triệt chủ trương,
chính sách của Đảng và nhà nước về xóa đói giảm nghèo và đánh giá thành

tựu hạn chế trên địa bàn huyện từ năm 1997-2012. Qua đó rút ra những kinh
nghiệm để vận dụng vào giai đoạn cách mạng tiếp theo.
3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu.
- Luận văn trình bày một cách có hệ thống quá trình lãnh đạo thực hiện
xóa đói giảm nghèo của Đảng bộ huyện Đoan Hùng từ năm 1997 -2012.

7


- Đánh giá thành tựu hạn chế và đúc rút bài học kinh nghiệm từ công tác
lãnh đạo xóa đói giảm nghèo của Đảng bộ huyện Đoan Hùng trên địa bàn
tỉnh.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu.
4.1. Đối tượng nghiên cứu
Chủ trương và các biện pháp chỉ đạo thực hiện xóa đói giảm nghèo của
Đảng bộ huyện Đoan Hùng trong thời gian từ 1997 đến 2012.
4.2. Phạm vi nghiên cứu.
- Về nội dung: Nghiên cứu sự lãnh đạo của Đảng bộ huyện Đoan Hùng về
xóa đói giảm nghèo và các hoạt động nhằm xóa đói giảm nghèo ở huyện
Đoan Hùng
- Về không gian, phạm vi nghiên cứu chính là huyện Đoan Hùng, có mở
rộng một số vấn đề trong phạm vi tỉnh Phú Thọ
- Về thời gian: Nghiên cứu từ năm 1997 -2012
5. Nguồn tư liệu và phương pháp nghiên cứu.
5.1. Nguồn tư liệu
Để thực hiện luận văn này tác giả đã sử dụng các văn kiện Đại hội đại
biểu toàn quốc của Đảng cộng sản Việt Nam, chính sách, kế hoạch của Đảng
và nhà nước về công tác xóa đói giảm nghèo.
- Các nghị quyết, chỉ thị, báo cáo của Đảng bộ tỉnh Phú Thọ và Đảng bộ
huyện Đoan Hùng có nội dung liên quan đến xóa đói giảm nghèo trong những

năm 1997 -2012.
- Các công trình nghiên cứu liên quan đến đề tài của luận văn.
5.2. Phương pháp nghiên cứu.
- Phương pháp chủ yếu được sử dụng là phương pháp lịch sử, phương
pháp logic, ngoài ra còn sử dụng phương pháp thống kê, phương pháp tổng
hợp, phương pháp so sánh.
6. Đóng góp của luận văn.

8


- Hệ thống hóa những chủ trương, biện pháp mà Đảng bộ huyện Đoan
Hùng (tỉnh Phú Thọ), nhằm thực hiện xóa đói giảm nghèo trong những năm
1997 -2012.
- Luận văn làm rõ những thành tựu hạn chế, nguyên nhân của những hạn
chế trong quá trình Đảng bộ huyện Đoan Hùng lãnh đạo xóa đói giảm nghèo;
bước đâu tổng kết đúc rút những kinh nghiệm phục vụ hiện tại.
- Luận văn có thể phục vụ cho công tác viết lịch sử Đảng của huyện Đoan
Hùng (Phú Thọ), hoặc là tài liệu tham khảo cho những nghiên cứu liên quan.
7. Kết cấu của luận văn.
Ngoài phần mở đầu và kết luận, phụ lục, tài liệu tham khảo, luận văn gồm
3 chương.
Chương 1: Đảng bộ huyện Đoan Hùng lãnh đạo thực hiện xóa đói giảm
nghèo từ giai đoạn 1997-2005.
Chương 2: Đảng bộ huyện Đoan Hùng lãnh đạo thực hiện xóa đói giảm
nghèo từ năm 2006 – 2012.
Chương 3: Một số nhận xét và bài học kinh nghiệm.

9



Chương 1
ĐẢNG BỘ HUYỆN ĐOAN HÙNG LÃNH ĐẠO THỰC HIỆN XÓA
ĐÓI GIẢM NGHÈO TỪ GIAI ĐOẠN 1997-2005.
1.1 Khái quát điều kiện tự nhiên kinh tế xã hội của huyện Đoan Hùng
và chủ trương xóa đói giảm nghèo của Đảng .
1.1.1 Khái quát điều kiện tự nhiên và kinh tế xã hội của huyện Đoan
Hùng.
1.1.1.1 Đặc điểm tự nhiên của huyện Đoan Hùng.
- Vị trí địa lý.
Huyện Đoan Hùng là một huyện Trung Du miền núi, nằm ở phía Bắc của
tỉnh Phú Thọ, là cửa ngõ của bốn tỉnh: Hà Giang, Tuyên Quang, Lào Cai, Yên
Bái, cách trung tâm thành phố Việt Trì 56 km về phía Tây Bắc. Phía Bắc giáp
với huyện Yên Bình tỉnh Yên Bái, huyện Yên Sơn tỉnh Tuyên Quang, Phía
Nam giáp với huyện Phù Ninh tỉnh Phú Thọ, phía Đông giáp với huyện Sơn
Dương tỉnh Tuyên Quang, phía Tây giáp với huyện Thanh Ba, Hạ Hoà, tỉnh
Phú Thọ. Toạ độ địa lý của huyện nằm từ 21031’đến 21043’vĩ độ
Bắc,105006’đến 105015’kinh độ Đông.
Nằm ở vị trí này huyện Đoan Hùng có thế mạnh lớn về phát triển kinh tế
bên cạnh đó việc thông thương đường bộ và đường thuỷ với các tỉnh lân cận
rất thuận lợi.
- Địa hình
Với đặc trưng của vùng chuyển tiếp từ miền Trung Du và miền đồi núi
cao, huyện Đoan Hùng có tổng diện tích đất tự nhiên là 30.244,47 ha trong đó
diện tích đất gò đồi chiếm phần lớn diện tích. Địa bàn huyện Đoan Hùng nằm
trên trục quốc lộ 2 và quốc lộ 70, địa hình phức tạp, đồi núi xen kẽ các cánh
đồng lầy thụt. Huyện có 27 xã và một thị trấn, gồm 14 dân tộc, trong đó dân
tộc kinh chiếm phần lớn dân số trong vùng.

10



Địa hình của huyện khá phức tạp thấp dần từ Bắc xuống Nam, từ Tây
sang Đông, độ dốc trung bình 30- 50, có nhiều cánh đồng chua, lầy thụt năm
ở các khe độc, có chiều dài từ Tây Bắc xuống Đông Nam là 31 km, Chiều
rộng từ Đông sang Tây là 14 km. Sự thay đổi độ cao của các vùng trong
huyện thấp dần về phía sông Lô, sông Chảy, cụ thể địa hình được chia làm 3
tiểu vùng.
- Tiểu vùng I (tiểu vùng Thượng huyện) diện tích 12.347ha (bao gồm 9
xã: Bằng Luân, Minh Lương, Bằng Doãn, Quế Lâm, Phúc Lai, Đông Khê,
Tây Cốc, Ca Đình, Ngọc Quan) chiếm khoảng 41% tổng doanh nghiệp. Địa
hình nơi đây có nhiều đồi núi cao, rừng tự nhiên suy kiệt, chủ yếu là rừng
trồng, độ dốc trung bình 12o – 25o với dải gò đồi bát úp mấp mô có độ cao
trung bình từ 50m đến 100m tạo nên khoảng giữa là các thung lũng nhỏ hẹp,
thích hợp cho trồng rừng sản xuất, cây công nghiệp và cây ăn quả.
- Tiểu vùng II (tiểu vùng ven sông Lô, sông Chảy) có diện tích 10.800 ha,
bao gồm 13 xã (Chí Đám, Vân Du, Hùng Quan, Nghinh Xuyên, Phương
Trung, Phong Phú, Thị trấn Đoan Hùng, Hữu Đô, Phú Thứ, Đại Nghĩa, Hùng
Long, Sóc Đăng, Vụ Quan), chiếm 35,7% diện tích tự nhiên, là vùng chuyển
tiếp có dạng núi thấp xen kẽ các dải đồng bằng hẹp ven sông Lô, sông Chảy.
Đất vùng ven sông nên chủ yếu là đất phù sa cổ và một phần sình lầy, thích
hợp cho trồng cây lương thực, rau, màu, cây công nghiệp ngắn ngày, chăn
nuôi và cây ăn quả.
- Tiểu vùng III (tiểu vùng Hạ huyện) diện tích có 7.097,47 ha, bao gồm 6
xã (Minh Phú, Chân Mộng, Vân Đồn, Tiêu Sơn, Yên Kiện, Minh Tiến),
chiếm khoảng 23,5% tổng DTTN, dạng núi thấp, xen kẽ vùng đồi bát úp có
nhiều cánh đồng dạng lòng chảo, có độ cao phổ biến từ 25 m đến 50 m, có ưu
thế về chăn nuôi, trồng cây công nghiệp dài ngày và cây nguyên liệu giấy cho
nhà máy giấy Bãi Bằng.
- Khí hậu – thuỷ văn:


11


Khí hậu: Đoan Hùng thuộc vùng Trung Du Bắc bộ, chịu ảnh hưởng của
khí hậu nhiệt đới gió mùa nóng ẩm, chia thành hai mùa rõ rệt: Mùa mưa
lượng mưa cao, cường độ mạnh chiếm khoảng 90% lượng mưa cả năm, trời
nắng gắt đôi khi có những đợt lốc xoáy cục bộ và mưa đá. Mùa khô ít mưa, có
gió mùa Đông Bắc thổi vào, trời rét, nhiệt độ thấp. Đặc biệt trong tháng 11,12
và tháng 1 độ ẩm không khí thấp, nắng hanh kèm theo sương muối làm ảnh
hưởng đến sự sinh trưởng và phát triển của một số loại cây trồng, gây thiệt hại
cho sản xuất.
Nhiệt độ: Nhiệt độ không khí trung bình năm là 230C từ tháng 11 đến
tháng 3 năm sau, các tháng lạnh nhất trong năm tập trung 58% xảy ra vào
tháng 1; 20% - 30% tháng lạnh nhất tập trung vào tháng 12 và 14% tập trung
vào tháng 2.
Ẩm độ: Bình quân độ ẩm không khí hàng năm từ 84% - 86%, chênh lệch
giữa các tháng không lớn từ (4%– 7%), tháng có độ ẩm cao nhất là tháng 11
và tháng 12.
Tổng lượng bốc hơi trung bình năm: là 1.176 mm thấp hơn lƣợng mƣa
hàng năm, lớn nhất vào tháng 5 (89 mm) và nhỏ nhất vào tháng 3 (52,7 mm).
Lượng mưa: Tổng lượng mưa trung bbình năm là 1644 mm. Lượng mưa
của huyện Đoan Hùng phụ thuộc vào điều kiện địa hình và tiếp giáp với các
vùng mưa đầu nguồn nên huyện có lượng mưa trung bình cao hơn tỉnh Phú
Thọ, song mưa có tính chất cường độ và thời gian không đều.
- Thuỷ văn: Đoan Hùng là huyện có điều kiện thuận lợi trong sản xuất
nông, lâm nghiệp, thuỷ sản vì nguồn nước do sông ngòi cung cấp cho rất lớn,
tuy vậy vào mùa mưa lũ đời sống nhân dân vùng này gặp phải rất nhiều khó
khăn, toàn huyện có hai con sông lớn chảy qua và 28 ngòi bao gồm:
Sông Chảy có chiều dài qua huyện khoảng 22 m bắt đầu từ vùng tiếp giáp

Yên Bái là Đông Khê, Quế Lâm theo hướng Tây Bắc - Đông Nam, qua các xã

12


Phương Trung, Nghinh Xuyên, Phong Phú, Hùng Quan, Thị trấn Đoan Hùng,
Vân Du, Chí Đám và đổ vào sông Lô tại Mom Cầy (Ngọc Chúc – Chí Đám).
Sông Lô từ Tuyên Quang chảy vào Đoan Hùng tại Chí Đám, Hữu Đô
theo hướng Bắc Nam, chảy qua các xã: Thị trấn Đoan Hùng, Sóc Đăng, Đại
Nghĩa, Hùng Long, Vụ Quan, Phú Thứ, chiều dài của sông qua huyện là 24
km.
Hai con sông này có lượng phù sa thấp hơn sông Hồng, nước chảy xiết,
vào mùa mưa lũ hợp lại gây nên những trận lụt lớn cho vùng, lưu lượng 1.150
m/s.Vì vậy, công tác phòng hộ đê được các cấp chính quyền và nhân dân
trong vùng rất coi trọng.
Ngòi, với 28 ngòi (ngòi Lạp Xuyên, ngòi Quế Lâm, ngòi Sống, ngòi
Ruỗn, ngòi Rằm…., ), cứ bình quân 3,36 km2 lưu vực có 1 km ngòi dài tạo
nên cho huyện một hệ thống tưới tiêu phong phú, vừa để tiêu nước khi mưa lũ
và đưa nước lên các xã vùng thượng huyện vào mùa khô.
Tóm lại, điều kiện khí hậu, thuỷ văn nói trên cho thấy ngoài gió và ngập
úng vùng trũng là yếu tố ảnh hưởng chính đến năng suất, sản lượng và phẩm
chất cây trồng, nhìn chung các yếu tố khí tượng đều thích hợp về yêu cầu sinh
lý phát triển của nhiều loại cây trồng, đặc biệt là phù hợp với cây ăn quả trong
đó có cây bưởi đặc sản phát triển rất mạnh.
- Thổ nhưỡng và các đặc điểm đất đai.
Theo số liệu điều tra của Viện Nông hoá thổ nhưỡng tháng 12/2002 đất
đai trên địa bàn huyện Đoan Hùng gồm có các nhóm đất chính sau:
Đất phù sa ven sông: Loại đất này được bồi đắp phù sa hàng năm, độ phì
khá, nghèo lân, bị úng ngập thường xuyên, đất chua, phân bố tập trung chủ
yếu ở các xã nằm ngoài hoặc ven sông trong đê vùng ven sông Lô, sông Chảy

như: Vân Du, Hùng Quan, Sóc Đăng, Phong chung, Chí Đám…đất thích hợp
với các loại cây nông nghiệp hàng năm và cây hoa màu hàng năm.

13


Đất vùng trũng: Loại đất này tập trung ở đại hình các vùng trũng, ngập
úng quanh năm, nghèo chất dinh dưỡng, đất chua, có hàm lượng mùn cao, dễ
tiêu, giây ở mức trung bính đến mạnh, yếm khí, phân bố ở hầu hết các xã
tronghuyện như: Đông Khê, Yên Kiện, Vân Đồn, Chí Đám…đất này thích
hợp với lúa một vụ chiêm.
Đất tầng mỏng: Loại đất này không được bồi đắp hàng năm, tập trung ở
nơi có địa hình trung bình hoặc thấp, tầng đất canh tác mỏng, mức độ giây
xảy ra mạnh, hàm lượng mùn ở cấp độ nghèo, phân bố tập trung ở các vùng
ven sông Lô, sông Chảy như: Hùng Quan, Vụ Quang, Phú Thứ và rải rác ở
một số xã trong huyện thích hợp với các cây hoa màu ngắn ngày như: đậu, đỗ,
khoai lang.
Đất cát: Loại đất nay do bị rửa trôi, xói mòn nhiều nên độ phì kém, đất
nghèo chất dinh dưỡng, bị khô hạn, phân bố tập trung chủ yếu ở xã Chí Đám,
thích hợp với các cây hoa màu (đậu, đỗ, khoai lang).
Đất xám: Tầng dầy đất 50cm đến 70cm, đất ít kết vón đá ong, đất chua,
nghèo lân, phân bố ở các địa hình trung bình và cao ở các xã trong huyện,
thích hợp với các cây công nghiệp hàng năm, cây lâm nghiệp lâu năm, cây ăn
quả…
Đất đỏ: Loại đất này phân bố tập trung ở các xã thuộc tiểu vùng thượng
huyện như: Tây Cốc, Bằng Luân, Bằng Doãn, Minh Long và rải rác một số xã
vùng kinh tế thượng huyện như Tiêu Sơn, Minh Tiến trên nền độ cao trung
bình từ 50m đến 100m, thích hợp với các cây công nghiệp, cây lâu năm.
Về số lượng: huyện Đoan Hùng có 6 nhóm đất chính, trong đó có 3 nhóm
chiếm diện tích lớn là nhóm đất xám có tỷ trọng lớn nhất chiếm 66,47% tổng

diện tích đất tự nhiên, đất phù sa chiếm 13,66%, đất đỏ chiếm 5,2% tổng diện
tích đất tự nhiên.
Về chất lượng: Qua các kết quả phân tích các thành phần hoá học trong
đất của viện nông hoá thổ nhưỡng, cho thấy đất đai của Đoan Hùng có các

14


mức chất lượng trung bình chủ yếu chiếm 38,66% với 11.691,98 ha, còn lại là
đất trung bình, khá, đất có chất lượng kém chỉ chiếm 2,78% với 841,107 ha.
Về độ dốc chủ yếu trong khoảng 80– 150, chiếm 53,25%.
1.1.1.2. Điều kiện kinh tế - xã hội của huyện Đoan Hùng
- Dân số và lao động
Huyện có 28 đơn vị hành chính, xã Bằng Luân là xã có diện tích lớn nhất
11,76 km2và nơi tập trung dân cư đông nhất là Chí Đám 8.394 người với mật
độ dân số 658 người/km2. Trong 8 xã đặc biệt khó khăn (xã 135), xã Bằng
Doãn là xã có diện tích tự nhiên lớn hơn cả là 14,36 km2, đứng thứ 5 trong
huyện với mật độ dân số thấp 209 người/km2, các xã còn lại có số dân từ
1.692 đến 6.694 người, diện tích đất tự nhiên bình quân đầu người là 0,28 ha
và bình quân một hộ là 1,16 ha. Mật độ dân số trung bình toàn huyện là 356
người/km2phân bố không đồng đều, tập trung ở các huyện lị ven sông và ven
Quốc lộ. Các xã vùng sâu, vùng xa mật độ còn thưa thớt; xã thấp nhất là Ca
Đình 196 người/km2 và xã cao nhất là Thị trấn Đoan Hùng 1.304 người/km2.
Tổng dân số của huyện năm 2010 là 107.771 người, trong đó dân số nông
nghiệp 90.828 nguời chiếm 84,3%, dân số phi nông nghiệp 1.6943 người,
chiếm 15,7%, tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,1 5. Tổng số hộ 25.996 hộ, trong
đó hộ nông nghiệp là 19.771 hộ, chiếm 76,05% .
Năm 2007 tổng số lao động của huyện là 54.359 người, trong đó phần lớn
là lao động nông nghiệp là 43.199 người chiếm 79,47%, lao động phi nông
nghiệp là 11.160 người chiếm 20,53% tổng số lao động.Số lượng lao động

của huyện tăng giảm không đều và mức độ biến động không lớn, tốc độ phát
triển bình quân 3 năm đạt 1,86%, lao động nông nghiệp giảm 1%.
Sản xuất của người nông dân trong huyện chủ yếu là ngành nông nghiệp,
đời sống người nông dân còn nhiều khó khăn.
Ngoài ra lao động nông nghiệp giảm chứng tỏ hướng chuyển đổi cơ cấu
kinh tế trên địa bàn đã có hướng chuyển biến tích cực, tạo việc làm cho lao

15


động sang các ngành sản xuất khác như: chế biến, khai thác, xây dựng…, làm
tăng diện tích đất nông nghiệp/lao động nông nghiệp.
Hiện nay, đội ngũ cán bộ quản lý và cán bộ khoa học kỹ thuật còn thiếu
nhiều, đòi hỏi phải bổ sung về đào tạo để đáp ứng nhu cầu phát triển công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn trong điều kiện kinh tế thị
trường.
- Hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn huyện
Về đường bộ:
Toàn huyện có có 750,6 km giao thông đường bộ từ liên huyện, liên xã,
liên thôn chia ra:
+ Quốc lộ 2 đi Tuyên Quang – Hà Giang chạy qua Đoan Hùng có chiều
dài 22 km.
+ Quốc lộ 70 đi Yên Bái – Lào Cai chạy qua Đoan Hùng có chiều dài 24
km
+ Đường tỉnh lộ gồm 2 tuyến (319 và 328) với chiều dài 25,9 km; Đường
huyện lộ có 7 tuyến chính dài 90,6 km với mặt rộng trên 5m, đường liên xã 61
km và đường liên thôn dài 558,1 km. Các xã đều có đường ô tô chạy đến
UBND xã, chủ yếu là đường cấp phối rải đá răm còn lại là đường liên thôn,
liên xóm phần lớn là đường đất, nên lụt lội vào mùa mưa, lầy thụt gây khó
khăn cho việc thu hoạch và vận chuyển sản phẩm .

Đường thuỷ
Huyện có hai con sông lớn (sông Chảy và sông Lô) chảy qua với chiều
dài 46 km, đáp ứng nhu cầu vận tải thuỷ vừa và nhỏ cho nhân dân. Nhìn
chung huyện Đoan Hùng có hệ thống giao thông đừờng thuỷ khá phong phú,
tạo điều kiện thuận lợi để giao lưu, buôn bán và vận chuyển sản phẩm, hàng
hoá đi tiêu thụ.
Hệ thống tưới tiêu

16


Toàn huyện có 95 công trình cấp nước tưới phục vụ sản xuất, trong đó
có30 công trình loại vừa gồm 13 trạm bơm điện và 17 hồ đập, quy mô phục
vụ mỗi công trình từ 30 đến 110 ha. Hệ thống kênh và công trình kênh có 14
tuyến với tổng chiều dài 40,9 km, một số kênh đã được đầu tư xây dựng kiên
cố theo chương trình kiên cố hoá kênh mương, còn lại một số công trình đã
xuống cấp như đập Đại Nghĩa, đập Ba gạc Minh Phú, đập Minh Lương,...),
công suất công trình giảm nhất là các cống lấy nước và kênh mương, mặt
khác do tình trạng phá rừng bừa bãi làm giảm số lượng và chất lượng nguồn
nước đến, tăng cường độ hao tổn.
Các công trình thuỷ lợi nhỏ trên địa bàn tưới được 2.659 ha, thực tế chỉ
tưới được 1.610 ha đạt 60,55%, phần diện tích còn lại có nước mưa và người
nông dân phải chủ động tưới, dùng các biện pháp thuỷ lợi khác để đáp ứng
nhu cầu sản xuất. Điều này đòi hỏi các cấp chính quyền địa phương phải quan
tâm, huy động nguồn vốn kịp thời để nâng cấp cơ sở hạ tầng, tu sửa hệ thống
thuỷ lợi nhằm khai thác tốt công suất các công trình, tiềm năng nguồn nước
phục vụ cho sản xuất nông nghiệp .
- Điện lưới
Hiện nay 100% các xã có điện lưới và số hộ dùng điện đạt 100%, bên
cạnh đó để cung cấp thông tin, liên lạc hàng ngày và sách báo cung cấp cho

nhân dân trong huyện đến nay đã có 25 xã có điểm bưu điện văn hoá xã được
xây dựng đạt 89,29%, và 100% xã có đài truyền thanh tại các thôn, số điện
thoại bình quân trên 100 dân đạt 9,6 máy.
1.1.2 Chủ trương xóa đói giảm nghèo của Đảng.
Bước vào thập niên 90 của thế kỷ trước, vấn đề xóa đói giảm nghèo đã
được đề ra trong các diễn đàn, nghiên cứu và dần được triển khai trong thực
tiễn. Đến năm 1996, sau 10 năm đổi mới, đất nước thoát khỏi khủng hoảng
kinh tế xã hội , bước vòa thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, vấn đề đói nghèo luôn luôn được quan tâm. Đảng đã đưa ra quan điểm

17


“Ngay trong từng bước và suốt quá trình phát triển, tăng trưởng kinh tế phải
luôn gắn liền với tiến bộ và công bằng xã hội”.
Nghị quyết Đại hội VIII (6/1996) cũng xác định xóa đói giảm nghèo là
một trong 11 chương trình phát triển kinh tế xã hội và đặt ra mục tiêu giảm tỷ
lệ nghèo đói trong tổng số hộ của cả nước từ 20 – 25% năm 1996 xuống còn
khoảng 10% năm 2000. Thực hiện chủ trương của Đảng, chính phủ đã ra
quyết định số 133/ 1998/QĐ-TTg, ngày 23/07/1998, Phê duyệt chương trình
mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo giai đoạn 1998 – 2000. Đây là lần đầu
tiên Việt Nam xây dựng chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm
nghèo một cách có hệ thống. Ngay sau đó, chính phủ ra quyết định số
135/1998/QĐ-TTg, ngày 31/07/1998, phê duyệt chương trình phát triển kinh
tế đối với các xã đặc biệt khó khăn miền núi vùng sâu, vùng xa.
Ngay từ những ngày đầu mới thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng
hòa, một trong những nhiệm vụ đầu tiên mà Bác Hồ đã chỉ đạo là chống giặc
đói. Vấn đề công bằng xã hội - vấn đề có quan hệ trực tiếp và quyết định đối
với việc xóa đói giảm nghèo đã được Đảng ta luôn quan tâm chú ý. Những đại
hội Đảng gần đây, từ Đại hội VI đến Đại hội X, Đảng ta đã có nhiều nghị

quyết, nhiều văn bản đề cập tới vấn đề công bằng xã hội.
Chúng ta hiểu công bằng xã hội vừa là mục tiêu vừa là động lực để phát
triển. Công bằng xã hội không bó hẹp trong lĩnh vực kinh tế mà liên quan tới
tất cả các lĩnh vực kinh tế - chính trị - pháp luật - văn hóa - xã hội. Công bằng
xã hội phải được giải quyết và chỉ có thể được giải quyết gắn liền với sự phát
triển sản xuất, xây dựng xã hội thực sự dân chủ, xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa, xây dựng nền văn hóa tiên tiến đậm đà bản sắc dân
tộc Việt Nam. Công bằng xã hội đòi hỏi phải huy động mọi nguồn lực trong
nhân dân, xã hội hóa nhiệm vụ đền ơn đáp nghĩa, xây dựng và thực hiện tốt kế
hoạch phát triển kinh tế - xã hội trên cơ sở vừa tăng nhanh tốc độ phát triển,

18


vừa giảm dần sự mất cân đối giữa các vùng; giảm dần khoảng cách về thu
nhập, mức sống, hưởng thụ giáo dục, văn hóa, bảo vệ sức khỏe của các tầng
lớp dân cư ở các vùng khác nhau. Đặc biệt, công bằng xã hội đòi hỏi phải
thực hiện tốt chương trình xóa đói giảm nghèo, an sinh xã hội.
Trong các văn kiện quan trọng của Đảng Cộng sản Việt Nam, vấn đề xóa
đói, giảm nghèo được nhiều lần đề cập tới. Để bảo đảm và hướng tới công
bằng xã hội, Đảng ta khẳng định “khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống
làm giàu phi pháp đi đôi với chăm lo xóa đói, giảm nghèo, thu hẹp dần
khoảng cách về trình độ phát triển, về mức sống giữa các vùng căn cứ cách
mạng và kháng chiến cũ, các gia đình thuộc diện chính sách, làm cho mọi
người, mọi nhà đều tiến tới cuộc sống ấm no, hạnh phúc, ai cũng có việc làm,
có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học hành và chữa bệnh, từng bước thực hiện
điều Chủ tịch Hồ Chí Minh hằng mong ước”.
Trong quá trình thiết kế, chỉ đạo thi công việc xây dựng nền kinh tế thị
trường theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trên cơ sở nắm bắt những mặt mạnh
và mặt yếu của cơ chế thị trường, Đảng ta đã đưa ra những quan điểm chỉ

đạo: “Để phát triển sức sản xuất, cần phát huy khả năng của mọi thành phần
kinh tế, thừa nhận trên thực tế còn có bóc lột và sự phân hóa giàu nghèo nhất
định trong xã hội, nhưng phải luôn quan tâm, bảo vệ lợi ích của người lao
động, vừa khuyến khích làm giàu hợp pháp, chống làm giàu phi pháp, vừa coi
trọng xóa đói, giảm nghèo, từng bước thực hiện công bằng xã hội, tiến tới làm
cho mọi người, mọi nhà đều khá giả”.
Chú trọng đúng mức đến vấn đề đói nghèo trong xã hội, với nhãn quan
chính trị nhạy bén và với trách nhiệm cao cả trước nhân dân, Đảng ta đã đưa
ra những chương trình rộng lớn để tập trung giải quyết là “Chương trình về
xóa đói, giảm nghèo”. Trên cơ sở đó, Nhà nước cũng đã có hàng chục chương

19


trình cấp quốc gia và dự án đang được thực thi có nội dung gắn với xóa đói,
giảm nghèo.
Năm 1998 lần đầu tiên giảm nghèo đã trở thành một chính sách nằm trong
hệ thống chính sách xã hội của quốc gia. Từ đó đến nay, công tác xóa đói
giảm nghèo của Việt Nam đã đạt được những thành tựu nhất định như: Luôn
đạt và vượt mục tiêu đề ra qua các giai đoạn, hoàn thành vượt mức mục tiêu
thiên niên kỷ về giảm nghèo trước 10 năm…Từ năm 1992 đến năm 1998 với
rất nhiều nỗ lực, tỷ lệ đói nghèo ở Việt Nam bình quân mỗi năm giảm từ 2
đến 3%. Đến hết năm 2010 tỷ lệ nghèo của Việt Nam là 9,45%, vượt mức
mục tiêu đề ra là 10%.
Hội nghị Trung ương lần thứ 5 (khóa VII) đã đề ra chủ trương xóa đói
giảm nghèo trong chiến lược phát triển nông thôn, nông nghiệp và nông dân
cũng như trong chiến lược phát triển chung của xã hội và đã trở thành một
chủ trương chiến lược, nhất quán, liên tục được bổ sung, hoàn thiện qua các
kỳ Đại hội của Đảng.
Đại hội lần thứ VIII của Đảng một lần nữa nhấn mạnh tầm quan trọng đặc

biệt của công tác xóa đói giảm nghèo, xác định phải nhanh chóng đưa các hộ
nghèo thoát ra khỏi hoàn cảnh túng thiếu và sớm hòa nhập với sự phát triển
chung của đất nước; đề ra Chương trình quốc gia về xóa đói giảm nghèo trong
5 năm 1996 – 2000 cùng với 10 Chương trình kinh tế - xã hội khác.
Thực hiện chủ trương của Đảng, đầu năm 1998 Chính phủ chính thức phê
duyệt Chương trình mục tiêu quốc gia về xóa đói giảm nghèo (Chương trình
133) cho giai đoạn 1998-2000. Tháng 7/1998, Thủ tướng Chính phủ tiếp tục
bổ sung Chương trình 135 -Chương trình hỗ trợ phát triển cơ sở hạ tầng thiết
yếu các xã miền núi, vùng sâu, vùng xa, vùng đặc biệt khó khăn. Mục tiêu
chính của Chương trình này là hỗ trợ xây dựng hệ thống cơ sở hạ tầng như: hệ
thống điện, đường giao thông, trường học, trạm y tế....tại 1715 xã nghèo nói

20


trên. Kết quả là đến năm 2000 tỷ lệ nghèo của cả nước còn 10% theo chuẩn
cũ. Tuy nhiên, chúng ta cũng nhận thấy, không thể chỉ theo đuổi mục tiêu
giảm nhanh tỷ lệ hộ nghèo mà cần giữ vững kết quả giảm nghèo đã đạt được,
tăng khả năng bền vững, hiệu quả của công tác giảm nghèo, đặc biệt trong
điều kiện phát triển kinh tế thị trường. Vì vậy, quan điểm giảm nghèo bền
vững đã được đề cập và thể hiện trong Nghị quyết Đại hội IX của Đảng là:
“Tiếp tục thực hiện có hiệu quả chương trình xóa đói giảm nghèo. Quan tâm
xây dựng kết cấu hạ tầng cho các vùng nghèo, xã nghèo; đồng thời nâng cấp,
cải tạo các tuyến trục giao thông nối vùng nghèo, xã nghèo với nơi khác, tạo
điều kiện thuận lợi cho vùng nghèo, vùng khó khăn phát triển. Đi đôi với việc
xây dựng kết cấu hạ tầng, phải rất coi trọng việc tạo nguồn lực cần thiết để
dân cư ở các vùng nghèo, xã nghèo đẩy mạnh sản xuất, phát triển ngành nghề,
tăng nhanh thu nhập…Nâng dần mức sống của các hộ đã thoát nghèo, tránh
tình trạng tái nghèo”.
Nghị quyết Đại hội X của Đảng chỉ rõ: "Trong điều kiện xây dựng nền

kinh tế thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế, phải luôn coi trọng yêu cầu
nâng cao các phúc lợi xã hội cơ bản của nhân dân, đặc biệt là đối với người
nghèo, vùng nghèo, các đối tượng chính sách....Nhà nước tăng đầu tư từ ngân
sách tiếp tục phát triển cơ sở vật chất - kỹ thuật để nâng cao phúc lợi chung
cho toàn xã hội và bảo đảm cung ứng các dịch vụ xã hội cơ bản, trước hết là
về y tế, giáo dục cho người nghèo, vùng nghèo, các đối tượng chính sách...và
dịch vụ công cộng liên quan trực tiếp đến đời sống nhân dân và là yếu tố quan
trọng góp phần ổn định xã hội”.
Nghị quyết Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã khẳng định: “Thực
hiện có hiệu quả hơn chính sách giảm nghèo phù hợp với từng thời kỳ; đa
dạng hóa nguồn lực và phương thức để đảm bảo giảm nghèo bền vững, nhất
là tại các huyện nghèo nhất và các vùng đặc biệt khó khăn, khuyến khích làm
giàu theo pháp luật, tăng nhanh số hộ có thu nhập trung bình khá trở lên. Có

21


các chính sách và giải pháp phù hợp nhằm hạn chế phân hóa giàu nghèo, giảm
chênh lệch mức sống giữa nông thôn và thành thị”.
Để cụ thể hóa hơn định hướng của Đảng, Chính phủ đã đưa ra mục tiêu
cần đạt được trong giảm nghèo từ 2011 đến 2020: Giảm nghèo bền vững là
một trong những trọng tâm của Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội giai
đoạn 2011 – 2020 nhằm cải thiện và từng bước nâng cao điều kiện sống của
người nghèo, trước hết ở khu vực miền núi, vùng đồng bào dân tộc thiểu số;
tạo sự chuyển biến mạnh mẽ, toàn diện ở các vùng nghèo; thu hẹp khoảng
cách chênh lệch giữa thành thị và nông thôn, giữa các vùng, các dân tộc và
các nhóm dân cư. Cụ thể cần đạt được: Thu nhập của hộ nghèo tăng lên 3,5
lần; tỷ lệ hộ nghèo cả nước giảm 2%/năm, riêng các huyện nghèo, xã nghèo
giảm 4%/năm theo chuẩn nghèo từng giai đoạn; Điều kiện sống của người
nghèo được cải thiện rõ rệt, trước hết là vấn đề y tế, giáo dục, văn hóa, nước

sinh hoạt, nhà ở; người nghèo tiếp cận ngày càng thuận lợi hơn các dịch vụ xã
hội cơ bản; Cơ sở hạ tầng kinh tế - xã hội ở các huyện nghèo; xã nghèo, thôn,
bản đặc biệt khó khăn được tập trung đầu tư đồng bộ theo tiêu chí nông thôn
mới, trước hết là hạ tầng thiết yếu như: giao thông, điện, nước sinh hoạt.
Để thực hiện được các mục tiêu trên, trong giai đoạn 2011 – 2015 sẽ tiếp
tục thực hiện những chương trình, dự án, chính sách giảm nghèo đã và đang
thực hiện: Chương trình mục tiêu quốc gia về giảm nghèo, thực hiện Chương
trình 135 giai đoạn 3, tiếp tục thực hiện Nghị quyết 30a của chính phủ và các
chương trình phát triển kinh tế xã hội khác. Nguồn lực đề thực hiện công tác
giảm nghèo sẽ được huy động tối đa, không chỉ bằng Ngân sách Nhà nước mà
còn huy động được sự tham gia với tinh thần trách nhiệm cao của các tập
đoàn kinh tế, các Tổng Công ty nhà nước, Ngân hàng thương mại…và đặc
biệt là từ chính bản thân người nghèo. Phối hợp nhiều phương thức hỗ trợ
người nghèo như hỗ trợ người nghèo trong vay vốn tín dụng ưu đãi, hỗ trợ về
nhà ở, hỗ trợ về cung cấp và tạo điều kiện duy trì với các loại dịch vụ, hỗ trợ

22


giao đất, giao rừng; về đào tạo nguồn nhân lực…Đồng thời khắc phục những
hạn chế như: Các chương trình giảm nghèo triển khai chưa toàn diện, nhiều
chính sách, chương trình giảm nghèo được ban hành nhưng còn mang tình
ngắn hạn, chồng chéo, nguồn lực cho giảm nghèo chưa đáp ứng yêu cầu, lại
bị phân tán, dàn trải, thiếu giải pháp cụ thể gắn kết việc thực hiện chính sách
giảm nghèo với chính sách an sinh xã hội, việc phối hợp chỉ đạo thực hiện
giữa các bộ, ngành, địa phương chưa chặt chẽ, hiệu quả…(Bộ Lao động Thương binh và Xã hội (2011), Hội nghị triển khai nhiệm vụ công tác năm
2011, NXB Lao động – Xã hội, tr.59
Một là, xóa đói giảm nghèo vừa là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, vừa là nhiệm
vụ trọng tâm trước mắt.
Tính lâu dài của xóa đói giảm nghèo là do:

Thứ nhất, xóa đói giảm nghèo là nội dung, và nhiệm vụ cần thực hiện để
bảo đảm công bằng xã hội. Thực tiễn cho thấy, có những nguyên nhân nảy
sinh nghèo đói không phải do môi trường xã hội, không do điều kiện kinh tế địa lý, mà do hoàn cảnh và đặc điểm của từng cá nhân, từng hộ gia đình.
Những trường hợp này luôn có khả năng xuất hiện và việc xóa đói giảm
nghèo mang tính thường trực.
Thứ hai, chủ trương của Đảng ta phát triển kinh tế nhiều thành phần là
một định hướng chiến lược. Nền kinh tế vận hành theo cơ chế thị trường luôn
có xu hướng phân hóa hai cực giàu nghèo. Vì vậy, cùng với việc tăng cường
sự quản lý của Nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa thường xuyên và
liên tục, lâu dài, thì nhiệm vụ xóa đói giảm nghèo, nhất là giảm nghèo, cũng
là vấn đề liên tục và lâu dài mới giải quyết được.
Thứ ba, dân giàu nước mạnh là mục tiêu cơ bản của chủ nghĩa xã hội.
Thực hiện mục tiêu này là một quá trình phấn đấu gian khổ, lâu dài.

23


×