MÔN THI LSTHPT
Câu 1: Tư tưởng về bản thể luận và nhận thức luận của triết học cổ đại? Giá
trị lịch sử đối với sự phát triển tư tưởng triết học nhân loại?
Là một điểm sáng trong bức tranh triết học chung của thế giới, triết học Hy Lạp cổ
đại đã đóng góp cho sự hình thành và phát triết tư tưởng triết học nhân loại những giá trị
to lớn, đặt nền móng ban đầu cho các học thuyết triết học sau này phát triển, đặc biệt là
đã cống hiến cho Triết học Mác - Lênin những hạt nhân hợp lý.
Không mờ nhạt như triết học phương đông, triết học cổ đại Hy Lạp đề cập một
cách sâu sắc đến hầu hết các vấn đề cơ bản của triết học, đặc biệt là vấn đề bản thể luận
và nhận thức luận - những vấn đề của mối quan hệ giữa vật chất và ý thức.
*Tư tưởng về bản thể luận
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại không dừng lại ở sự nhận xét muôn hình muôn vẻ
của thế giới, họ đã đi tìm cơ sở của nó với cách quy nó về một nguyên nhân phổ biến,
sâu sắc hơn về một nguyên thể đầu tiên. Các nhà triết học duy vật thời kỳ này đã cố tình
“xây dựng nên mặt lý luận về thế giới, thế giới gồm có cái gì, và tác động như thế nào
vào các khái niệm trong đời sống và lao động hàng ngày”. Công lao của các nhà duy vật
Hy Lạp cổ đại là đã xây dựng được giả thiết về cơ cấu nguyên tử của vật chất. Nét nổi
bật của triết học duy vật là các nhà triết học đều cho rằng thế giới là do vật chất tạo
thành, có vận động và có biến đổi, tuy rằng quan niệm vật chất tạo thành giới của mỗi
nhà triết học có khác nhau:
- Talet coi bản nguyên thế giới ông coi đó là nước, mọi sự vật hiện tượng đều được
sinh ra từ nước và khi tiêu tan lại trở về với nước. Nước là vĩnh viễn, bất diệt, còn
những cái được sinh ra từ nó lại luôn biến đổi. Đóng góp độc đáo của Talet cho tư duy
chính là ông quan niệm rằng, mặc dù có những sự khác biệt trong các sự vật khác nhau,
nhưng vẫn có một sự giống nhau cơ bản giữa tất cả các sự vật ấy, và cái nhiều nhưng
tương quan với nhau nhờ cái một. Ông giả thiết rằng có một yếu tố duy nhất nào đó,
một “chất liệu” nào đó chứa đựng nguyên lý hành động hay biến đối của chính nó và là
nền tảng cho mọi thực tại vật lý.
- Anaximanđrơ cho rằng Ơpâyron là bản nguyên của thế giới. Đây là một dạng vật
chất đơn nhất, bất định, vô hạn và tồn tại vĩnh viễn. Ông còn cho rằng Ơpâyron là
nguồn gốc vận động của các sự vật vì nó có chứa các mặt đối lập như nóng và lạnh, khô
và ướt, sinh ra và chết đi… Khái niệm bản thể của ông đã mang tính trừu tượng hơn.
- Anaximen không khí là bản nguyên của thế giới. Ngay cả các vị thánh cũng được
sinh ra từ không khí.Không khí bằng cách loãng ra hoặc đặc lại mà tạo nên các sự vật. Hới
thở của con người cũng là không khí, linh hồn con người cũng rung động theo hơi thở…
- Hêraclit cho rằng lửa là bản nguyên của thế giới. Lửa trao đổi với tất cả và tất cả
trao đổi với lửa giống như vàng trao đổi với hàng hoá “Cái chết của lửa là sự ra đời của
không khí, từ cái chết của không khí sinh ra lửa”. Hêraclit cho rằng thế giới không do
thần thánh tạo ra mà “đã, đang và mãi mãi là ngọn lửa vĩnh hằng thường xuyên bùng
cháy và lụi tàn một cách có quy luật”.
- Đêmôcrít, cho rằng, nguyên tử là cơ sở cấu tạo nên vạn vật, nguyên tử là hạt vật
chất cực nhỏ, không nhìn thấy được, không phân chia được, không mùi vị, không âm
thanh, không màu sắc, không khác nhau về chất mà chỉ khác nhau về hình thức, trật tự
và tư thế. Theo ông các sự vật hiện tượng đều do nguyên tử cấu tạo nên, các nguyên tử
kết hợp với nhau theo một trật tự xác định, sự liên kết khác nhau đã quy định bản chất
khác nhau của sự vật. Sự xuất hiện hay mất đi của sự vật này hay sự vật khác là kết quả
việc kết hợp hay phân tán của các nguyên tử trong quá trình vận động trong khoảng
không và tuân theo những quy luật tự nhiên. Mọi biến đổi của sự vật thực chất là sự
thay đổi trình tự sắp xếp của các nguyên tử tạo nên chúng.Còn bản thân mỗi nguyên tử
thì không thay đổi gì cả.
- Platôn quan niệm có hai thế giới tồn tại: Thế giới ý niệm tồn tại chân thực, vĩnh
viễn, tuyệt đối và thế giới vật chất tồn tại cảm tính, tạm thời.
Tóm lại: Dưới góc độ bản thể luận và vũ trụ quan sơ khai giá trị cống hiến của triết
học duy vật Hy Lạp cổ đại là phản ánh thế giới đúng đắn, có tác dụng thúc đẩy tiến bộ
xã hội, sản xuất, văn hoá, khoa học trong xã hội chiếm hữu nô lệ nói riêng và cho nhân
loại nói chung. Nét nổi bật của triết học duy vật Hy Lạp cổ đại là tính chất mộc mạc thô
sơ của nó. Nó giải thích tự nhiên trên quan điểm duy vật thuần phác, theo Ăngghen, đó
là “quan niệm về thế giới một cách nguyên thuỷ, ngây thơ, nhưng căn bản là đúng”. Các
nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại khẳng định thế giới vật chất tồn tại khách quan. Thế
giới đó không do thần thánh hoặc do một lực lượng siêu nhiên nào tạo nên. Quan niệm
duy vật thô sơ của các nhà triết học Hy lạp cổ đại đã đóng góp vào trong cuộc đấu tranh
chống chủ nghĩa duy tâm, chống tôn giáo, chống thần học cổ đại.
*Tư tưởng về nhận thức luận
- Các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại đã giải quyết đúng đắn mặt thứ hai của
vấn đề cơ bản của triết học. Họ cho rằng con người có khả năng nhận thức được thế
giới, nhận thức được chân lý khách quan.
- Đối tượng của nhận thức theo họ không phải là thế giới ý niệm mà là thế giới vật
chất, là giới tự nhiên.
- Họ là những người đầu tiên nêu lên cảm giác luận duy vật và cho rằng cảm giác
có ý nghĩa quan trọng trong quá trình nhận thức. Nhận thức lý tính không tách rời nhận
thức cảm tính, theo họ, đó là hai giai đoạn của quá trình nhận thức.
- Họ đã đứng trên quan điểm nhận thức luận duy vật để chống chủ nghĩa duy lý
duy tâm.
Hêraclít cho rằng nhận thức cảm tính có vai trò rất quan trọng vì nó đem lại cho ta
sự hiểu biết xác thực và sinh động về các sự vật đơn lẻ, tuy nhiên cảm tính không giúp
con người nhận thức được logos của sự vật. Chỉ có lý tính mới đem lại sự hiểu biết về
logos, tuy nhiên không phải ai cũng có khả năng này mà chỉ các nhà thông thái mới hiểu
được logos.
Đêmôcrit: ông đã có những quan điếm tiến bộ hơn, ông đã phân biệt sự khác nhau
giữa con người và con vật là ở chỗ trong con người chúng ta có nhiều nhiệt lượng hơn
và các chất cấu thành cũng sạch sẽ hơn so với động vật. Ông đã định nghĩa con người
như một động vật nhưng về bản tính, có khả năng học được bất kì cái gì, có chân tay,
cảm giác và sự năng động trí tuệ làm trợ giúp cho mọi cái. Ông đã chia nhận thức của
con người thành hai trình độ: nhận thức cảm tính và nhận thức chân lý(đáng tin cậy).
Arixtôt: coi thế giới khách quan là đối tượng nhận thức, là nguồn gốc của cảm giác
và kinh nghiệm, coi tự nhiên là thứ nhất còn tri thức là thứ hai. Ông chia nhận thức ra
thành hai giai đoạn là cảm tính và lý tính, trong đó cảm tính là điểm bắt đầu của mọi tri
thức (chủ nghĩa duy giác), còn lý tính là sản phẩm của linh hồn hay thượng đế.
Platôn Phủ nhận vai trò của nhận thức cảm tính (nhận thức lý tính có trước mang
tính chân lý, nhận thức cảm tính lẫn lộn đúng sai).Nhận thức là sự hồi nhớ lại của linh
hồn bất tử.
Như vậy, các nhà triết học duy vật Hy Lạp cổ đại đã có một trình độ nhận thức cao
hơn về thế giới, về con người, giúp cho con người có cách nhìn nhận đúng dắn hơn.
Những lý luận nhận thức này là nền tảng cho những nghiên cứu khoa học của nhân loại,
đi tới sự phát triển cao hơn, tiến bộ hơn sau này.
*Giá trị lịch sử đối với sự phát triển tư tưởng triết học nhân loại
- Lịch sử triết học cổ đại Hy Lạp là lịch sử hình thành và phát triển thế giới quan
duy vật và thế giới quan duy tâm. Nét nổi bật của chủ nghĩa duy vật Hy Lạp cổ đại là
tính chất mộc mạc, thô sơ.Tuy vậy, quan niệm duy vật thô sơ này đã có tác dụng rất lớn
trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm, chống tôn giáo, chống thần học cổ đại.
- Nhiều nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã nhận thức được và phát hiện nhiều yếu tố
của phép biện chứng mà C.Mác và Ph.Ăngghen gọi đó là phép biện chứng tự phát, ngây
thơ nhưng đó là hình thức đầu tiên, hình thức cổ đại của phép biện chứng.
- Chủ nghĩa duy tâm trong triết học cổ đại đã có nhiều trào lưu khác nhau: chủ
nghĩa duy tâm chủ quan, chủ nghĩa duy tâm khách quan, chủ nghĩa hoài nghi - chủ
nghĩa bất khả tri cổ đại. Chúng thường gắn với tín ngưỡng, tôn giáo và do đó thường
được giai cấp thống trị sử dụng như một công cụ tinh thần của mình.
Câu 2: Cống hiến và hạn chế của CNDV trong triết học cổ điển Đức? Giá trị
lịch sử và ý nghĩa của vấn đề trong bảo vệ, triết học Mác?
*Điều kiện kinh tế - xã hội
Cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX, Anh và Pháp đã là những nước tư bản, trong
khi đó, nước Đức vẫn là nước phong kiến lạc hậu, được gọi là: “đế quốc La Mã thần
thánh của dân tộc Giécmanh” với gần 300 nhà nước nhỏ có lãnh địa phong kiến điển
hình của thần quyền và thế quyền.
Do chịu ảnh hưởng của cách mạng tư sản Anh, Pháp, tình hình của nước Đức đầu
thế kỷ XIX có những biến đổi sâu sắc: từ 300 nhà nước nhỏ chỉ còn vài chục, tư tưởng
tự do và luật pháp tư sản từng bước được áp dụng trong các nhà nước này; sản xuất,
kinh doanh theo phương thức tư bản chủ nghĩa ngày càng phát triển. Trong khi đó, quân
đội Phổ bị Pháp đánh bại và chiếm đóng nhiều vùng đất đã mất sức chiến đấu.Tình hình
đó đã làm sôi sục tình thần dân tộc của giai cấp tư sản và nhân dân Đức trong cuộc đấu
tranh chông chủ nghĩa phong kiến.
Do ra đời từ một nền công nghiệp chưa phát triển lại bị quan hệ phong kiến chèn
ép, giai cấp tư sản Đức không đủ mạnh, không thống nhất, thậm chí hèn nhát buộc phải
thoả hiệp với giai cấp địa chủ phong kiến. Sự thoả hiệp giữa hai giai cấp này đã quy
định và thể hiện rõ nét tính quy định đối với sự hình thành, tồn tại, phát triển của nền
triết học cổ điển Đức đầu thế kỷ XIX.
Khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX đã đạt được những thành
tựu xuất sắc.Các phát minh của Lômônôxốp (người Nga), Lavoađiê (người Pháp),
Đantôn (người Anh) đã vạch ra phép biện chứng của tự nhiên, thúc đẩy kỹ thuật và công
nghiệp phát triển.Những tiến bộ lớn về khoa học đã tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến
nền triết học Đức thời kỳ này.
Triết học cổ điển Đức là sự tiếp tục và phát triển tất yếu của những trào lưu tư
tưởng triết học tiên tiên thế kỷ XVII- XVIII. Đó là triết học của R.Đềcáctơ, Ph.Bêcơn,
B.Xpinôda, G.V.Lépnít, G.Lôccơ… và những nhà khai sáng Đức thế kỷ XVIII… Tồn
tại của nước Đức đầu thế kỷ XIX đã in dấu ấn sâu sắc trong nền triết học cổ điển Đức:
tính chất duy tâm, sự thoả hiệp, nửa vời và bảo thủ của nó. Mặt khác, thực tiễn cách
mạng ở châu Âu, thành tựu khoa học tự nhiên và tư tưởng triết học duy vật Anh và Pháp
đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng biện chứng và duy vật trong triết học cổ điển Đức.
Triết học cổ điến Đức với những nét riêng do nền tảng chính trị, xã hội và tư tưởng
của thời kỳ này quy định là đỉnh cao của thời kỳ triết học cổ điển ở phương Tây và có
ảnh hưởng to lớn tới triết học hiện đại. Kant, Hêghen và Phoiơbắc là nhừng đại biểu lớn
của triết học cổ điển Đức, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển triết học vào cuối
thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, góp phần làm cho triết học cổ điển Đức trở thành
một tiền đề lý luận trực tiếp cho sự ra đời của triết học Mác.
Về khía cạch duy vật, Kant và đặc biệt là Phoiơbắc là những nhà triết học có
những đóng góp đặc biệt quan trọng.
- Immanuel Kant (1724 - 1804)
Kant là một trong những nhà triết học vĩ đại nhất trong lịch sử tư tưởng phương
Tây. Triết học Kant là nền tảng và là điểm xuất phát của triết học Đức hiện đại.Mặc dù
còn có những điểm hạn chế nhưng những đóng góp của ông cho triết học là không thể
phủ nhận.
Về cơ bản, Kant đã thể hiện như một nhà duy vật tự nhiên.Ông coi cả thế giới như
một chỉnh thể vật chất, mọi sự vật luôn vận động và biến đổi không ngừng, tương tác
lẫn nhau thông qua lực hút và lực đẩy.Ông là người đầu tiên khám phá ra ảnh hưởng của
lực hấp dẫn giữa trái đất và mặt trăng đối với các hiện tượng thuỷ triều.
Đi xa hơn các nhà duy vật trước đây, Kant nhận thấy thế giới không phải từ đầu đã
có được trạng thái như hiện nay mà là kết quả của một quá trình lịch sử lâu dài theo
hướng ngày càng hoàn thiện tự nhiên. Kant có sự giải thích thiên tài về sự hình thành hệ
thống mặt trời.Ông dự đoán ngoài thiên hà của chúng ta còn có các thế giới khác.
Hạn chế của Kant là ở chỗ ông theo thuyết “không thể biết". Kant đã chia thế giới
thành hai phần: thế giới hiện tượng và thế giới "vật tự nó". Thế giới hiện tượng là thế
giới mà chúng ta nhìn thấy còn thế giới vật tự nó lại là bản chất của các sự vật, hiện
tượng.Giữa hai thế giới này có ranh giới tuyệt đối không thể vượt qua. Vì vậy con người
không thể nhận thức được bản chất của thế giới.
- Lútvích Phoiơbắc (1804 - 1872)
Phoiơbắc là nhà duy vật chủ nghĩa kiệt xuất trước thời kỳ Mác, là đại biểu nổi
tiếng của triết học cổ điển Đức, nhà tư tưởng của giai cấp tư sản dân chủ Đức. Ông đã
có công lớn trong việc phê phán chủ nghĩa duy tâm của Hêghen cũng như chủ nghĩa duy
tâm và tôn giáo nói chung, khôi phục vị trí xứng đáng của triết học duy vật.
Chống lại luận điểm duy tâm của Hêghen coi giới tự nhiên là "tồn tại khác” của
tinh thần, Phoiơbắc đã chứng minh thế giới là vật chất, giới tự nhiên tồn tại ngoài con
người không phụ thuộc vào ý thức con người, là cơ sở sinh sống của con người. Giới tự
nhiên không do ai sáng tạo ra, nó tồn tại, vận động nhờ những cơ sở bên trong nó.
Triết học của Phoiơbắc mang tính chất nhân bản.Nó chống lại nhị nguyên luận về
sự tách rời giữa tinh thần và thể xác.Ông coi ý thức tinh thần cũng là một thuộc tính đặc
biệt của vật chất có tổ chức cao là óc người.Từ đó cho phép khẳng định mối quan hệ
khăng khít giữa tồn tại và tư duy. Phoiơbắc không chỉ chống lại chủ nghĩa duy tâm mà
với triết học nhân bản của mình ông còn đấu tranh chống nhừng quan điểm duy vật tầm
thường quy các hiện tượng tâm lý, tinh thần về các quá trình lý hóa, không thấy sự khác
nhau về chất giữa chúng.
Mặt tích cực trong triết học nhân bản của Phoiơbắc còn thể hiện ở chỗ ông đấu
tranh chống các quan niệm tôn giáo chính thống của đạo Thiên chúa, đặc biệt là quan
niệm về thượng đế. Trái với các quan niệm truyền thống của tôn giáo và thần học cho
rằng thượng đế tạo ra con người. Ông khẳng định chính con người sáng tạo ra thượng
đế. Phoiơbắc phủ nhân mọi thứ tôn giáo và thần hoc về một vị thượng đế siêu nhiên
đứng ngoài sáng tạo ra con người, chi phối cuộc sống của con người.
Triết học của Phoiơbắc cũng bộc lộ những hạn chế. Đó là khi ông đứng trên lập
trường của chủ nghĩa tự nhiên để xem xét mọi hiện tượng thuộc về con người và xã hội.
Con người trong quan niệm của Phoiơbắc là con người trừu tượng, khi xã hội mang
những thuộc tính sinh học bẩm sinh. Triết học nhân bản của Phoiơbắc chứa đựng những
yếu tố của chủ nghĩa duy tâm. Ông nói rằng bản tính con người là tình yêu, tôn giáo
cũng là một tình yêu. Do vậy, thay thế cho thứ tôn giáo tôn sùng một vị thượng đế siêu
nhiên cần xây dựng một thứ tôn giáo mới phù họp với tình yêu của con người. Ông cho
rằng cần phải biến tình yêu thương giữa người với người thành mối quan hệ chi phối
mọi mối quan hệ xã hội khác, thành lý tưởng xã hội.Trong điều kiện của xã hội tư sản
Đức thời đó, với sự phân chia và đối lập giai cấp thì chủ nghĩa nhân đạo của Phoiơbắc
trở thành trừu tượng và duy tâm.
Trong cuộc đấu tranh chống chủ nghĩa duy tâm của Hêghen, Phoiơbắc lại phủ nhận
luôn phép biện chứng vốn là "hạt nhân hợp lý” của Hêghen.
Mặc dù còn nhừng hạn chế, triết học của Phoiơbắc vẫn có ý nghĩa to lớn trong lịch sử
triết học và trở thành một trong những nguồn gốc lý luận quan trọng của triết học Mác
Tóm lại: Triết học cổ điển Đức là thế giới quan và hệ ý thức của giai cấp tư sản
Đức cuối thế kỷ XVIII nửa đầu thế ký XIX. Các đại biểu của thời kỳ này đều xuất thân
từ tầng lớp thượng lưu trong xã hội. Họ đều thể hiện nguyện vọng của giai cấp tư sản
Đức muốn đấu tranh cho một trật tự xã hội mới và được sự cổ vũ của giai cấp tư sản các
nước phát triển hơn Đức nhưng khác với giai cấp tư sản vốn triệt để cách mạng, giai cấp
tư sản Đức lại muốn thoả hiệp với tầng lớp phong kiến quý tộc đang thống trị.
Triết học cổ điển Đức đã đem lại một cách nhìn mới về thực tiễn xã hội và tiến
trình lịch sử của nhân loại; đặc biệt đề cao vai trò hoạt động của con người, thực hiện
bước ngoặt trong lịch sử tư tưởng triết học phương Tây từ chỗ chủ yếu bàn về các vấn
đề bản thể luận, nhận thức luận, ... đến chỗ bàn về con người như một chủ thể, từ tồn tại
đến hoạt động. Kế tục tư tưởng của triết học cổ đại về đề tài con người và khuynh
hướng đề cao con người từ thời Phục hưng, Kant lần đầu tiên coi con người là một chủ
thể đồng thời lại là kết quả của quá trình hoạt động của mình, khẳng định thực tiễn cao
hơn lý luận. Tuy nhiên các nhà triết học cổ điển Đức lại đề cao trí tuệ và sức sáng tạo
của con người đến mức cực đoan. Kant và Hêghen thần thánh hóa năng lực của con và
đi đến quan niệm duy tâm, khẳng định không chỉ xã hội mà cả mọi vật trong tự nhiên
đều là kết quả của hoạt động con người.
Ớ khía cạnh duy vật, Phoiơbắc đã phát triển chủ nghĩa duy vật lên đến một tầm cao
mới, khác với các quan điểm duy vật tầm thường khác. Phoiơbắc cũng như các bậc tiền
bối của thời kỳ này đã quá đề cao con người, quy triết học về nhân bản học. Tuy nhiên,
ông lại hiểu con người theo nghĩa trần tục, bằng xương, bằng thịt nên lại gặp phải hạn
chế khác trong triết học của mình: duy vật máy móc.
Trong suốt lịch sử ra đời và phát triển của mình bất đầu từ thời cổ đại cho đến triết
học cổ điển Đức và sẽ còn tiếp tục phát triển, chủ nghĩa duy vật thông qua các trường
phái triết học cũng như những nhà duy vật tiêu biểu của thời đại với các quan điểm tiến
bộ về thế giới quan hay nhận thức luận đã chứng minh được sức sống của mình qua các
thời kỳ cụ thê.
Ứng với các thời kỳ khác nhau của triết học đều tồn tại các quan điểm duy vật đặc
trưng. Từ chỗ chỉ là những nhận thức trực quan, chất phác có xen lẫn yếu tố duy tâm
của triết học thời kỳ cổ đại đến bước đầu quan điểm duy vật siêu hình, máy móc vào thế
kỷ XV và phát triển đến đỉnh cao với triết học cổ điển Đức, chủ nghĩa duy vật đã chứng
tỏ là tiền đề đáng tin cậy cho một sự phát triển cao hơn của chính bản thân mình, đó là
chủ nghĩa duy vật biện chứng sau này.
Trong cuộc đấu tranh với chủ nghĩa duy tâm, chủ nghĩa duy vật ngày càng chứng
tỏ là có cơ sở khoa học và chủ nghĩa duy vật với cách nhìn khoa học đối với thế giới đã
có nhiều đóng góp vĩ đại cho sự phát triển của triết học, khoa học nói riêng và cho xã
hội nói chung.
Câu 3.Tư tưởng biện chứng của triết học phương Tây cổ đại?Giá trị lịch sử
đối với sự phát triển triết học nhân loại?
*Bối cảnh ra đời của triêí học Hy Lạp cổ đại
- Là một trong những “chiếc nôi” của nền văn minh cổ đại, Hy Lạp không chỉ nổi
tiêng với những thành tựu của khoa học tự nhiên, văn học, nghệ thuật mà còn có nền
triết học phát triển rực rỡ gồm những hệ thống, trường phái, học thuyết triết học nổi
tiếng với tên tuổi của những triết gia lớn,
- Khởi đầu cho sự ra đời và phát triển của triết học phương Tây và nhân loại. Cơ sở
để hiểu và đánh giá chính xác những công hiến và các hạn chế của triết học Hy Lạp cổ
đại là nắm vững bối cảnh lịch sử, xã hội của sự ra đời và phát triên của nền triết học
này.
- Vào thời nguyên thuỷ, ở Hy Lạp, văn học dân gian, thần thoại và trường ca nổi
tiếng của Hôme đã chứa đựng những quan niệm của người Hy Lạp cổ về các hiện tượng
phức tạp của tự nhiên và xã hội. Đó là mầm mống của những tư tưởng triết học. Vào
khoảng thế kỷ thứ VII-VI tr.CN, chế độ chiêm hữu nô lệ đã được xác lập và phát triển,
triết học với tư cách là hệ thống những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới
và vai trò của con người trong thế giới đã chính thức ra đời.
- Chế độ đìiếm hữu nô lệ được hình thành và phát triên gắn liền với việc sử dụng
đổ sắt đã thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và giao lưu,
buôn bán ngày càng mở rộng với quy mô lớn, dẫn đến sự ra đời của các thành bang, các
trung tâm kinh tế, văn hóa lớn, nổi bật là thành bang Aten và spac.
- Chiến thắng của Hy Lạp trong chiến tranh với Ba Tư (thế kỷ IV tr.CN) đã giúp họ
mở rộng đất đai, lãnh thổ và tầm ảnh hưởng lớn đến nhiều khu vực của phương Đông xa
xôi. Giao lưu kinh tế, thương mại, văn hóa và khoa học là những điêu kiện thuận lợi
thúc đẩy triết học và khoa học tự nhiên phát triển.
- Cuộc đâu tranh giai cấp giữa chu nô và nô lệ không chỉ tác động đến đời sống kinh
iế, chính trị, xã hội mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự ra đời của triết học và quá trình
đấu tranh giữa hai đường lối duy vật và duy tâm. Nhờ chế độ chiếm hữu nô lệ mà giai cấp
chủ nô Hy Lạp có được đặc lợi, đặc quyền và điểu kiện để nghiên cứu, sáng tạo, cống
hiến cho triết học.- Những yếu tố biện chứng tự phát trong triết học Talet có ý nghĩa quan
trọng trong lịch sử triết học. Ông cho rằng vật chất (nước) thì tồn tại vĩnh viễn còn mọi
vật do nó sinh ra thì biến đổi không ngừng, sinh ra và chết đi. Toàn bộ thế giới là một
chỉnh thể thống nhất trong đó mọi vật biến đổi không ngừng mà nước là nền tảng.
- Theo Anaximăngđrơ thì Apâyrôn là nguồn gốc sinh ra vạn vật đồng thời là cơ sở
vận động của vạn vật. Nhờ Apâyrôn nảy ra những mặt đối lập nhau như nóng-lạnh, khôướt, sinh ra và chết đi… Ông cũng là người đầu tiên nêu ra và giải quyết mối quan hệ
giữa cái toàn thể và cái bộ phận. Theo ông cái bộ phận luôn biến đổi còn cái toàn thể là
cái bất biến, nghĩa là tổng thể vật chất thì không biến đổi còn các dạng vật chất cụ thể
thì thường xuyên biến đổi, chuyển hoá từ dạng này sang dạng khác.
- Phép biện chứng của Hêracrit được trình bày dưới dạng hệ thống các luận điểm
khoa học:
+ Ông quan niệm vận động của vật chất là vĩnh viễn; không có sự vật, hiện tượng
nào của thế giới đứng im tuyệt đối mà trái lại tất cả đều trong trạng thái biến đổi và
chuyển hoá thành cái khác và ngược lại. Theo ông nguồn gốc của mọi sự thay đổi là lửa.
+ Ông đã nêu lên tư tưởng về sự tồn tại phổ biến của các mâu thuẫn trong mọi sự
vật hiện tượng.
+ Theo Hêracrit thì sự vận động và phát triển không ngừng của thế giới là do qui
luật khách quan (mà ông gọi là logos) qui định. Logos khách quan là trật tự khách quan
của mọi cái đang diễn ra trong vũ trụ.Logos chủ quan là từ ngữ, học thuyết, lời nói, suy
nghĩ của con người.Logos khách quan phải phù hợp với logos chủ quan nhưng nó biểu
hiện ở từng người khác nhau.
- Theo Empêđôclơ thì mọi sự vật đều có quá trình được sinh ra và bị mất đi (sinh
tử) đó chính là sự hợp và phân của 4 căn nguyên: đất, nước, không khí và lửa. Nguồn
gốc của sự vận động đó là do sự tác động của hai lực đối lập là tình yêu và căm thù.
Tình yêu làm cho các căn nguyên kết hợp lại với nhau còn căm thù thì là cho chúng tách
rời nhau. Đây là một bước thụt lùi.
- Anannago, dưới hình thức sơ khai, đã nêu lên tư tưởng biện chứng về mối liên hệ
phổ biến giữa các sự vật. Ông cho rằng sự biến hoá về chất giữa các sự vật là do sù thay
thế phần lớn trong nó các hạt giống của sự vật. Và ông giải thích sự vận động của những
“phần tử đồng nhất” bằng một lực ở bên ngoài mà ông gọi là lực Nusơ.
- Lơxip thì cho rằng vận động chỉ là sự di chuyển vật thể trong không gian. Tuy
nhiện ông đã đề cập đến tính nhân quả tất yeué trên quan điểm quyết định luận duy vật,
chống lại mục đích luận của chủ nghĩa duy tâm.Ông khẳng định “Không một sự vật nào
phát sinh một cách vô cớ mà tất cả đều phát sinh trên một căn cứ nào đấy và do quá tính
tất nhiên”.
- Đêmôcit kế thừa quan điểm của Hêracrit cho rằng mọi sự vật biến đổi không
ngừng.Quan điềm của ông về vận động của nguyên tử là vĩnh viễn và nguyên nhân là ở
bản thân nguyên tử, ở động lực tự thận, tự nó. Đồng thời ông thừa nhận sự ràng buộc
theo qui luật nhân quả, tính tất nhiên và tính khác quan của các hiện tượng tự nhiên.
- Arixtôt thừa nhận tự nhiên là toàn bộ sự vật có một bản thể vật chất mãi mãi vận
động và biến đổi, không có bản chất của sự vật tồn tại ở bên ngoài sự vật, hơn nữa sự
vật nào cũng là một hệ thống và có quan hệ với các sự vật khác. Ông cho rằng vận động
gắn liền với các vật thể, với mọi sự vật, hiện tượng của thế giới tự nhiên.Ông cũng đã
khẳng định vận động là không thể bị tiêu diệt, đã có vận động và mãi mãi có vận động.
Các nhà triết học Hy Lạp cổ đại đã nghiên cứu phép biện chứng cốt chỉ để nâng cao
nghệ thuật tranh luận, nghệ thuật hùng biện để bảo vệ những luận điểm triết học của mình
và để tìm ra chân lí. Kết quả của quá trình nghiên cứu này, nhiều nhà triết học đã nhận
thức được và phát hiện ra nhiều yếu tố của phép biện chứng như mối liên hệ giữa các sự
vật, hiện tượng, sự vận động vĩnh viễn của vật chất; tính thống nhất của những mặt đối
lập của sự vật, tính nhân quả của sự phát sinh, phát triển và diệt vong của sự vật. Những
yếu tố biện chứng đó là những phỏng đoán thiên tài về những nguyên lí và qui luật của
phép biện chứng mà Mác, Ăngghen gọi là phép biện chứng tự phát, ngây thơ.Nó chưa
được chứng minh một cách khoa học và cũng chưa được nghiên cứu một cách tự giác, có
ý đồ, có mục đích từ đầu.Đó là hình thức đầu tiên, hình thức cổ đại của phép biện chứng.
Nghiên cứu lịch sử phát sinh phát triển của triết học nói chung, của triết học duy
vật Hy Lạp cổ đại nói riêng một lần nữa giúp chúng ta nhìn nhận rõ ràng được sự kế tục,
kế thừa của văn minh nhân loại và triết học. Trên cơ sở đó cho ta thấy được những giá
trị cống hiến của các nhà triết học duy vật cổ đại, đặt nền tảng phương pháp luận cho sự
phát triển triết học duy vật biện chứng sau này, là tiền đề cơ sở lý luận cho sự phát triển
của khoa học tự nhiên, liên kết chặt chẽ giữa triết học và các khoa học tự nhiên, đề ra
nhiệm vụ cho khoa học hiện đại.
Qua nghiên cứu triết học Hy Lạp cổ đại giúp ta nắm được điều kiện kinh tế-xã hội
và văn hoá của xã hội Hy Lạp cổ đại, hiểu được cội nguồn lịch sử văn hoá và các vấn đề
hiện đại của xã hội phương Tây. Thấy được mầm mống, là một trong những cái nôi của
mọi dạng thế giới quan sau này.Trong công tác nghiên cứu khoa học, học tập và giảng
dạy giúp cho chúng ta thấy được những mặt tích cực và hiểu biết sâu thêm về giá trị lịch
sử văn hoá phương Tây, để phát huy củng cố niềm tin duy vật triệt để, vào triết học Mác
xít. Vận dụng nó vào các hoạt động giảng dạy, nghiên cứu khoa học và các lĩnh vực
hoạt động thực tiễn của đời sống xã hội, đồng thời kiên quyết phê phán các trào lưu tư
tưởng lợi dụng chủ nghĩa duy tâm để tuyên truyền xuyên tạc chống lại Đảng, Nhà nước
và nhân dân ta hiện nay. Với tinh thần kế thừa tinh hoa tư tưởng văn hoá nhân loại
chúng ta phải biết kế thừa có chọn lọc những yếu tố tích cực hợp lý của tư tưởng duy
vật. Phải có quan điểm khách quan, toàn diện, lịch sử cụ thể và thái độ đúng đắn với tư
tưởng duy vật mặc dù nó còn thô sơ mộc mạc và phép biện chứng còn sơ khai, coi đó
như là nền văn hoá văn minh nhân loại.
Câu 6: Phân tích điểm khác biệt giữa THPT cổ, trung đại với THPĐ cổ, trung
đại. Ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu?
Triết học là hình thái ý thức xã hội ra đời từ khi chế độ cộng sản nguyên thuỷ được
thay thế bằng chế độ chiếm hữu nô lệ.
Triết học là một hình thái ý thức xã hội, là sự phản ánh tồn tại của xã hội và đặc
biệt sự tồn tại này ở xã hội phương Đông khác hẳn với phương Tây về cả điều kiện tự
nhiên, địa lý dân số mà hơn cả là phương thức của sản xuất của phương Đông là phương
thức sản xuất nhỏ còn phương Tây là phương thức sản xuất của tư bản do vậy mà cái
phản ánh ý thức cũng khác
1. Mục đích của triết học
Sự ra đời của triết học trước hết xuất phát từ những đòi hỏi của cuộc sống; => triết
học có vị trí đặc biệt quan trọng; sự tồn tại của triết học không phải vì bản thân của triết
học mà bởi vì nó cần cho cuộc sống.Tuy vậy, mục đích của hai nền triết học cũng có sự
khác nhau.
- Ptây: nhận thức để cải tạo thế giới; triết học trở thành công cụ giúp cho con người
chinh phục tự nhiên.
- PĐ: Xây dựng những con người lý tưởng, khôi phục lại “trật tự xã hội đã mất”
(Nho giáo) hay “ giải thoát” con người (Phật giáo), làm cho con người “hòa đồng” với
thiên nhiên (Đạo giáo)…
2. Phương pháp tiếp cận của triết học
- Ptây: Thường đi từ thế giới quan, bản thể luận đến nhân sinh quan, nhận thức
luận, lô gic học, từ đó tạo nên một hệ thống tương đối hoàn chỉnh, chặt chẽ. PTây nhìn
chung có xu hướng đi từ thực thể ban đầu tạo nên thế giới như nước, lửa, không khí,
nguyên tử…
- PĐông: các nhà tư tưởng lớn lại đi từ nhân sinh quan đến thế giới quan. Việc đề cập
tới giới tự nhiên xét đến cùng cũng là nhằm để lý giải về con người và xã hội loài người.
Sự khác nhau về phương pháp tiếp cận của triết học Phương đông và triết học
phương tây xuất phát từ nguyên nhân sau đây:
+ Phương Đông không tồn tại chế độ nô lệ quy mô điển hình như ở Phương tây.
Trong khi đó, Hy Lạp sự xuất hiện của nhà nước lại hoàn toàn ngược lại.
+ Sự xuất hiện của đồ sắt đã thúc đẩy lực lượng sản xuất phát triển nhanh chóng.
Chế độ nguyên thủy được “thanh toán” một cách nhanh chóng và triệt để.Quan hệ sản
xuất mới ra đời và trên cơ sở đó hình thành nhà nước. Như vậy, theo quy luật ở Phương
Tây cơ sở hạ tầng quyết định kiến trúc thượng tầng. Còn ở Phương Đông, kiến trúc
thượng tầng lại hình thành trước và thúc đẩy sự phát triển của cơ sở hạ tầng.
3. Đối tượng nghiên cứu của triết học
Từ phương pháp tiếp cận, mục đích của hai nền triết học có sự khác nhau mà đối
tượng nghiên cứu của triết học Phương Đông và Phương Tây cũng có sự khác nhau.
- Ptây: Đối tượng của triết học rất rộng, bao gồm toàn bộ giới tự nhiên, xã hội và
tư duy con người, trong đó tự nhiên là cơ sở.
Vì lấy tự nhiên làm cơ sở nên triết học có xu hướng ngả sang “hướng ngoại” tức là
lấy cái bên ngoài giải thích cho cái bên trong, hướng hoạt động của con người ra thế
giới tự nhiên
Đề cao “văn minh vật chất” do vậy triết học Phương Tây hơi ngả về duy vật.
Hướng ngoại và ngả về duy vật.
- PĐông: Là xã hội, là con người cá nhân, là cái “Tâm” và nhìn chung nó lấy con
người làm gốc.
- Triết học PTây đề cao tri thức khoa học (duy khoa học) mà rất ít bàn đế những
vấn đề đao đức, lương tâm hay trách nhiệm…
- Triết học PĐông lại đề cao tình cảm, chỉ cần sống tốt…(duy ý chí). Điều này dẫn
đến xã hội Phương Tây luôn phát triển năng động còn các xã hội Phương Đông thường
có xu hướng bình lặng, đi vào ổn định.
- Triết học Phương Tây ngả về tư duy duy ý, phân tích, sự vật hiện tượng thì triết
học Phương Đông lại nghiêng về trực giác.
4. Phương pháp luận
- PTây phân biệt rõ chủ thể và khách thể, chủ quan và khách quan, người nhận
thức và đối tượng nhận thức thì ở Phương Đông chủ trương để nhận thức sự vật con
người cần phải hòa mình vào đối tượng.
- Triết học PTây thường có những sự biến đổi nhảy vọt mang tính cách mạng, vạch
thời đại. Phương Đông lại nghiêng về sự phát triển tuần tự.Triết học Phương Đông có sự
phát triển nhưng chỉ là sự phát triển cục bộ, đi sâu vào từng chi tiết.
- Về PBC: Tiết học PTây nghiêng về đấu tranh, nghiêng về vận động và phát triển
theo chiều hướng đi lên…Thì triết học PĐông lại đề cao sự thống nhất, coi vận động và
phát triển là những vòng tuần hoàn, thậm chí là những vòng tròn khép kín.
5. Triết học Phương Tây gắn với khoa học tự nhiên còn triết học Phương Đông
gắn với chính trị xã hội.
- Từ sự khác biệt về cơ sở KT-XH=> sự khác biệt về TT TH
- Trong quá trình nhận thức các sự vật hiện tượng tự nhiên, xã hội và con người,
các nhà triết học Phương Tây đã dựa vào các thành tựu của khoa học tự nhiên nên xu
hướng chủ đạo của triết học là duy vật. Triết học phương đông ít khi tồn tại dưới dạng
triết học thuần túy. Tư tưởng triết học thường “lẩn khuất” đằng sau những học thuyết
chính trị xã hội và tôn giáo
6. Triết học Phương Tây mang tính giai cấp trực diện còn triết học Phương Đông
thì tính giai cấp mờ nhạt…
- Phương Tây sự phân chia các hình thái kinh tế xã hội ở Phương Đông không rõ nét.
Nguyên nhân: Chế độ quốc hữu hóa về ruộng đất và sự tồn tại dai dẳng của công
xã nông thôn đã làm cho sự phát nhiển của các xã hội Phương Đông có tính chất “tiệm
tiến” mà ít có những biến đổi nhảy vọt.
- Phương Tây: Triết học đã là TGQ của các tập đoàn chủ nô, thống trị xã hội.
Chính vì vậy, nó mang tính giai cấp, điều này thể hiện trong cuộc đấu tranh quyết liệt
giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm, giữa hai phương pháp biện chứng và siêu hình.
*Giá trị lịch sử và ý nghĩa của vấn đề nghiên cứu
- Mặc dù có sự khác nhau nhất định, xong triết học Phương Tây cũng như triết học
Phương Đông đã cơ bản đáp ứng được những vấn đề cấp bách mà thời đại lúc bấy giờ
đã đặt ra. Theo như C.Mác: “mọi triết học chân chính đều là tinh hoa về mặt tinh thần
của thời đại mình”.
- Các triết học Phương Tây cũng như Phương Đông cổ đại đã đặt những nền tảng
hết sức có giá trị cho sự phát triển của triết học sau này. Họ xứng đáng là những nhà
triết học chân chính bởi lẽ tư tưởng cua họ cũng chính là kết tinh những giá trị văn hóa
của thời đại
- Việc so sánh đặc điểm triết học Phương Tây và Phương Đông cổ đại đã giúp
chúng ta một lần nữa hiểu thêm về lịch sư tư tưởng nhân loại nói chung và lịch sử triết
học nói riêng. Những giá trị của hai nền triết học đã đạt được là những viên ngọc quý
mà hào quang của nó còn mãi tỏa sáng không chỉ hôm nay mà còn tới mãi tận mai sau.
Câu 4. Đặc điểm và giá trị lịch sử của triết học Tây Âu thời kỳ Phục Hưng?
Thế kỷ XV - XVI được gọi là “Thời kỳ Phục hưng” với ý nghĩa là Phục hưng nền
văn hoá cổ đại. Về mặt xã hội đây là thời kỳ quá độ từ chế độ phong kiến lên chế độ tư
bản chủ nghĩa. Tính chất quá độ đó biểu hiện trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế,
chính trị - xã hội, văn hoá tư tưởng thời kì này.
*Về kinh tế: Bắt đầu từ thế kỉ XV, ở Tây Âu, chế độ phong kiến với nền sản xuất
nhỏ và các đạo luật hà khắc Trung cổ đã bước vào thời kì tan rã. Nhiều công trường thủ
công xuất hiện, ban đầu ở Italia, sau đó lan sang Anh, Pháp và các nước khác, thay thế
cho nền kinh tế tự nhiên kém phát triển.
Sự phát triển của kinh tế tư bản chủ nghĩa thúc đẩy sự phát triển của khoa học, kĩ
thuật. Nhiều công cụ lao động được cải tiến và hoàn thiện. Với việc sáng chế ra máy
kéo sợi và máy in đã làm cho công nghiệp dệt, công nghệ ấn loát đặc biệt phát triển,
nhất là ở Anh. Sự khám phá và chế tạo hàng loạt đồng hồ cơ học đã giúp cho con người
có thể sản xuất có kế hoạch, tiết kiệm thời gian và tăng năng suất lao động.
Những phát kiến về đường biển, tìm ra những miền đất mới, phát hiện ra châu
Mỹ... càng tạo điều kiện phát triển cho nền sản xuất theo hướng tư bản chủ nghĩa.
Thương mại, thị trường trao đổi hàng hoá giữa các nước được mở rộng; giao lưu quốc tế
được tăng cường, nhờ đó mà các nước phát triển sớm như Anh, Pháp, Tây Ban Nha... thi
nhau xâm chiếm thuộc địa để mở rộng việc khai thác thiên nhiên và thị trường tiêu thụ
hàng hoá.
*Về xã hội: Đồng thời với sự phát triển của sản xuất và thương nghiệp, trong xã
hội Tây Âu thời kì này, sự phân hoá giai cấp ngày càng rõ rệt. Tầng lớp tư sản xuất hiện
gồm các chủ xưởng công trường thủ công, xưởng thợ, thuyền buôn... Vai trò và vị trí
của họ trong kinh tế và xã hội ngày càng lớn.Hàng loạt nông dân từ nông thôn di cư ra
thành thị, trở thành người làm thuê cho các công trường, xưởng thợ. Họ tham gia vào
lực lượng lao động xã hội mới, làm hình thành giai cấp công nhân. Các tầng lớp xã hội
trên đại diện cho một nền sản xuất mới, cùng với nông dân đấu tranh chống chế độ
phong kiến đang suy tàn.
*Về văn hoá, tư tưởng: Cùng với sự phát triển về kinh tế và xã hội, khoa học kĩ
thuật và tư tưởng thời kì Phục hưng cũng đạt được sự phát triển mạnh mẽ. Các nhà tư
tưởng thời Phục hưng đã phê phán mạnh mẽ các giáo lý Trung cổ. Mở đầu là nhà triết
học người phía Nam nước Đức, Nicôlai Kuzan (1401-1464). Tiếp đó là các nhà khoa
học - triết học như Nicôlai Côpecnich (1475-1543) người Ba Lan; Lêôna đơ Vanhxi
(1452-1519) - nhà danh hoạ, nhà toán học, cơ học, kĩ sư người Italia; Gioocđanô Brunô
(1548-1600) người Italia; Galilêô Galilê (1564-1642) người Italia.
Trong số những thành tựu khoa học tự nhiên có ảnh hưởng to lớn đến nhận thức
duy vật về thế giới, nổi trội hơn cả là thuyết nhật tâm của Nicôlai Côpecnich (14751543), nhà bác học vĩ đại người Ba Lan. Nicôlai Côpecnich đã đứng trên lập trường của
triết học duy vật để bác bỏ thuyết địa tâm do Ptôlêmê (người Hy Lạp) đề xuất từ thế kỷ
thứ II, một giả thuyết sai lầm coi quả đất là trung tâm của hệ mặt trời và vũ trụ. Thuyết
nhật tâm của Nicôlai Côpecnich đã giáng một đòn nặng nề vào thế giới quan tôn giáo,
thần học.Giả thuyết của ông là một cuộc cách mạng trên trời, báo trước một cuộc cách
mạng trong lĩnh vực các quan hệ xã hội sắp xảy ra.
Trong thời đại Phục hưng, các nhà tư tưởng tư sản đã bênh vực triết học duy vật,
vận dụng nó để chống lại chủ nghĩa kinh viện và thần học Trung cổ. Cuộc đấu tranh của
chủ nghĩa duy vật chống chủ nghĩa duy tâm thường được biểu hiện dưới hình thức đặc
thù là khoa học chống tôn giáo, tri thức thực nghiệm đối lập với những lập luận kinh
viện. Cuối cùng, sự chuyên chính của giáo hội và sự thống trị của chủ nghĩa kinh viện
Trung cổ đã không ngăn được sự phát triển bước đầu của khoa học thực nghiệm và triết
học duy vật - tiền đề cho những thành tựu mới và những đặc điểm mới của triết học
trong các thế kỷ tiếp theo.
*Đặc điểm triết học
- Triết học tây Âu thời Phục Hưng là ngọn cờ lý luận của giai cấp tư sản trong cuộc
đấu tranh chống trật tự phong kiến và giáo hội đương thời nhằm thiết lập sự thống trị
của giai cấp mình.
Cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và duy tâm thường biểu hiện dưới hình thức
xung đột gay gắt giữa các tư tưởng triết học và khoa học tiến bộ được giai cấp tư sản
ủng hộ với các quan niệm thần học và giáo hội thế hiện lợi ích của chế độ phong kiến.
Bằng những cơ sở và luận chứng khoa học, triết học Phục Hưng đã giúp cho giai cấp tư
sản nhận thấy bản chất của chế độ phong kiến đang suy tàn, xoá bỏ vòng hào quang
thân thánh mà giáo hội đã khoác cho nó.
Vì cậy cuộc đấu tranh giữa triết học duy vật và triết học duy tâm gan liền với cuộc
đấu tranh của triết học và khoa học với thần học và giáo hội.Với xu thế phát triển của
lịch sử, càng về sau giai cấp tư sản càng khẳng định sứe manh và tính ưu việt của mình
trên cả lĩnh vực kinh tế, triết học và khoa học.Mặt khác, để phục vụ cho lợi ích của
mình, giai cấp tư sản vẫn cần đến tôn giáo.
- Triết học duy vật thời kỳ này gắn liền với vấn đề con người và giải phóng con người.
Sự phát triển to lớn của sản xuất và khoa học đã chứng minh sức mạnh vĩ đại của
con người. Đó là con người tràn đầy sức sống và hoài bão tự do. Giờ đây vấn đề quan
hệ giữa con người và thế giới đã thay thế cho vấn đề quan hệ giữa Chúa và thể giới, trở
thành trung tâm và đối tượng nghiên cứu của triết học
. Triết học tây Âu thời kỳ này đã phản ánh rõ cuộc đấu tranh của giai cấp tư sản
nhằm giải thoát còn người ra khỏi mọi xiềng xích mà các tôn giáo thời trung cồ đã trói
buộc họ.Vì thế, thời đại Phục Hưng, các tư tưởng nhân đạo đặc biệt phát triển.Hơn nữa
với nhiều khám phá trong lĩnh vực tâm sinh lý học, các nhà triết học ngày càng thấy rõ
vai trò của thể xác con người đối với sự phát triến trí tuệ và nhân cách. Tuy nhiên con
người ờ đây mới được đề cập chủ yếu ở khía cạnh cá thể, bản chất xã hội của con người
chưa được đề cao.
- Cuộc đấu tranh phức tạp và dai dẳng giữa triết học và khoa học chân chính với
các quan niệm tôn giáo, thần học trong việc giải quyết các vấn đề bản chất của Thượng
đế, thế giới và con người.
Thời kỳ Phục Hưng ờ Tây Âu, các nhà tư tưởng của giai cấp tư sản đã bênh vực
triết học duy vật, chống lại chủ nghĩa kinh viện và thần học trung cổ. Song chính việc
thỏa hiệp của giai cấp tư sản trong các vấn đề tôn giáo là hậu thuẫn trực tiếp cho các
quan niệm tự nhiên thần luận (thuyết cho rằng tự nhiên sau khi được Chúa sinh ra rồi thì
vận động theo quy luật riêng của nó, không phụ thuộc vào Chúa nữa) và phiếm thần
luận (thuyết cho rằng tự nhiên và Chúa là một) thòi kỳ này.
Đây là những hình thức biểu hiện của tư tưởng duy vật trong cuộc đấu tranh chống
tôn giáo.Những tư tưởng này rất gắn chặt với những thành tựu khoa học, thúc đẩy mạnh
mẽ lực lượng sản xuất mới.Nhiều nhà khoa học đã có những tư tưởng tiến bộ đặc biệt là
về khoa học tự nhiên lúc bấy giờ.Khoa học tự nhiên thời kỳ này được xây dựng trong
không khí cách mạng và bản thân nó cũng cách mạng.
Mặt khác, sự tồn tại dai dẳng của tôn giáo và chủ nghĩa duy tâm triết học đòi hỏi
chúng ta không nên phiến diện trong việc đánh giá tôn giáo cũng như tiến trình lịch sử
thắng lợi của các tư tưởng duy vật và vô thần trong cuộc đâu tranh chống các quan niệm
duy tâm và tôn giáo. Xét ở một khía cạnh cụ thể, các quan niệm này đóng vai trò tích
cực nhất định trong đòi sống xã hội.
- Cùng vói sự phục hồi của phép biện chứng tự phát thời cổ đại, trong khoa học tự
nhiên và trong triết học xuất hiện xu hướng siêu hình, xu hướg này tăng lên vào cuối
thời kỳ Phục Hưng.
Triết học duy vật thế kỷ XVII - XVIII có phương pháp nhận thức xem xét các hiện
tượng trong tự nhiên theo phương pháp siêu hình, máy móc. Dựa vào phát triển khoa
học, các nhà duy vật thời kỳ này phân tích đối tượng của nhận thức thành từng bộ phận
để nhận thức một cách riêng rẽ.Phương pháp này cho phép mổ xẻ, đi sâu phân tích, tích
luỹ kiến thức và hiểu sâu sắc đối tượng.Nhưng phương pháp nghiên cứu ấy đã để lại
thói quen xem xét sự vật, biện tượng một cách trực quan, siêu hình.
*Giá trị lịch sử và hiện thực
Thời kỳ Phục Hưng là thời kỳ Phục Hưng của nghệ thuật, văn hoá và khoa học
trong đó có triết học duy vật.Sự vùng lên của triêt học sau thời kỳ Trung cổ đã làm cho
triết học duy vật thoát khỏi núp dưới tấm áo choàng của thần học và tôn giáo.
Sự trỗi dậy của các quan điểm triết học duy vật thời thời này phù hợp với sự phát
triển của nền sản xuất mới đang hình thành, phù hợp với tư duy khoa học, có ý nghĩa
phản kháng lại các quan điểm của thần học và giáo hội đã ngự trị hàng nghìn năm. Nó
báo hiệu một màn giáo đầu mới cho cuộc cách mạng tương lai mà giai cấp tư sản sẽ
khởi xướng.Vì thế, triết học duy vật thời kỳ này được giai cấp tư sản hết sức ủng hộ.Nó
trở thành thế giới quan và phương pháp luận của giai cấp cách mạng mới.
Đây là bước chuẩn bị tiền đề lý luận cho cách mạng tư sản khắp châu Âu.Giai cấp
tư sản châu Âu đã tìm thấy ở triết học duy vật vũ khí tư tưởng sắc bén để chống lại tư
tưởng duy tâm, tôn giáo đang ngự trị lúc bấy giờ.
Sự ra đòi của triết học thời kỳ này còn khẳng định mối quan hệ khăng khít, bền chặt
giữa triết học duy vật và khoa học tự nhiên trong cuộc đẩu tranh chống liên minh giữa
chủ nghĩa duy tâm và tôn giáo trong giải quyết những vấn đề của triết học lúc bấy giờ.
5: Hạt nhân hợp lý và hạn chế của PBCDT trong triết học cổ điển Đức. Giá trị
lịch sử và ý nghĩa của vấn đề trong bảo vệ và phát triển triết học MLN hiện nay?
*Điều kiện kinh tế - xã hội
Cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX, Anh và Pháp đã là những nước tư bản, trong
khi đó, nước Đức vẫn là nước phong kiến lạc hậu, được gọi là: “đế quốc La Mã thần
thánh của dân tộc Giécmanh” với gần 300 nhà nước nhỏ có lãnh địa phong kiến điển
hình của thần quyền và thế quyền.
Do chịu ảnh hưởng của cách mạng tư sản Anh, Pháp, tình hình của nước Đức đầu
thế kỷ XIX có những biến đổi sâu sắc: từ 300 nhà nước nhỏ chỉ còn vài chục, tư tưởng
tự do và luật pháp tư sản từng bước được áp dụng trong các nhà nước này; sản xuất,
kinh doanh theo phương thức tư bản chủ nghĩa ngày càng phát triển. Trong khi đó, quân
đội Phổ bị Pháp đánh bại và chiếm đóng nhiều vùng đất đã mất sức chiến đấu.Tình hình
đó đã làm sôi sục tình thần dân tộc của giai cấp tư sản và nhân dân Đức trong cuộc đấu
tranh chông chủ nghĩa phong kiến.
Do ra đời từ một nền công nghiệp chưa phát triển lại bị quan hệ phong kiến chèn
ép, giai cấp tư sản Đức không đủ mạnh, không thống nhất, thậm chí hèn nhát buộc phải
thoả hiệp với giai cấp địa chủ phong kiến. Sự thoả hiệp giữa hai giai cấp này đã quy
định và thể hiện rõ nét tính quy định đối với sự hình thành, tồn tại, phát triển của nền
triết học cổ điển Đức đầu thế kỷ XIX.
Khoa học tự nhiên cuối thế kỷ XVIII - đầu thế kỷ XIX đã đạt được những thành
tựu xuất sắc.Các phát minh của Lômônôxốp (người Nga), Lavoađiê (người Pháp),
Đantôn (người Anh) đã vạch ra phép biện chứng của tự nhiên, thúc đẩy kỹ thuật và công
nghiệp phát triển.Những tiến bộ lớn về khoa học đã tác động, ảnh hưởng trực tiếp đến
nền triết học Đức thời kỳ này.
Triết học cổ điển Đức là sự tiếp tục và phát triển tất yếu của những trào lưu tư
tưởng triết học tiên tiên thế kỷ XVII- XVIII. Đó là triết học của R.Đềcáctơ, Ph.Bêcơn,
B.Xpinôda, G.V.Lépnít, G.Lôccơ… và những nhà khai sáng Đức thế kỷ XVIII… Tồn
tại của nước Đức đầu thế kỷ XIX đã in dấu ấn sâu sắc trong nền triết học cổ điển Đức:
tính chất duy tâm, sự thoả hiệp, nửa vời và bảo thủ của nó. Mặt khác, thực tiễn cách
mạng ở châu Âu, thành tựu khoa học tự nhiên và tư tưởng triết học duy vật Anh và Pháp
đã ảnh hưởng sâu sắc đến tư tưởng biện chứng và duy vật trong triết học cổ điển Đức.
Triết học cổ điến Đức với những nét riêng do nền tảng chính trị, xã hội và tư tưởng
của thời kỳ này quy định là đỉnh cao của thời kỳ triết học cổ điển ở phương Tây và có
ảnh hưởng to lớn tới triết học hiện đại. Kant, Hêghen và Phoiơbắc là nhừng đại biểu lớn
của triết học cổ điển Đức, đóng vai trò quan trọng trong sự phát triển triết học vào cuối
thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX, góp phần làm cho triết học cổ điển Đức trở thành
một tiền đề lý luận trực tiếp cho sự ra đời của triết học Mác.
Mặc dù đứng trên lập trường duy tâm, nhưng phép biện chứng cồ điển Đức đã đặt ra
sự thống nhất giữa phép biện chứng, logic học và lý luận nhận thức.So với các nền triết
học trước thì triết học Đức cổ tầm khái quát cao, lý luận chặt chẽ logic. Trong đó Cantơ,
Hêghen là những đại biểu lớn của triết học cổ điển Đức đóng vai trò quan trọng trong sự
phát triển triết học vào cuối thế kỷ XVIII và nửa đầu thế kỷ XIX góp phần làm cho triết
học cố điền Đức trở thành tiền đề lý luận trực tiếp cho sự ra đời cùa triết học Mác.
- Cantơ (1724 - 1804) được đánh giá là người sáng lập ra nền triết học cổ điển
Đức. Ồng là tác giả của hai phát minh quan trọng về khoa học tự nhiên. Phát minh thứ
nhất là giả thuyết về sự hình thành vũ trụ từ những hạt bụi vật chất dưới tác dụng của
các lực hút và lực đẩy của vật chất; phát minh thứ hai là giả thuyết về sự lên xuống của
thủy triều dưới tác động của mật trăng và trái đất.Vào thời kỳ đó, khi mà quan niệm siêu
hình đang thống trị trong tư duy khoa học tự nhiên và triết học thì phát minh lý thuyết
của Cantơ có một ý nghĩa tiến bộ vượt thời đại. Ý nghĩa lớn lao của hai phát minh này
thê hiện ớ chỗ nó xuất phát từ chính bản thân những tính chất của vật chất để giải thích
giới tự nhiên mà không cần cầu viện đến một thứ lực lượng thần bí siêu tự nhiên nào.
Hơn nữa, hai phát minh này còn đem lại một quan điểm có tính chất biện chứng về giới
tự nhiên.Nó cho thấy giới tự nhiên tác động qua lại lẩn nhau và vận động chuyển hoá
không ngừng.
Về nhận thức luận, Cantơ đưa ra phạm trù “vật tự nó” là cái nằm ngoài khả năng
nhận thức của con người và tư duy khoa học. Có thể nói, Cantơ vẫn đứng trên lập trường
của tư duy siêu hình đẻ giải quvết vấn đề khá nãng nhận thức của con người, ông chưa
thể giải quyết được mối quan hệ biện chứng giữa bản chất và hiện tượng của tổn tại.
- Hêghen là người đầu tiên trong lịch sử triết học trình bày toàn bộ giới tự nhiên,
lịch sử và tư duy dưới dạng một quá trình, nghĩa là trong sự vận động, biến đổi và phát
triển không ngừng..Hêghen coi thế giới là một chỉnh thể thống nhất trong đó các sự vật,
hiện tượng tồn tại trong mối liên hệ phổ biến, vận động và phát triển không ngừng.
Động lực của sự vận động và phát triển đó là sự tác động qua lại của các mặt đối lập tức là mâu thuẫn biện chứng nội tại
+ Lần đầu tiên trong lịch sử phép biện chứng, Hêghen đã tạo ra lý luận phát triển
thông qua mâu thuẫn. Ông khẳng định: “Mâu thuẫn là nguồn gốc của tất cả mọi vận
động và của tất cả mọi sức sống; chỉ trong chừng mực một vật chứa đựng trong bản thân
nó một mâu thuẫn thì nó mới vận động, mới có năng lực và hoạt động”. Ông đã phát
hiện ra các quy luật biện chứng cơ bản mà các nhà triết học trước đó có đề cập nhưng
chưa được thể hiện một cách rõ ràng. Hêghen đã nghiên cứu hơn một trăm phạm trù
khác nhau, cùng với các quy luật và chúng tạo thành một hệ thống, thống nhất
+ Hêghen cho rằng: “tất cả mọi vật đều có tính chất mâu thuẫn trong bản thân nó”.
Mâu thuẫn là bản chất của mọi sự vật, mọi tư tưởng và khái niệm.Mọi cái đều là sự
thống nhất, nhưng không phải là sự thống nhất khô cứng mà là sự thống nhất cụ thể của
các mặt đối lập.Mâu thuẫn là một quá trình thống nhất và đấu tranh giữa các mặt đối
lập. Bước chuyển từ giai đoạn này sang giai đoạn khác là quá trình tích luỹ dẫn dần về
lượng dẫn đến sự thay đổi về chất và ngược lại. Đồng thời đây cũng là quá trình phủ
định của giai đoạn sau đối với giai đoạn trước.Bản thân sự giải quyết mâu thuẫn cũng
chính là sự phủ định của cái mới đối với cái cũ, là sự phá vỡ độ dẫn đến sự hình thành
chất mới.
+ Hêghen còn có đóng góp to lớn vào việc xây dựng học thuyết về biện chứng của
“tha hoá”, với tư cách là mâu thuẫn xã hội đặc biệt và cơ bản. Như C.Mác đã nhận xét
trong Bản thảo kinh tế - triết học năm 1844, Hêghen đã xuất phát từ “tha hóa” để nghiên
cứu triết học của mình.
+ Xây dựng một hệ thống các khái niệm, phạm trù, nguyên lý, quy luật của phép
biện chứng như: phạm trù chất, lượng, độ, lọc bỏ, phủ định, mâu thuẫn, cái chung, cái
riêng, bản chất, hiện tượng, nguyên nhân, kết quả… là công lao to lớn của Hêghen.
+ Lần đầu tiên trong lịch sử triết học, Hêghen đã tạo ra được một lý luận biện
chứng phát triển với tư cách là lôgic học và với tư cách là phương pháp, đã hợp nhất
phép biện chứng - một hệ thống lý luận biện chứng với sự kết hợp của phép biện chứng
và lôgíc học.
+ Hêghen đã đề ra một loạt những tư tưởng biện chứng về sự thống nhất của vật
chất và vận động, về tính chất mâu thuẫn của những phạm trù không gian, thời gian và
vận động, về sự phụ thuộc của những đặc tính hoá học vào những thay đổi về lượng…
để chứng minh tính chất biện chứng của hiện thực một cách duy tâm
*Hạn chế của PBCDT trong TH Hêghen
Do những mặt hạn chế bởi nguyên nhân chủ quan và khách quan nhất định, triết
học của Hegel nói chung và phép biện chứng duy tâm của Hegel nói riêng đã không thể
đạt đến chân lý của sự nhận thức. Những hạn chế trong triết học cả Hegel xuất phát từ
thế giới quan duy tâm, bởi tư tưởng của bản thân và ảnh hưởng của xã hội đương thời
+ Ảnh hưởng của thế giới quan duy tâm
Nguyên lí xuất phát và xuyên suốt toàn bộ triết học Hegel là sự đồng nhất giữa tư
duy và tồn tại. Toàn bộ thực tại khách quan (tự nhiên và lịch sử thế giới) là biểu hiện
của "lí tính thế giới" hay "tinh thần thế giới" mà Hegel gọi là "ý niệm tuyệt đối". "Ý
niệm tuyệt đối" có trước tự nhiên và loài người, trải qua một quá trình phát triển lịch sử
- tự nhận thức về bản thân.Hệ thống duy tâm, bảo thủ, khép kín và giả tạo của triết học
Hegel mâu thuẫn sâu sắc với phương pháp biện chứng có tính chất cách mạng của triết
học này. Và đó là lý do để nhận xét Phép biện chứng của Hegel là bị lộn ngược đầu
xuống đất
+ Hệ thống triết học đóng.
Hegel đã tuyên bố triết học của mình là đỉnh cao của nền triết học và không thể
phát triển hơn học thuyết của mình.Và điều đó làm cho phép biện chứng của ông trở
thành một hệ thống triết học đóng. Điều này có lẽ do hai nguyên nhân. Về mặt chủ
quan, có lẽ cái nhận định về Hegel là ông quá tài giỏi so với người cùng thời là một
trong những lý do để ông cho triết học của mình là đỉnh cao.Song cái chính phải xuất
phát từ chính thế giới quan của ông khi thừa nhận Ý niệm tuyệt đối là có trước và quyết
định thế giới tự nhiên và xã hội.
+ Mâu thuẫn khi tìm cách lý giải các vấn đề xã hội.
Nếu thế giới quan duy tâm là nguyên nhân dẫn đến một hệ thống triết học đóng thì
chính cái tư tưởng đó cũng là nguồn gốc đưa đến rất nhiều quan điểm mâu thuẫn khác
trong phép biện chứng duy tâm, trong việc giải thích các vấn đề trong xã hội.Quan điểm
chính trị phản động của Hegel, đặc biệt trong thời kì hoạt động cuối đời của ông, phản
ánh tình trạng mâu thuẫn của giai cấp tư sản Đức, khuynh hướng thoả hiệp của nó với
các thế lực phong kiến.Hegel ủng hộ chế độ quân chủ lập hiến, bênh vực nhà nước quân
chủ phản động Phổ, cho đó là đỉnh cao của sự phát triển xã hội.Như vậy ông đã nhận
thức sai lầm về khái niệm nhà nước, thừa nhận cái tuyệt đối của nó. Do đó, ông cũng
như các nhà triết học trước đó, chỉ tìm cách giải thích mà không thể tìm ra được con
đường đúng đắn để cải tạo xã hội hiện thực.
Câu 7: Đặc điểm của THPT cổ đại và giá trị lịch sử của nó đối với sự phát
triển TH hiện đại?
*Bối cảnh ra đời của triết học Hy Lạp cổ đại
- Là một trong những “chiếc nôi” của nền văn minh cổ đại, Hy Lạp không chỉ nổi
tiêng với những thành tựu của khoa học tự nhiên, văn học, nghệ thuật mà còn có nền
triết học phát triển rực rỡ gồm những hệ thống, trường phái, học thuyết triết học nổi
tiếng với tên tuổi của những triết gia lớn,
- Khởi đầu cho sự ra đời và phát triển của triết học phương Tây và nhân loại. Cơ sở
để hiểu và đánh giá chính xác những công hiến và các hạn chế của triết học Hy Lạp cổ
đại là nắm vững bối cảnh lịch sử, xã hội của sự ra đời và phát triên của nền triết học
này.
- Vào thời nguyên thuỷ, ở Hy Lạp, văn học dân gian, thần thoại và trường ca nổi
tiếng của Hôme đã chứa đựng những quan niệm của người Hy Lạp cổ về các hiện tượng
phức tạp của tự nhiên và xã hội. Đó là mầm mống của những tư tưởng triết học. Vào
khoảng thế kỷ thứ VII-VI tr.CN, chế độ chiêm hữu nô lệ đã được xác lập và phát triển,
triết học với tư cách là hệ thống những quan điểm, quan niệm của con người về thế giới
và vai trò của con người trong thế giới đã chính thức ra đời.
- Chế độ đìiếm hữu nô lệ được hình thành và phát triên gắn liền với việc sử dụng
đổ sắt đã thúc đẩy sản xuất nông nghiệp, thủ công nghiệp, thương nghiệp và giao lưu,
buôn bán ngày càng mở rộng với quy mô lớn, dẫn đến sự ra đời của các thành bang, các
trung tâm kinh tế, văn hóa lớn, nổi bật là thành bang Aten và spac.
- Chiến thắng của Hy Lạp trong chiến tranh với Ba Tư (thế kỷ IV tr.CN) đã giúp họ
mở rộng đất đai, lãnh thổ và tầm ảnh hưởng lớn đến nhiều khu vực của phương Đông xa
xôi. Giao lưu kinh tế, thương mại, văn hóa và khoa học là những điêu kiện thuận lợi
thúc đẩy triết học và khoa học tự nhiên phát triển.
- Cuộc đấu tranh giai cấp giữa chu nô và nô lệ không chỉ tác động đến đời sống
kinh iế, chính trị, xã hội mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến sự ra đời của triết học và quá
trình đấu tranh giữa hai đường lối duy vật và duy tâm. Nhờ chế độ chiếm hữu nô lệ mà
giai cấp chủ nô Hy Lạp có được đặc lợi, đặc quyền và điểu kiện để nghiên cứu, sáng
tạo, cống hiến cho triết học.
*Đặc điểm của tiết học Hy Lạp cổ đại
- Một là, là nền triết học có sự phân chia và đối lập giữa các trường phái triết học,
duy vật và duy tâm, biện chứng và siêu hình, vô thần và hữu thần
Đấu tranh giữa đường lối triết học duy vật vô thần của Đêmôcrít với đường lối triết
học duy tâm khách quan thần bí của Platôn là cuộc đấu tranh điển hình trong lịch sử
triết học, nó thể hiện ở nhiều lĩnh vực như: bản thể luận, nhận thức luận, lôgíc học, đạo
đức học và quan diểm về chính trị xã hội.
+ Về bản thể luận, Đêmôcrít kiên định lập trường duy vật vô thần. Ông cho rằng
cội nguồn của thế giới là nguyên tử, là vật chất.Đối lập với Đêmôcrít, Platôn đứng trên
lập trường duy tâm thần bí. Ông khẳng định rằng bản nguyên của thế giới là “thế giới ý
niệm”, mà ông gọi là “những ý tưởng có trước”, một thế giới trừu tượng, bất biến, tĩnh
tại, đông lạnh không có sự sống.
+ Về nhận thức luận: Đêmôcrít, đối tượng của nhận thức là giới tự nhiên, mục tiêu
là đạt tới bản chất của sự vật. Còn ở Platôn, đối tượng và mục tiêu của nhận thức lại là
“thế giới ý niệm”.
+ Về lôgíc học: Đêmôcrít coi lôgíc là công cụ của nhận thức, nhấn mạnh phương
pháp quy nạp nhằm vạch ra bản chất của giới tự nhiên, thì Platon lại xem xét lôgíc xen
kẽ với phép biện chứng duy tâm nhằm đạt tới “ý niệm”, coi trọng phương pháp diễn
dịch
+ Về đạo đức học, Đêmôcrít hướng đạo đức học vào đời sống hiện thực. Hạt nhân
của nó là lương tâm trong sáng, tinh thần lành mạnh của từng cá nhân. Tư tưởng về đời
sống kinh tế - xã hội là cơ sở của đời sống đạo đức, là tư tưởng có giá trị của Ông.
Platon hướng đạo đức vào đời sống của thế giới “ý niệm” trong sự tha hoá của nó thành
thiện, ác, thành sự thông thái và lòng dũng cảm
+ Về CT-XH: Đêmôcríttheo phái chủ nô dân chủ, kịch liệt chống lại phái chủ nô
quí tộc. Platon đứng về phía NN bảo thủ, đấu tranh chống lại nền dân chủ.
- Hai là, Triết học Hy Lạp cổ đại gắn chặt với khoa học lự nhiên, lấy giới tự nhiên
làm đối tượng nghiên cứu. Vì vậy, nó thuộc loại hình triết học tự nhiên, nhà triết học
đồng thời là nhà khoa học tự nhiên; muốn hiểu biết sâu sắc nền triết học này cần phải có
tri thức khoa học tự nhiên vững chắc.
+ Do nhu cầu thực tiễn của nền sản xuất xã hội nên lực lượng sản xuất từng bước
phát triển đó cũng là sự quan tâm của nhiều ngành khoa học. Chính sự phát triển các
ngành khoa học ấy nó lại tạo ra điều kiện để phát triển lực lượng sản xuất. Những nhà
triết học tiêu biểu ở thời kỳ Hy Lạp cổ đại là: TaLét, Anaximanđrơ, Anaximen, Hêraclít,
Pitago, Lơxíp, Đêmôcrít, Platôn, Arixtốt..
+ Các nhà triết học phương Tây hoà mình trong tự nhiên, quan tâm đến tự nhiên,
đối tượng nghiên cứu là giới tự nhiên, nhà khoa học tự nhiên là nhà triết học, hoặc nhà
triết học cũng đồng thời là nhà khoa học tự nhiên. Bởi vì ở phương Tây chính nhu cầu
của sản xuất xã hội, chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp cực kỳ phát triển. Đó là thời kỳ nhân loại
chuyển từ thời đại đồ đồng sang thời đại đồ sắt.
+ Triết học Hy Lạp cổ đại gắn chặt với khoa học tự nhiên bởi nó xuất phát từ nhu
cầu sản xuất hàng hoá, nhu cầu mở rộng chiến tranh để có thêm nô lệ và tài nguyên
- Ba là, Triết học Hy Lạp cổ đại là ngọn cờ lý luận của giai cấp chủ nô, ngay từ đầu
đã mang tính chất giai cấp sâu sắc. Về thực chất, là thế giới quan, ý thức hệ của giai cấp
chủ nô thống trị, là công cụ lý luận để duy trì và bảo vệ trật tự xã hội dương thời, phục
vụ cho giai cấp chủ nô.
- Bốn là, Phép biện chứng tự phát, ngây thơ ra đời và phát triển trong triết học Hy
Lạp cổ đại cùng với chủ nghĩa duy vật mộc mạc, chất phác và thành tựu của khoa học tự
nhiên... là đặc điểm nổi bật của triết học Hy Lạp cổ đại.
- Năm là, Ngay từ đầu, sự ra đời của triết học Hy Lạp đã gắn chặt với thực tiễn,
xuất phát từ nhu cầu phát triển của nhận thức khoa học và kỹ thuật, gắn liền với quá
trình ra đời và phát triển của chế độ chiếm hữu nô lệ ở Hy Lạp, chứa đựng mầm mống
của hầu hết các thế giới quan sau này; chủ nghĩa duy vật, chủ nghĩa duy tâm, phép biện
chứng và phép siêu hình...
Điểm tiến bộ của các nhà triết học duy vật này đều xuất phát từ các tầng lớp tiến
bộ trong giai cấp chủ nô, họ có nhiều tư tưởng khác với các quan niệm thần thoại và tôn
giáo nguyên thuỷ thống trị hồi đó. Chủ yếu lý giải các vấn đề bản chất và khởi nguyên
của thế giới dựa trên một số các tri thức khoa học sơ khai có được thời đó, coi toàn bộ
thế giới chúng ta như một chỉnh thể thống nhất, sinh ra từ một khởi nguyên duy nhất
như: nước, lửa, không khí, Apâyrôn
Về phép biện chứng Anaximăngđrơ đã nêu ra những phỏng đoán thiên tài. Theo
ông chất Apâyrôn có ẩn chứa những mặt đối lập giữa cái đơn và cái đa (nhiều), giữa cái
nóng và cái lạnh, giữa cái khô và cái ướt. Người có công lao đóng góp những giá trị to
lớn về phép biện chứng phải kể đến trường phái triết học Êphetsơ đại diện là Hêraclít
*Giá trị lịch sử của Triết học Hy Lạp cổ đại
- Nghiên cứu lịch sử phát sinh phát triển của triết học nói chung, của triết học duy
vật Hy Lạp cổ đại nói riêng một lần nữa giúp chúng ta nhìn nhận rõ ràng được sự kế tục,
kế thừa của văn minh nhân loại và triết học
- Chúng ta thấy rằng, cuộc đấu tranh giữa chủ nghĩa duy vật và chủ nghĩa duy tâm,
giữa biện chứng và siêu hình của triết học Hy Lạp cổ đại là rất rõ nét, đặc biệt là cuộc
đấu tranh giữa hai đường lối triết học: “đường lối Đêmôcrít” và “đường lối Platôn”.
- Nghiên cứu triết học Hy Lạp cổ đại giúp ta nắm được điều kiện kinh tế - xã hội
và văn hoá của xã hội Hy Lạp cổ đại, hiểu được cội nguồn lịch sử văn hoá và các vấn đề
hiện đại của xã hội phương Tây
- Trong công tác nghiên cứu khoa học, học tập và giảng dạy giúp cho chúng ta bóc
tách được những mặt tích cực và những điểm hạn chế, hiểu biết sâu thêm về giá trị lịch sử
văn hoá phương Tây, để phát huy củng cố niềm tin duy vật triệt để, vào triết học Mác xít
- Phải kiên định với lập trường duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh
- Nắm vững lý luận và phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh nhằm nâng cao bản lĩnh chính trị cho mỗi cán bộ đảng viên đặc biệt là lực
lượng vũ trang trong nhận thức cũng như trong hành động, trong mỗi việc làm.