Tải bản đầy đủ (.doc) (123 trang)

TÀI LIỆU THAM KHẢO TĂNG CƯỜNG sự LÃNH đạo của ĐẢNG đối với sự NGHIỆP văn hóa TRONG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (439.78 KB, 123 trang )

1

TĂNG CƯỜNG SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG
ĐỐI VỚI SỰ NGHIỆP VĂN HOÁ TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY

I. Đòi hỏi khách quan về sự lãnh đạo của Đảng trên lĩnh vực văn
hoá văn nghệ.
Ngay từ khi xã hội loài người chưa phân chia giai cấp, chưa biết đến
đảng phái chính trị thì đã có văn hoá. Văn hoá tồn tại như một phương thức
để con người nhận thức, duy trì và phát triển cuộc sống của mình. Văn hoá
phát triển do con người, vì con người. Văn hoá trường tồn cùng nhân loại.
Lịch sử cho thấy rằng, bất cứ lực lượng xã hội - chính trị nào muốn tác
động tích cực vào quá trình phát triển đều phải nắm lấy văn hoá. Khi xã hội
có những chuyển biến lớn lao thì lực lượng tiên phong lại càng coi trọng vai
trò của văn hoá. Các chính đảng có sứ mệnh lãnh đạo xã hội xưa nay đều
sử dụng văn hoá văn nghệ như là một vũ khí lợi hại trong cuộc đấu tranh
giai cấp trên mặt trận tư tưởng. Dù công khai hay che giấu việc sử dụng văn
hoá văn nghệ như là lợi khí đều được các lực lượng chính trị sử dụng một
cách có ý thức, có tổ chức.
Điều này có căn rễ sâu xa từ bản chất và chức năng của văn hoá văn
nghệ : trong xã hội có giai cấp, văn hoá văn nghệ tất có tính giai cấp. Văn
hoá văn nghệ không phụ thuộc vào chính trị của giai cấp này sẽ phụ thuộc
vào chính trị của giai cấp khác.
Lịch sử cũng cho ta kinh nghiệm: giao lưu văn hoá giữa các nước là
con đường tốt nhất để tăng cường hiểu biết, tăng cường tình đoàn kết và
hữu nghị giữa các dân tộc, làm phong phú lẫn nhau giữa các nền văn hoá.


2

Ngược lại, kẻ xâm lược cũng có thể thực hiện các cuộc xâm lăng bắt đầu từ


văn hoá.
Trong suốt nghìn năm đô hộ nước ta, phong kiến phương Bắc một mặt
tìm cách tiêu huỷ văn hoá Việt Nam (bằng cách đốt sách, đục bia, phá hoại
các định hướng xã hội chủ nghĩa tích lịch sử, nghệ thuật...), mặt khác tìm
cách áp đặt văn hoá Trung Hoa vào nước ta trên nhiều lĩnh vực (tổ chức xã
hội, phong tục tập quán..), nhằm "đem thi thư để biến tục nước, lấy lễ nhạc
để sửa lòng người"; nhằm đồng hoá cả con người và nền văn hoá Việt
Nam.
Thực dân Pháp khi xâm lược nước ta đã truyền bá văn hoá Pháp sang
Việt Nam nhằm gây ảnh hưởng về tinh thần, nắm lấy trí thức và thanh niên;
lợi dụng phong tục, tập quán lạc hậu ở nước ta để áp bức, bóc lột, kìm hãm
bước tiến của nhân dân ta.
Nhảy vào Đông Dương, phát xít Nhật cũng lợi dụng văn hoá để tuyên
truyền chủ nghĩa Đại Đông Á, lôi kéo trí thức, văn nghệ sĩ nước ta phục
Nhật, theo Nhật, sử dụng mọi phương tiện văn hoá để phục vụ cho chế độ
thống trị của chúng.
Xâm lược Việt Nam, đế quốc Mỹ sử dụng mọi hình thức văn hoá để tô
vẽ cho bộ mặt quốc gia giả hiệu và bè lũ tay sai, ru ngủ và nô dịch nhân
dân, phá hoại tâm hồn, tình cảm của thanh niên, hướng thanh niên vào con
đường sống không đạo đức, không lý tưởng, không Tổ quốc, vì cuộc sống
hưởng lạc mà có thể bán lại đồng bào.
Những hoạt động phản văn hoá của bọn thực dân, phát xít, đế quốc
xâm lược đã để lại những hạu quả nặng nề trong đời sống văn hoá của một
bộ phận nhân dân và thanh niên ta.


3

Và ngày nay, trong khi có lý thuyết cho rằng nền văn hoá nhân loại
đang giải hệ tư tưởng thì cuộc đấu tranh giữa hai hệ tư tưởng Mác- Lênin

và hệ tư tưởng tư sản trên lĩnh vực văn hoá văn nghệ lại quyết liệt hơn bao
giờ hết. Tiến hành diễn biến hoà bình, chủ nghĩa đế quốc luôn lấy tư tưởng,
ý thức làm khâu đột phá, bên ngoài tuyên truyền không có đối đầu tư tưởng
nhưng bên trong thì vấn đề "đối đầu hệ ý thức và hệ tư tưởng, tăng cường
tuyên truyền để ngăn chắn sự thâm nhập của các quan niệm thuộc hệ tư
tưởng và ý thức cộng sản"(1). Lại là một nội dung kết cấu nên chiến lược
toàn cầu của Mỹ. Bên ngoài tuyên truyền không có đối đầu tư tưởng nhưng
bên trong lại ngầm đưa lực lượng chống chủ nghĩa cộng sản vào trong lòng
cộng sản, biến những nơi này thành trận địa chống cộng với sự phối hợp từ
bên ngoài, tăng cường tuyên truyền cả bên trong và bên ngoài nước cộng
sản để chuyển hoá lực lượng "từ đỏ sang xanh" là phương sách không có
xa lạ gì của lực lượng chống chủ nghĩa xã hội. Điều đó góp phần cắt nghĩa
về lao "diễn biến hoà bình" từ một tư tưởng chỉ đạo trong chính sách đối
ngoại của Mỹ đã trở thành một chiến lược của chủ nghĩa đế quốc nhằm thủ
tiêu chế độ xã hội chủ nghĩa.
Trong cuốn "1990- chiến thắng không cần chiến tranh", một cuốn sách
được suy nghĩ và viết trong 40 năm, cựu tổng thống Mỹ Ních Xơn đã không
hề giấu diếm mục đích chống chủ nghĩa xã hội: "biện pháp của chúng ta để
tiến hành cạnh tranh hoà bình ngay trên đất Liên Xô là bằng những
chương trình phát thanh và trao đổi văn hoá. Tuy các chương trình phát
thanh của ta (Mỹ) không thúc giục nổi loạn bạo động, song ta phải làm sao
cho nó chú ý tới vấn đề chủng tộc và động viên họ đấu tranh đòi quyền dân
tộc".


4

Sau khi Tây và Đông Đức sát nhập "sách của CHDC Đức bị nghiền nát
hàng tấn vứt vào đống rác... Các quảng trường và đường phố mang tên
chién sĩ chống phát xít hay những người cộng sản có công lao đều bị đổi

tên..."(100).
Sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô đã cho
chúng ta những bài học sâu sắc về nhận thức và xây dựng chủ nghĩa xã hội
hiện thực, và cảnh giác cách mạng trước những thế lực thù địch với chủ
nghĩa xã hội. Còn chủ nghĩa đế quốc, đương nhiên đã có thể bổ sung
những kinh nghiệm chiến lược "diễn biến hoà bình" , tiếp tục tấn công vào
các nước xã hội chủ nghĩa còn lại.
Các trung tâm phá hoại tư tưởng từ các đế quốc vẫn sử dụng hàng
trăm tờ báo, tạp chí, đưa vào nước ta hàng chục ngàn ấn phẩm có nội dung
chống cộng, chống chủ nghĩa xã hội lại việc truyền bá những sản phẩm văn
hoá để bảo vệ những gì là nhân bản, nhân văn, giữ gìn bản sắc văn hoá
dân tộc của mình . Ở Xy Ry, Bộ văn hoá đã cấm quảng cáo không mang
tính văn hoá, tuyên truyền cho bạo lực, tình dục. Ở Xrilanca, bộ văn hoá
cấm sản xuất hoặc nhập các phim ảnh, băng hình có nội dung kích động
tình dục, bạo lực. Trên đất nước này, người ta đã hiểu rằng nhiều vụ án
hình sử xảy ra mà nguyên nhân chính là do những sản phẩm phi văn hoá.
Ở Philipin, thị trưởng thành phố Maiia (A.Lin) cùng cựu tổng thống
Philoppin (C.Aquinô) và tổng giám mục nhà thời Thiên Chúa giáo (J.Sin) đã
châm lửa đốt hàng nghìn cuốn sách tạp chí, băng nhạc, băng hình có nội
dung phản văn hoá.
Nhật Bản và Singapo tẩy chay cuốn sách "Sex" của Mađôn là cuốn
sách bán chạy nhất trong năm 1922 ở Mỹ. Theo luật kiểm duyệt, Singapo
còn cấm lưu hành nhạc khiêu dâm Mỹ, cấm Anbum nhạc "U se your


5

LLLusion 2" vì lời nhạc có tính chất buông thả và khêu gợi nhục dục; các ca
sĩ còn bị cấm hát bài "Erotica" là bài "tủ" của Madona vì có nội dung kích
động tình dục.


Ở Nam Triều Tiên một hãng truyền hình (SBS) bị cảnh cáo vì đã đưa
lên màn hình những phim dâm loạn, bị xem là "phá họai nền văn hoá lâu
đời của dân tộc".
Ở Gioocdani, toàn thánh thành phố Amman xử tù 6 tháng một chủ hiệu
vi phạm các qui định của Bộ văn hoá và Bộ Tôn giáo vì cho thuê 6 băng
hình có nội dung kích thích tình dục và khuyến khích sử dụng ma tuý không
phù hợp với nền văn hoá của các dân tộc theo đạo hồi.
Ở Đài Loan, Hồng Kông, hiệp hội phụ huynh và khán giả truyền hình
phản đối việc đưa lên màn ảnh quá nhiều phim tình dục và cách xử sự giữa
con người bằng đao, kiếm và súng đạn trong chương trình hàng ngày, gây
ra nguy cơ kích thích thanh niên áp dụng trong đời thường, trên đường phố,
trong gia đình, trong từng nhóm bạn và tạo cho chúng cách nhìn cay nghiệt
về cuộc sống.
UNICEP đã kêu gọi các nước đưa ra những cơ chế điều hành và kiểm
soát để ngăn chặn tệ phô bày những hình ảnh bạo lực trên màn ảnh, làm
lành mạnh môi trường nghe nhìn cho trẻ em - cho nhân loại của ngày mai lưu ý tình trạng trẻ em đã trở thành một trong những mục tiêu kinh tề vi
mô... người ta dựa vào trẻ em để buôn bán, lèo lái và giành giật đồng tiền
bằng bất cứ giá nào.
Trong đời sống xã hội nếu không có lý tưởng, không có những giá trị
tinh thần cao cả sẽ dẫn đến suy sụp về đạo đức dẫn đến chủ nghĩa thực


6

dụng, phát sinh những tiêu cực trong lối sống của con người. Bởi vậy mà
giữ gìn những gì là chân - thiện - mỹ trong thời đại của giao lưu văn hoá,
giữ gìn và phát triển thuần phong mỹ tục của mỗi dân tộc sẽ là một cuộc
phấn đấu lâu dài, phức tạp, đòi hỏi phải có định hướng. Định hướng đó sẽ
là điều kiện cho phát triển tự do mỗi con người và của tất cả mọi người, cho

mọi người đều được hưởng "hạnh phúc văn hóa".
Đời sống xã hội phức tạp và mang đầy tính chính trị. Văn nghệ trong
khi phản ánh đời sống không thể xa rời chính trị. Nói tới cuộc sống, không
thể không động chạm đến lý tưởng sống thái độ sống, thái độ thẩm mỹ đối
với thực tại; với đời sống với các mối quan hệ xã hội và với các tác phẩm
văn hoá văn nghệ, cũng không bao giờ tách rời thái độ chính trị của giai
cấp.
Tuy có những đặc thù về phương thức nhận thức và phản ánh nhưng
văn nghệ không tách khỏi những mối quan tâm có tính chất chính trị trong
đời sống xã hội. Những gì có liên quan đến con người đều là mối quan tâm
của cả chính trị và văn nghệ. Trên ý nghĩa ấy văn nghệ và chính trị cùng
chung mục đích vì hạnh phúc con người.
Ở nước ta từ ngày có Đảng, văn nghệ đã thực sự trở thành một bộ
phận khăng khí của cách mạng, trở thành vũ khí đắc lực trong sự nghiệp
đấu tranh vì độc lập, tự do, dân chủ. Gắn bó với cách mạng, văn hoá văn
nghệ Việt Nam, ở mọi thời kỳ đều đạt được thành tựu.
Lịch sử cũng cho ta bài học về tiếng nói nghệ thuật phải được bảo đảm
bằng bản lĩnh chính trị. Trong một nền văn nghệ của chúng ta đã từng có
những tên tuổi tài năng mà trong một lúc nào đó không tỉnh táo và không đủ
sức nhận đường đã vấp váp và có những sai lầm lệch lạc.


7

Khi đưa ra "Đề cương văn hoá" 1943 Đảng ta đã chủ trương giải phóng
văn nghệ khỏi sự kiểm chế của hệ tư tưởng thống trị của chủ nghĩa thực
dan, đưa văn nghệ trở về bản chất và lẽ sống của nó. Bởi "dân tộc bị áp
bức thì văn nghệ cũng mất tự do. văn nghệ muốn tự do thì phải tham gia
cách mạng" (7, tr.63).
Khi chưa biết cách mạng, chưa hiểu cách mạng, nhiều nghệ sĩ có tài,

yêu nước mà vẫn không biết làm gì hơn là giấu mình trong những dòng thơ
buồn khổ, với nỗi đau siêu hình. Chỉ sau quá trình đi theo cách mạng, sống
cuộc sống chiến đấu của nhân dân, những nhà thơ, nhà văn ấy mới đi từ
"chân trời của một người đến chân trời tất cả", tìm lại được niềm vui chân
chính trong sáng tạo; tìm thấy sự thống nhất giữa trách nhiệm trước cuộc
đời với mong ước của bản thân.
Trước Cách mạng 1945, Chế Lan Viên đã bỏ không làm thơ văn, chán,
nhà thơ lần lượt yêu Kinh Thánh, Phật nhưng vẫn không tìm ra lối thoát. Có
cách mạng, anh tham gia vào cuộc sống dân tộc, anh vui lại và làm thơ lại.
"Chính nhờ chính trị mà làm thơ lại. Và khi đã làm thơ thì không phải chỉ
làm thơ chính trị mà cả thơ tình"(41). Chính Cách mạng, chính Bác Hồ người chủ trương đưa chính trị vào văn nghệ- đã thay đổi đời anh, thay đổi
thơ anh.
Ngày nay xã hội vận động theo hướng dân chủ hoá, thực tiễn cuộc
sống vô cùng đa dạng và phức tạp; bối cảnh quốc tế diễn biến đan xen hợp
tác và đấu tranh, cái đúng - cái sai, cái tốt - cái xấu, cái thật - cái giả dễ lẫn
lộn thì một sự tỉnh táo chính trị là hết sức cần thiết.
Nghệ sĩ sáng tác theo quy luật riêng của tình cảm. Tình cảm đó được
hình thành từ một trạng thái xúc động trước cuộc đời. Tình cảm ấy mang rõ
dấu ấn cá nhân, sắc thái cá nhân đồng thời mang nội dung xã hội cụ thể. Nó


8

cần được định hướng về tư tưởng. "Viết văn là sự giải thoát nỗi thắc mắc,
ấp ủ bên trong. Hoặc ghi nhận, lý giải những gì mình đã cảm nhận ở ngoài.
Lại có khi diễn tả ra bằng lời tất cả những hình ảnh mà ý thức đã ghi lại.
Cũng có khi khối óc bị kích thích đến tột cùng hoặc những xúc động sâu xa
bỗng nhiên bắt buộc cầm bút - cây bút hoá thành vật có linh hồn... Người
viết văn phải hiểu biết chính trị. Nếu không hiểu chính trị, bản thân người
viết cũng lầm lạc. Song ngược lại, người làm chính trị có văn hoá, phải hiểu

biết văn chương"(117).
Cũng có ý kiến, quan điểm cho rằng văn nghệ không cần có sự lãnh
đạo hoặc phủ nhận mối quan hệ tất yếu giữa chính trị và văn nghệ. Quan
niệm này không có chỗ đứng trong thực tế hiện nay. Về điều này, một nhà
thơ đã viết: "Bản thân văn nghệ nhìn từ bất cứ góc độ nào cũng không nằm
ngoài ảnh hưởng chi phối của chính trị. Có những nhà văn, nhất là các nhà
thơ, hiểu một cách đơn giản tính đặc trưng của nghệ thuật, cứ yên trí rằng
mình chỉ viết về cái đẹp, cái tốt, vượt lên trên mọi thể chế, mọi đường lối
chính trị. Nhưng nếu hiểu chính trị theo ghĩa rộng, thì có thể thấy các nghệ
sĩ ấy vẫn cứ được xếp chỗ trong từng "công năng" chính trị. Thực tế những
bước phát triển trong mấy năm đổi mới vừa qua đã cho thấy, có những
người chủ trương phi chính trị hoá văn nghệ lại dùng nghệ thuật làm chính
trị rồi" (101).
Theo M,C.Kagan, "trong bài diễn văn khi nhận giải thưởng Nôben, một
trong những người đứng đầu Chủ nghĩa hiện sinh Ph. an-be Kamuy tuyên
bố rằng trong quá khứ nhà văn "đã luôn luôn có thể tránh khỏi việc tham gia
vào lịch sử. Người nào không ủng hộ họ thường im lặng hoặc nói về một cái
khác. Ngày nay, tất cả đã thay đổi và thậm chí bản thân sự im lặng cũng
mang ý nghĩa tượng trưng ghê sợ. Ngày nay, bản thân việc chạy trốn khỏi


9

chính trị bắt đầu được xem xét như một sự lựa chọn: muốn hay không
muốn, người nghệ sĩ cũng bị lôi vào cuộc" (150, tr. 515).
Những thành tựu văn hoá mang tính toàn nhân loại vốn có từ trước khi
xã hội phân chia thành giai cấp vẫn in dấu ấn trong nền văn hoá của thời đại
ngày nay. Khi xã hội hết phân chia giai cấp, văn hoá vẫn phát triển. Nhưng
trong bối cảnh quốc tế hiện nay, trong tính phức tạp và đa dạng của các lực
lượng xã hội trong mỗi nước và trong từng khu vực, vấn đề giai cấp, vấn đề

hệ tư tưởng vẫn đang nóng bỏng. Điều đó biểu hiện rất rõ trong văn nghệ,
một bộ phận cấu thành quan trọng, một thành tố có tính đặc thù và có tính
tiêu biểu của văn hoá.
Chủ tịch Hồ Chí Minh từng nới: "Cán bộ văn hoá nói riêng cũng như tất
cả các cán bộ ta nói chung phải rèn luyện tư tưởng, chính trị, ý chí phấn đấu
và tinh thần trách nhiệm… Tất cả những người làm báo (người viết, người
in, người sửa bài, người phát hành, v.v…) phải có lập trường chính trị vững
chắc. Chính trị phải làm chủ. Đường lối chính trị đúng thì việc khác
mới đúng được". (7, tr,37,43).
Sự nhận thức, hay nói đúng hơn, sự tự ý thức về tính tất yếu của mối
quan hệ giữa chính trị và văn nghệ với tính chất là một phạm trù lịch sử sẽ
giúp văn nghệ sĩ thấy tự do trong sáng tạo, sẽ là tác nhân quan trọng tăng
cường hiệu lực lãnh đạo của Đảng với văn hoá văn nghệ.
Mỗi xã hội đều có nền văn hoá của mình. Mỗi nền văn hoá được hiểu
và đánh giá bằng những quan niệm và thước đo của chính nó. Lãnh đạo,
định hướng cho sự phát triển và tiếp nhận văn hoá chính là để đảm bảo cho
văn hoá, cho mọi thành tố cấu thành của nó, trong đó có bộ phận đặc biệt
nhạy cảm là văn hoá nghệ thuật phát triển phù hợp với truyền thống dân
tộc, phát huy được bản sắc dân tộc, Nếu bản sắc dân tộc là một quá trình


10

thường xuyên tự ý thức, tự khám phá và tái tạo; nếu truyền thống của một
dân tộc luôn luôn là sự bảo tồn và chắt lọc, kế thừa và phát triển, giữ gìn và
tiếp biên thông qua hiện tại, thì sự lãnh đạo, định hướng là cần thiết để qua
đó bản sắc truyền thống không chỉ là sự vận động theo quán tính mà còn là
sự vận động được con người nhận thức và thúc đẩy.
Ngày nay, trong quá trình cơ cấu kinh tế - xã hội các nước đều xem xét
lại để điều chỉnh những nguyên tắc chỉ đạo trong các chính sách văn hoá

nhằm tìm ra cơ chế quản lý hiệu quả nhất.
Ở Việt Nam, văn hoá ngày càng có vai trò quan trọng góp phần vào việc
định hình nội dung sống của con người và xã hội. Nghị quyết Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương lần thứ IV khoá VII (14-1-1993) khẳng định: "Nhiệm
vụ trọng tâm của văn hoá văn nghệ nước ta là góp phần xây dựng con
người Việt Nam về trí tuệ, đạo đức, tâm hồn, tình cảm, lối sống, có nhân
cách tốt đẹp, có bản lĩnh vững vàng ngang tầm sự nghiệp đổi mới vì dân
giàu nước mạnh, xã hội văn minh (19, tr.53). Đảng đang đổi mới và văn hoá
văn nghệ cũng đang và cần tiếp tục đổi mới theo hướng đi lên chủ nghĩa xã
hội.
Là bộ phận không thể tách rời của cuộc sống và nhận thức văn hoá là
tổng thể sống động của các hoạt động sản xuất, hoạt động sáng tạo của
con người, nó "có liên lạc với chính trị rất là mật thiết" (7, tr.72). Điều đó làm
cho cuộc cách mạng trên lĩnh vực tư tưởng và văn hoá trong thời kỳ quá độ
lên chủ nghĩa xã hội phải đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng. Đảng giữ độc lập
quyền lãnh đạo cách mạng, Đảng phải độc quyền lãnh đạo sự nghiệp văn
hoá cách mạng. Kinh nghiệm lịch sử của cách mạng nước ta và thực tế ở
nhiều nước cho thấy: không có giai cấp nào nắm được chính quyền lại
muốn chia sẻ nó cho các giai cấp khác. Đảng phải chiếm lĩnh mặt trận văn


11

hoá. Nếu Đảng không nắm lấy mặt trận này thì ý thức tư sản sẽ chiếm lĩnh.
Sự lãnh đạo của Đảng là điều đảm bảo cho định hướng xây dựng nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Điều này đòi hỏi Đảng có đường lối
chính trị đúng và trong toàn bộ hoạt động lãnh đạo (cũng như quản lý) văn
hoá văn nghệ tránh cái nhìn đồng nhất và vấn đề văn nghệ với các vấn đề
chính trị.
II. Tính nhất quán và sự phát triển lý luận về văn hoá văn nghệ

trong quá trình lãnh đạo văn hoá văn nghệ của Đảng.
Đảng Cộng sản Việt Nam đi theo chủ nghĩa Mác- Lênin ngay từ đầu đã
nhận thức rõ ý nghĩa to lớn của nhân tố tinh thần trong chiến lược và sách
lược của cách mạng; đã sớm nhận thức được văn hoá khi thâm nhập vào
quần chúng sẽ là một sức mạnh về vật chất và có khả năng đánh bại mọi kẻ
thù, giành độc lập thống nhất cho đất nước.
Quan niệm đó có cơ sở khoa học của nhận thức luận duy vật biện
chứng về mối quan hệ giữa vật chất và ý thức, về sự tác động trở lại của
kiến trúc thượng tầng đối với cơ sở hạ tầng, về vai trò của con người đối với
tự nhiên và xã hội.
Nhìn chung, ở các nước phương Đông người ta không quen coi văn hoá
như là động lực quan trọng nhất để phát triển kinh tế mà "chỉ xem văn hoá
như là tổng số những biện pháp để tu dưỡng con người sao cho thích hợp
với môi trường tự nhiên và xã hội" (71, tr.72). Tiếp cận với chủ nghĩa Mác,
Đảng ta thấy được văn hoá luôn đóng vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy
hoặc kìm hãm sự phát triển của xã hội. "Kinh tế và chính trị quyết định văn
hoá, rồi sau văn hoá tác động lại kinh tế và chính trị, nhiều khi với một sức
mạnh phi thường (38, tr.17).


12

Trong các văn kiện chủ yếu của Đảng như Chính cương vắn tắt của
Đảng (1930); Lời kêu gọi nhân dịp thành Đảng Cộng sản Đông Dương
(1930); Chương trình tóm tắt của Đảng (1931); Chương trình hành của
Đảng Cộng sản Đông Dương (1932); án nghị quyết của Trung ương (1931),
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ nhất (27-31/3/1935); Nghị quyết Trung
ương tháng 8 và 9/1937)… đã nêu ra những vấn đề: chống mọi chính sách,
thủ đoạn văn hoá của đế quốc, vạch trần những cách lừa bịp về giáo dục,
báo chí, xuất bản của chúng; làm cách mạng để thực hiện tự do tư tưởng,

tự do ngôn luận, tự do xuất bản.., kêu gọi trí thức đi theo cách mạng; đào
tạo đội ngũ trí thức, nhà báo của Đảng; ra những sách báo bí mật, ra báo
chí bằng tiếng các dân tộc, dùng tiếng Việt, tiếng Pháp, chữ Hán, chữ Nôm
để viết báo tuyên truyền cách mạng.
Trong thời kỳ Mặt trận dân chủ Đông Dương 1936-1939, Trung ương chỉ
thị cho các báo chí công khai mở các mục về văn học, mỹ thuật, thể thao,
v.v.. để thu hút thanh niên và đông đảo bạn đọc. (1).
Trong điều kiện hoạt động bí mật, lúc công khai và khi mà nhiệm vụ
trọng tâm là lật đổ ách thống trị của đế quốc phong kiến tay sai, Đảng ta
không có chính sách riêng và toàn diện về văn hoá, song Đảng đã có những
chủ trương thích hợp, đã chuẩn bị mọi mặt: về quan điểm tư tưởng, về tổ
chức, về con người cho việc ra đời đường lối văn hoá văn nghệ đúng đắn
về sau.
Đến cuối những năm 30 đầu những năm 40 của thế kỷ này, khi đất nước
sục sôi khí thế chuẩn bị cuộc cách mạng Tháng Tám 1945, Đảng ta đã thấy
sự cần thiết phải tiến hành cuộc cách mạng văn hoá; đặt cách mạng văn
hoá trong mối quan hệ chặt chẽ với cách mạng chính trị và cách mạng kinh
tế. "Cuộc đấu tranh cách mạng của văn hoá Việt Nam là một bộ phận của


13

cuộc đấu tranh cách mạng chung của cả dân tộc" (38, tr.77). Đề cương văn
hoá 1943 cũng xác định: Mặt trận văn hoá là một trong ba mặt trận (kinh tế,
chính trị, văn hoá) "ở đó người cộng sản phải hành động".
Vào đầu những năm 40, dân tộc ta, đất nước ta còn nghèo nàn và lạc
hậu. Nhưng nhờ có cái nhìn khoa học và sáng suốt về văn hoá, bằng việc
công bố Đề cương văn hoá, Đảng đã tập hợp được lực lượng, đoàn kết
những nhà văn hoá văn nghệ, những trí thức có khuynh hướng tiến bộ, phát
huy tinh thần yêu nước, lòng khao khát tự do độc lập cùng với toàn dân đấu

tranh giải phóng dân tộc, giành dộc lập tự do đồng thời thực hiện sứ mệnh
thiêng liêng là giải phóng văn hoá, xây dựng văn hoá mới Việt Nam.
Từ ngày thành lập Đảng cho đến khi có Đề cương văn hoá Đảng đã tạo
một bước chuyển biến lớn trong văn hoá văn nghệ, đưa nó từ chỗ là
phương tiện nô dịch, ru ngủ của kẻ thù của cách mạng, là tiếng thở than
của người dân mất nước chưa tìm ra con đường giải phóng trở thành vũ khí
đấu tranh cách mạng, hướng văn nghệ sĩ đi theo con đường của Đảng, góp
phần xứng đáng vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân.
Cách mạng Tháng Tám thành công, văn nghệ sĩ lại cùng với nhân dân
bước vào cuộc chiến đấu mới: xây dựng lại đời sống về mọi mặt và tiến
hành cuộc kháng chiến anh hùng chống thực dân Pháp.
Trong giai đoạn lịch sử này, ngay trong điều kiện kháng chiến, Đảng vẫn
không ngừng cụ thể hóa đường lối văn hoá văn nghệ, nêu ra và giải quyết
nhiều vấn đề rất cơ bản của lý luận văn nghệ: vấn đề tự do và quy luật trong
sáng tạo nghệ thuật, vấn đề quan điểm đối với văn hoá cổ và văn hoá nước
ngoài, vấn đề đào tạo con người mới và cán bộ mới cho công cuộc kháng
chiến kiến quốc là nhiệm vụ của văn hoá, vấn đề nhận thức sâu sắc hơn về
quan điểm dân tộc, khoa học, đại chúng trong Đề cương văn hoá trước yêu


14

cầu mới, vấn đề học tập lý luận Mác- Lênin để tạo bước chuyển căn bản
trong thế giới quan và tâm hồn văn nghệ sĩ,.. (1) Chính trong giai đoạn này,
Hồ Chủ Tịch đã phát biểu luận điểm cơ bản của Đảng về văn hoá văn nghệ
trong bức thư Người gửi các hoạ sĩ nhân dịp triển lãm hội hoạ năm 1951:
"Văn hoá nghệ thuật cũng là một mặt trận. Anh chị em là chiến sĩ trên mặt
trận ấy" (6, tr.349).
Sau chiến thắng Điện Biên Phủ, hoà bình được lập lại, nửa nước được
giải phóng, cách mạng chuyển sang giai đoạn mới, nhân dân ta phải gánh

vác hai nhiệm vụ cực kỳ khó khăn và vĩ đại: Chiến đấu chống một kẻ thù lớn
mạnh và hung hãn là đế quốc Mỹ và chuẩn bị bắt tay xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên nửa nước.
Trong giai đoạn này, trên lĩnh vực văn hoá văn nghệ đặt ra một số vấn
đề mới và xuất hiện những khó khăn nhất định. Đảng lại kịp thời đưa ra
những giải đáp lý luận giúp quyết những vấn đề tư tưởng và nghệ thuật
(vấn đề Nhân văn, Giai phẩm, vấn đề mối quan hệ giữa chính trị và văn
nghệ, về chủ nghĩa nhân đạo mới, về công tác lãnh đạo của Đảng với văn
nghệ, vấn đề miêu tả sự thật và phê bình xây dựng, v.v…
Những phương hướng sáng suốt và kịp thời của Đảng nêu ra trong thời
kỳ này đã giúp văn nghệ sĩ tránh được những sai lầm, vấp váp, xác định rõ
nhiệm vụ của văn nghệ sĩ, lôi cuốn, cổ vũ các nhà văn nghệ ở miền Bắc
cũng như miền Nam "ra sức xây dựng một nền văn nghệ dân tộc, phong
phú, tích cực góp phần xây dựng một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất,
độc lập dân chủ và giàu mạnh (39, tr.199).
Tháng 6/1960, Đảng tiến hành Đại hội lần thứ III, "đại hội xây dựng Chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc và đấu tranh hòa bình thống nhất nước nhà" (16,
tr.11). Đó là thời kỳ mà dân tộc đứng trước những thử thách to lớn nhưng


15

cũng tràn đầy niềm tin vào thắng lợi cuối cùng. Trong điều kiện lịch sử đó,
Đảng lại càng quan tâm hơn đến đời sống tinh thần của nhân dân. Báo cáo
chính trị tại Đại hội III khẳng định: "Chúng ta phải xây dựng một nền văn
nghệ mới có tính chất dân tộc và nội dung xã hội chủ nghĩa phong phú. Văn
nghệ phải có tính Đảng và tính nhân dân rõ rệt… Phải không ngừng nâng
cao tính tư tưởng và tính nghệ thuật của các tác phẩm văn nghệ, làm cho
các tác phẩm đó trở thành những vũ khí sắc bén trong việc xây dựng con
người mới về tư tưởng và tình cảm…" (16, tr.75) Tại Đại hội này, Đảng đặt

vấn đề "trong sự nghiệp xây dựng nền văn hoá mới, việc phát động phong
trào quần chúng rộng rãi làm văn nghệ có ý nghĩa rất quan trọng" (16,
tr.76).
Sau Đại hội III, Trung ương đã ra một loạt các chỉ thị về công tác văn
hoá văn nghệ: chỉ thị về công tác văn hoá trong quần chúng (ra ngày
3/1/1961), chỉ thị về vấn đề tăng cường công tác xuất bản (ra ngày
1/10/1961), chỉ thị về công tác văn hoá văn nghệ trong tình hình mới (ra
ngày 28/7/1965), v.v.. Từ các chỉ thị này của Trung ương, đã dần dần xuất
hiện một nền văn hoá nghệ thuật chống Mỹ cứu nước với hai chủ đề lớn: Tổ
quốc và chủ nghĩa xã hội. Một điều đáng chủ ý là trong giai đoạn từ sau khi
có chỉ thị về xuất bản, việc ưu tiên xuất bản các sách kinh điển của chủ
nghĩa Mác- Lênin, những quan điểm của Mác, Ăngghen, Lênin và văn hoá
nghệ thuật đã tạo một bước ngoặt trong sự phát triển lí luận và phê bình
nghệ thuật ở Việt Nam.
Sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, cả nước ta
bước vào thời kỳ lịch sử mới. Tại Đại hội IV, Đảng lại tiếp tục khẳng định và
phát triển những tư tưởng "biến mọi giá trị văn hoá thành tài sản của nhân
dân và tạo điều kiện để nhân dân trực tiếp sáng tạo ra mọi giá trị văn hoá"


16

(9, tr.56)." Trên cơ sở những đòi hỏi tất yếu của cuộc sống cộng đồng, của
quyền làm chủ tập thể, phải tôn trọng và đảm bảo các quyền công dân, bảo
đảm sự phát triển phong phú của nhân cách, bồi dưỡng và phát huy sở
trường và năng khiếu cá nhân, tạo điều kiện cho mọi người tự do tìm tòi
và sáng tạo trên các lĩnh vực sản xuất, hoạt động khoa học, kỹ thuật,
văn hoá, văn học nghệ thuật…" (9, tr.56).
Đại hội V tiếp tục quan điểm của Đại hội IV, nêu rõ : "nền văn hoá mới là
nền văn hoá có nội dung xã hội chủ nghĩa và tính chất dân tộc, có tính đảng

và tính nhân dân sâu sắc, thấm nhuần chủ nghĩa yêu nước và chủ nghĩa
quốc tế vô sản" (13, tr.73).
Suốt trong những năm tháng từ sau Đại hội IV đến Đại hội VI, nhân dân
ta tiến hành xây dựng đất nước trong tình hình kinh tế xã hội vô cùng khó
khăn. Cách quản lý xã hội đã quen trong thời chiến trở nên lỗi thời khi hoà
bình lập lại, sự kéo dài cơ chế tập trung quan liêu bao cấp đã tạo nên
những trì trệ trên các lĩnh vực hoạt động xã hội, những vấn đề kinh tế - xã
hội của một nước sau chiến tranh v.v.. đã tạo ra tình trạng khủng hoảng kinh
tế - xã hội. Tất cả những điều đó ảnh hưởng đến và được phản ánh vào văn
nghệ; tâm trạng bi quan, hoang mang hoặc mất phương hướng xuất hiện,
có nhiều dấu hiệu sa sút của nhiều mặt hoạt động văn hoá và đạo đức xã
hội, có những biểu hiện tiêu cực trong sáng tác, lý luận, phê bình…
Đại hội VI, với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, nói đúng sự thật đã nhận
ra những thiếu sót, sai lầm, khuyết điểm sau 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã
hội trên cả nước trong hoàn cảnh mới. Đại hội đã vạch ra đường lối đổi
mới, đáp ứng yêu cầu bức thiết của dân tộc và thời đại. Về văn hoá văn
nghệ, Đảng xác định "tiếp tục phát triển và nâng cao chất lượng các hoạt
động văn hoá, văn học, nghệ thuật; xây dựng nền văn hoá, văn nghệ xã hội


17

chủ nghĩa đậm đà bản sắc dân tộc" (17, tr.222). Bên cạnh việc khẳng định
các tư tưởng văn nghệ trước đây, "Đảng yêu cầu các văn nghệ sĩ trau dồi ý
thức trách nhiệm công dân, chiến sĩ, thực hiện chức năng cao quý: tạo
nên những giá trị tinh thần, bồi dưỡng tâm hồn và tình cảm, xây dựng nhân
cách và bản lĩnh các thế hệ công dân, xây dựng môi trường đạo đức trong
xã hội" (17, tr.130).
Thực hiện "quyết tâm đổi mới công tác lãnh đạo của Đảng theo tinh thần
cách mạng và khoa học' (17, tr.209) của Đại hội VI, Bộ Chính trị đã ra Nghị

quyết về "Đổi mới và nâng cao trình độ lãnh đạo, quản lý văn học, nghệ
thuật và văn hoá phát triển lên một bước mới" (Nghị quyết 05-NQ/TW ngày
28-11-1987). Nghị quyết đã đánh giá một cách toàn diện, đúng đắn về tình
hình văn nghệ từ sau Cách mạng tháng Tám đến 1987 và các thành tựu,
thiếu sót trên các mặt lãnh đạo, quản lý, sáng tác, lý luận phê bình… Nghị
quết đã làm rõ hơn nhiều vấn đề lý luận về vai trò, bản chất, nhiệm vụ của
văn hoá văn nghệ trong giai đoạn cách mạng mới. Những phương hướng
chỉ đạo có tính chiến lược, những chính sách lớn được nêu ra trong nghị
quyết, trong đó có việc đề ra phương hướng và một số biện pháp cụ thể
khắc phục những nhược điểm thiếu sót trong lãnh đạo và quản lý văn hoá
văn nghệ, "đã tạo điều kiện cho văn hoá, văn nghệ đạt nhiều thành tựu, đáp
ứng một phần nhu cầu hưởng thụ văn hoá của các tầng lớp nhân dân, đóng
góp tích cực vào sự nghiệp đổi mới" (19, tr.51).
Kế thừa và phát triển đường lối văn nghệ nhiều năm trước, Đại hội VIII
tiếp tục xác định "xây dựng nền văn hóa mới, tạo ra một đời sống tinh
thần cao đẹp, phong phú và đa dạng, có nội dung nhân đạo, dân chủ, tiến
bộ. Phát huy vai trò văn hoá, nghệ thuật trong việc nuôi dưỡng, nâng cao
tâm hồn Việt Nam" (11, tr.9).


18

Sau 6 năm thực hiện nghị quyết 05 của Bộ Chính trị, gần 2 năm thực
hiện nghị quyết Đại hội VII, Đảng lại có nghị quyết "Về một số nhiệm vụ văn
hoá, văn nghệ những năm trước mắt" (số 04, ngày 14-1-1993). Nghị quyết
trong khi khẳng định những quan điểm đổi mới có tính nguyên tắc của Đảng
trên lĩnh vực văn hoá văn nghệ đã chỉ ra một số nhược điểm của nghị quyết
05, những thiếu sót chung quanh việc phổ biến và thực hiện nghị quyết 05.
Những tư tưởng chỉ đạo và những biện pháp thực hiện đối với văn hoá văn
nghệ nước nhà trong tình hình mới đang được nghiên cứu triển khai

trong thực tế.
Nhìn tổng quát, có thể thấy rằng: trong các văn kiện Đại hội, trong các
bức thư Trung ương gửi các Hội nghị văn hoá, các Đại hội văn nghệ toàn
quốc, các bài phát biểu của các nhà lãnh đạo Đảng và Nhà nước ta trước
sau đều thể hiện Đảng ta luôn xem văn hoá văn nghệ là bộ phận khăng
khít của sự nghiệp cách mạng do Đảng lãnh đạo, coi văn hoá văn nghệ
là một mặt trận và văn nghệ sĩ là chiến sĩ trên mặt trận ấy; luôn luôn
nhất quán trong xây dựng một nền văn hoá đậm đà bản sắc dân tộc,
luôn luôn coi trọng xây dựng đời sống văn hoá cơ sở, phong trào văn hoá
quần chúng.
Đồng thời, trong từng giai đoạn, mỗi khi tình hình thực tiễn đặt ra những
vấn đề mới thì Đảng lại kịp thời có những điều chỉnh nhận thức lý luận
tương ứng. Phân tích những điều chỉnh nhận thức lý luận của đảng về văn
hoá văn nghệ từ sau Đại hội VI đến nay sẽ thấy được sự đổi mới và sự cần
thiết tiếp tục đổi mới của Đảng trong lãnh đạo văn hoá văn nghệ.
1. "Văn nghệ phục vụ chính trị" và "văn nghệ gắn bó với hai nhiệm
vụ chiến lược: gắn bó với đời sống nhân dân…"


19

Văn hoá luôn luôn vận động, không ngừng vận động. Các giá trị văn hoá
dù rất cao đẹp của thế hệ này, của thời đại này cũng không thể đáp ứng
hoàn toàn cho nhu cầu của cuộc sống mới ở thế hệ sau, thời đại sau. Từ
thế hệ này sang thế hệ khác, từ thời đại này đến thời đại kia đều có sự kế
thừa, điều chỉnh và phát huy các giá trị từng có để phù hợp với môi trường
và điều kiện đổi mới.
Sự nghiệp lãnh đạo văn hoá văn nghệ của Đảng ta đã và vẫn đặt ra sự
cần thiết phải điều chỉnh, bổ sung, phát triển lý luận về văn hoá. Khi mà
hoàn cảnh lịch sử xã hội đã khác xưa thì nhiệm vụ của văn hoá cũng không

còn như trước.
Trong từng thời kỳ lịch sử, những sự kiện chính trị - xã hội quan trọng
bao giờ cũng là nội dung cơ bản của ý thức xã hội, chi phối tư duy xã hội và
từng cá nhân công dân - nghệ sĩ, là tiền đề và là cơ sở cho tư duy nghệ
thuật.
Trong những năm tháng chiến đấu để giải phóng và bảo vệ Tổ quốc, ý
thức tất cả cho tiền tuyến, tất cả để chiến thắng, tất cả vì độc lập tự do đã
trở thành nhịp đập, hơi thở, tthành mệnh lệnh đối với tất cả mọi người Việt
Nam yêu nước. Cả nước hoạt động dưới sự chi phối khắc nghiệt của quy
luật chiến tranh. Cái bất bình thường của chiến tranh được chấp nhận cả
trong đời sống thường ngày cũng như trong sản xuất và công tác. Khi "cả
nước lên đường xao xuyến bờ tre hồi trống giục", khi toàn dân lao vào cuộc
chiến đấu sinh tử với kẻ thù để giữ nước và giành lại toàn vẹn đất nước thì
độc lập dân tộc là đỉnh cao nhất định hướng cho mọi hoạt động sáng tạo.
Sáng tác về cuộc chiến đấu vì độc lập, tự do của dân tộc đã là cảm hứng
chủ dạo của mọi nghệ sĩ - chiến sĩ. Nhu cầu lớn nhất lúc đó là cổ vũ con
người vượt qua trăm ngàn khó khăn để chiến đấu và giành chiến thắng.


20

Phản ánh, tái tạo những hình tượng nghệ thuật cao đẹp nhằm cổ vũ quân
dân ta trong cuộc kháng chiến, đó là nhiệm vụ lịch sử cũng là nhu cầu, là
lương tâm, tình cảm của người nghệ sĩ gắn bó tha thiết và hiểu biết sâu sắc
cuộc sống chiến đấu và sản xuất của nhân dân. "Với thành tựu đã đạt được
chủ yếu trong việc phản ánh hai cuộc kháng chiến vĩ đại của dân tộc, văn
học nghệ thuật nước ta xứng đáng đứng vào hàng ngũ tiên phong của
những nền văn học, nghệ thuật chống đế quốc trong thời đại ngày nay" (9,
tr.121.
Vị trí tiên phong của nền văn học nghệ thuật mà Đảng ta đánh giá, trước

hết là sự đánh giá về tính chiến đấu, tinh thần cách mạng, ý thức về nghĩa
vụ, trách nhiệm và lương tâm của các thế hệ văn nghệ sĩ Việt Nam, những
người đã góp phần phản ánh chân thật và hùng hồn chủ nghĩa anh hùng
cách mạng của quân dân Việt Nam trong kháng chiến. Quý giá biết bao
những nghệ sĩ tài năng ý thức sâu sắc về trách nhiệm của mình có mặt ở
các mũi nhọn của cuộc đấu tranh… Lịch sử nên văn nghệ sĩ Việt Nam mãi
mãi khắc ghi những chiến công - sáng tạo của những văn nghệ sĩ - chiến sĩ
hào hứng ra mặt trận, có người đã anh dũng hy sinh như một người lính
chân chính; mãi mãi không quên những xưởng nghệ thuật sơn mài lập ngay
trong căn cứ cách mạng, những đoàn kịch nhỏ, những đội văn công, chiếu
bóng phục vụ lưu động trên trận địa, trong chiến hào, dưới địa đạo…, và cả
những cuốn sách được mang trong ba lô chiến sĩ ra tuyến đầu Tổ quốc đến
với giải phóng quân v.v.. Sẽ còn lưu giữ mãi những bút danh của những
nghệ sĩ mà cuộc đời sáng tác đi qua hai cuộc trường chinh của dân tộc và
mang những tên khác nhau: Bùi Đức ái và Anh Đức, Lê Khâm và Phan Tứ,
Lưu Hữu Phước và Huỳnh Minh Siêng v.v…


21

Song, hiện thực cách mạng qua hai cuộc kháng chiến còn phải được
tiếp tục khám phá trên một trình độ tư tưởng và nghệ thuật mới, cao hơn,
để có thể tái tạo một cách đầy đủ hơn chiều sâu ý nghĩa, sự vĩ đại và những
hy sinh to lớn của quân và dân ta; để từ đó có được những tác phẩm thực
sự xứng đáng với tầm vóc hai cuộc kháng chiến thần thánh, đủ sức lay
động lòng người, bồi dưỡng nâng cao tâm hồn, nhân cách của công chúng
hôm nay và các thế hệ công chúng mai sau.
Văn hoá văn nghệ trước đây thường được nhấn mạnh, chú trọng trước
hết ở khía cạnh là công cụ giáo dục và tuyên truyền tư tưởng; văn hoá
được đặt vào phạm trù tư tưởng. Điều đó đúng, bởi văn hoá bao giờ cũng là

một trong những biểu hiện quan trọng nhất của hệ ý thức tư tưởng của một
chế độ xã hội nhất định. Nhưng xem văn hoá như là một mặt của công tác
tuyên huấn, hình thành một nếp tư duy với ý tưởng văn hoá chỉ là một số
công tác có ý nghĩa tuyên truyền chính trị hoặc chỉ là chuyện "cờ, đèn, kèn,
trống" thì đó là chưa thật sự nhận thức đầy đủ và văn hoá.
Nhận thức đó đã dẫn đến việc sử dụng văn nghệ như là một công cụ
phục vụ cho mục đích tuyên truyền chính trị, nhìn nhận tác phẩm nghệ thuật
một chiêu từ chính trị, dẫn đến can thiệp không thích hợp vào quá trình
sáng tạo nghệ thuật: quan tâm đến đề tài hơn đối tượng, yêu cầu phản ánh
hiện thực và con người trên cơ sở bám sát chính trị với cách "phục vụ
chính sách", "phục vụ kịp thời", khoanh vùng đề tài, hướng dẫn suy tư trong
sáng tạo nghệ thuật. Đây là một hạn chế trong lãnh đạo văn hoá văn nghệ
mà ngay từ năm 1957, Đảng đã tự phê bình: "Đảng Lao động Việt Nam
nhận rằng có một số cán bộ chính trị của Đảng can thiệp vào việc lựa chọn
chủ đề, hình thức và cá tính văn nghệ sĩ" (39, tr.217).


22

Hiểu "Văn nghệ phục vụ chính trị"(1), "Văn nghệ phục tùng chính trị"(2)
một cách giản đơn, thô cứng đã làm cho văn nghệ chỉ tập trung khai thác
những vấn đề trực tiếp liên quan đến nhiệm vụ trước mắt, đến việc tuyên
truyền các chủ trương chính sách một cách khô khan, công thức, đến việc
ca ngợi một chiều và thuyết minh giản đơn cho một tư tưởng vô hình trung
đã tầm thường hoá văn nghệ, đã làm nghèo đi bức tranh nghệ thuật, làm
văn hoá nghệ thuật thiếu sức sống tự nhiên của nó.
Từ Đại hội VI, chúng ta đã thấy xuất hiện trong văn kiện những dòng
"Văn học nghệ thuật phải không ngừng nâng cao tính đảng và tính nhân
dân, gắn bó với hai nhiệm vụ chiến lược"(17, tr.130).
Không nói văn nghệ phục vụ chính trị mà nói văn nghệ gắn bó với hai

nhiệm vụ chiến lược, với đời sống nhân dân và sự nghiệp cách mạng do
Đảng lãnh đạo vừa tránh tạo nên sự nhìn nhận giản đơn văn nghệ chỉ là
công cụ của công tác tư tưởng, coi văn nghệ chỉ như là vũ khí tuyên truyền
của chính trị, không thấy hết những đặc trưng phản ánh và tham gia vào đời
sống xã hội của nghệ thuật, vừa vẫn thống nhất với việc Đảng và Nhà nước
ta xem văn nghệ là bộ phận khăng khít của cách mạng xã hội chủ nghĩa
trong công cuộc đổi mới.
2. Nâng cao trình dộ thẩm mỹ và nâng cao mức hưởng thụ văn hoá
của nhân dân.
Cùng với nhu cầu hiểu biết, con người luôn có nhu cầu hướng tới cái
đẹp. Đúng là nhân tố hàng đầu của văn hoá là sự hiểu biết song lịch sử
cũng cho thấy mỗi bước tiến của xã hội là một bước con người vươn tới cái
đep, "nhào nặn hiện thực theo quy luật của cái đẹp" (Mác). Chính nhu cầu
và khả năng vươn tới cái đẹp là một trong những động lực giúp con người


23

tạo nên những tiến bộ về vật chất và tinh thần trong cuộc sống, cũng như
phát triển nhận thức và trí tuệ là một động lực quan trọng thúc đẩy kinh tế,
xã hội phát triển.
Đường lối văn hoá văn nghệ của Đảng ta luôn luôn thể hiện sự coi trọng
bản chất xã hội và đặc trưng của nghệ thuật, tôn trọng tính tư tưởng cũng
như tính nghệ thuật, chú trọng đến chức năng giáo dục, nhận thức cũng
như chức năng thẩm mỹ. Báo cáo chính trị của Ban chấp hành trung ương
Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ III đặt yêu cầu: "Phải không
ngừng nâng cao tính tư tưởng và tính nghệ thuật của tác phẩm văn nghệ
làm cho các tác phẩm đó trở thành những vũ khí sắc bén trong việc xã hội
con người mới về tư tưởng và tình cảm” "góp phần giáo dục và động viên
nhân dân đấu tranh cho cách mạng xã hội chủ nghĩa và cho sự nghiệp

thống nhất nước nhà" (16, tr.75).
Trong khi nhấn mạnh chức năng nhận thức, chức năng giáo dục, khẳng
định nguyên tắc cơ bản là văn hoá văn nghệ chịu sự lãnh đạo của Đảng,
Đảng ta không quy các hoạt động văn nghệ vào khuôn với các hoạt động
khác.
Coi trọng chức năng thẩm mỹ của văn hoá văn nghệ là biểu hiện sự coi
trọng con người, do chỗ quan tâm đến nhu cầu nhân bản nhất của nó. "Cảm
xúc về cái đẹp là một điều kiện làm nên phẩm giá con người. Phải có nó con
người mới có trí tuệ, phải có nó nhà bác học mới cất mình lên tới những tư
tưởng tầm cỡ thế giới, mới hiểu được bản chất và các hiện tượng trong tính
thống nhất của chúng; phải có nó người cộng sản mới có thể hiến dâng cho
Tổ quốc cả những hoài vọng cá nhân lẫn những lợi ích riêng tư của mình,


24

phải có nó người ta mới không thể quỵ ngã dưới sức đè nặng trĩu của cuộc
đời và làm nên những chiến công" (29, tr.18).
Phản ánh đời sống bằng hình tượng nghệ thuật, theo một lý tưởng thẩm
mỹ nhất định là một "đặc quyền" của văn hoá nghệ thuật trong việc tham gia
vào sự nghiệp to lớn của con người là cải tạo cuộc sống. Con người đến
với văn hoá nghệ thuật trước hết để được hưởng cái hay, cái đẹp, được vui
sướng được giải trí cho đời đỡ buồn, cho cuộc sống tươi vui hơn. Tác phẩm
nghệ thuật chỉ có thể là hay, là đẹp mới hấp dẫn người đọc, người nghe,
người xem, mới có dịp nói được với công chúng nghệ thuật điều muốn nói.
Khác đi, người ta sẽ không đọc, không nghe, không xem mà chẳng thể nào
bắt buộc nổi.
Ngay từ năm 1949, Hồ Chủ Tịch đã viết: "Văn nhân, nghệ sĩ thi đua
nhau sáng tác cho hay, cho nhiều để cổ động nhân dân, tuyên truyền ra thế
giới, và để lưu lại cho đời sau những sự tích vĩ đại trong cuộc kháng chiến

vĩ đại của dân tộc ta" (6, tr.348). Một lần khác, khi nói đến trách nhiệm của
văn nghệ trong sự nghiệp chung Người cũng yêu cầu: "miêu tả cho hay,
cho chân thật và cho hùng hồn" bằng văn, bằng thơ, bằng vẽ và bằng các
nghệ thuật khác những người, những việc vô cùng anh dũng, oanh liệt trong
phong trào thi đua yêu nước của đồng bào miền Bắc và cuộc đấu tranh yêu
nước của đồng bào miền Nam.
Yêu cầu thể hiện cho hay cùng với yêu cầu thể hiện cho chân thật hiện
thực đời sống là coi trọng bản chất và đặc trưng của nghệ thuật.
Đời sống xã hội hết sức rộng lớn và phong phú, cũng như sự vận động
của vật chất là cô cùng đa dạng. Hoạt động sáng tạo của con người thật
muôn màu muôn vẻ. Mỗi lĩnh vực của hoạt động văn hoá có những đặc thù


25

và sức hấp dẫn riêng. Đến với văn nghệ, công chúng muốn đựoc đến thế
giới của các hình tượng nghệ thuật. Qua thế giới hình tượng nghệ thuật,
công chúng văn nghệ được bước vào thế giới muôn màu của cái đẹp, trong
đó cuộc sống hiện ra với những gì là chắt lọc nhất, tinh tuý nhất; cái chắt lọc
và tinh tuý của tất cả những gì vốn có ở đời. Họ suy ngẫm, rung cảm, có khi
là day dứt trước các hình tượng nghệ thuật; tư tưởng tình cảm như được
thanh lọc. "Đặc tính của văn nghệ là nó không thuyết lý, giảng giải như triết
học, chính trị, giáo dục, nó không tổng kết đại cương cuộc sống thực tại cụ
thể thành cuộc sống trừu tượng mà nó thể hiện đời sống cảm xúc để dạy
cách sống" (63, tr.49).
Tác động của văn học nghệ thuật vào đời sống tinh thần của con người
là rất sâu xa. Hơn tất cả mọi lĩnh vực trong văn hoá, văn học nghệ thuật có
khả năng bộc lộ sâu xa nhất, tinh tế nhất tâm hồn và những khát vọng về
các giá trị Chân- Thiện - Mỹ. "Không hình thái tư tưởng nào có thể thay thế
được văn hoá và nghệ thuật trong việc xây dựng tình cảm lành mạnh, tác

động sâu sắc vào việc đổi mới nếp nghĩ, nếp sống của con người" (17,
tr.129-130). Sự tác động đó là qua hình tượng; tác phẩm đến được với công
chúng bằng (và chỉ hiệu quả một khi bằng) con đường của nhận thức thẩm
mỹ, của tình cảm thẩm mỹ.
Trình độ của công chúng nghệ thuật ngày càng được nâng cao. Nhu cầu
văn hoá và năng lực cảm thụ nghệ thuật của công chúng văn nghệ và thự
sự cần thiết thích ứng với nhu cầu đó. Người nói: "Chớ viết khô khan quá.
Phải viết cho văn chương. Vì ngày trước khác, người đọc chỉ muốn biết
những việc thật. Còn bây giờ khác, sinh hoạt đã cao hơn, người ta thấy
hay, thấy lạ, thấy văn chương thì mới thích đọc"(7, tr.47).


×