Tải bản đầy đủ (.doc) (16 trang)

TIỂU LUẬN lê NIN nói về TÍNH lợi ÍCH của CHỦ NGHĨA tư bản NHÀ nước ý NGHĨA đối với VIỆC NÂNG CAO HIỆU QUẢ THÀNH PHẦN KINH tế này ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (124.63 KB, 16 trang )

1

LÊNIN NÓI VỀ TÍNH ÍCH LỢI CỦACHỦ NGHĨA
TƯ BẢN NHÀ NƯỚC. Ý NGHĨA CỦA NÓ VỚI VIỆC NÂNG CAO
HIỆU QUẢ SỬ DỤNG THÀNH PHẦN KINH TẾ NÀY Ở NƯỚC TA

Lê nin là người mác xít đầu tiên đã có công nghiên cứu sâu sắc vấn đề
chủ nghĩa tư bản nhà nước, xây dựng nên những nền tảng lý luận về chủ nghĩa tư
bản nhà nước trong điều kiện cách mạng vô sản thành công và đã áp dụng lý
luận này vào nước Nga sau thời kỳ cộng sản thời chiến.
Lý luận về chủ nghĩa tư bản nhà nước của Lênin được trình bày ở nhiều
bài viết, tác phẩm, song tập trung và rõ nét nhất là trong: “Chính sách kinh tế
mới” (NEP). Ở tác phẩm này, Lênin đề cập, phân tích nhiều nội dung, trong đó,
Ông đặc biệt nhấn mạnh đến tính ích lợi của việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà
nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội.
Lịch sử đã, đang và sẽ có nhiều thay đổi lớn, nhưng tư tưởng này của
Lênin vẫn còn nguyên giá trị – một chỉ dẫn hết sức quan trọng cho những người
cộng sản. Vậy, chủ nghĩa tư bản nhà nước được hiểu như thế nào? sử dụng nó
trong thời kỳ quá độ sẽ mang lại những ích lợi gì? nghiên cứu vấn đề này có ý
nghĩa gì trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động của thành phần kinh tế chủ
nghĩa tư bản nhà nước ở nước ta hiện nay? Dưới đây tác giả lần lượt làm rõ
những vấn đề đặt ra.
Chúng ta biết rằng, trước và ngay trong quá trình tiến hành đại hội X
Đảng Cộng sản (b) Nga, đã có nhiều ý kiến phản đối của những người cộng sản
và của nông dân Nga đối với chính sách phát triển chủ nghĩa tư bản nhà nước và
coi nó như một thành phần kinh tế trong nền kinh tế quá độ. Chẳng hạn,
Prêôbragienxki cho rằng, “Chủ nghĩa tư bản nhà nước là chủ nghĩa tư bản, và ta
có thể và cần hiểu như thế thôi”. Còn nông dân thì chế nhạo: các anh đã tống cổ


2



bọn tư bản nói tiếng Nga, giờ đây lại rước tư bản nói tiếng Anh và tiếng Pháp
vào đất nước.
Trước tình hình ấy, Lênin đã thuyết phục mọi người rằng, đó là cách hiểu
kinh viện, là một sai lầm vì rơi vào bệnh trí thức và chủ nghĩa tự do. Lênin chỉ ra
rằng, chủ nghĩa tư bản nhà nước ở trong một nhà nước mà chính quyền thuộc về
tư bản và chủ nghĩa tư bản nhà nước ở trong một nhà nước vô sản, đó là hai khái
niệm hoàn toàn khác nhau. Nó là một khái niệm mới, một “hiện tượng mới” mà
cho tới nay không có lấy một cuốn sách nào nói đến. Ngay cả đến Mác “cũng
không viết một lời nào về vấn đề đó và người mất đi không để lại một lời lẽ nào
rõ rệt, một chỉ dẫn nào chắc chắn về vấn đề ấy cả. Vì thế, ngày nay chúng ta phải
tự tìm lấy lối thoát”. Nó là một thứ chưa hề có ngay cả trong lý thuyết và danh từ
này hoàn toàn mới lạ trong điều kiện chuyên chính công nông.
Lênin còn chỉ rõ, chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện nhà nước vô
sản không những là một hiện tượng mới, mà còn là “một điều hết sức bất ngờ”,
“không ai dự kiến”. Lênin lý giải, đó là vì, không ai ngờ rằng giai cấp vô sản lại
nắm được chính quyền ở một nước chậm tiến nhất và do đó cái hy vọng có thể tổ
chức nền sản xuất lớn và phân phối trực tiếp cho nông dân vì điều kiện văn hóa
không cho phép đã trở thành điều không tưởng. Điều đó buộc những người cộng
sản Nga phải viện đến chủ nghĩa tư bản nhà nước…chủ nghĩa tư bản nhà nước là
một sự cứu nguy đối với chúng ta”, mặc dù nó là cái mà người ta vẫn cho là
“quái đản và không tốt”.
Sở dĩ trong giai đoạn đầu của sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở
Nga, giai cấp vô sản phải sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước với ý nghĩa là một
nấc thang không thể thiếu, theo Lênin là vì:
Thứ nhất, trong giai đoạn này, tất yếu còn tồn tại việc tự do trao đổi trong
đó có trao đổi hàng hóa giữa những người sở hữu nhỏ. Thứ trao đổi hàng hóa ấy


3


không thể không dẫn đến chỗ phân hóa những người sản xuất hàng hóa ra thành
kẻ sở hữu tư bản và người sở hữu sức lao động, nghĩa là xuất hiện lại chế độ tư
bản chủ nghĩa. Cho nên sự phát triển trao đổi tư nhân, tức là phát triển chủ nghĩa
tư bản, một sự xuất hiện không thể tránh khỏi khi có hàng triệu người sản xuất
nhỏ. Lênin chỉ rõ, tự do buôn bán là “khôi phục chủ nghĩa tư bản trên một mức
độ lớn”, là tự do của chủ nghĩa tư bản. Với chính sách kinh tế mới, chủ nghĩa tư
bản sẽ nảy nở ở những nơi mà trước đây, chúng không thể nảy nở được. Nhưng
“nếu tìm cách ngăn cấm và chặn đứng sự phát triển nó thì sẽ là một sự dại dột và
tự phát”.Từ đó thấy được sự cần thiết phải dung nạp chủ nghĩa tư bản, vì nó cần
cho đông đảo quần chúng nhân dân và những người sản xuất nhỏ để thỏa mãn
nhu cầu. Muốn không thay đổi bản chất của mình, nhà nước vô sản chỉ có thể
thừa nhận cho chủ nghĩa tư bản được phát triển trong một chừng mực nào đó và
chỉ với điều kiện là thương nghiệp tư nhân và tư bản tư nhân phải phục tùng sự
điều tiết của nhà nước, phải tìm cách hướng chúng vào con đường của chủ nghĩa
tư bản nhà nước bằng “một tổ chức của nhà nước và những biện pháp có tính
chất nhà nước từ bên trên”.
Như vậy, trong điều kiện nhà nước vô sản, tự do trao đổi, mua bán tất
yếu dẫn đến sự phục hồi của chủ nghĩa tư bản dưới hình thức chủ yếu là chủ
nghĩa tư bản nhà nước. Lênin khẳng định: “ở chỗ nào có những thành phần tự do
buôn bán và những thành phần tư bản chủ nghĩa nói chung, thì ở đó có chủ nghĩa
tư bản nhà nước dưới hình thức này hay hình thức khác, ở trình độ này hay trình
độ nọ”.
Thứ hai, trong điều kiện một nước mà chủ nghĩa tư bản tiểu tư sản chiếm
ưu thế, hàng hóa chỉ có thể có được từ nông dân, từ nông nghiệp. Và như vậy,
chỉ có những nông sản hàng hóa này trao đổi với nông sản hàng hóa khác, điều
đó sẽ không kích thích nông dân, nông nghiệp phát triển. Phải có những hàng


4


hóa mà nông dân cần. Mà muốn có những hàng hóa đó phải dựa vào sự phát
triển của thủ công nghiệp và công nghiệp. Nhưng với một đất nước bị tàn phá
kiệt quệ sau 7 năm chiến tranh, tuyệt đại đa số nhân dân là nông dân cũng bị phá
sản, do đó sẽ không giải quyết được ngay vấn đề này “nếu không có sự giúp đỡ
của tư bản”. Lênin nói rõ, “điều đó, chúng ta không thể tự mình làm được, nếu
không có sự giúp đỡ của tư bản nước ngoài. Người nào nếu không chìm đắm
trong ảo tưởng mà nhìn vào thực tế, thì phải hiểu rõ điều đó”. Theo Lênin cần
phải “du nhập” chủ nghĩa tư bản từ bên ngoài bằng những hợp đồng buôn bán
với các nước tư bản lớn, bằng chính sách tô nhượng, tóm lại bằng những hình
thức khác nhau của chủ nghĩa tư bản nhà nước.
Thực chất ở đây, Lênin muốn chỉ ra cái cơ sở tồn tại của chủ nghĩa tư bản
nhà nước đó là, trình độ thấp kém của lực lượng sản xuất xã hội và những ích lợi
lịch sử của việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước trong quá trình phát triển
kinh tế xã hội. Với sự tiếp cận như vậy, Lênin cho rằng: “việc chuyển sang chủ
nghĩa cộng sản cần thiết phải có một loạt những bước quá độ như chủ nghĩa tư
bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội. Trong một nước tiểu nông, trước hết phải bắc
những chiếc cầu nhỏ vững chắc, đi xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước, tiến
lên chủ nghĩa xã hội”.
Từ sự phân tích điều kiện thực tế của nước Nga và bằng nhiều luận cứ,
Lênin đã khẳng định, chủ nghĩa tư bản nhà nước dưới chính quyền Xô Viết là
điều cần thiết và có lợi, chẳng những “không đáng sợ, mà đáng mong đợi” đến
mức, nếu không nói đến nó thì “đó không phải vì chúng ta mạnh và thông minh,
mà vì chúng ta kém và dốt”.
Vậy, những cái lợi đối với cách mạng và giai cấp công nhân khi sử dụng
chủ nghĩa tư bản nhà nước là gì? Theo Lê nin, cần phải nhìn thẳng vào vấn đề:
chủ nghĩa tư bản nhà nước không phải là chính sách “độc thoại”, “cửa quyền”.


5


Bản thân chủ nghĩa tư bản nhà nước chính là sự “kết hợp, liên hợp, phối hợp
giữa nhà nước Xô Viết, nền chuyên chính vô sản với chủ nghĩa tư bản”; là “chủ
nghĩa tư bản do nhà nước vô sản kiểm soát và điều tiết sự phát triển”; là “chính
quyền nhà nước trực tiếp khống chế những xí nghiệp tư bản chủ nghĩa”, qua đó
mà huy động các nhân tố vật chất kỹ thuật của cả chủ nghĩa xã hội lẫn chủ nghĩa
tư bản, cả ở trong nước lẫn ngoài nước để phát triển kinh tế và xã hội, mà trước
hết là tăng nhanh trình độ của lực lượng sản xuất; chủ nghĩa tư bản nhà nước
được xem là “mắt xích trung gian giữa nền tiểu sản xuất và chủ nghĩa xã hội, là
phương tiện, con đường, phương pháp, phương thức để tăng cường lực lượng
sản xuất”; là “công cụ để gắn kết nền sản xuất nhỏ lại, khắc phục tình trạng
phân tán và đấu tranh chống tính tự phát tư bản chủ nghĩa”. Với nghĩa đó, trong
điều kiện mới đi vào xây dựng chủ nghĩa xã hội, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà
nước sẽ mang lại rất nhiều những ích lợi: có thể cải thiện được nhanh chóng tình
trạng sản xuất, đời sống của công nhân và nông dân, nền đại công nghiệp sẽ
được khôi phục. Lênin khẳng định, đây là cái lợi cơ bản, cấp thiết nhất của giai
cấp vô sản khi mới giành được chính quyền. Rõ ràng, sự đánh giá này là một
điều hoàn toàn mới mẻ mà trong lịch sử chưa có nhà lý luận nào nêu lên được.
Lênin luận giải, vì nền công nghiệp lớn, hiện đại chưa được xây dựng,
các cơ sở kinh tế nhỏ không nhận được sự giúp đỡ hỗ trợ của công nghiệp lớn,
chúng không bị sức hút nào cả, nên kinh tế nhỏ vẫn tồn tại một cách độc lập
trong chủ nghĩa xã hội. Trong điều kiện ấy, chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ là sự
liên hợp nền sản xuất nhỏ lại, bởi vì chủ nghĩa tư bản là xu hướng và là kết quả
phát triển của nền sản xuất nhỏ. Lênin viết: “tư bản làm cho sản xuất nhỏ liên
hợp lại, tư bản sinh ra từ nền sản xuất nhỏ”. Còn đối với nông nghiệp, Lênin cho
rằng, sự phát triển của chủ nghĩa tư bản do nhà nước vô sản kiểm soát và điều
tiết có thể đẩy nhanh sự phát triển ngay tức khắc nền nông nghiệp. Nhờ tăng


6


nhanh lực lượng sản xuất trong nông nghiệp mà ổn định xã hội, thoát ra khỏi
khủng hoẳng, thoát ra khỏi tình cảnh giảm sút “tín nhiệm của nông dân đối với
chính quyền Xô Viết, khắc phục được tình trạng trộm cắp”.
Xét về trình độ phát triển thì chủ nghĩa tư bản nhà nước về kinh tế cao
hơn rất nhiều so với kinh tế tiểu nông, về cả số và chất lượng, nhất là khối lượng
sản phẩm làm ra. Do vậy, nếu phát triển được chủ nghĩa tư bản nhà nước thì
chính quyền Xô Viết sẽ tăng cường được “nền đại sản xuất đối lập với nền tiểu
sản xuất, nền sản xuất tiên tiến đối lập với nền sản xuất lạc hậu, nền sản xuất cơ
khí hóa đối lập với nền sản xuất thủ công, nó tăng thêm sản phẩm mà nó thu
được của đại công nghiệp, củng cố được những quan hệ kinh tế do nhà nước điều
chỉnh, đối lập với những quan hệ kinh tế tiểu tư sản vô chính phủ”.
Chủ nghĩa tư bản nhà nước, vì lẽ đó, trở thành công cụ để đấu tranh
chống tính tự phát tư bản chủ nghĩa, tính tự phát tiểu tư sản, chống tệ đầu cơ,
được coi là kẻ thù chính ở một nước tiểu nông tiến lên chủ nghĩa xã hội. Không
khắc phục được những vấn đề này thì không thể nói tới chủ nghĩa xã hội. Lênin
đã bác bỏ luận điểm cho rằng, cuộc đấu tranh diễn ra chủ yếu là giữa chủ nghĩa
tư bản nhà nước và chủ nghĩa xã hội. Theo Lênin, chính là giai cấp tiểu tư sản
cộng với chủ nghĩa tư bản tư nhân cùng nhau đấu tranh chống lại cả chủ nghĩa tư
bản nhà nước lẫn chủ nghĩa xã hội. Nó chống lại bất cứ sự can thiệp, kiểm kê và
kiểm soát nào của nhà nước, dù là nhà nước tư bản hay xã hội chủ nghĩa. Không
hiểu được vấn đề này thì sẽ có thể dẫn tới những sai lầm về kinh tế.
Chủ nghĩa tư bản nhà nước là một bước tiến lớn, nhờ nó mà chiến thắng
được tình trạng hỗn độn, tình trạng suy sụp về kinh tế, hiện tượng lỏng lẻo,
những tập quán, những thói quen, địa vị kinh tế của giai cấp ấy (giai cấp tư sản)
là cái quan trọng hơn hết – Lênin đã chỉ ra như vậy. Bởi Ông cho rằng, việc để
tình trạng vô chính phủ của những kẻ tiểu tư hữu tiếp tục tồn tại trong xã hội là


7


một mối nguy hại, đáng sợ nhất, nó sẽ đưa đất nước đến chỗ diệt vong. Lênin
dẫn chứng trong lịch sử đó là: bọn Napôlêông và Cavainhắc lật đổ cách mạng
hồi trước chính là do chúng phát triển trên cơ sở tiểu tư hữu. Do vậy, nếu khắc
phục được tình trạng hỗn độn, vô chính phủ đó thì “những con chủ bài đều nằm
trong tay công nhân và sẽ bảo đảm cho chủ nghĩa xã hội được củng cố”. Với ý
nghĩa ấy mà chủ nghĩa tư bản nhà nước sẽ đưa nước Nga lên chủ nghĩa xã hội
bằng con đường chắc chắn nhất.
Chủ nghĩa tư bản nhà nước còn là công cụ để khắc phục được “kẻ thù
chính trong nội bộ đất nước, kẻ thù của các biện pháp kinh tế của chính quyền
Xô Viết. Đó là bọn đầu cơ, bọn gian thương, bọn phá hoại độc quyền nhà nước.
Lênin cho rằng, không thể giải quyết vấn đề này bằng các biện pháp sử bắn hoặc
“những lời tuyên bố sấm sét”, bởi vì tiền đề kinh tế của bọn đầu cơ là tầng lớp
những kẻ tiểu tư hữu và chủ nghĩa tư bản tư nhân, có đại diện của mình trong
mỗi người tiểu tư sản. Thông qua việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, với
sự kiểm soát và điều tiết của nhà nước vô sản, những “kẻ thù” này sẽ được hạn
chế và dần dần mất đi. Đây là một điều có lợi cho chính quyền Xô viết, cho
những người dân lao động.
Không những chỉ có vậy, mà theo Lênin, chủ nghĩa tư bản nhà nước còn
được xem là công cụ đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu, và những lệch lạc
quan liêu chủ nghĩa. Khi nói tới thực chất của “chính sách kinh tế mới”, Lênin
đã đề cập đến nhiệm vụ “đấu tranh chống chủ nghĩa quan liêu và tác phong lề
mề”. Vì sao và thông qua chính sách kinh tế mới mà có thể thực hiện được
nhiệm vụ này? Lênin phân tích và chỉ ra nguồn gốc kinh tế của chủ nghĩa quan
liêu ở Nga: đó là tình trạng riêng rẽ, tình trạng phân tán của những người sản
xuất nhỏ, cảnh khốn cùng của họ, tình trạng không có đường xá, mù chữ, không
có trao đổi giữa nông nghiệp với công nghiệp, tình trạng thiếu mối quan hệ gắn


8


bó giữa công nghiệp và nông nghiệp.v.v. Theo đó, chủ nghĩa quan liêu chỉ mất đi
khi cơ sở kinh tế của nó không còn trên thực tế. Với tư cách là một nền sản xuất
lớn, có tính tổ chức hết sức chặt chẽ dưới sự kiểm soát của nhà nước vô sản, sử
dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước cùng với việc phát triển nền kinh tế hàng hóa, sẽ
là một trong những biện pháp hữu hiệu giải quyết có hiệu quả cái cơ sở kinh tế
ấy trong đời sống xã hội.
Một điều đáng quan tâm ở đây, theo Lênin là, thông qua chủ nghĩa tư bản
và chủ nghĩa tư bản nhà nước, mà giai cấp công nhân có thể học tập được cách
thức tổ chức và quản lý một nền sản xuất lớn. Lênin nghiêm túc chỉ ra rằng, khi
ấy, giai cấp vô sản Nga, so với bất cứ giai cấp vô sản ở các nước phát triển nào
khác là giai cấp tiên tiến hơn về chế độ chính trị của nước mình và về sức mạnh
của chính quyền công nông, nhưng lại lạc hậu hơn những nước lạc hậu nhất ở
Tây Âu về mặt tổ chức một chủ nghĩa tư bản nhà nước có quy củ, về trình độ văn
hóa, về mức độ chuẩn bị cho việc thực hiện chủ nghĩa xã hội trong lĩnh vực sản
xuất vật chất. Lênin phê phán luận điểm cho rằng, vì không có sự tương xứng đó
cho nên không cướp chính quyền. Lênin coi đó là luận điểm của hạng “người
trong vỏ ốc” không biết rằng, sẽ không bao giờ có và không thể có sự tương
xứng ấy trong sự phát triển của tự nhiên cũng như trong xã hội, mà chỉ có trải
qua hàng loạt lần làm thử…thì mới có thể xây dựng nên chủ nghĩa xã hội hoàn
chỉnh”. Chủ nghĩa tư bản nhà nước, nếu thực hiện được, sẽ giúp chính quyền Xô
Viết khắc phục được dần tình trạng lạc hậu ấy. Cũng qua đây mà học tập được
cách quản lý của “những người tổ chức thông minh và có kinh nghiệm” trong
những xí nghiệp hết sức to lớn thực sự đảm nhận được việc cung cấp sản phẩm
cho hàng chục triệu người. Lênin kêu gọi: “nhiệm vụ của chúng ta là học tập chủ
nghĩa tư bản nhà nước của người Đức, dốc hết sức ra bắt chước nó…bắt chước
con đường phát triển của Tây Âu đó”, và nếu “học được cách sắp đặt tổ chức sản


9


xuất quy mô toàn quốc, trên cơ sở chủ nghĩa tư bản nhà nước, thì khi ấy…sẽ bảo
đảm cho chủ nghĩa xã hội được củng cố”.
Điều này lại gợi cho chúng ta nhớ đến lời chỉ dẫn của Lênin trong tác
phẩm: “Những nhiệm vụ trước mắt của chính quyền Xô viết”, ở đó Ông đánh giá
rất cao phương pháp Tay lo, rằng, “nó bao hàm một sự tiến bộ lớn của khoa học,
nó phân tích một cách có hệ thống quá trình sản xuất và mở đường cho việc nâng
cao sức lao động của con người”. Từ đó Lê nin đã nhắc nhở: “chúng ta phải áp
dụng phương pháp Tay lo và nâng cao năng suất lao động theo kiểu khoa học
của người Mỹ trong cả nước Nga, kết hợp phương pháp ấy với việc giảm bớt
thời gian lao động, với việc sử dụng những phương pháp sản xuất và tổ chức lao
động mới mà không gây ra một thiệt hại nào đối với sức lao động của nhân dân
lao động”.
Chủ nghĩa tư bản nhà nước thông qua sự “du nhập” của tư bản từ bên
ngoài là hình thức du nhập tiến bộ kỹ thuật hiện đại; qua đó mà hy vọng có được
trình độ trang bị cao của chủ nghĩa tư bản. Nếu không lợi dụng kỹ thuật đó thì
không xây dựng tốt được cơ sở của nền đại sản xuất của chính quyền Xô Viết, và
lẽ đương nhiên, việc xây dựng chủ nghĩa xã hội sẽ trở nên rất khó khăn.
Cũng theo Lênin, chủ nghĩa tư bản nhà nước còn mang lại cái lợi là,
thông qua sự phát triển nó mà phục hồi được giai cấp công nhân. Nếu chủ nghĩa
tư bản được lợi thế, thì sản xuất công nghiệp cũng sẽ được tăng lên và giai cấp
vô sản cũng theo đó mà tăng lên nhanh. Nếu chủ nghĩa được khôi phục lại thì
cũng có nghĩa là sẽ khôi phục lại giai cấp vô sản và tạo ra được một giai cấp vô
sản ccông nghiệp, vì chiến tranh, vì bị phá nên đã bị mất hết tính giai cấp, nghĩa
là đã bị đẩy ra ngoài con đường tồn tại giai cấp của mình và không còn tồn tại
với tư cách là giai cấp vô sản nữa. Đôi khi về hình thức nó đã được coi là giai
cấp vô sản, nhưng nó không có gốc về kinh tế.


10


Lập luận này của Lênin là hoàn toàn chính xác, bởi giai cấp vô sản chính
là sản phẩm của nền đại công nghiệp, tồn tại gắn liền với sự tồn tại và phát triển
của công nghiệp. Chủ nghĩa tư bản đã đem tới sự phát triển của công nghiệp,
công nghiệp sinh ra giai cấp vô sản. Nhưng chính sự phát triển của công nghiệp,
sự lớn mạnh của giai cấp vô sản sẽ lại là nhân tố cơ bản để thủ tiêu đi giai cấp tư
sản và chế độ tư bản chủ nghĩa – giai cấp và chế độ bóc lột người cuối cùng
trong xã hội.
Luận giải trên của Lênin về những ích lợi khi sử dụng chủ nghĩa tư bản
nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội là hết sức sâu sắc, lôgích, có
cơ sở vững chắc – một quan điểm hoàn toàn mới mẻ trong lịch sử, thể hiện tư
duy sáng tạo của bậc thiên tài.
Những luận giải trên đây phản ánh những thay đổi căn bản trong quan
niệm của Lênin về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở một nước tiểu nông,
từ quan niệm “trực tiếp” dùng sắc lệnh của nhà nước vô sản, để tổ chức và phân
phối sản phẩm sang quan niệm “cần thiết phải có một loạt những bước quá độ
như chủ nghĩa tư bản nhà nước”. Tính đúng đắn của luận giải này đã được chính
thực tiễn sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước Nga chứng minh.
Sau khi đập tan bọn vũ trang can thiệp và kết thúc nội chiến, tình hình
kinh tế, chính trị, xã hội nước Nga rơi vào cảnh rất bi đát. Đất nước lâm vào
cuộc khủng hoẳng toàn diện trầm trọng. Sản xuất đình đốn, sản lượng nông
nghiệp chỉ còn 1/ 2, công nghiệp chỉ còn 1/ 7 so với trước chiến tranh, bội chi
ngân sách từ 31 tỷ rup năm 1918 đã tăng lên 21.937 tỷ rup vào năm 1923. Thiên
tai liên tiếp xảy ra làm cho lương thực ngày càng trở nên thiếu thốn, ruộng đất bị
bỏ hoang. Các tệ nạn xã hội, bạo loạn gia tăng chưa từng có. Đời sống của
người lao động vô cùng khó khăn, liên minh công nông đứng trước nguy cơ bị


11


tan vỡ, không ít quần chúng nông dân có tư tưởng chống lại chính quyền Xô
Viết. Nước Nga như “một người bị đánh gần chết”.
Qua kinh nghiệm thực tiễn, Lênin đã rút ra kết luận là không thể xây
dựng chủ nghĩa xã hội trên cơ sở cưỡng bức kinh tế, coi thường lợi ích của người
sản xuất cũng như phân phối bình quân. Người đã dũng cảm thừa nhận: “chúng
ta đã thất bại trong cái ý định dùng phương pháp “xung phong”, nghĩa là dùng
con đường ngắn nhất, nhanh nhất, trực tiếp nhất để thực hiện việc sản xuất và
phân phối theo nguyên tắc xã hội chủ nghĩa”.
Cuối năm 1922, Lênin đã quyết định chuyển sang thực hiện “Chính sách
kinh tế mới” (NEP). Thực chất của chính sách này là, thực hiện nền kinh tế nhiều
thành phần và cơ chế thị trường có sự điều tiết của nhà nước; sử dụng rộng rãi
chủ nghĩa tư bản nhà nước thông qua các hình thức như: tô nhượng, hợp tác xã,
đại lý uỷ thác, cho thuê, liên doanh liên kết…; mở cửa với bên ngoài cho các tư
bản đầu tư trực tiếp.
Sau 6 năm thực hiện “Chính sách kinh tế mới”, kinh tế xã hội của nước
Nga đã phục hồi và phát triển nhanh chóng. Trình độ của nền sản xuất xã hội
được nâng cao, tình trạng sản xuất nhỏ lẻ, manh mún được khắc phục, nông
nghiệp đã khôi phục ở mức trước chiến tranh, sản lượng công nghiệp tăng hai
lần; đời sống người lao động được cải thiện, xã hội dần đi vào ổn định, giai cấp
công nhân lớn mạnh cả về số lẫn chất lượng, khối liên minh công nông được
củng cố, sức mạnh của chính quyền Xô viết được tăng cường.
Nghiên cứu những vấn đề mà Lênin nêu ra trên đây cho chúng ta có thêm
những hiểu biết mới về sự ra đời và tồn tại của chủ nghĩa tư bản nhà nước. Có
thêm cơ sở để đấu tranh phê phán những quan điểm sai trái cho rằng, sử dụng
chủ nghĩa tư bản nhà nước là trở về với chế độ tư bản hoặc chủ nghĩa tư bản nhà
nước tồn tại gắn liền và là bộ phận của chủ nghĩa xã hội…


12


Những ích lợi của việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội mà Lênin chỉ ra, có một ý nghĩa rất quan trọng đối
với chúng ta – những người tiến hành xây dựng chủ nghĩa xã hội từ một điểm
xuất phát thấp, bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa.
Cần phải thấy được rằng, nếu nước Nga, với một nền kinh tế tương đối
phát triển – tuy Lênin vẫn coi đó là một nước tiểu nông – nhưng vẫn phải đi con
đường vòng xuyên qua chủ nghĩa tư bản nhà nước để đi lên chủ nghĩa xã hội, coi
đó là một tất yếu khách quan, thì đối với nước ta – một nước còn tiểu nông hơn
nước Nga, việc phải sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước để đến với chủ nghĩa xã
hội là cái còn tất yếu hơn cả đối với nước Nga. Vấn đề cơ bản đặt ra, là phải làm
thế nào để sử dụng nó một cách thực sự có hiệu quả. Không còn cách nào khác,
chúng ta phải trở lại với tư tưởng của Lênin.
Khi đề xuất và thực hành chính sách chủ nghĩa tư bản nhà nước, Lênin đã
chỉ rõ, chủ nghĩa tư bản nhà nước là thứ chủ nghĩa tư bản “phục tùng sự điều tiết
của nhà nước”. Do vậy, hiệu quả của sự điều tiêt ấy là do chính quyền nhà nước,
do mức độ trưởng thành của giai cấp công nhân và quần chúng nhân dân quyết
định. Tuy nhiên, xét về nguồn gốc của nó, chủ nghĩa tư bản là thứ chủ nghĩa tư
bản gắn liền với nhà nước, cho nên tính chất và kết cục của nó như thế nào, ích
lợi của nó đến đâu là phụ thuộc vào tính chất và khả năng điều tiết của nhà
nước ấy.
Chủ nghĩa tư bản nhà nước trong điều kiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội
từ một nước tiểu nông, là thứ tư bản phục tùng nhà nước dưới sự lãnh đạo của
giai cấp công nhân, vì lợi ích xây dựng chủ nghĩa xã hội, vì lợi ích của toàn xã
hội. Theo đó, sự thành công trong việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước ở
nước ta hiện nay, là phụ thuộc vào sự vững mạnh của bộ mày nhà nước xã hội
chủ nghĩa của chính chúng ta.


13


Chủ nghĩa tư bản nhà nước ra đời trong điều kiện “cần có sự mềm dẻo tối
đa” như Lênin nói. Đồng thời phải có một bộ máy nhà nước thực sự vững mạnh.
Nhưng thế nào là một nhà nước vững mạnh?
Trước hết, đó là một bộ máy có khả năng thích ứng với mọi hoàn cảnh,
biết “nghiên cứu một cách chính xác phạm vi của hiện tượng và tìm ra được
những biện pháp phù hợp để điều tiết”. Chẳng hạn, nếu còn sản xuất hàng hóa,
kinh tế tư bản chủ nghĩa còn là điều cần thiết thì phải để cho nó tồn tại và tạo
điều kiện để nó phát triển. Điều quan trọng là, phải điều tiết được sự phát triển
ấy, hướng nó vào chủ nghĩa tư bản nhà nước bằng các biện pháp kinh tế và bằng
pháp luật. Tự do sản xuất kinh doanh và phát triển trong một hành lang nhất
định, bảo đảm tuân thủ đúng pháp luật của nhà nước xã hội chủ nghĩa và không
vi phạm đến lợi ích của người lao động.
Bộ máy nhà nước vững mạnh phải là bộ máy “thực sự cứng rắn”. Chúng
ta không bao giờ được quên nhận xét của Lênin rằng, chủ nghĩa tư bản nhà nước
là “cuộc chiến tranh kinh tế”, rằng cho dù “sự điều tiết ấy có thành công hoàn
toàn chăng nữa, thì sự đối lập về lợi ích giai cấp của lao động và của tư bản nhất
định vẫn còn tồn tại”. Do vậy, nhà nước phải kịp thời phát hiện, ngăn chặn và
trừng trị nghiêm các hoạt động vượt ra khỏi khuôn khổ pháp luật và quy luật
kinh tế. Mặt khác, cũng cần hiểu, sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước không
phải là thủ tiêu đấu tranh giai cấp. Trái lại, nó là cuộc đấu tranh giai cấp trong
điều kiện mới (giai cấp vô sản nắm chính quyền), với hình thức mới (đấu tranh
bằng kinh tế được thay cho đấu tranh bằng súng đạn), quyết liệt, thường xuyên.
Do đó, khi sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, giai cấp vô sản và nhà nước xã
hội chủ nghĩa phải luôn tỉnh táo, nhạy bén để chủ động khắc phục những tiêu cực
có thể xảy ra.


14

Bộ máy nhà nước vững mạnh còn là bộ máy có cơ sở chính trị vững

mạnh: đó là sự liên minh vững chắc công nhân, nông dân, đội ngũ trí thức. Sự
liên minh công – nông – trí thức chẳng những tạo nên cơ sở chính trị vững chắc
cho việc sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, mà còn làm “tăng thêm quyền lực
kinh tế” của nhà nước ta.
Sức mạnh của bộ máy nhà nước là sức mạnh kinh tế. Trước đây Lênin đã
nói về sức mạnh ấy và nhờ sức mạnh ấy mà có thể “dung nạp, phát triển, du nhập
chủ nghĩa tư bản”. Để có sức mạnh đó phải nắm được các yết hầu kinh tế, các
lĩnh vực kinh tế xã hội chủ đạo. Lênin đã chỉ ra rằng: “nếu hàng hóa trong tay
các đồng chí thì các đồng chí sẽ giữ được chính quyền”. Phát triển và củng cố
kinh tế nhà nước và kinh tế tập thể cũng là để tạo ra sức mạnh kinh tế. Nhưng
trong điều kiện kinh tế thị trường, sức mạnh kinh tế thể hiện tập trung ở sức
mạnh tài chính. Vì vậy, nhà nước cần có và nắm chắc trong tay mình khả năng
tài chính. Thông qua công cụ tài chính ngân hàng, nhà nước vừa điều khiển được
toàn bộ hoạt động của xã hội, vừa có thể thoát khỏi sự can thiệp trực tiếp vào các
hoạt động sản xuất kinh doanh của cơ sở, qua đó nâng cao sức cạnh tranh trên thị
trường trong và quốc tế.
Chung quy lại, sức mạnh của một nhà nước trong thời kỳ quá độ lên chủ
nghĩa xã hội tến hành sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước, là sức mạnh của một
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Đây là một nhà nước thực sự kiểu mới.
“Mới không phải vì bản chất giai cấp, xã hội của nó thay đổi, mà mới là so với
điều kiện hoạt động của nó trước đây”. Đó là một nhà nước trong nền kinh tế thị
trường định hướng xã hội chủ nghĩa và có khả năng điều tiết, quản lý thành công
nền kinh tế ấy. Sức mạnh của nhà nước trong điều kiện đó là ở chỗ, “biết dùng
bàn tay của người khác để cùng với mình xây dựng chủ nghĩa cộng sản”, “dùng
tư hữu để xóa tư hữu”.


15

Một nhà nước pháp quyền là một nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật

và theo pháp luật.. Ở một trình độ văn minh nhất định của loài người – nền kinh
tế thị trường, không thể quản lý xã hội một cách tuỳ tiện, theo ý chủ quan, mà
phải bằng pháp luật. Cũng như không thể chuyển sang thực hiện cơ chế thị
trường khi chưa có nến tảng pháp lý. Ở đâu, khi nào mà chuyển sang cơ chế thị
trường mà thiếu vắng nền tảng pháp lý thì ở nơi đó, lúc đó xảy ra tình trạng hỗn
loạn, không thể có một thị trường lành mạnh.
Để sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước thực sự có hiệu quả, đúng như
mong đợi của chúng ta, điều cần làm hiện nay là, triển khai một loạt hoạt động
bắt đầu từ sự thống nhất một số quan niệm cơ bản đến những hoạt động lập
pháp, hành pháp cụ thể.
Không thể sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà nước nếu không có sự thống
nhất quan niệm về chủ nghĩa tư bản trong điều kiện quá độ ở nước ta hiện nay.
Lẽ đương nhiên đây là thứ chủ nghĩa tư bản phát triển dưới sự giám sát, điều tiết
của nhà nước. Song dù sao nó vẫn là chủ nghĩa tư bản. Việc phát triển lâu dài các
thành phần kinh tế dựa trên chế độ tư nhân chiếm hữu về tư liệu sản xuất trong
thời kỳ quá độ ở nước ta là việc làm hợp quy luật phát triển tự nhiên của lịch sử,
là tạo động lực thúc đẩy người dân tự nguyện bỏ vốn đầu tư, hăng say, tích cực
làm giàu, vừa ích nước, vừa lợi nhà. Sự phát triển ấy cũng góp phần to lớn trong
việc thu hút các nguồn lực từ bên ngoài để phục vụ cho sự nghiệp xây dựng đất
nước.
Bên cạnh đó, cần tiếp tục đổi mới cơ chế quản lý, tạo lập đồng bộ các yếu
tố thị trường và các loại thị trường; bổ sung, hoàn chỉnh hệ thống pháp luật về
kinh tế (nhất là những vấn đề có liên quan đến sử dụng chủ nghĩa tư bản nhà
nước), đẩy mạnh đổi mới công tác kế hoạch hóa, các công cụ quản lý kinh tế.
Cùng với cải cách bộ máy theo hướng tinh gọn, phải thực sự coi trọng công tác


16

đào tạo, bồi dưỡng nâng cao phẩm chất, trình độ và năng lực, kiến thức cho đội

ngũ công chức, đảm bảo có thể đảm đương và hoàn thành tốt được nhiệm vụ
trong các điều kiện, hoàn cảnh hội nhập kinh tế quốc tế.
Từng bước hiện đại hóa các trang thiết bị, phương tiện kỹ thuật phục vụ
cho công tác quản lý nền kinh tế. Tiếp thu, học hỏi các kinh nghiệm, bí quyết
quản lý, điều hành kinh tế và tranh thủ sự giúp đỡ quốc tế, khu vực trong tăng
cường, nâng cao hiệu quả quản lý vĩ mô.



×