Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIỂU LUẬN lý LUẬN về PHÂN kỳ HÌNH THÁI KINH tế xã hội CỘNG sản CHỦ NGHĨA TRONG tác PHẨM PHÊ PHÁN CƯƠNG LĨNH gô TA của c mác

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (112.48 KB, 18 trang )

LÝ LUẬN VỀ PHÂN KỲ HÌNH THÁI KINH TẾ - XÃ HỘI CỘNG SẢN CHỦ
NGHĨA TRONG TÁC PHẨM “PHÊ PHÁN CƯƠNG LĨNH GÔTA” CỦA
C.MÁC

Tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gôta” C.Mác viết vào tháng 4 và đầu
tháng 5năm 1875, đây là một sự phân tích có tính chất phê phán cương lĩnh
của Đảng xã hội dân chủ Đức tại Đại hội tổ chức ở Gôta. Sau này, bất chấp sự
phản đối của bọn cơ hội trong Quốc tế II, Ph.Ăngghen cho đăng lần đầu tiên
trong tạp chí “New Zeit”, Tập 1, số 18, năm 1891.
Những năm 70 của thế kỷ XIX, trung tâm cách mạng thế giới chuyển
về Pháp và Đức. Lúc này học thuyết Mác đã được truyền bá rộng rãi vào
phong trào cộng sản và công nhân quốc tế thông qua hoạt động của Quốc tế I.
Chủ nghĩa Mác đã chiếm ưu thế trong phong trào công nhân, đánh bại một số
trào lưu tư tưởng tiểu tư sản. Biện chứng của lịch sử là: sự thắng lợi của chủ
nghĩa Mác trong lĩnh vực lý luận, buộc kẻ thù phải thay đổi bộ mặt tự hóa
trang làm người mác-xít để chống chủ nghĩa Mác, chủ nghĩa cơ hội dưới mọi
hình thức đã lộ ra.
Nước Đức trong thời gian này có sự phát triển mạnh mẽ về kinh tế do
sự thống nhất liên bang. Nước Đức thống nhất hoàn toàn đã tạo nên một chế
độ chính trị, chế độ tiền tệ, thuế khoá, đo lường thống nhất. Từ một nước
nông nghiệp, Đức dần dần trở thành một nước công nghiệp hàng đầu châu Âu
và thế giới.
Về chế độ chính trị, nhà nước đế quốc Đức được thành lập sau khi cuộc
đấu tranh thống nhất thắng lợi. Nhà nước Đức tuy mang tính chất tư bản chủ
nghĩa nhưng vai trò của quý tộc rất lớn. Thế lực kinh tế của quý tộc khá
mạnh, nhất là phía Đông nước Đức, hầu hết đất đai ở trong tay họ. Chủ nghĩa


2

quân phiệt vốn có ở Đức được bọn đại tư sản ủng hộ có vị trí đáng kể trong


chính sách của nhà nước Đức.
Trong giai đoạn này, phong trào công nhân Đức có bước phát triển mới
và có khả năng tổ chức những cuộc đấu tranh lớn trên quy mô toàn quốc. Ở
Đức lúc này tồn tại hai tổ chức của công nhân là Tổng hội liên hiệp công nhân
Đức do Látxan lãnh đạo và Đảng xã hội dân chủ Đức, Đảng Aidơnách, do
Liếpnếch và Bêben lãnh đạo. Sau khi nước Đức thống nhất, vấn đề thống nhất
hai tổ chức của giai cấp công nhân Đức cũng được đặt ra. C.Mác và
Ph.Ăngghen đã nhắc nhở các nhà lãnh đạo Đảng Aidơnách không được nóng
vội liên hiệp hoặc hợp nhất, bởi vì lập trường, tư tưởng của phái Látxan
không phù hợp với chủ nghĩa xã hội. C.Mác và Ph.Ăngghen chủ trương là nên
thống nhất phong trào công nhân Đức từ dưới, làm cho phái Látxan bị cô lập
trong quần chúng nhân dân, nếu hợp nhất với phái Látxan phải dựa trên
những nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản khoa học. Nhưng những nhà lãnh
đạo Đảng Aidơnách, đứng đầu là Liếpnếch, đã không làm theo ý kiến nhắc nhở
của C.Mác và Ph.Ăngghen, họ tiến hành hợp nhất hoàn toàn vô điều kiện với
phái Látxan. Tháng 5 năm1875, Đại hội đại biểu đảng liên hiệp đã được triệu
tập ở Gôta và cho ra đời “Cương lĩnh Gôta” (người đóng vai trò chủ đạo soạn
thảo ra cương lĩnh hợp nhất là Liếpnếch). Sau khi Cương lĩnh Gôta được viết
xong, Liếpnếch gửi bản cương lĩnh này cho C.Mác xem. Bất bình trước sự
phản bội các nguyên tắc của chủ nghĩa cộng sản khoa học được thể hiện trong
cương lĩnh và sự nhượng bộ của Đảng Aidơnách trước phái Látxan một cách
vô nguyên tắc, C.Mác đã biên chú vào lề để phê phán từng phần của cương
lĩnh. Những nhận xét đánh giá của C.Mác đối với cương lĩnh này được gọi là
“Phê phán Cương lĩnh Gôta”.
“Phê phán Cương lĩnh Gôta” là tác phẩm lý luận ở đó C.Mác đã giải
đáp tất cả những vấn đề cơ bản trong chương trình nghị sự của phong trào


3


cộng sản và công nhân quốc tế sau Công xã Pari. Đề ra chiến lược, sách lược
và phát triển học thuyết về nhà nước và cách mạng; lần đầu tiên đưa ra lý luận
về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa và tính tất yếu của thời kỳ quá
độ lên chủ nghĩa xã hội. Ph.Ăngghen công bố rằng, với tinh thần cách mạng
mác-xít, “Phê phán Cương lĩnh Gôta” đã giáng một đòn nặng nề vào bọn cơ
hội chủ nghĩa. “Phê phán Cương lĩnh Gôta” là một trong những văn kiện có
tính chất cương lĩnh của chủ nghĩa Mác sau tác phẩm “Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản” và bộ “Tư bản”.
Tác phẩm gồm bức thư của C.Mác gửi V.Brắcơ ngày 5 tháng 5 năm
1875 và những lời nhận xét của C.Mác đối với bản Cương lĩnh của Đảng xã
hội dân chủ Đức. Những lời nhận xét này được chia thành 4 phần chính, với
nội dung cơ bản tập trung vào hai vấn đề chính:
Thứ nhất, C.Mác phê phán những nguyên lý lý luận và kinh tế trong
Cương lĩnh Gôta là chịu ảnh hưởng của phái Látxan.
Thứ hai, phát triển những vấn đề lý luận của chủ nghĩa xã hội khoa học.
Khi phê phán những nguyên lý lý luận và kinh tế của Látxan, C.Mác
tập trung trên một số phương diện: phê phán tư tưởng “lao động là nguồn của
mọi của cải và văn hoá”; phê phán “quy luật sắt về tiền công”; phê phán yêu
cầu sản phẩm toàn vẹn; phê phán chủ nghĩa dân tộc trong cương lĩnh; phê
phán quan điểm cho rằng ngoài giai cấp vô sản ra, hết thảy mọi giai cấp khác
chỉ là một khối phản động; phê phán quan điểm về “nhà nước tự do” trong
Cương lĩnh Gôta….
Phê phán quan điểm của Látxan cho rằng “lao động là nguồn của mọi
của cải và văn hoá”, “lao động có ích thì chỉ có thể có được trong xã hội và
do xã hội”, C.Mác đã phân tích và chỉ ra rằng: “Lao động là nguồn của của
cải và của văn hoá, chỉ khi nào nó là lao động xã hội, hay nói như thế này


4


cũng vậy: ‘khi nó được tiến hành trong xã hội và do xã hội”1, thì nó “mới có
một mối hợp lý nào đó”. C.Mác cho rằng Látxan hết sức ngây thơ và không
hiểu gì về kinh tế chính trị khi yêu cầu “sản phẩm toàn vẹn của lao động”
phải thuộc về mọi thành viên của xã hội. Theo C.Mác, ngay trong xã hội cộng
sản chủ nghĩa tương lai cũng không thể nào có cái thu nhập gọi là “toàn vẹn
của lao động”, không bị cắt xén. Và C.Mác nêu rõ là cách thức phân phối bao
giờ cũng do phương thức sản xuất, do trình độ sản xuất quyết định, “Quyền
không bao giờ có thể ở một mức cao hơn chế độ kinh tế và sự phát triển văn
hoá của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định”2.
Đối với “quy luật sắt về tiền công”, Cương lĩnh Gôta nêu rằng: chính
đảng của công nhân phải xoá bỏ hệ thống tiền công theo “quy luật sắt của
tiền công”. C.Mác cho rằng: “Nếu tôi xoá bỏ lao động làm thuê thì cố
nhiên là tôi cũng xoá bỏ luôn cả những quy luật của nó, dù cho những quy
luật đó bằng "sắt" hay bằng bọt biển thì cũng thế”3. Theo C.Mác, nếu quy
luật ấy là có thực thì người ta cũng không thể xoá bỏ nó được, vì vậy quy
luật này có tồn tại hay không thì việc đề ra yêu sách trong cương lĩnh đòi
xoá quy luật cũng vẫn là sai, vả chăng, trong thực tế làm gì có thứ “ quy
luật sắt của tiền công” như thế. Cho nên, đưa ra cái gọi là “quy luật sắt của
tiền công” vào trong Cương lĩnh của Đảng tức là đã phản ngược lại lý luận
chủ nghĩa cộng sản khoa học.
Đối với luận điểm: “Việc giải phóng lao động phải là sự nghiệp của
giai cấp công nhân; đối diện với giai cấp công nhân, tất cả các giai cấp khác
chỉ gộp thành một khối phản động”4, C.Mác đã chỉ ra sự mơ hồ của Látxan
trong xác định mục tiêu giải phóng của giai cấp công nhân, và đó là sự xuyên
tạc “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” của Látxan. Theo “Tuyên ngôn của
C. Mác và Ph.Ăngghen, Toàn tập, tập 19, Nxb CTQG, Hà Nội. 1995, tr. 28 - 29.
Sđd, tr. 36.
3 Sđd, tr. 41.
4 Sđd, tr. 37.
1

2


5

Đảng cộng sản” thì “Trong tất cả các giai cấp hiện đang đối lập với giai cấp tư
sản thì chỉ có giai cấp vô sản là giai cấp thực sự cách mạng. Tất cả các giai cấp
khác đều suy tàn và tiêu vong với sự phát triển của đại công nghiệp, còn giai
cấp vô sản thì trái lại, là sản phẩm của bản thân nền đại công nghiệp”1. Và các
giai cấp khác trung gian khác cũng trở thành cách mạng khi họ “rơi vào hàng
ngũ của giai cấp công nhân”. Như vậy, luận điểm của Látxan đã phủ nhận khả
năng liên minh giữa giai cấp công nhân và các giai tầng khác, cô lập giai cấp
công nhân trong sự nghiệp làm cho “nền sản xuất trút bỏ cái tính chất tư bản
chủ nghĩa mà giai cấp tư sản đang cố duy trì vĩnh viễn”.
Chủ nghĩa Mác không phủ định yếu tố dân tộc trong chủ nghĩa xã hội, sứ
mệnh lịch sử của giai cấp công nhân có nội dung mang tính quốc tế, nhưng hình
thức của nó mang tính dân tộc. C.Mác phê phán “Cương lĩnh Gôta” là đã quá sa
vào chủ nghĩa xã hội dân tộc. “Trái với Tuyên ngôn Đảng cộng sản và trái với
toàn thể chủ nghĩa xã hội trước kia, Látxan đã đứng trên quan điểm dân tộc hết
sức hẹp hòi để xem xét phong trào công nhân”2. Theo Mác, “Thật ra, quan điểm
quốc tế của bản Cương lĩnh còn vô cùng thấp hơn quan điểm quốc tế của phái
mậu dịch tự do. Phái này cũng khẳng định rằng kết quả của những cố gắng của
họ sẽ là “tình hữu nghị quốc tế giữa các dân tộc”. Nhưng họ cũng đã làm một
cái gì đó để cho thương nghiệp trở thành quốc tế và không hề thoả mãn khi biết
rằng mọi dân tộc đều tiến hành buôn bán trong nước họ”3.
Đối với quan điểm về “nhà nước tự do” trong Cương lĩnh Gôta, C.Mác
cho rằng đây là một quan điểm rất tai hại và phản động. Tính chất nguy hại
của nó ở chỗ nó phủ định sự cần thiết phải thiết lập chuyên chính vô sản và
không hề nhắc tới việc tiêu diệt nhà nước tư sản, mà chỉ là cải thiện nhà nước
đương thời mà thôi. C.Mác viết: “Thế mà, bản cương lĩnh không đả động gì


Sđd, tr. 38.
Sđd, tr. 38.
3 Sđd, tr. 40.
1
2


6

đến vấn đề chuyên chính vô sản, cũng chẳng nói gì đến chế độ nhà nước
tương lai trong xã hội cộng sản chủ nghĩa”1.
Như vậy, “Cương lĩnh Gôta” đã đi ngược với chủ nghĩa Mác. Ngoài
ảnh hưởng của chủ nghĩa Látxan, nó còn thu nhặt rất nhiều thứ khác nữa ở
trong một đảng theo chủ nghĩa tự do tư bản. Vì vậy, C.Mác đã đánh giá thực
chất “Cương lĩnh Gôta” như sau: “Mặc dầu tất cả những lời lẽ dân chủ rất
kêu của nó, toàn bộ cương lĩnh từ đầu chí cuối đều nhiễm phải cái bệnh của
phái Látxan là lòng tin của thần dân vào nhà nước, hoặc là - điều này cũng
chẳng có gì tốt hơn - tin vào phép màu dân chủ, hay nói cho đúng hơn, đó là
sự thoả hiệp giữa hai lòng tin ấy vào phép màu, cả hai loại đều xa lạ như
nhau với chủ nghĩa xã hội”2.
Một trong những nội dung quan trọng được C.Mác đề cập trong tác
phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gôta” là lý luận về hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa, đặc biệt là lý luận về phân kỳ hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa. Đây là lần đầu tiên C.Mác luận giải một cách rõ ràng
những vấn đề về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, C.Mác coi sự thay thế nhau
giữa các hình thái kinh tế xã hội là một quá trình lịch sử tự nhiên. Sự phát
triển của xã hội tuân theo những quy luật nội tại của nó, xét đến cùng là do
sự phát triển của lực lượng sản xuất. Ông cũng chỉ ra rằng lịch sử xã hội

loài người đã trải qua bốn hình thái kinh tế - xã hội là: cộng sản nguyên
thuỷ, chiếm hữu nô lệ, phong kiến và tư bản chủ nghĩa và theo tiến trình
lịch sử tự nhiên, xã hội loài người sẽ tiến tới hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa.
Tiếp tục quan điểm của “Tuyên ngôn của Đảng Cộng sản”, C.Mác chỉ
ra để chuyển từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản cần phải có một thời
1
2

Sđd, tr. 47.
Sđd, tr. 50 - 51.


7

kỳ quá độ. C.Mác viết: “Giữa xã hội tư bản chủ nghĩa và xã hội cộng sản chủ
nghĩa là một thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia. Thích
ứng với thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước của thời kỳ ấy
không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng của giai cấp vô
sản”1. Như vậy, để chuyển biến từ xã hội tư bản chủ nghĩa lên xã hội cộng sản
chủ nghĩa phải trải qua một thời kỳ cải biến cách mạng khó khăn, phức tạp và
lâu dài. “Thời kỳ cải biến cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia” là một tất
yếu khách quan để đảm bảo những điều kiện cho sự tồn tại của xã hội mới.
Bởi lẽ, trong thời kỳ này những yếu tố của xã hội cũ bị đánh đổ chưa bị tiêu
diệt hoàn toàn và cái mới ra đời còn non yếu chưa đóng vai trò thống trị hoàn.
Theo C.Mác, “Thời kỳ ấy là một thời kỳ quá độ chính trị, và nhà nước
của thời kỳ ấy không thể là cái gì khác hơn là nền chuyên chính cách mạng
của giai cấp vô sản”. Thời kỳ quá độ là giai đoạn thấp của hình thái kinh tế xã hội cộng sản chủ nghĩa. Thời kỳ quá độ theo quan điểm của C.Mác là quá
độ trực tiếp từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản, mặc dù trước đây,
trong “Tuyên ngôn của Đảng cộng sản” C.Mác đã chỉ ra rằng sự phát triển

của hình thái kinh tế - xã hội cũng bao hàm “phát triển vượt cấp”. Tư tưởng
quá độ trực tiếp của C.Mác gắn với hoàn cảnh lịch sử cụ thể gắn với nhận
định về khả năng giành thắng lợi của cách mạng vô sản thời kỳ đó là cách
mạng vô sản có thể nổ ra và giành thắng lợi đồng loạt ở các nước, ít ra cũng là
ở những nước tư bản chủ nghĩa phát triển.
Thời kỳ quá độ là thời kỳ giai cấp công nhân đã đấu tranh giành được
quyền lãnh đạo xã hội, thiết lập chuyên chính vô sản. Đây là thời kỳ cải biến
cách mạng từ xã hội nọ sang xã hội kia, là thời kỳ sinh đẻ lâu dài và đau đớn để
từng bước cải tạo cái cũ, xây dựng cái mới, tạo ra những yếu tố vật chất và tinh
thần cho chủ nghĩa xã hội. Vì thế, để từng bước cải tạo xã hội cũ và giữ vững
1

Sđd, tr. 47.


8

quyền lực thống trị xã hội của giai cấp công nhân nhất định phải thiết lập nền
chuyên chính các mạng của mình. Tiếp tục luận điểm trên của C.Mác, trong
tác phẩm “Nhà nước và cách mạng”, V.I.Lênin khẳng định: “Bước chuyển từ
chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa cộng sản, cố nhiên không thể không đem lại
rất nhiều hình thức chính trị khác nhau, nhưng thực chất của những hình
thức ấy tất nhiên sẽ chỉ là một, tức là: chuyên chính vô sản”1.
Trên cơ sở quan điểm này của C.Mác, cũng trong tác phẩm “Nhà nước
và cách mạng”, V.I.Lênin đã phát triển hoàn thiện lý luận về hai giai đoạn
của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Theo V.I.Lênin, hình thái
kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa gồm một thời kỳ và hai giai đoạn và thời
kỳ quá độ chính là “những cơn đau đẻ kéo dài”. Đồng thời, trong điều kiện
lịch sử mới, Người cũng chỉ ra khả năng quá độ gián tiếp lên chủ nghĩa xã hội
ở những nước chưa trải qua hình thái kinh tế - xã hội tư bản chủ nghĩa.

Không chỉ luận giải tính tất yếu của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa cộng
sản và coi nó như là giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa, trong tác phẩm C.Mác đã trình bày những vấn đề cơ bản về giai đoạn
thấp của của chủ nghĩa cộng sản. “Cái xã hội mà chúng ta nói ở đây không
phải là một xã hội cộng sản chủ nghĩa đã phát triển trên những cơ sở của
chính nó, mà trái lại là một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã
hội tư bản chủ nghĩa, do đó là một xã hội, về mọi phương diện - kinh tế,
đạo đức, tinh thần - còn mang những dấu vết của xã hội cũ mà nó đã lọt
lòng ra”2. Như vậy, giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa, một xã hội cộng sản chủ nghĩa vừa thoát thai từ xã hội tư bản chủ
nghĩa, mang trong mình nó đan xen những đặc điểm của xã hội mới đang hình
thành và những “dấu vết” của xã hội cũ mà nó thoát thai ra trên tất cả các lĩnh
vực của đời sống xã hội, cả về kinh tế, đạo đức, tinh thần... Trong tác phẩm
1
2

V.I.Lênin, Toàn tập, tập 33, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 1976, tr. 43.
Sđd, tr. 33.


9

“Kinh tế và chính trị trong thời đại chuyên chính vô sản”, V.I.Lênin tiếp tục
khẳng định luận điểm này của C.Mác: “Về lý luận, không thể nghi ngờ gì được
rằng giữa chủ nghĩa tư bản và chủ nghĩa cộng sản, có một thời kỳ quá độ nhất
định. Thời kỳ ấy không thể không bao gồm những đặc điểm hoặc đặc trưng của
hai kết cấu kinh tế ấy”1.
C.Mác đã vứt bỏ những câu sáo rỗng trong Cương lĩnh Gôta về “phân
phối công bằng” và đặt vấn đề này trên một cơ sở khoa học. C.Mác đặt vấn đề
phân phối trong sự liên hệ với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất xã

hội. C.Mác cho rằng, trong giai đoạn đầu của xã hội cộng sản các yếu tố của
nền sản xuất cộng sản chủ nghĩa mới hình thành và chưa hoàn chỉnh, lực
lượng sản xuất phát triển chưa cao, do vậy xã hội chỉ có thể thực hiện phân
phối theo nguyên tắc “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. C.Mác chỉ
rõ: “Quyền không bao giờ có thể ở một mức độ kinh tế và sự phát triển văn
hoá của xã hội do chế độ kinh tế đó quyết định”2 . Trong giai đoạn thấp, mặc
dù chế độ tư hữu về tư liệu sản xuất và chế độ áp bức bóc lột đã từng bước
được xoá bỏ, song theo C.Mác người lao động vẫn chưa được hưởng chế độ
phân phối sản phẩm ngang nhau bởi lẽ pháp quyền tư sản vẫn còn tồn tại và
nền sản xuất hàng hoá, năng suất lao động chưa cao. Vì thế, “Mặc dầu có sự
tiến bộ ấy, cái quyền ngang nhau đó bao giờ cũng vẫn còn bị giới hạn trong
khuôn khổ tư sản. Quyền của người sản xuất là tỷ lệ với lao động mà người
ấy đã cũng cấp; sự ngang nhau là ở chỗ người ta đo bằng một thước đo như
nhau, tức là bằng nhau lao động” 3.
Bên cạnh đó, C.Mác đã nêu ra nhiều lý do phản ánh cơ sở chính trị giai cấp, kinh tế, văn hoá, pháp luật và khả năng thực tế của người lao động
nên chưa thực hiện được quyền bình đẳng thực sự giữa người và người trong
V.I.Lênin, Toàn tập, tập 39, Nxb Tiến bộ, Mátxcơva. 1979, tr. 309.
Sđd, tr. 36.
3 Sđd, tr. 47.
1
2


10

giai đoạn thấp của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. C.Mác khẳng
định: “Muốn tránh tất cả những thiếu sót ấy thì quyền là phải không bình
đẳng, chứ không phải là bình đẳng” 1.
C.Mác cũng chỉ ra trong giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa, cùng với sự phát triển toàn diện của con người, sự khác

biệt giữa lao động chân tay và lao động trí óc cũng như sự khác biệt giữa
nông thôn và thành thị bị xóa bỏ, sự phát triển phi thường của lực lượng sản
xuất, năng suất lao động ngày càng tăng, các nguồn của cải xã hội tuôn ra dồi
dào, các yếu tố kinh tế, văn hóa, xã hội phát triển đến độ chín muồi bảo đảm
cho chủ nghĩa cộng sản phát triển trên cơ sở của chính nó; đó là lúc xã hội có
thể sản xuất ra sản phẩm tiêu dùng dồi dào đến mức không cần dùng phân
phối lợi ích vật chất để kích thích lao động nữa, lúc này lao động trở thành
nhu cầu cần thiết bậc nhất cho sức sống của mọi người thì nguyên tắc: “làm
theo năng lực, hưởng theo nhu cầu” được thực hiện. Chính mức độ chín muồi
của những đặc điểm chung của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
là ranh giới cơ bản để phân biệt hai giai đoạn phát triển của nó. C.Mác viết:
“Trong một giai đoạn cao hơn của xã hội cộng sản chủ nghĩa, khi mà sự phụ
thuộc có tính chất nô dịch của con người vào sự phân công lao động của họ
không còn nữa và cùng với nó, sự đối lập giữa lao động trí óc với lao động
chân tay cũng không còn nữa; khi mà lao động trở thành không những là một
phương tiện để sinh sống mà bản thân nó còn là một nhu cầu bậc nhất của
đời sống; khi mà cùng với sự phát triển toàn diện của các cá nhân, sức sản
xuất của họ cũng ngày càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải xã hội đều
tuôn ra dồi dào, - chỉ khi đó người ta mới có thể vượt hẳn ra khỏi giới hạn
chật hẹp của pháp quyền tư sản và xã hội mới có thể ghi trên lá cờ của mình:
làm theo năng lực, hưởng theo nhu cầu!”2.
1
2

Sđd, tr. 35.
Sdd, tr. 36.


11


Sự khái quát C.Mác về giai đoạn cao của hình thái kinh tế - xã hội cộng
sản chủ nghĩa đã phản ánh đầy đủ những đặc điểm trưng cơ bản của xã hội
cộng sản chủ nghĩa trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội. Đó là một xã
hội phát triển cao dựa trên sự phát triển vượt bậc của lực lượng sản xuất, của
chế độ công hữu về tư liệu sản xuất và sự phát triển toàn diện của con người.
Xã hội cộng sản chủ nghĩa là một xã hội khác hoàn toàn về chất so với các xã
hội trước đó, một xã hội không còn sự khác biệt giai cấp và tự do của mỗi
người là cơ sở cho tự do của mọi người. Điều này thể hiện trên một số
phương diện sau:
Về giai cấp xã hội, trong xã hội không còn có sự khác biệt về giai cấp
và nô dịch giai cấp, nhà nước cũng không còn tồn tại, đó là một xã hội tự
quản của toàn dân, mỗi thành viên xã hội đều là chủ nhân của đất nước, có
quyền và nghĩa vụ ngang nhau.
Về chế độ sở hữu, tư liệu sản xuất trong xã hội cộng sản chủ nghĩa
thuộc về toàn dân. Nếu như trong chủ nghĩa xã hội còn tồn tại hai hình thức
sở hữu là sở hữu tập thể và sở hữu nhà nước, thì đến chủ nghĩa cộng sản chỉ
có duy nhất hình thức sở hữu tập thể. Đây là điều kiện thủ tiêu mọi bất bình
đẳng trong xã hội và bảo đảm quyền bình đẳng thực sự cho mọi thành viên.
Năng suất lao động trong xã hội cộng sản chủ nghĩa rất cao do sự phát
triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Con người có tính tự giác, kỷ luật lao
động cao, lao động trở thành nhu cầu của mỗi người, con người không sợ lao
động mà chỉ sợ hiệu quả lao động không bằng người khác và coi đó là cơ sở
để khẳng định nhân cách của mình, cùng với trình độ phát triển của khoa học
công nghệ, sức sản xuất cũng ngày càng tăng lên và tất cả các nguồn của cải
xã hội đều tuôn ra dồi dào đáp ứng đầy đủ mọi nhu cầu thiết yếu cũng như
nâng cao đời sống của mọi người.


12


Về chế độ phân phối sản phẩm, do năng suất lao động cao, sản phẩm xã
hội làm ra dồi dào, do vậy C.Mác khẳng định rằng lúc đó xã hội sẽ có thể ghi
lên lá cờ của mình: làm theo năng lực và hưởng theo nhu cầu.
Về chăm lo phát triển con người, con người trong xã hội có điều kiện
phát triển toàn diện và tự giác cao. Sự khác biệt giữa lao động trí óc và lao
động chân tay, giữa nông thôn và thành thị bị xoá bỏ, con người có điều kiện
phát triển toàn diện, ai cũng có việc làm, họ vừa là nhà trí thức vừa là người
lao động với trình độ tự giác cao. Lao động không còn là phương tiện để kiếm
sống, bóc lột giữa người và người nữa mà đã trở thành nhu cầu thực sự của
mỗi người lao động. Mọi thành viên trong xã hội được thừa hưởng phúc lợi
xã hội như nhau, được xã hội chăm lo và tạo điều kiện cho mỗi thành viên
được học tập như nhau, đều có nghĩa vụ và quyền hạn như nhau. Đồng thời sự
phát triển của xã hội cũng đặt ra yêu cầu cao cho mỗi con người phải phấn
đấu học tập, tu dưỡng để nâng cao trình độ mọi mặt theo chuẩn mực giá trị
của xã hội.
Kế tục sự nghiệp của C.Mác và Ph.Ăngghen, V.I.Lênin, trong quá trình
đấu tranh bảo vệ, bổ sung và phát triển chủ nghĩa Mác, đã tiếp tục khẳng định
tính khoa học trong quan điểm của C.Mác về lý luận hình thái kinh tế - xã hội
cộng sản chủ nghĩa trong “Phê phán Cương lĩnh Gôta” nói riêng và trong các
trước tác của C.Mác và Ph.Ăngghen nói chung. Phân tích giai đoạn cao của
hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa là xã hội cộng sản chủ nghĩa,
V.I.Lênin đã chỉ ra những đặc trưng cơ bản của nó như: lực lượng sản xuất phát
triển phi thường, của cải xã hội tràn đầy, xã hội thực hiện nguyên tắc làm theo
năng lực hưởng theo nhu cầu, mọi người đều học được cách quản lý xã hội và
thực sự tự mình quản lý xã hội, dân chủ hoàn bị và nhà nước tự tiêu vong…
Như vậy, quan niệm về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa
trong “Phê phán Cương lĩnh Gôta” là sự phát triển mới của C.Mác về lý luận


13


hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa. Trong “Tuyên ngôn của Đảng
cộng sản”, C.Mác mới chỉ dừng lại ở sự khẳng định tính tất yếu ra đời của hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa; chỉ đến khi “Phê phán Cương lĩnh
Gôta” ra đời, trên cơ sở phân tích một cách khoa học sự vận động phát triển
của lịch sử xã hội, lần đầu tiên C.Mác đã phác hoạ một cách đầy đủ về hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa, là sự phát triển hết sức ý nghĩa lý luận
chủ nghĩa xã hội khoa học, góp phần làm cho nó ngày càng hoàn bị hơn.
Tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gôta” ra đời có ý nghĩa to lớn về mặt
lý luận và thực tiễn. Thông qua tác phẩm, C.Mác đấu tranh chống lại những
quan điểm sai trái, cơ hội tiểu tư sản đội lốt chủ nghĩa Mác của phái Látxan
để bảo vệ những nguyên lý chủ nghĩa xã hội khoa học được trình bày trong
“Tuyên ngôn của Đảng cộng sản”, khắc phục ảnh hưởng của những tư tưởng
sai trái trong phong trào công nhân Đức nói riêng và phong trào cộng sản và
công nhân quốc tế nói chung. Đồng thời, đã bổ sung phát triển nhiều vấn đề lý
luận của chủ nghĩa xã hội khoa học như vấn đề dân chủ, nhà nước…, đặc biệt
là lý luận về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa.
Với tác phẩm này, C.Mác đã đập tan lời vu cáo của Bacunin về trách
nhiệm của C.Mác trước phong trào công nhân Đức cũng như bước thụt lùi của
Đảng xã hội dân chủ Đức. Điều này được C.Mác viết trong thư gửi V.Brắccơ
như sau: “Chẳng hạn như trong một trước tác bằng tiếng Nga xuất bản mới
đây, Ba-cu-nin đã buộc cho tôi là phải chịu trách nhiệm không những về tất
cả các cương lĩnh, v.v., của các đảng ấy, mà còn về mọi bước do Líp-nếch đã
tiến hành từ khi ông cộng tác với Đảng nhân dân”1.
Bút chiến của C.Mác chống lại những tư tưởng sai trái của Cương lĩnh
Gôta do ảnh hưởng của Látxan là một tấm gương về tinh thần phê phán và
phê phán như thế nào cho khoa học để lột trần bộ mặt phản bội của các trào
1

Sđd, tr. 23.



14

lưu cơ hội. Đây là những bài học kinh nghiệm quý báu về phương pháp đấu
tranh chống lại quan điểm sai trái, cơ hội xét lại để bảo vệ chủ nghĩa Mác.
Đồng thời cảnh tỉnh những người cộng sản và giai cấp công nhân trước những
âm mưu, thủ đoạn và tư tưởng sai trái, phản động của bọn cơ hội, xét lại núp
bóng chủ nghĩa Mác dưới nhiều màu sắc để chống lại phong trào công nhân
và hệ tư tưởng cách mạng của nó.
Tác phẩm cũng chỉ ra trong công tác xây dựng Đảng phải hết sức tránh
sai lầm chủ quan, nóng vội; phải quan tâm xây dựng cho được một cương lĩnh
chính trị đúng đắn. Về tổ chức, tác phẩm cho ta thấy không thể sáp nhập tổ
chức một cách giản đơn, tuỳ tiện, vô nguyên tắc, không được nhân nhượng
bất kỳ một sự phản bội nào về lý luận, tư tưởng để bảo vệ sự trong sáng của lý
luận chủ nghĩa xã hội khoa học.
Lý luận về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa và sự phân kỳ
hình thái kinh tế xã hội trình bày trong tác phẩm là sự bổ sung, phát triển kịp
thời những nguyên lý lý luận chủ nghĩa xã hội khoa học, làm chủ nghĩa xã hội
khoa học ngày càng hoàn chỉnh hơn. Phác họa mô hình cộng sản chủ nghĩa và
những đặc điểm cơ bản của nó một cách khoa học giúp cho những người cộng
sản và giai cấp công nhân thêm vững tin vào con đường cách mạng xã hội chủ
nghĩa, tạo ra động lực to lớn để thúc đẩy phong trào công nhân ngày càng
phát triển mạnh mẽ.
Quan niệm này là cơ sở khoa học để sau này V.I.Lênin và các đảng
cộng sản và đảng công nhân bổ sung, phát triển hoàn thiện lý luận về hình
thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ nghĩa và vận dụng sáng tạo trong công cuộc
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa khác.
Những vấn đề lý luận đề cập trong “Phê phán cương lĩnh Gôta”, đặc biệt là lý
luận về sự phân kỳ và đặc điểm của các giai đoạn trong hình thái kinh tế - xã

hội cộng sản chủ nghĩa đến nay vẫn còn nguyên giá trị. Nó là cơ sở khoa học


15

định hướng và chỉ đạo sự nghiệp cải tổ, cải cách, đổi mới của các nước xã hội
chủ nghĩa hiện nay.
Đối với các mạng nước ta, lý luận về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản
chủ nghĩa trong tác phẩm có ý nghĩa hết sức to lớn. Đó là cơ sở khoa học để
Đảng ta khẳng định tính đúng đắn, tất yếu và khả năng quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam và xác định hình thức, bước đi phù hợp để thúc đẩy sự
nghiệp cách mạng đi đến thắng lợi cuối cùng, đặc biệt trong công cuộc đổi
mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện nay.
Quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta là quá độ bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa. Đây là một tất yếu khách quan, phù hợp với quy luật phát triển của
xã hội, với xu thế vận động phát triển của nhân loại. Quá độ lên chủ nghĩa xã
hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa là hoàn toàn phù hợp với điều kiện lịch
sử, sự phát triển của cách mạng Việt Nam. Trong giai đoạn hiện nay, Đảng ta
nhận định: đặc điểm nổi bật trong giai đoạn hiện nay của thời đại là các nước
với chế độ xã hội và trình độ phát triển khác nhau cùng tồn tại, vừa hợp tác
vừa đấu tranh, cạnh tranh gay gắt vì lợi ích quốc gia, dân tộc. Cuộc đấu tranh
của nhân dân các nước vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ, phát triển và tiến
bộ xã hội dù gặp nhiều khó khăn, thách thức, nhưng sẽ có những bước tiến
mới. “Theo quy luật tiến hoá của lịch sử, loài người nhất định sẽ tiến tới chủ
nghĩa xã hội”1. Đi lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa
chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù
hợp với xu thế phát triển của lịch sử.
Hiện nay, nước ta có những khả năng và điều kiện quá độ lên chủ nghĩa
xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Sau hơn 20 năm đổi mới đất nước,
nhận thức của Đảng ta về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày

càng sâu sắc hơn, rõ hơn. Quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tức là bỏ
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội. 2011, tr. 69.


16

qua việc xác lập vị trí thống trị của quan hệ sản xuất và kiến trúc thượng tầng
tư bản chủ nghĩa, nhưng tiếp thu, kế thừa những thành tựu mà nhân loại đạt
được dưới chủ nghĩa tư bản, đặc biệt là về khoa học và công nghệ để phát
triển nhanh lực lượng sản xuất, xây dựng nền kinh tế hiện đại. Xây dựng chủ
nghĩa xã hội bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa, tạo ra sự biến đổi về chất của xã
hội trên tất cả các lĩnh vực là sự nghiệp rất khó khăn, phức tạp, cho nên phải
trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều chặng đường, nhiều hình thức tổ
chức kinh tế, xã hội có tính chất quá độ; trong các lĩnh vực của đời sống xã
hội diễn ra sự đan xen và đấu tranh giữa cái cũ và cái mới.
Trên cơ sở những thành tựu của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội,
tiếp tục quán triệt sâu sắc lý luận về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã
hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) tiếp tục khẳng định tính tất yếu của thời
kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta: “Đây là một quá trình cách mạng
sâu sắc, triệt để, đấu tranh phức tạp giữa cái cũ và cái mới nhằm tạo ra sự
biến đổi về chất trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất thiết phải
trải qua một thời kỳ quá độ lâu dài với nhiều bước phát triển, nhiều hình thức
tổ chức kinh tế, xã hội đan xen”1.
Khẳng định tính tất yếu và xác định những khó khăn, phức tạp, “những
cơn đau đẻ kéo dài” của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Đảng
Cộng sản Việt Nam xác định mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở
nước ta là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với

kiến trúc thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để
nước ta trở thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc.
Dưới ánh sáng của lý luận về hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa, từ thực tiễn xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, Cương lĩnh xây dựng
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội. 2011, tr. 70.


17

đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đã xác định xã hội xã hội
chủ nghĩa mà nhân dân ta đang xây dựng gồm 7 đặc trưng cơ bản. Đến Đại
hôi X, Đảng ta xác định có 8 đặc trưng. Tiếp tục phát triển nhận thức về xã
hội xã hội chủ nghĩa ở nước ta, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội (Bổ sung, phát triển năm 2011) xác định: “Xã hội
xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước
mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế
phát triển cao dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến
bộ phù hợp; có nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có
cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện; các dân
tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau
cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do
nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ hữu nghị và
hợp tác với các nước trên thế giới”1. Đồng thời, Cương lĩnh cũng nêu ra
những phương hướng lớn để toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta thực hiện
thắng lợi các mục tiêu chủ nghĩa xã hội ở nước ta:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước gắn với phát
triển kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
Hai là, phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.

Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây
dựng con người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng
xã hội.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự, an
toàn xã hội.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu
nghị, hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
1

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI, Nxb CTQG, Hà Nội. 2011, tr. 70.


18

Sáu là, xây dựng nền dân chủ xã hội chủ nghĩa, thực hiện đại đoàn kết
toàn dân tộc, tăng cường và mở rộng mặt trận dân tộc thống nhất.
Bảy là, xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân,
do nhân dân, vì nhân dân.
Tám là, xây dựng Đảng trong sạch, vững mạnh.
Như vậy, học thuyết hình thái kinh tế - xã hội nói chung và lý luận về
phân kỳ và đặc điểm các giai đoạn của hình thái kinh tế - xã hội cộng sản chủ
nghĩa trong tác phẩm “Phê phán Cương lĩnh Gôta” nói riêng có ý nghĩa hết
sức to lớn đối với cách mạng nước ta. Là cơ sở khoa học để Đảng ta vạch ra
bước đi, hình thức phù hợp để đi lên chủ nghĩa xã hội, củng cố niềm tin sâu
sắc và sự đồng thuận to lớn trong xã hội để đưa sự nghiệp cách mạng xã hội
chủ nghĩa đi đến thắng lợi cuối cùng. Đồng thời là vũ khí lý luận sác bén để
chúng ta đấu tranh làm thất bại mọi luận điệu xuyên tạc, phủ nhận tính tất yếu
và khả năng quá độ bỏ qua chủ nghĩa tư bản cũng như sự thắng lợi của chủ
nghĩa xã hội ở nước ta.




×