Tải bản đầy đủ (.docx) (41 trang)

giải pháp tăng cường giám sát hoạt động các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán việt nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (302.89 KB, 41 trang )

Luận văn tốt nghiệp

Học viện tài chính
BỘ TÀI CHÍNH
HỌC VIỆN TÀI CHÍNH

NGÔ THỊ HỒNG DUYÊN
Lớp: CQ47/17.01

LUẬN VĂN TỐT NGHIỆP

ĐỀ TÀI:
GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG CÁC CÔNG TY CHỨNG
KHOÁN TRÊN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM

Chuyên ngành: Chứng khoán

Giảng viên hướng dẫn: PGS.TS. Hoàng Văn Quỳnh

HÀ NỘI – 2013

1
SV: Ngô Thị Hồng Duyên

1

Lớp: CQ47/17.01


Luận văn tốt nghiệp


Học viện tài chính

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn

Để hình thành và phát triển thị trường chứng khoán có hiệu quả, một yếu tố không
thể thiếu được là các chủ thể kinh doanh trên thị trường chứng khoán. Mục tiêu của việc
hình thành thị trường chứng khoán là thu hút vốn đầu tư dài hạn cho việc phát triển kinh
tế và tạo ra tính thanh khoản cho các loại chứng khoán. Do vậy, để thúc đẩy thị trường
chứng khoán hoạt động một cách có trật tự, công bằng và hiệu quả cần phải có sự ra đời
của các công ty chứng khoán. Các công ty chứng khoán là tác nhân quan trọng thúc đẩy
sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của thị trường chứng khoán nói riêng. Việc
thành lập, đi vào hoạt động và ngày càng phát triển của các công ty chứng khoán là một
tất yếu khách quan. Hoạt động của các công ty chứng khoán có tác động và ảnh hưởng
lớn tới sự phát triển lành mạnh và ổn định thị trường.
Kinh nghiệm các nước cho thấy, việc hoạt động lành mạnh và có hiệu quả của các
công ty chứng khoán là một trong những yếu tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của thị
trường chứng khoán, đồng thời việc giám sát đánh giá hoạt động công ty chứng khoán
thuộc về trách nhiệm của cơ quan quản lý nhà nước.
Trong thời gian qua, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đã thực hiện giám sát và
đánh giá hoạt động các công ty chứng khoán nhưng công tác này còn mang nặng tính thủ
công và việc đánh giá chỉ dừng lại ở các chỉ tiêu mang tính định lượng. Việc đánh giá này
chưa có tính thống nhất và chủ yếu dựa trên cơ sở báo cáo tài chính của các công ty
chứng khoán.
Với điều kiện và tình hình phát triển của thị trường chứng khoán như hiện nay,
việc áp dụng các phương pháp đánh giá có tính chất định lượng không đáp ứng đầy đủ
yêu cầu về quản lý cũng như chưa đáp ứng được đòi hỏi cấp bách về tính lành mạnh,
minh bạch trong báo cáo tài chính của các tổ chức trung gian trên thị trường.
Xuất phát từ các lý do trên, em đã nghiên cứu và lựa chọn thực hiện đề tài “Giải
pháp tăng cường giám sát hoạt động các cồng ty chứng khoán trên thị trường chứng

khoán Việt Nam”.
2
SV: Ngô Thị Hồng Duyên

2

Lớp: CQ47/17.01


Luận văn tốt nghiệp

Học viện tài chính

2. Mục đích nghiên cứu

Đề tài nghiên cứu cơ sở lý luận chung về công ty chứng khoán và giám sát hoạt
động của công ty chứng khoán từ phía nhà nước. Trên cơ sở những nghiên cứu đó, đề tài
phân tích thực trạng hoạt động giám sát của Ủy ban Chứng khoán Nhà nước đối với các
công ty chứng khoán tại Việt Nam hiện nay nhằm tìm ra những tồn tại và nguyên nhân,
qua đó đề xuất một số giải pháp va kiến nghị nhằm hoàn thiện hoạt động giám sát các
công ty chứng khoán tại Việt Nam.
3. Đối tượng, phạm vi và phương pháp nghiên cứu
Đề tài lấy hoạt động công ty chứng khoán và việc giám sát của Ủy ban Chứng
khoán Nhà nước đối với hoạt động của các công ty chứng khoán tại Việt Nam trong các
năm 2009, 2011 và 6 tháng đầu năm 2012 làm đối tượng nghiên cứu.
Phạm vi nghiên cứu giới hạn ở một số vấn đề lý luận, thực tiễn có liên quan trực
tiếp đến công ty chứng khoán và việc giám sát của Ủy ban Chứng khoán đối với hoạt
động của các công ty chứng khoán.
Phương pháp nghiên cứu của đề tài là sử dụng các phương pháp nghiên cứu khoa
học để phân tích lý luận, giải quyết thực tiễn như phương pháp đối chiếu so sánh, phương

pháp phân tích hoạt động kinh tế và vận dụng các phương pháp tổng hợp, kết hợp lý luận
với thực tiễn, đồng thời đưa ra hệ thống các biện pháp nhằm tăng cường giám sát hoạt
động các công ty chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam.
4. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu và kết luận, luận văn được kết cầu gồm 3 chương như sau:
-

Chương I: Công ty chứng khoán và giám sát hoạt động công ty chứng khoán.
Chương II: Thực trạng hoạt động giám sát đối với các công ty chứng khoán ở

-

Việt Nam trong những năm qua.
Chương III: Một số giải pháp tăng cường hoạt động giám sát các công ty
chứng khoán trên thị trường chứng khoán Việt Nam
CHƯƠNG I.

CÔNG TY CHỨNG KHOÁN VÀ GIÁM SÁT HOẠT ĐỘNG
CÔNG TY CHỨNG KHOÁN
1.1.
Những vấn đề cơ bản về cồng ty chứng khoán.
1.1.1. Khái niệm

3
SV: Ngô Thị Hồng Duyên

3

Lớp: CQ47/17.01



Luận văn tốt nghiệp

Học viện tài chính

Dưới góc độ pháp lý, công ty chứng khoán được hiểu là doanh nghiệp được thành
lập có điều kiện theo quy định pháp luật của từng nước để thực hiện hoạt động kinh
doanh chứng khoán. Về cơ bản, để được thành lập và hoạt động, công ty chứng khoán
phải đáp ứng các điều kiện sau:
a.

Điều kiện về trụ sở: Do đặc trưng của hoạt động kinh doanh chứng khoán và đảm bảo
hiệu quả hoạt động của công ty chứng khoán, công ty chứng khoán phải đáp ứng các quy
định về địa điểm kinh doanh cố định và có thiết bị giao dịch đủ tiêu chuẩn.

b.

Điều kiện về vốn: Công ty chứng khoán phải có mức vốn điều lệ tối thiểu bằng vốn pháp
định. Vốn pháp định thường được quy định cụ thể cho từng loại hình nghiệp vụ và một
công ty chứng khoán tham gia thực hiện càng nhiều nghiệp vụ thì càng yêu cầu có nhiều
vốn;

c.

Điều kiện về nhân sự: Những người quản lý hay nhân viên của công ty chứng khoán phải
có đầy đủ kiến thức, kinh nghiệm cũng như độ tín nhiệm và tính trung thực. Thông
thường, tất cả các nước đều yêu cầu nhân viên của công ty chứng khoán phải có giấp
phép hành nghề.
1.1.2.


Mô hình tổ chức
Hiện nay trên thế giới tồn tại hai mô hình tổ chức của công ty chứng khoán là mô

hình công ty chứng khoán đa năng và mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh.
 Mô hình công ty chứng khoán đa năng

Theo mô hình công ty đa năng, công ty chứng khoán là một bộ phận cấu thành của
ngân hàng thương mại. Hay nói cách khác, ngân hàng thương mại kinh doanh trên cả hai
lĩnh vực là tiền tệ và chứng khoán.
Ngân hàng thương mại là những công ty có số vốn khổng lồ và sẵn sàng gia nhập
những ngành có lợi nhuận cao. Với lợi thế về kinh nghiệm, vốn và chuyên môn, ngân
hàng thương mại sẽ dễ dàng trong kinh doanh, cung ứng những dịch vụ tài chính đa dạng
phong phú liên quan đến tài chính tiền tệ, kinh doanh chứng khoán và các hoạt động khác
trong lĩnh vực tài chính.
Mô hình công ty chứng khoán đa năng có ưu điểm là có thể giảm bớt được rủi ro
hoạt động kinh doanh chung, khả năng chịu đựng các biến động của TTCK là cao. Mặt
4
SV: Ngô Thị Hồng Duyên

4

Lớp: CQ47/17.01


Luận văn tốt nghiệp

Học viện tài chính

khác, ngân hàng tận dụng được các thế mạnh về vốn để kinh doanh chứng khoán, khách
hàng có thể sử dụng được nhiều dịch vụ đa dạng và lâu năm của ngân hàng. Tuy nhiên,

mô hình này cũng có nhược điểm là công ty có thể sẽ lợi dụng những ưu thế của mình để
lũng đoạn thị trường.
Sơ đồ 1.1: Mô hình CTCK đa năng hoàn toàn.

NGÂN HÀNG

CHỨNG KHOÁN

TIỀN TỆ

BẢO HIỂM

Tại Việt Nam, do quy mô các ngân hàng thương mại nói chung là rất nhỏ bé, và
đặc biệt vốn dài hạn rất thấp, hoạt động của các ngân hàng thương mại Việt Nam chủ yếu
trong lĩnh vực thương mại ngắn hạn, trong khi hoạt động của TTCK thuộc lĩnh vực vốn
dài hạn. Khả năng khắc phục những yếu điểm này của ngân hàng Việt Nam còn rất lâu
dài. Do đó, để bảo vệ an toàn cho các ngân hàng, Nghị định 144/CP về chứng khoán và
TTCK quy định các ngân hàng thương mại muốn kinh doanh chứng khoán phải tách ra
một phần vốn tự có của mình thành lập một công ty chứng khoán chuyên doanh trực
thuộc, hạch toán độc lập với ngân hàng.
 Mô hình công ty chứng khoán chuyên doanh

Theo mô hình này, hoạt động kinh doanh chứng khoán sẽ do các công ty chứng
khoán độc lập, chuyên môn hoá trong lĩnh vực chứng khoán đảm nhận. Mô hình này giúp
hạn chế rủi ro cho các ngân hàng và các tổ chức tài chính trên thị trường, tạo điều kiện
cho TTCK phát triển do tính chuyên môn hóa cao hơn.
5
SV: Ngô Thị Hồng Duyên

5


Lớp: CQ47/17.01


Luận văn tốt nghiệp

Học viện tài chính

Sơ đồ 1.2: Mô hình CTCK chuyên doanh

HĐQT

BAN KIỂM SOÁT

BAN LÃNH ĐẠO

PHÒNG BẢO LÃNH PHÁT HÀNH

PHÒNG MÔI GIỚI

PHÒNG QUẢN LÝ TÀI SẢN

PHÒNG TỰ DOANH

PHÒNG TƯ VẤN

1.1.3. Các nguyên tắc chung trong hoạt động kinh doanh chứng khoán của CTCK.

Pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán của các nước đều quy định
những nguyên tắc bắt buộc cần tuân thủ trong hoạt động kinh doanh chứng khoán đối với

các công ty chứng khoán, gồm:
6
SV: Ngô Thị Hồng Duyên

6

Lớp: CQ47/17.01


Luận văn tốt nghiệp

Học viện tài chính

-

Giao dịch trung thực và công bằng, vì lợi ích của khách hàng;

-

Tuân thủ đạo đức nghề nghiệp;

-

Liêm trực và thực hiện hoạt động kinh doanh một cách công bằng;

-

Hoàn thành nghĩa vụ của mình với khách hàng một cách tốt nhất;

-


Đảm bảo nguồn lực về con người, vốn và cơ sở vật chất cần thiết khác để thực
hiện hoạt động kinh doanh chứng khoán và ban hành bằng văn bản các quy trình thực
hiện nghiệp vụ kinh doanh phù hợp;
Chỉ được đưa ra lời tư vấn phù hợp với khách hàng trên cơ sở nỗ lực thu thập

-

thông tin về khách hàng;
Phải cung cấp cho khách hàng thông tin đầy đủ, kịp thời, trung thực và cần thiết

-

cho việc ra quyết định đầu tư của khách hàng;
Phải thận trọng không được tạo ra xung đột lợi ích với khách hàng. Trong trường

-

hợp không thể tránh được, công ty phải thông báo trước cho khách hàng và/hoặc áp dụng
các biện pháp cần thiết để đảm bảo đối xử công bằng với khách hàng;
Ban hành và áp dụng các quy trình nghiệp vụ trong công ty phù hợp với quy định

-

của Luật Chứng khoán và các văn bản pháp luật liên quan.
1.1.4.

Các hoạt động kinh doanh của CTCK

Tùy đặc điểm hệ thống tài chính từng nước, các loại hình kinh doanh dịch vụ của các

công ty chứng khoán cũng có một số nét khác nhau. Các công ty chứng khoán có thể là
những công ty chuyên một loại hình nghiệp vụ hoặc là những công ty đa dịch vụ hoạt
động trên nhiều lĩnh vực kinh doanh chứng khoán. Tuy nhiên, nhìn chung, hoạt động
chính của các công ty chứng khoán là môi giới chứng khoán, tự doanh chứng khoán, bảo
lãnh phát hành chứng khoán và tư vấn đầu tư chứng khoán. Theo thời gian, do đòi hỏi
của thị trường và nhu cầu phát triển của bản thân các công ty chứng khoán, xuất hiện
ngày càng nhiều các nghiệp vụ phát sinh như cho vay ký quỹ, tư vấn tài chính cá nhân…
Đồng thời, các công ty chứng khoán ngày nay còn hoạt động tích cực trên cả các lĩnh vực
kinh doanh bảo hiểm và ngân hàng.
1.1.4.1.

Hoạt động môi giới chứng khoán

7
SV: Ngô Thị Hồng Duyên

7

Lớp: CQ47/17.01


Luận văn tốt nghiệp

Học viện tài chính

Môi giới chứng khoán là một hoạt động kinh doanh chứng khoán trong đó, công ty
chứng khoán đại diện cho khách hàng (người mua/người bán) tiến hành giao dịch thông
qua cơ chế giao dịch tại Sở Giao dịch chứng khoán hay thị trường OTC mà chính khách
hàng phải chịu trách nhiệm đối với kết quả kinh tế của việc giao dịch đó.
Có thể nói, môi giới là một trong những nghiệp vụ quan trọng của các công ty

chứng khoán. Bên cạnh việc đem lại một phần lớn thu nhập cho các công ty chứng
khoán, hoạt động môi giới còn tạo ra một cơ sở khách hàng quan trọng cho các công ty
chứng khoán khi thực hiện phân phối các loại chứng khoán mới phát hành trong các đợt
bảo lãnh phát hành.
Chức năng của hoạt động này bao gồm:
Thực hiện giao dịch mua bán chứng khoán cho khách hàng bằng việc nhận lệnh

-

của khách hàng và thông qua cơ chế giao dịch của Sở giao dịch chứng khoán để tìm ra
mức giá tốt nhất cho khách hàng và khách hàng phải chịu trách nhiệm hoàn toàn về kết
quả đầu tư.
Cung cấp dịch vụ tiện ích giúp khách hàng thực hiện các quyết định của mình như

-

tư vấn đầu tư trực tiếp cho khách hàng, giúp khách hàng lựa chọn loại chứng khoán, thời
điểm nên mua/bán; cung cấp các báo cáo giao dịch có nghiên cứu, phân tích, đánh giá
diễn biến giao dịch theo thời gian đưa ra nhận định mang tính chủ quan về xu hướng giá
và khuyên nghị đầu tư; cung cấp thông tin về các tổ chức niêm yết…
Trong hoạt động môi giới, công ty chứng khoán phải tuân thủ nguyên tắc minh
bạch, công khai và tận tụy với khách hàng, vì quyền lợi của khách hàng. Đồng thời,
không được đưa ra ý kiến tư vấn mang tính chất khẳng định về tiềm năng lợi nhuận hoặc
phao tin đồn nhằm thu hút khách hàng vào các mục đích riêng.
1.1.4.2.

Hoạt động tự doanh chứng khoán
Tự doanh chứng khoán là việc công ty chứng khoán tự tiến hành giao dịch mua

bán các chứng khoán cho chính mình.

Hoạt động tự doanh của công ty chứng khoán có thể được thực hiện trên thị trường
giao dịch tập trung (Sở giao dịch chứng khoán) hoặc trên thị trường OTC, … Trên thị
trường giao dịch tập trung lệnh giao dịch của công ty chứng khoán được đưa vào hệ
8
SV: Ngô Thị Hồng Duyên

8

Lớp: CQ47/17.01


Luận văn tốt nghiệp

Học viện tài chính

thống và được thực hiện tương tự như lệnh giao dịch của khách hàng. Trên thị trường
OTC, các hoạt động này có thể được thực hiện trực tiếp giữa một tổ chức với các đối tác
hoặc thông qua một hệ thống mạng thông tin. Trong hoạt động này, công ty chứng khoán
cũng là một nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán như các nhà đầu tư khác. Các rủi ro
phát sinh từ hoạt động tự doanh do công ty chứng khoán tự gánh chịu. Việc thu được lãi
hay chịu lỗ sẽ phụ thuộc vào chênh lệch giữa giá mua - bán chứng khoán và biến động
chung của giá chứng khoán do họ nắm giữ. Khi thực hiện hoạt động tự doanh, công ty
chứng khoán phải tuân thủ nguyên tắc tách bạch với các hoạt động khác đặc biệt là hoạt
động môi giới. Công ty chứng khoán không được mua, bán chứng khoán tranh với khách
hàng. Để đảm bảo hạn chế rủi ro, công ty chứng khoán cũng phải tuân thủ một số hạn
mức nhất định khi đầu tư vào các loại chứng khoán. Các hạn chế này thường được cụ thể
trong các văn bản quy phạm pháp luật.
Bên cạnh việc mang lại lợi nhuận cho công ty chứng khoán, hoạt động tự doanh
của công ty chứng khoán còn có nghĩa vụ bình ổn thị trường trong một số trường hợp cần
thiết, đặc biệt đối với hình thức tạo lập thị trường. Với khả năng chuyên môn và nguồn

vốn tương đối lớn của mình, công ty chứng khoán có thể thông qua hoạt động tự doanh
góp phần rất lớn trong việc điều tiết cung cầu, bình ổn giá cả của các loại chứng khoán
trên thị trường. Thông thường, chức năng bình ổn giá cả thị trường không phải là quy
định bắt buộc trong hệ thống pháp luật của các nước, tuy nhiên đây thường là nguyên tắc
nghề nghiệp do hiệp hội kinh doanh chứng khoán đặt ra trên thị trường và trong quá trình
hoạt động công ty chứng khoán phải tuân thủ.
1.1.4.3.

Hoạt động bảo lãnh phát hành
Bảo lãnh phát hành chứng khoán là việc tổ chức bảo lãnh giúp tổ chức phát hành

(tổ chức được bảo lãnh) huy động vốn trên thị trường. Sự hỗ trợ đó giúp đơn vị phát hành
nắm chắc khả năng huy động vốn và đảm bảo kế hoạch sử dụng vốn huy động.
Bảo lãnh phát hành là nghiệp vụ quan trọng của công ty chứng khoán, có thể nói
đây là một trong những hoạt động mang lại nguồn thu nhập và cơ sở khách hàng lớn nhất
cho công ty chứng khoán. Thông thường, khi thực hiện bảo lãnh phát hành, công ty
chứng khoán sẽ áp dụng một trong ba hình thức bảo lãnh sau:
9
SV: Ngô Thị Hồng Duyên

9

Lớp: CQ47/17.01


Luận văn tốt nghiệp
a.

Học viện tài chính


Bảo lãnh chắc chắn: là hình thức bảo lãnh mà công ty chứng khoán (tổ chức bảo lãnh
phát hành) nhận mua toàn bộ chứng khoán trong đợt phát hành của tổ chức phát hành,
sau đó bán chứng khoán ra công chúng. Giá mua của tổ chức bảo lãnh là một mức giá đã
được ấn định, thường thấp hơn giá thị trường. Giá bán của tổ chức bảo lãnh là giá thị
trường. Đây là hình thức tổ chức bảo lãnh hoạt động kinh doanh, hoạt động cho chính họ
và gánh toàn bộ rủi ro của đợt phát hành.

b.

Bảo lãnh cố gắng tối đa: là hình thức bảo lãnh mà tổ chức bảo lãnh hứa sẽ cố gắng đến
mức tối đa để bán hết số chứng khoán cần phát hành cho tổ chức phát hành. Trường hợp
không bán hết, số chứng khoán còn lại được trả về cho tổ chức phát hành. Tổ chức bảo
lãnh được hưởng hoa hồng trên số chứng khoán đã được bán ra.

c.

Bảo lãnh đảm bảo tất cả hoặc không: là trường hợp áp dụng khi tổ chức phát hành chứng
khoán cần một số vốn nhất định để giải quyết một mục tiêu nhất định. Nếu huy động
được đủ số vốn cần thiết đó thì sẽ thực hiện phát hành, nếu không đủ sẽ hủy bỏ. Cũng có
thể, để cho việc chào bán có hiệu quả, nhẹ nhàng hơn trong trách nhiệm của tổ chức bảo
lãnh, tổ chức phát hành yêu cầu phải phát hành được một số lượng chứng khoán tối thiểu
nào đó trong tổng số chứng khoán cần phát hành, nếu đạt được số tối thiểu này thì số còn
lại sẽ phát hành tiếp, nếu không đạt được số tối thiểu đó sẽ hủy bỏ toàn bộ.
1.1.4.4.

Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán
Khi chúng ta chuẩn bị tiến hành một hoạt động nào đó, nếu như ta không có

chuyên môn hoặc không thành thạo về lĩnh vực đó thì chúng ta có nhu cầu sử dụng dịch
vụ tư vấn của tổ chức, cá nhân tư vấn chuyên nghiệp. Trong lĩnh vực chứng khoán và thị

trường chứng khoán, cũng có dịch vụ tư vấn đầu tư chứng khoán. Cũng như các hoạt
động tư vấn khác, nội dung của hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán là trên cơ sở thu
thập, xử lý thông tin đưa ra những lời khuyên, phân tích các tình huống hay cung cấp một
số công việc có tính chất dịch vụ cho khách hàng.
Như vậy, hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán có ảnh hưởng rất lớn tới quyết
định đầu tư của người sử dụng dịch vụ tư vấn, do đó khi hành động nhà tư vấn cần đặt ra
và tuân theo một số nguyên tắc nhất định, cụ thể:
Tuân thủ pháp luật và đạo đức nghề nghiệp.

-

10
SV: Ngô Thị Hồng Duyên

10

Lớp: CQ47/17.01


Luận văn tốt nghiệp

Học viện tài chính

-

Không đảm bảo chắc chắc về giá trị của chứng khoán.

-

Luôn nhắc nhở khách hàng rằng những lời tư vấn của mình chỉ mang tính tham

khảo và có thể không hoàn toàn chính xác và khách hàng cần hiểu rằng nhà tý vấn sẽ
không chịu trách nhiệm về những lời tý vấn đó trong một số trường hợp.
Không được dụ dỗ, mời gọi khách hàng mua hay bán một loại chứng khoán nào

-

đó, những lời tư vấn phải được xuất phát từ những cơ sở khách quan, là sự phân tích tổng
hợp một cách logic, khoa học.
Giữ bí mật các thông tin nhận được từ người sử dụng tư vấn trong quá trình cung

-

ứng dịch vụ tư vấn trừ trường hợp khách hàng đồng ý hoặc một số trường hợp đặc biệt.
Mua bảo hiểm trách nhiệm nghề nghiệp.

1.1.4.5.

Các hoạt động khác:
Ngoài các hoạt động nêu trên, công ty chứng khoán còn thực hiện các hoạt động tư

vấn tài chính, với khả năng chuyên môn của mình, công ty chứng khoán hỗ trợ khách
hàng trong việc lập và thực hiện các kế hoạch tài chính quan trọng nhằm tối đa hóa lợi
ích của doanh nghiệp, đảm bảo đầy đủ các nguồn lực tài chính cần thiết cho các hoạt
động sản xuất kinh doanh cũng như tái cấu trúc doanh nghiệp để đạt được hiệu quả hoạt
động cao nhất cho doanh nghiệp.
Mặt khác, để tăng cường tiện ích và chất lượng của các dịch vụ cung cấp cho
khách hàng, công ty chứng khoán còn cung cấp dịch vụ khác như lưu ký, thanh toán bù
trừ, đăng ký chứng khoán, đại lý chuyển nhượng… hoặc kết hợp với các tổ chức khác
như ngân hàng thương mại, công ty tài chính… để cung cấp dịch vụ cho khách hàng như
ứng trước tiền bán chứng khoán, cho vay cầm cố chứng khoán… Trên thực tế, tất cả các

hoạt động kinh doanh, dịch vụ của công ty chứng khoán đều có những mối quan hệ hữu
cơ với nhau, nghiệp vụ này là tiền đề cho các nghiệp vụ khác phát triển và đồng thời cũng
là kết quả, là sự kế thừa từ thành công của các nghiệp vụ khác. Tất cả các hoạt động này
luôn gắn kết với nhau tạo ra cho công ty chứng khoán có một ưu thế đặc thù, một khả
năng cạnh tranh vượt trội so với các loại hình công ty khác. Xu thế phát triển nổi bật hiện
nay trên thế giới là đang có sự giao thoa, kết hợp của các dịch vụ tài chính. Theo đó, ranh
giới giữa các loại hình tổ chức tài chính truyền thống ngày càng mờ nhạt, thay vào đó,
11
SV: Ngô Thị Hồng Duyên

11

Lớp: CQ47/17.01


Luận văn tốt nghiệp

Học viện tài chính

các tổ chức tài chính khổng lồ với mọi loại hình sản phẩm dịch vụ từ ngân hàng tới chứng
khoán, bảo hiểm, quản lý tài sản đang xuất hiện ngày càng nhiều, tạo cho khách hàng sự
lựa chọn đa dạng, đồng bộ và tiện lợi.
1.1.5.

Vai trò công ty chứng khoán trên TTCK
Về cơ bản, công ty chứng khoán là một định chế tài chính trung gian quan trọng

trên thị trường chứng khoán nói riêng và thị trường tài chính nói chung. Các công ty
chứng khoán là nhân tố quan trọng thúc đẩy sự phát triển của thị trường chứng khoán.
Thông qua đó, CTCK có vai trò thúc đẩy sự phát triển của cả nền kinh tế. Thực tiễn cho

thấy, nền kinh tế của các nước phát triển và cả nền kinh tế các nước đang phát triển
không thể thiếu vắng sự xuất hiện và ngày càng lớn mạnh của TTCK và hệ thống các
CTCK. Thông qua các các nghiệp vụ hoạt động của công ty chứng khoán, CTCK đã thực
sự tạo ra ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự phát triển của TTCK nói riêng và của cả nền kinh tế
nói chung. Công ty chứng khoán đã trở thành tác nhân quan trọng không thể thiếu trong
quá trình phát triển kinh tế. Vai trò của các CTCK thể hiện qua những khía cạnh chủ yếu
sau:
a.

Vai trò trung gian huy động vốn:

Cùng với ngân hàng, công ty chứng khoán là một trung gian tài chính có vai trò
huy động vốn, làm cầu nối, là kênh dẫn vốn từ một hay một số bộ phận của nền kinh tế
có vốn dư thừa (vốn nhàn rỗi) đến các bộ phận khác của nền kinh tế có nhu cầu về vốn
(thiếu vốn, cần huy động vốn) và tham gia hầu hết vào quá trình luân chuyển của chứng
khoán: từ khâu phát hành trên thị trường sơ cấp đến khâu giao dịch mua bán trên thị
trường thứ cấp.
Trên thị trường sơ cấp:

-

+ Công ty chứng khoán là cầu nối giữa nhà phát hành và nhà đầu tư, giúp các tổ
chức phát hành huy động vốn một cách nhanh chóng thông qua nghiệp vụ bảo lãnh phát
hành.
+ Một doanh nghiệp khi thực hiện huy động vốn bằng cách phát hành chứng
khoán, thường họ không tự bán chứng khoán của mình mà thông qua một tổ chức chuyên

12
SV: Ngô Thị Hồng Duyên


12

Lớp: CQ47/17.01


Luận văn tốt nghiệp

Học viện tài chính

nghiệp tư vấn và giúp họ phát hành chứng khoán. Đó là các tổ chức trung gian tài chính
như ngân hàng, công ty chứng khoán…
+ CTCK với nghiệp vụ chuyên môn, kinh nghiệp nghề nghiệp và bộ máy tổ chức
thích hợp, họ thực hiện tốt vai trò trung gian môi giới mua bán, phát hành chứng khoán,
tư vấn đầu tư và thực hiện một số dịch vụ khác cho cả người đầu tư và người phát hành.
Với nghiệp vụ này, CTCK thực hiện vai trò làm cầu nối và là kênh dẫn vốn từ nơi thừa
đến nơi thiếu.
Trên thị trường thứ cấp:

-

Công ty chứng khoán giúp cho người đầu tư tìm đến với nhau, để thỏa mãn nhu
cầu đầu tư hoặc nhu cầu về vốn, tạo sự luân chuyển vốn giữa các nhà đầu tư.
Công ty chứng khoán là cầu nối giữa các nhà đầu tư, là trung gian chuyển các
khoản đầu tư thành tiền và ngược lại. Trong môi trường đầu tư ổn định, các nhà đầu tư
luôn chuộng những chứng khoán có tính thanh khoản cao, vì họ luôn có nhu cầu chuyển
đổi số vốn tạm thời nhàn rỗi thành các khoản đầu tư và ngược lại. Công ty chứng khoán
với nghiệp vụ môi giới, tư vấn đầu tư đảm nhận tốt vai trò chuyển đổi này, giúp cho các
nhà đầu tư giảm thiểu thiệt hại về giá trị khoản đầu tư của mình.
b.


Vai trò góp phần điều tiết và bình ổn giá trên thị trường

Từ sau cuộc khủng hoảng của thị trường chứng khoán thế giới năm 1929, chính
phủ các nước đã ban hành những luật lệ bổ sung cho hoạt động của thị trường chứng
khoán, trong đó đòi hỏi một sự phối hợp giữa Nhà nước với các thành viên tham gia Sở
giao dịch chứng khoán nhằm ngăn chặn những cơn khủng hoảng giá chứng khoán có thể
xảy ra trên thị trường, vì nếu thị trường chứng khoán bị khủng hoảng thì không những
nền kinh tế bị ảnh hưởng mà ngay cả quyền lợi nhà đầu tư, các công ty chứng khoán cùng
bị ảnh hưởng.
Theo quy định của các nước, các công ty chứng khoán có nghiệp vụ tự doanh phải
dành ra một tỷ lệ nhất định giao dịch của mình để mua chứng khoán vào khi giá giảm và
bán chứng khoán dự trữ ra khi giá lên quá cao nhằm góp phần điều tiết và bình ổn giá
trên thị trường.

13
SV: Ngô Thị Hồng Duyên

13

Lớp: CQ47/17.01


Luận văn tốt nghiệp

Học viện tài chính

Tất nhiên, sự can thiệp của các công ty chứng khoán chỉ có hạn, phụ thuộc vào
nguồn vốn tự doanh và quỹ dự trữ chứng khoán. Tuy vậy, nó vẫn có ý nghĩa nhất định, có
tác động đến tâm lý của các nhà đầu tư trên thị trường. Với vai trò này, các CTCK góp
phần tích cực vào sự tồn tại và phát triển bền vững của thị trường chứng khoán.

c.

Vai trò cung cấp các dịch vụ cho thị trường chứng khoán:

CTCK với các chức năng và nghiệp vụ của mình cung cấp các dịch vụ cần thiết
góp phần cho thị trường chứng khoán hoạt động ổn định, cụ thể:
Thực hiện tư vấn đầu tư, góp phần giảm chi phí giao dịch cho nhà đầu tư: thị

-

trường chứng khoán cũng tương tự như tất cả các thị trường khác, để tiến hành giao dịch,
người mua, người bán phải có cơ hội gặp nhau, thẩm định chất lượng hàng hóa và thỏa
thuận giá cả. Tuy nhiên, TTCK với những đặc trưng riêng của nó như người mua người
bán có thể ở rất xa nhau, hàng hóa là “vô hình”, vì vậy để cung cầu gặp nhau, thẩm định
chất lượng, xác định giá cả thì phải mất rất nhiều thời gian, công sức, tiền bạc cho một
giao dịch để phục vụ cho việc thu thập, phân tích, xử lý thông tin… Công ty chứng khoán
với lợi thế chuyên môn hóa, trình độ kinh nghiệp nghề nghiệp sẽ thưc hiện tốt vai trò
trung gian mua bán chứng khoán, giúp các nhà đầu tư giảm được chi phí trong từng giao
dịch.
Cung cấp cơ chế xác định giá cho các khoản đầu tư: công ty chứng khoán thông

-

qua Sở giao dịch và thị trường OTC cung cấp một cơ chế xác định giá nhằm giúp các nhà
đầu tư đánh giá đúng thực tế và chính xác các khoản đầu tư của mình.
+ Trên thị trường sơ cấp: khi thực hiện nghiệp vụ bảo lãnh phát hành chứng
khoán, các CTCK thực hiện vai trò tạo cơ chế giá chứng khoán thông qua việc xác định
và tư vấn cho các tổ chức phát hành mức giá phát hành hợp lý.
+ Trên thị trường thứ cấp: tất cả các lệnh mua bán thông qua các CTCK được tập
trung tại thị trường giao dịch và trên cơ sở đó, giá chứng khoán được xác định theo quy

luật cung cầu.
Ngoài ra, CTCK còn cung cấp nhiều dịch vụ khác hỗ trợ giao dịch chứng khoán.
Với các nghiệp vụ đa dạng của mình, công ty chứng khoán giữ vai trò quan trọng trong

14
SV: Ngô Thị Hồng Duyên

14

Lớp: CQ47/17.01


Luận văn tốt nghiệp

Học viện tài chính

việc phát triển của thị trường chứng khoán, là chất “xúc tác”, không thể thiếu cho hoạt
động của TTCK.
d.

Trợ giúp các doanh nghiệp trong việc tiếp cận với các chuẩn mực hoạt động hiện đại
Bên cạnh vai trò tạo lập kênh huy động vốn, các công ty chứng khoán còn giúp các
doanh nghiệp có cơ hội tiếp cận và ứng dụng những công nghệ quản trị kinh doanh hiện
đại. Với hệ thống khách hàng và những mối quan hệ rộng rãi, các công ty chứng khoán
còn là cấu nối cho doanh nghiệp với các nhà đầu tư có nhiều tiềm năng về vốn và công
nghệ. Khi tham gia đầu tư vào doanh nghiệp, nhà đầu tư không chỉ mang vào vốn, kỹ
năng quản trị mà còn cả những mối quan hệ khách hàng, thị trường tiềm năng… Những
yếu tố này sẽ giúp cho các doanh nghiệp nâng cao được khả năng quản trị, tăng cường
sức cạnh tranh và phát triển thị trường mới. Bên cạnh đó, khi cung cấp các dịch vụ tư vấn
tài chính, các công ty chứng khoán còn giúp các doanh nghiệp tăng cường tính minh bạch

và công khai về tài chính. Điều này sẽ là một yếu tố quan trọng để các doanh nghiệp thu
hút được các nhà đầu tư tiềm năng bên ngoài. Hơn nữa, đây sẽ là một điều kiện quan
trọng để các doanh nghiệp chuẩn bị cho quá trình niêm yết chứng khoán trên các Sở giao
dịch chứng khoán.
1.2.

Giám sát hoạt động CTCK.

1.2.1.

Khái niệm về giám sát hoạt động CTCK
Giám sát thị trường chứng khoán: bao gồm những hoạt động nhằm theo dõi và

kiểm tra việc tuân thủ các quy định của pháp luật của các thành viên tham gia thị trường
chứng khoán, phát hiện các hành vi vi phạm của các đối tượng này với mục đích bảo vệ
nhà đầu tư. Các hoạt động giám sát trên thị trường chứng khoán thường do cơ quan quản
lý chứng khoán, các tổ chức như SGDCK, Hiệp hội giao dịch chứng khoán thực hiện
nhằm đảm bảo thị trường hoạt động công bằng, công khai và minh bạch.
Hệ thống giám sát: bao gồm hệ thống nhân sự trong các cơ quan, tổ chức thực hiện
giám sát, hệ thống pháp lý và hệ thống công nghệ thông tin hỗ trợ công tác giám sát.
Tuỳ theo từng mô hình giám sát, hệ thống nhân sự giám sát được sắp xếp theo các
cấp giám sát do các đơn vị thực hiện chức năng quản lý và giám sát thị trường khác nhau
thực hiện. Hệ thống pháp lý bao gồm các quy định về chứng khoán và thị trường chứng
15
SV: Ngô Thị Hồng Duyên

15

Lớp: CQ47/17.01



Luận văn tốt nghiệp

Học viện tài chính

khoán, các quy định và tiêu chí giám sát, quy định về cưỡng chế thực thi trên thị trường
chứng khoán. Hệ thống công nghệ thông tin được xây dựng để lưu trữ, theo dõi, phân tích
và xử lý dữ liệu giao dịch của các đối tượng tham gia thị trường nhằm phát hiện các hành
vi giao dịch bất thường, xác định và ngăn ngừa các hành vi vi phạm.
Một hệ thống giám sát hiệu quả đòi hỏi cơ quan quản lý phải được báo cáo đầy đủ
các thông tin được doanh nghiệp sử dụng làm số liệu kiểm toán và có các công cụ giám
sát thị trường khác như: Điểm mấu chốt của hoạt động giám sát là quản lý được thông tin,
đặc biệt thông tin cần thiết để xác định tính minh bạch về giá chứng khoán. Ở các quốc
gia chưa xây dựng hệ thống để thực hiện các hoạt động giám sát, cơ quan quản lý phải
dựa vào việc kiểm tra các nhân viên môi giới - tự doanh, hoặc khiếu nại của nhà đầu tư.
Một hệ thống đầy đủ các thông tin giao dịch cho phép tạo một cơ sở dữ liệu giám sát và
các công cụ phù hợp để giám sát thị trường.
Như vậy, có thể nói giám sát hoạt động công ty chứng khoán là một bộ phận hoạt
động cấu thành hoạt động giám sát thị trường. Hoạt động giám sát công ty chứng khoán
dựa trên các hoạt động cụ thể, các số liệu, tài liệu báo cáo để phân tích, đối chiếu với các
quy định trong văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán, sớm phát
hiện các dấu hiệu thiếu sót hoặc vi phạm của công ty chứng khoán. Có hai hình thức
giám sát công ty chứng khoán, giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ.
Giám sát từ xa là các hoạt động theo dõi, xem xét và nhận định về một việc làm

-

nào đó của công ty chứng khoán đã được thực hiện đúng hay sai so với những quy định
của pháp luật hiện hành. Giám sát từ xa không chỉ là công cụ để các cơ quan chức năng
quản lý nhà nước thực hiện chức năng quản lý nhà nước của mình, mà còn là công cụ

hữu hiệu để các công ty chứng khoán sử dụng trong hoạt động của mình nhằm đảm bảo
sự tuân thủ pháp luật cũng như các quy định của chính tổ chức đó.
Kiểm tra tại chỗ hoạt động công ty chứng khoán là hoạt động kiểm tra việc làm

-

của công ty chứng khoán theo một trình tự, thủ tục do luật pháp quy định nhằm kết luận
đúng, sai, đánh giá ưu điểm, khuyết điểm, phát huy nhân tố tích cực, phòng ngừa, xử lý
các vi phạm, góp phần hoàn thiện cơ chế quản lý, tăng cường pháp chế, bảo vệ các quyền
và lợi ích hợp pháp của các chủ thể tham gia thị trường chứng khoán, cụ thể:
16
SV: Ngô Thị Hồng Duyên

16

Lớp: CQ47/17.01


Luận văn tốt nghiệp

Học viện tài chính

(1) Kiểm tra công ty chứng khoán trong trường hợp không đảm bảo duy trì được
đầy đủ các điều kiện cấp phép.
(2) Kiểm tra công ty chứng khoán trong trường hợp công ty chứng khoán có dấu
hiệu lạm dụng tài sản của khách hàng.
(3) Kiểm tra công ty chứng khoán trong trường hợp việc quản trị điều hành công
ty có dấu hiệu yếu kém và vi phạm điều lệ công ty.
(4) Kiểm tra công ty chứng khoán trong trường hợp báo cáo tài chính có dấu hiệu
bất thường, ý kiến kiểm toán ngoại trừ trọng yếu.

(5) Các trường hợp khác theo yêu cầu của cơ quan quản lý.
Giữa hoạt động giám sát từ xa và kiểm tra tại chỗ công ty chứng khoán có mối
quan hệ mật thiết với nhau. Thông qua hoạt động giám sát từ xa công ty chứng khoán các
dấu hiệu thiếu sót, vi phạm pháp luật của công ty chứng khoán được phát hiện. Các dấu
hiệu này là một trong những thông tin, tư liệu để tiến hành thực hiện kiểm tra tại chỗ
công ty chứng khoán hoặc chuyển tiếp tới bước thanh tra xử lý vi phạm công ty chứng
khoán. Hoạt động kiểm tra tại chỗ công ty chứng khoán được tiến hành dựa trên kết quả
hoạt động giám sát từ xa nhằm làm sáng tỏ dấu hiệu thiếu sót, vi phạm pháp luật của
công ty chứng khoán, từ đó đưa ra kết luận, kiến nghị các biện pháp khắc phục hoặc xử lý
vi phạm.
1.2.2.

Mục tiêu giám sát hoạt động CTCK
Việc thực hiện giám sát các hoạt động của CTCK không chỉ có ý nghĩa đối với

TTCK các nước đang đang phát triển, mà còn rất cần thiết đối với các nước đã có bề dày
phát triển thị trường chứng khoán. Cũng như mục tiêu giám sát TTCK của cơ quan quản
lý, việc thực hiện giám sát hoạt động CTCK là nhằm hướng tới các mục tiêu sau:
-

Bảo vệ các nhà đầu tư.

-

Bảo đảm sự công bằng, hiệu quả và minh bạch của thị trường.

-

Giảm sự rủi ro hệ thống trên thị trường.
Ba mục tiêu trên có liên quan chặt chẽ và xét trên một số khía cạnh, các mục tiêu

này sẽ chồng chéo nhau. Nhiều trong số các quy định về giám sát nhằm đảm bảo công
bằng, hiệu quả và minh bạch thị trường cũng sẽ bảo vệ nhà đầu tư và giúp giảm thiểu rủi
17
SV: Ngô Thị Hồng Duyên

17

Lớp: CQ47/17.01


Luận văn tốt nghiệp

Học viện tài chính

ro hệ thống. Tương tự như vậy, nhiều biện pháp giám sát làm giảm rủi ro hệ thống sẽ bảo
vệ cho nhà đầu tư.
1.2.2.1.

Bảo vệ các nhà đầu tư
Các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán là những đối tượng rất dễ bị xâm hại

do sự quản lý và hoạt động yếu kém của CTCK và các chủ thể khác trên thị trường mà
khả năng tự phòng vệ của từng nhà đầu tư lại bị hạn chế. Mặt khác, sự phức tạp của các
giao dịch chứng khoán và của các thủ đoạn lừa đảo trên thị trường lại thường gây khó
khăn và tổn thất cho họ khi tham gia vào thị trường. Chính vì vậy, các nhà đầu tư cần
phải được bảo vệ, các hành vi sai trái trên thị trường cần phải có sự cưỡng chế mạnh mẽ
việc tuân thủ đạo đức nghề nghiệp từ các quy định của pháp luật về chứng khoán.
Việc cung cấp thông tin đầy đủ, chính xác, trung thực từ phía CTCK cho quyết
định của các nhà đầu tư là một trong những phương tiện quan trọng nhất để bảo vệ nhà
đầu tư. Khi được tiếp nhận kênh thông tin quan trọng này, các nhà đầu tư cần có đủ khả

năng đo lường các rủi ro cũng như các khoản lợi nhuận tiềm năng của các khoản đầu tư
mà họ tiến hành. Vì vậy, cần có những quy định nghiêm ngặt về công bố thông tin từ
phía các chủ thể công ty chứng khoán để bảo vệ lợi ích của các nhà đầu tư.
1.2.2.2.

Bảo đảm sự công bằng, hiệu quả và minh bạch của thị trường
Sự công bằng của thị trường có mối liên hệ mật thiết với việc bảo vệ lợi ích của

các nhà đầu tư, đặc biệt để ngăn chặn các hoạt động giao dịch trái pháp luật của các công
ty chứng khoán khi họ thực hiện kinh doanh chứng khoán cho chính mình (hoạt động tự
doanh chứng khoán). Cấu trúc của thị trường không nên ưu đãi vô lý cho một số người
này hơn những người khác trên thị trường cho dù họ là pháp nhân hay thể nhân, dù là
công ty chứng khoán hay công ty phát hành chứng khoán. Vì vậy, các quy định pháp luật
nên nhằm đảm bảo rằng các nhà đầu tư đều được cung cấp các công cụ như nhau để tham
gia vào thị trường hay để nắm được các thông tin về giá cả và đảm bảo được đối xử công
bằng với lệnh mua, bán chứng khoán của tất cả các nhà đầu tư.
Trong một thị trường hiệu quả, việc cung cấp các thông tin có liên quan phải được
thực hiện đúng thời điểm, công khai và phải phản ánh được các thông tin về giá cả chứng
khoán. Đó chính là những nguyên tắc không thể thiếu trong hoạt động kinh doanh của
18
SV: Ngô Thị Hồng Duyên

18

Lớp: CQ47/17.01


Luận văn tốt nghiệp

Học viện tài chính


công ty chứng khoán. Sự minh bạch của thị trường được quyết định nhiều bởi sự tuân thủ
pháp luật về công bố thông tin của các công ty chứng khoán.
1.2.2.3.

Giảm sự rủi ro hệ thống trên thị trường
Mặc dù không thể ngăn chặn mọi sự đổ vỡ tài chính của các trung gian trên thị

trường nhưng các quy định pháp luật cần hướng tới sự giảm thiểu rủi ro do sự phá sản
của các công ty chứng khoán đem lại (trong đó bao gồm cả các quy định về kiểm soát nội
bộ và các yêu cầu về vốn). Quy định về nguyên tắc hoạt động kinh doanh của công ty
chứng khoán sẽ giảm thiểu sự đổ vỡ tài chính mang tính hệ thống của các trung gian trên
thị trường, hoặc nếu có xảy ra đổ vỡ thì các công ty chứng khoán cũng có thể tự tìm cách
giảm các ảnh hưởng của sự phá sản đó. Vì vậy, các trung gian trên thị trường cần phải
tuân thủ nghiêm ngặt các yêu cầu về mức vốn pháp định, mức vốn trong quá trình hoạt
động và các yêu cầu mang tính cẩn trọng khác do pháp luật quy định.
Tuy nhiên, chấp nhận rủi ro là một yếu tố cần thiết đối với một thị trường năng
động và pháp luật không nên kiềm chế một cách không cần thiết sự chấp nhận sự rủi ro
hợp pháp. Hơn thế, pháp luật nên thúc đẩy và cho phép việc quản lý có hiệu quả rủi ro và
đảm bảo các yêu cầu về vốn và về sự cẩn trọng của các công ty đủ để chấp nhận những
rủi ro thích đáng.
1.2.3.

Các điều kiện thực hiện hoạt động giám sát CTCK
Qua các phần trên, luận văn đã nghiên cứu và đề cập đến vai trò, nội dung và

nguyên tắc giám sát hoạt động của các công ty chứng khoán. Tuy nhiên, để thực hiện tốt,
giám sát có hiệu quả hoạt động công ty chứng khoán không phải là điều đơn giản, đòi hỏi
phải có những tiền đề nhất định.
Điều kiện chung về môi trường hoạt động

Môi trường pháp lý: pháp luật về CK&TTCK nói chung và về CTCK nói riêng thường



gồm 2 loại văn bản pháp luật là các văn bản quy phạm pháp luật chung như Pháp luật về
thương mại, doanh nghiệp, thuế, kế toán, kiểm toán... và các văn bản quy phạm pháp luật
chuyên ngành như Luật chứng khoán , các văn bản hướng dẫn luật do cơ quan quản lý
nhà nước về Ck&TTCK ban hành như văn bản hướng dẫn về tổ chức và hoạt động
CTCK, quy tắc đạo đức nghề nghiệp...
19
SV: Ngô Thị Hồng Duyên

19

Lớp: CQ47/17.01


Luận văn tốt nghiệp


Học viện tài chính

Hệ thống chế độ kế toán, kiểm toán và quy định chế độ công bố thông tin đối với CTCK:
Bên cạnh các quy định pháp lý về chứng khoán và thị trường chứng khoán, các yếu tố về
kế toán, kiểm toán đóng vai trò không nhỏ trong hoạt động kinh doanh chứng khoán của
công ty chứng khoán cũng như quá trình giám sát hoạt động công ty chứng khoán. Mức
độ phát triển của các yếu tố này sẽ tác động đến tính linh hoạt và minh bạch trong các
hoạt động tài chính của công ty chứng khoán, và từ đó làm tăng danh tiếng và uy tín của
công ty đối với sự nhìn nhận và niềm tin của công chúng đầu tư, những khách hàng chủ
chốt của chính công ty. Chất lượng hoạt động kinh doanh của công ty chứng khoán sẽ

không thể tốt và ngày càng nâng cao nếu công tác tài chính của công ty bị điều chỉnh
trong một môi trường kế toán kiểm toán không rõ ràng, ổn định và phù hợp với chuẩn
mực kế toán kiểm toán quốc tế, đặc biệt trong môi trường hội nhập kinh tế như hiện nay.

Điều kiện đối với CTCK
Một là, đảm bảo các tiêu chuẩn để gia nhập thị trường chứng khoán đối với các
công ty chứng khoán là tối thiểu:
Một số nội dung cần được xem xét tại thời điểm cấp phép:

-

Các quy định phải rành mạch và là cơ sở ban đầu cho việc tham gia thị trường.

-

Các quy định phải xác định công ty nộp hồ sơ phải có đủ kiến thức, nguồn lực, kỹ
năng và đạo đức (xét từ các hành vi trong quá khứ) phù hợp.
Cần phải có yêu cầu về vốn tối thiểu đối với công ty chứng khoán như một điều

-

kiện tham gia thị trường.
Để đảm bảo việc tổ chức được cấp phép tuân thủ các điều kiện cần có yêu cầu có

-

báo cáo định kỳ đối với những thông tin tương ứng, thông báo về những thay đổi về tình
hình tài chính có thể ảnh hưởng tới điều kiện cấp phép.
Bên cạnh đó, để bảo vệ nhà đầu tư, cơ quan quản lý cần đảm bảo công chúng có


-

thể truy cập thông tin liên quan đến tổ chức được cấp phép, loại giấy phép, lĩnh vực hoạt
động được cấp phép, thông tin về ban lãnh đạo cũng như người đại diện theo pháp luật
của công ty chứng khoán.

20
SV: Ngô Thị Hồng Duyên

20

Lớp: CQ47/17.01


Luận văn tốt nghiệp

Học viện tài chính

Hai là, phải có quy định về vốn ban đầu và vốn duy trì, cũng như các quy định an
toàn tài chính khác, phản ánh đúng mức độ rủi ro trong hoạt động của các công ty chứng
khoán.
Ba là, các công ty chứng khoán phải thực hiện việc tuân thủ các tiêu chuẩn về tổ
chức nội bộ và triển khai nghiệp vụ, với mục đích là bảo vệ lợi ích khách hàng, đảm bảo
việc quản lý rủi ro, và ban giám đốc của tổ chức trung gian là đối tượng chịu trách nhiệm
chính đối với những vấn đề này.
Bốn là, phải có quy trình đối với việc xử lý khi tổ chức trung gian phá sản để giảm
thiểu tối đa các hư tổn và mất mát đối với nhà đầu tư và tránh các rủi ro mang tính hệ
thống.
1.2.4.


Hệ thống chỉ tiêu giám sát CTCK
Hệ thống chỉ tiêu giám sát công ty chứng khoán gồm hai nhóm các chỉ tiêu là

nhóm các chỉ tiêu định lượng và nhóm các chỉ tiêu định tính:
a.

Nhóm các chỉ tiêu định lượng:
Chỉ tiêu đánh giá tính thanh khoản và khả năng huy động vốn:



Trong ngắn hạn, tính thanh khoản và khả năng huy động vốn đóng vai trò quan
trọng đối với các công ty chứng khoán.
Với chức năng hoạt động là nhà tạo lập thị trường, trong hoạt động hàng ngày, các
giao dịch của CTCK luôn có giá trị lớn. Điều này cũng có nghĩa công ty có giá trị tài sản
lớn trong bảng cân đối kế toán mà tài sản lưu động chính là các khoản tiền mặt, chứng
khoán hoặc các khoản phải thu có thể chuyển đổi thành tiền mặt. Các khoản nợ ngắn hạn
bao gồm các khoản vay và nợ ngắn hạn, được huy động trong quá trình hoạt động kinh
doanh của các công ty. Thông thường, công ty cần phải có tài sản lưu động đủ để hoàn
thành các nghĩa vụ nợ ngắn hạn của mình.
Các tỷ suất thanh toán là chỉ số cho biết tính thanh khoản của một công ty và có
thể đánh giá được khả năng đáp ứng các nghĩa vụ tài chính của công ty đó. Có 3 chỉ số
phản ánh tính thanh khoản có thể áp dụng cho các công ty chứng khoán bao gồm tỷ suất
thanh toán hiện thời, tỷ suất thanh toán nhanh và tỷ suất dự phòng.

21
SV: Ngô Thị Hồng Duyên

21


Lớp: CQ47/17.01


Luận văn tốt nghiệp

Học viện tài chính

Đối với nguồn huy động vốn ngắn hạn của các công ty chứng khoán, các tổ chức
giám sát thường xem xét, đánh giá các vấn đề sau:
Vai trò và sự ảnh hưởng của các nhà cung cấp tín dụng là các tổ chức tài chính

-

lớn, uy tín như chính phủ, ngân hàng trung ương, ngân hàng thương mại và các nhà tài
trợ khác...
Các công cụ huy động vốn được đảm bảo hay không được đảm bảo, kỳ hạn, loại

-

tiền tệ và đối tượng phát hành như thế nào.
Các chính sách và khung pháp lý liên quan đến quản lý tính thanh khoản, quản lý

-

nợ của một công ty chứng khoán.
Mức độ của các tài sản sẵn sàng để bán, có thể bán hoặc được đảm bảo như tài sản

-

thế chấp để tạo tính thanh khoản.

Danh mục có kỳ hạn của các công cụ nợ dài hạn để tính mức rủi ro của vốn được

-

huy động trong ngắn hạn.
Đối với các nguồn vốn dài hạn của một công ty chứng khoán bao gồm nợ dài hạn,
vốn cổ phần và các tài sản có tính thanh khoản thấp, một số công ty chứng khoán sử dụng
các phương pháp tính toán khác nhau để xác định giá trị vốn bằng tiền mặt phục vụ cho
công tác quản lý và giám sát.
Chỉ tiêu đánh giá cấu trúc vốn và khả năng đáp ứng vốn:



Khi đánh giá cấu trúc vốn và khả năng đáp ứng vốn, tổ chức giám sát hoặc các tổ
chức định mức tín nhiệm quan tâm đến các yếu tố sau:
Khả năng thanh toán và khả năng chấp nhận lỗ từ hoạt động kinh doanh của công

-

ty.
Lợi thế của thương hiệu, sự phục hồi khả năng sinh lời, uy tín và hiệu quả của quy

-

trình quản lý rủi ro.
Đối với rủi ro hiện hữu và tính thanh khoản của tài sản, nếu tính thanh khoản của tài

-

sản tốt và rủi ro thấp, công ty chỉ cần ít vốn để tài trợ cho các tài sản này.

Quy mô của khoản thua lỗ mà một công ty chứng khoán có thể chấp nhận so với

-

khoản lợi nhuận đã đạt được trước khi có nhu cầu phân bổ vốn mới.

22
SV: Ngô Thị Hồng Duyên

22

Lớp: CQ47/17.01


Luận văn tốt nghiệp

Học viện tài chính

Khả năng tạo vốn của công ty thông qua lợi nhuận giữ lại để hỗ trợ cho sự tăng

-

trưởng tài sản; các hình thức thực hiện mua bán mang tính chiến lược và các khoản đầu
tư đáp ứng yêu cầu cũng như các thông lệ quản trị trong việc đảm bảo quyền lợi cho các
cổ đông (chi trả cổ tức trên cổ phần).
Cấu trúc nguồn vốn của một công ty chứng khoán thường bao gồm vốn cổ phần
thông thường, cổ phần ưu đãi và các công cụ lưỡng tính. Việc sử dụng các tỷ suất vốn
khác nhau nhằm làm rõ hình ảnh nguồn vốn dưới các giác độ khác nhau của một công ty
chứng khoán.
Chỉ tiêu đánh giá khả năng sinh lời.




Khi đánh giá khả năng sinh lời của một CTCK, cần xem xét các yếu tố cấu thành
mức sinh lời và khả năng chịu sức ép của công ty đó. Thông qua những diễn biến trong
quá khứ và so sánh với nhóm các công ty có cùng cơ hội để đánh giá sức mạnh và chu kỳ
sinh lời.
Sự đa dạng hóa lợi nhuận tạo nên khả năng sinh lời ổn định là vấn đề được xem
xét tích cực. Phân tích sự đa dạng hóa trong thu nhập nên bắt đầu bằng cách xem xét vai
trò của các yếu tố tạo nên lợi nhuận. Việc phân tích quy mô của các hoạt động kinh
doanh khác nhau tạo ra doanh thu cho một công ty chứng khoán cũng cần phải thực hiện.
Ngoài ra, cũng cần xét đến sự đa dạng về lãnh thổ, địa lý.
Các cơ quan giám sát cũng đánh giá khả năng phục hồi lợi nhuận với sự tương tác
giữa các lĩnh vực kinh doanh khác nhau mà một công ty chứng khoán có thể tham gia. Ví
dụ, tất cả các hoạt động nghiệp vụ ngân hàng đầu tư và giao dịch vốn cổ phần đều có
cùng xu hướng với xu hướng của thị trường cổ phiếu. Trái lại, một số hoạt động của thị
trường vốn có thu nhập cố định như thị trường hàng hóa, tỷ giá hối đoái và các sản phẩm
lãi suất, có xu hướng ít giống hoặc thậm chí có xu hướng trái ngược với xu hướng của thị
trường cổ phiếu. Lợi nhuận từ các hoạt động ít tương quan này sẽ làm tăng khả năng
phục hồi lợi nhuận của công ty chứng khoán nhiều hơn so với lợi nhuận thu được từ
những hoạt động kinh doanh có sự liên kết cao.
Một yếu tố quan trọng khác liên quan đến khả năng sinh lời là tính hiệu quả hoạt
động của một công ty chứng khoán và mức chi phí quản lý. Một phương pháp hữu dụng
23
SV: Ngô Thị Hồng Duyên

23

Lớp: CQ47/17.01



Luận văn tốt nghiệp

Học viện tài chính

là tính tỷ suất chi phí hoạt động để tạo doanh thu (tỷ suất chi tiêu). Trong khi tỷ suất chi
phí có thể phản ánh được hiệu quả hoạt động khác nhau, đặc biệt trong một khoảng thời
gian, nhưng tỷ suất này cũng bị tác động bởi nhóm các nghiệp vụ kinh doanh. Vì vậy, khi
đánh giá hoạt động quản lý chi phí của một công ty chứng khoán, cần cân nhắc đến nhóm
nghiệp vụ kinh doanh. Và để xem xét tính hiệu quả trong hoạt động, cần phải quan tâm
đến các mức đầu tư vào việc xây dựng thương hiệu của một công ty chứng khoán. Vấn đề
này cho biết công ty đã đầu tư đủ để duy trì và mở rộng hoạt động kinh doanh hay chưa.
b.

Nhóm chỉ tiêu định tính:
Bên cạnh việc đánh giá theo các chỉ tiêu định lượng thì việc đánh giá theo các chỉ
tiêu định tính đối với công ty chứng khoán là một vấn đề ngày càng được quan tâm tại
nhiều quốc gia trên thế giới. Nhóm các chỉ tiêu định tính là nhóm các chỉ tiêu nhằm đáp
ứng nội dung quản lý đối với các công ty chứng khoán và nhóm các chỉ tiêu về quản trị
công ty. Nhóm các chỉ tiêu định tính bao gồm các chỉ tiêu sau:
Các chỉ tiêu về quản trị công ty

-

Việc chấp hành các nguyên tắc quản trị, điều hành công ty của Hội đồng quản trị,
Ban điều hành, Ban kiểm soát và năng lực, trình độ của đội ngũ cán bộ quản lý công ty
chứng khoán.
Các chỉ tiêu quản lý đối với tổ chức niêm yết

-


+ Việc cấp hành các nguyên tắc nhằm bảo vệ quyền lợi của các cổ đông, bao gồm
cả quyền lợi của những cổ đông chủ chốt, cổ đông lớn cổ đông thiểu số và người đầu tư
bên ngoài công ty chứng khoán.
+ Việc chấp hành các nguyên tắc nhằm đảm bảo cơ chế hoạt động có hiệu quả của
kiểm soát nội bộ.
+ Việc chấp hành các nguyên tắc nhằm đảm bảo thị trường minh bạch trong hoạt
động của công ty chứng khoán thông qua cơ chế công bố thông tin chính xác và kịp thời,
cho phép các cổ đông và khách hàng có được các thông tin về tình hình tài chính, các
hoạt động và tài sản của công ty để ra quyết định đầu tư chính xác.
1.2.5. Nhân tố ảnh hưởng đến công tác giám sát hoạt động CTCK
1.2.5.1. Môi trường pháp luật

24
SV: Ngô Thị Hồng Duyên

24

Lớp: CQ47/17.01


Luận văn tốt nghiệp

Học viện tài chính

Cơ quan giám sát giám sát hoạt động của công ty chứng khoán thông qua luật
pháp. Môi trường pháp lý phù hợp sẽ kích thích công ty chứng khoán nói riêng và thị
trường chứng khoán nói chung phát triển và ngược lại. vì vậy, môi trường pháp lý là nhân
tố có ảnh hưởng rõ ràng và trực tiếp nhất đến công tác giám sát công ty chứng khoán.
Giám sát hoạt động công ty chứng khoán bị chi phối và phụ thuộc rất lớn vào môi

trường pháp lý, bởi lẽ chất lượng công tác giám sát hoạt động đối với công ty chứng
khoán phụ thuộc tính chặt chẽ, đầy đủ và nhất quán của các quy định pháp luật cũng như
ý thức chấp hành pháp luật của công ty chứng khoán.
1.2.5.2.
Sự phát triển của thị trường
Kinh tế phát triển, đời sống nhân dân ổn định, người dân sẽ đầu tư sản xuất kinh
doanh và đầu tư vào thị trường chứng khoán. Nhiều doanh nghiệp phát triển kinh doanh
có lợi nhuận nếu được cổ phần hóa sẽ góp phần tăng cung trên thi trường. Nền kinh tế thị
trường là môi trường phát sinh, phát triển thị trường chứng khoán. Thị trường chứng
khoán phát triển kéo theo hoạt động của các công ty chứng khoán cũng trở nên sôi động
hơn. Khi đó giám sát lại càng cần chặt chẽ hơn do lợi ích đem lại từ chứng khoán lớn sẽ
dễ dẫn đến những sai phạm từ cá nhân cũng như bản thân công ty chứng khoán.
Bên cạnh đó khi thị trường phát triển thì tính minh bạch, công khai của thông tin
càng được nâng cao do có tính cạnh tranh giữa các công ty chứng khoán làm cho hệ
thống giám sát làm việc dễ dàng, hiệu quả.
1.2.5.3.
Nhận thức và năng lực giám sát của cơ quan giám sát
Trình độ nhận thức, kiến thức chuyên môn và khả năng vận dụng những kiến thức
đó vào quá trình giám sát chi phối nhiều đến kết quả giám sát. Một giám sát viên không
có kinh nghiệm, kiến thức chuyên môn kém sẽ làm cho quá trình gặp nhiều khó khăn,
thời gian kéo dài hay thậm chí bỏ qua những sai sót của CTCK. Bên cạnh đó, người điều
hành cũng như người đưa ra các chính sách cũng ảnh hưởng k nhỏ đến công tác giám sát.
Ngoài ra còn có các yếu tố khác ảnh hưởng đến quá trình giám sát như ứng dụng
công nghệ thông tin trong giám sát, mô hình tổ chức giám sát đối với công ty chứng
khoán, sự phối hợp giữa cơ quan giám sát với công ty chứng khoán.
1.2.6. Vai trò của việc giám sát hoạt động CTCK
Giám sát hoạt động các công ty chứng khoán có vai trò quan trọng trong việc thực
hiện vai trò quản lý nhà nước đối với ngành chứng khoán, góp phần tạo ra một môi
trường kinh doanh công bằng, công khai và có hiệu quả.
25

SV: Ngô Thị Hồng Duyên

25

Lớp: CQ47/17.01


×