Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

TIỂU LUẬN TÍNH tất yếu, đa DẠNG, đặc THÙ về CHỦ NGHĨA xã hội và CON ĐƯỜNG đi lên CHỦ NGHĨA xã hội ở VIỆT NAM sự vận DỤNG SÁNG tạo của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (256.5 KB, 30 trang )

MỞ ĐẦU

Chủ nghĩa xã hội (CNXH) khoa học là một trong ba bộ phận cấu thành chủ
nghĩa Mác do Mác - Ăngghen sáng lập vào nửa sau thế kỷ XIX. Sau khi Mác và
Ăngghen từ trần, Lênin là người kế tục sự nghiệp vĩ đại do Mác và Ăngghen để lại,
từ cuối thế kỷ XIX đến những năm hai mươi của thế kỷ XX.
Lênin đã có những cống hiến vô giá đối với lịch sử trong việc vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác nói chung và CNXH khoa học nói riêng trong
những điều kiện lịch sử mới ở đầu thế kỷ XX.
Mác - Ăngghen tập trung nghiên cứu kết cấu kinh - xã hội của xã hội tư bản
chủ nghĩa ở thời kỳ tư do cạnh tranh, vạch ra bản chất và quy luật vận động của chủ
nghĩa tư bản để từ đó luận chứng về tính tất yếu lịch sử sự diệt vong của chủ nghĩa
tư bản, sự thắng lợi của CNXH và chủ nghĩa cộng sản trong tương lai. Các ông đã
phát hiện ra vai trò và sứ mệnh lịch sử thế giới của giai cấp vô sản cách mạng, đặt
nền móng cho lý luận CNXH khoa học, chuyển CNXH từ không tưởng tới khoa
học. Lênin, dựa trên phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác để
phân tích cụ thể một tình hình lịch sử cụ thể khi chủ nghĩa tư bản tự do cạnh tranh
đã chuyển thành chủ nghĩa tư bản độc quyền, lũng đoạn, đã mang hình thái lịch sử
của chủ nghĩa đế quốc. Từ đó, phát triển lý luận của Mác - Ăngghen về cách mạng
vô sản, về con đường đi tới CNXH và chủ nghĩa cộng sản, Lênin đã đem lại những
luận chứng khoa học đầy tính sáng tạo về khả năng và triển vọng của cách mạng vô
sản trong bối cảnh mới ở đầu thế kỷ XX, về xu thế lịch sử của con đường (loại
hình) "phát triển rút ngắn" và "quá độ gián tiếp" tới CNXH, bỏ qua chế độ tư bản
chủ nghĩa đối với các nước lạc hậu, chậm phát triển, thậm chí còn cả những tàn dư
của các quan hệ phong kiến, gia trưởng, tiền tư bản.
Luận thuyết này của Lênin đã được lịch sử chứng thực bằng cuộc Cách mạng
Tháng Mười Nga năm 1917 bằng thực tiễn xây dựng CNXH ở Liên Xô cũng như quá
trình sinh thành chế độ mới xã hội chủ nghĩa (XHCN) ở nhiều nước từ châu Âu, châu
Á đến châu Mỹ Latinh từ sau Đại chiến thế giới lần thứ hai (1939 - 2945) đến nay.
Cần phải nói tới những điều căn bản sau đây làm cơ sở cho việc luận chứng
về tính tất yếu, đa dạng, đặc thù và những giá trị bền vững của CNXH khoa học


trong thời đại ngày nay.
1


NỘI DUNG

1. Cơ sở lý luận và thực tiễn về tính tất yếu, đa dạng và đặc thù của con
đường đi lên chủ nghĩa xã hội
1.1. Tính tất yếu của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
Một trong những phát kiến vĩ đại của C.Mác là đã luận giải rõ tính tất yếu
phổ biến của con đường đi lên CNXH thông qua lý luận hình thái kinh tế - xã
hội. Với học thuyết này, lần đầu tiên C.Mác đã phân tích một cách đầy đủ và
khoa học về quy luật phát triển của lịch sử xã hội loài người - đó là một quá
trình lịch sử - tự nhiên trải qua các hình thái kinh tế - xã hội từ thấp đến cao.
Học thuyết này được lý giải một cách khoa học nhờ bám sát vào phân tích kết
cấu kinh tế - xã hội trong từng giai đoạn phát triển của lịch sử xã hội loài người
để từ đó tìm ra quy luật.
C.Mác viết: “Trong sự sản xuất xã hội đời sống của mình, con người có
những quan hệ nhất định, tất yếu, không tùy thuộc vào ý muốn của họ - tức là
những quan hệ sản xuất, những quan hệ này phù hợp với một trình độ phát triển
nhất định của các lực lượng sản xuất vật chất của họ. Toàn bộ những quan hệ sản
xuất ấy họp thành cơ cấu kinh tế của xã hội, tức là cái cơ sở hiện thực, trên đó
dựng lên một kiến trúc thượng tầng pháp lý và chính trị và những hình thái ý thức
xã hội nhất định tương ứng với cơ sở hiện thực đó”[6, tr.14].
Đến hình thái kinh tế - xã hội TBCN, bằng việc giải phẫu phương thức sản
xuất TBCN, C.Mác chỉ ra rằng, trong hình thái này, lực lượng sản xuất đã đạt đến
trình độ xã hội hóa cao. Đó là hệ quả tất yếu do nhu cầu phải “luôn luôn cách
mạng hóa công cụ sản xuất”[7, tr.600] để sáng tạo và ứng dụng những thành tựu
của khoa học kỹ thuật và công nghệ mới, hiện đại vào quá trình sản xuất với mục
tiêu tạo ra năng suất, chất lượng hiệu quả ngày càng cao nhằm nâng cao năng lực

cạnh trạnh và đạt mục tiêu lợi nhuận tối đa. Song trong hình thái kinh tế - xã hội
TBCN, do chế độ sở hữu tư nhân về tư liệu sản xuất được đẩy lên đến mức cực
đoan khiến cho quan hệ sản xuất TBCN với tính chất tư hữu đã mâu thuẫn gay gắt
2


với trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất và trở thành yếu tố căn bản kìm hãm
sự phát triển kinh tế - xã hội. Để giải quyết mâu thuẫn này mở đường cho lực lượng
sản xuất phát triển, phải thông qua một cuộc “đảo lộn cách mạng” (C.Mác) nhằm
thiết lập chế độ sở hữu xã hội về tư liệu sản xuất chủ yếu - yếu tố quan trọng nhất
làm cho quan hệ sản xuất đạt đến trình độ xã hội hóa để phù hợp với trình độ xã hội
hóa đã đạt được của lực lượng sản xuất, từ đó thiết lập một phương thức sản xuất
mới tiến bộ. Cuộc “đảo lộn cách mạng” thành công sẽ dẫn đến sự ra đời của một
hình thái kinh tế - xã hội mới - đó là hình thái kinh tế - xã hội CSCN mà giai đoạn
đầu là CNXH.
Lịch sử đã từng biết đến, những câu trả lời nằm trong di sản của Mác Ăngghen và về mặt khoa học thì, chỉ từ khi chủ nghĩa Mác xuất hiện, chi từ khi
CNXH trở thành khoa học, nghĩa là từ nửa sau thế kỷ XIX trở đi, khoa học xã hội
và nhân văn mới thực sự trở thành khoa học. Về phương diện cách mạng, có thể
nói, với chủ nghĩa Mác và CNXH khoa học ra đời, lần đầu tiên trong lịch sử, giai
cấp vô sản cách mạng đã có được lý luận chính trị triệt để của mình làm vũ khí tư
tưởng và tinh thần bước vào cuộc đấu tranh giải phóng cho mình để đi tới giải
phóng cả xã hội loài người, xóa bỏ tình trạng nô lệ cuối cùng trong lịch sử và trỏ
thành tự do đầu tiên trong lịch sử đích thực mới. Ấy là bước nhảy vọt từ vương
quốc của tất yếu sang vương quốc của tự do trong hình thái xã hội cộng sản - một
kêt quả hợp lôgích của sự phát triển lịch sử nhờ phủ định biện chứng hình thái xã
hội tư bản. Những tư tưởng khoa học, cách mạng ấy “ngay từ lúc mới sinh thành đã
khai sáng cho giai cấp vô sản và toàn thể nhân loại cần lao, đem lại một niềm tin
thực sự khoa học chứ không phái tín điều tôn giáo cho đông đảo mọi người, đã mở
đâu sự hình thành một thứ chủ nghĩa lạc quan lịch sử mới thấm nhuần sâu sắc các
giá trị duy lý khoa học hiện đại với các giá trị nhăn văn hiện đại”[2, tr.261]. Những

tư tưởng khoa học, cách mạng ấy, ngay từ lúc xuất hiện và trong quá trình phát
triển sau này đã không ngớt đem lại nôi sợ hãi, tức tối và căm thù của giai cấp tư
sản, các thế lực tư sản ở khắp mọi nơi.
3


Lênin đã nhận thấy, từ khi chủ nghĩa Mác, CNXH khoa học ra đời, đã được
giai cấp công nhân và quần chúng lao động cách mạng tiếp nhận với một niềm
hứng khởi cách mạng lớn lao bao nhiêu thì nó cũng phải đương đầu với những đòn
tấn công thù địch ác liệt bấy nhiêu từ phía giai cấp tư sản và chủ nghĩa tư bản thế
giới. Thắng lợi của chủ nghĩa Mác trong cuộc đấu tranh đó làm cho những kẻ thù
nhiều khi phải giả danh là người mácxít. Thực tế lịch sử ấy càng khẳng định giá trị
và sức sống của chủ nghĩa Mác là vĩnh cửu.
Tính tất yếu lên CNXH không chỉ thể hiện ở việc ra đời hình thái kinh tế - xã
hội CSCN, mà còn được thể hiện ở mục tiêu thống nhất và thể hiện ở bản chất
chung của CNXH - là bản chất của một chế độ xã hội nhân văn, nhân đạo và giải
phóng con người. Thực tiễn lịch sử của CNXH thế giới đã chứng minh cho tính
đúng đắn khoa học của học thuyết Mác - Lênin với thắng lợi của một loạt nước sau
cuộc “đảo lộn cách mạng” vào những thập niên đầu của thế kỷ XX và định hướng
con đường đi lên CNXH.
Song cái tất yếu đó có trở thành hiện thực hay không lại phụ thuộc vào hoạt
động chủ quan của con người, mà ở đây có hai nhân tố chủ quan cơ bản: năng lực
và phẩm chất của chủ thể lãnh đạo, quản lý và sự đồng thuận của giai cấp công
nhân, nhân dân lao động.
Tính tất yếu của con đường đi lên CNXH có thành hiện thực hay không
phụ thuộc trực tiếp và mang tính quyết định vào năng lực và phẩm chất của chủ
thể lãnh đạo, cụ thể là hoạt động lý luận và chỉ đạo thực tiễn của các Đảng cộng
sản và năng lực quản lý của Nhà nước. Đảng Cộng sản muốn thực hiện được vai
trò lãnh đạo của mình thì tổ chức Đảng và đảng viên phải thật sự trong sạch,
vững mạnh, phải “đại diện cho lương tri và trí tuệ của thời đại”. Khẳng định

nguyên lý bất di bất dịch này, V.I.Lênin viết: “Chỉ có Đảng cộng sản, nếu nó
thực sự là đội tiền phong của giai cấp cách mạng, nếu nó bao gồm những đại
biểu ưu tú nhất của giai cấp đó, nếu nó gồm tất cả những chiến sĩ cộng sản hoàn
toàn có ý thức và trung thành, có học vấn và được tôi luyện bằng kinh nghiệm
4


đấu tranh cách mạng bền bỉ, nếu nó biết gắn liền với toàn bộ cuộc sống của giai
cấp mình và thông qua giai cấp đó, gắn liền với tất cả quần chúng bị bóc lột, và
biết làm cho giai cấp và quần chúng đó tin tưởng hoàn toàn vào mình, - chỉ có
một đảng như vậy mới có thể lãnh đạo được giai cấp vô sản trong cuộc đấu tranh
cuối cùng, kiên quyết nhất, thẳng tay nhất chống lại tất cả mọi thế lực của chủ
nghĩa tư bản”[13, tr.227].
Nhưng thời gian qua và hiện nay, sự suy giảm lý tưởng cộng sản, sự thoái
hóa biến chất của một số tổ chức Đảng và của một bộ phận không nhỏ cán bộ đảng
viên; cộng với sự thờ ơ chính trị, suy giảm niềm tin của một bộ phận quần chúng
Nhân dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, sự quản lý của Nhà nước trên thế giới... đã
khiến cho CNXH hiện thực lâm vào khủng hoảng và đổ vỡ vào những năm 90 của
thế kỷ XX. Bài học này còn nguyên giá trị đối với bất kỳ nước nào tiếp tục định
hướng xây dựng CNXH nếu không tôn trọng qui luật khách quan, nếu xa dân đều
có thể phải trả giá đắt cho việc tùy tiện theo ý muốn chủ quan dẫn đến coi thường
tính tất yếu phổ biến khách quan của con đường đi lên CNXH mà chủ nghĩa Mác Lênin đã chỉ ra.
Song cũng cần thắng thắn nhìn nhận một thực tiễn lịch sử khác khi xây dựng
CNXH của nhiều nước trước đây do rập khuôn theo mô hình xô viết, đặc biệt là do
vi phạm qui luật trong việc giải quyết mối quan hệ giữa quan hệ sản xuất với trình
độ của lực lượng sản xuất, thể hiện ở việc đẩy quan hệ sản xuất vượt trước quá xa
so với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất. Nguyên nhân của tình trạng này
chủ yếu do nóng vội, duy ý chí. Song phải chăng ở đây còn có sự hiểu không đúng
về tư tưởng của C.Mác khi lâu nay chúng ta vẫn sử dụng thuật ngữ là thiết lập “chế
độ công hữu hay sở hữu công cộng” về tư liệu sản xuất? Chúng tôi cho rằng, việc

sử dụng thuật ngữ này là không chính xác theo tinh thần của C.Mác và đó là
nguyên nhân dẫn đến tình trạng thiết lập sở hữu công cộng và sở hữu tập thể ồ ạt,
với qui mô và phạm vi quá rộng, dẫn đến tình trạng vô chủ, thiếu ý thức trách
nhiệm đối với các loại tư liệu sở hữu công.
5


Từ đây, chúng tôi cho rằng cần phải sử dụng thuật ngữ thiết lập “chế độ sở
hữu xã hội” về tư liệu sản xuất chủ yếu thì mới đúng tinh thần của C.Mác vì như
vậy mới đảm bảo làm cho quan hệ sản xuất đạt trình độ xã hội hóa để phù hợp với
trình độ xã hội hóa của lực lượng sản xuất. Để có chế độ sở hữu xã hội, một mặt
đòi hỏi Nhà nước dưới sự lãnh đạo của Đảng phải nắm giữ những tư liệu sản xuất
chủ yếu, những lĩnh vực kinh tế chiến lược trọng điểm của quốc gia - tức là kinh tế
Nhà nước phải giữ vai trò chủ đạo; đồng thời sử dụng hiệu quả công cụ thuế để từ
đó quản lý và điều tiết nền kinh tế, tăng cường kiểm soát sở hữu công hướng tới
phục vụ cho lợi ích của quốc gia và của toàn dân; mặt khác phải tạo ra những cơ
chế, chính sách và điều kiện thuận lợi cho người lao động tham dự ngày càng nhiều
vào sở hữu tư liệu sản xuất thông qua chế độ cổ phần hóa và các biện pháp kinh tế
khác. Tuyệt đối không thể cho tư nhân lợi dụng việc cổ phần hóa doanh nghiệp
Nhà nước để làm cho tài sản của dân, của quốc gia rơi vào túi tư nhân; đồng thời
phải hết sức cảnh giác và cân nhắc kỹ lưỡng khi để cho các nhà đầu tư nước ngoài
nắm giữ cổ phần chi phối ở những lĩnh vực nào đó.
1.2. Tính đa dạng và tính đặc thù của con đường đi lên chủ nghĩa xã hội
Mặc dù khắng định tính tất yếu phổ biến trong tiến trình phát triển chung của
xã hội loài người và tính thống nhất trong mục tiêu chung là CNXH, nhưng chủ
nghĩa Mác - Lênin cũng chỉ rõ tính đa dạng và tính đặc thù của con đường đi lên
CNXH ở các nước.
Tính đa dạng được thể hiện ở nhiều mô hình CNXH hiện thực; ở sự đa dạng
của con đường đi lên CNXH có thể bằng những bước đi tuần tự hoặc “rút ngắn”,
với nhiều cách thức tiến hành và các biện pháp xây dựng phong phú. Tính đa dạng

không chấp nhận bất cứ một sự rập khuôn máy móc của một mô hình CNXH nào,
càng không cho phép một sự áp đặt nào về cách thức và biện pháp tiến hành xây
dựng. Ph.Ăngghen đã từng chỉ rõ: “Muốn cho CNXH trở thành một khoa học thì
trước hết phải đặt CNXH trên một cơ sở hiện thực”[8, tr.293], đồng thời “phải
nghiên cứu thêm, trong mọi chi tiết và mọi mối liên hệ của nó”[8, tr.305]. Điều này
6


có nghĩa rằng, ngoài việc bảo đảm tính qui luật tất yếu của tiến trình phát triển lịch
sử - tự nhiên, mỗi nước trên con đường phát triển của mình phải xác định rõ hoàn
cảnh lịch sử cụ thể, điều kiện cụ thể của đất nước trên tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội trong những mối liên hệ đan chéo, chằng chịt và vô cùng phức tạp.
Thoát ly khỏi hoàn cảnh lịch sử - cụ thể đó và rập khuôn máy móc sẽ không thể tìm
được con đường đi đúng đắn cho dân tộc.
Lênin đã từng chỉ rõ rằng, bản chất, hồn sống của chủ nghĩa Mác đòi hỏi phải
phân tích cụ thể một tình hình cụ thể. “Chủ nghĩa Mác trong chỉnh thể hữu cơ của
nó là một khối liền, nó tuyệt nhiên không có một kẽ hở nào, nó triệt để và hoàn bị
bởi tính khoa học và cách mạng của nó. Nêu chỉ cần một từ thôi mà có thể diễn đạt
đầy đủ cái tinh túy của chủ nghĩa Mác (biểu hiện qua thư từ về duy vật lịch sử của
các ông) thì từ đó chính là phép biện chứng”[12, tr.257].
Nhấn mạnh tối ý nghĩa của quan điểm lịch sử - cụ thể trong việc nghiên cứu
và đánh giá xã hội, trong nhận thức lý luận CNXH khoa học, Lênin còn chỉ rõ :
"Điều kiện quan trọng nhất của một sự nghiên cứu khoa học là không nên quên
môi liên hệ lịch sử căn bản; là xem xét mỗi vấn đề theo quan điểm sau đây: một
hiện tượng nhất định đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào, hiện tượng đó đã trải
qua những giai đoạn phát triển chủ yếu nào và đứng trên quan điểm của sự phát
triển đó để xem xét hiện nay nó đã trở thành như thế nào”[39, tr.78].
Theo Lênin, tách rời một nguyên lý tư tưởng khỏi những điều kiện hiện thực,
khỏi khung cảnh lịch sử của nó là đã sai lầm từ gốc và xuyên tạc nó một cách thô
bao nhất. Người ta có thể mắc phải sai lầm ấy một cách không tự giác do thiếu hiểu

biết khoa học hoặc chưa đạt tới sự trưởng thành cả về tư tưởng khoa học lẫn quan
điểm chính trị. Song những kẻ thù tư tưởng của chủ nghĩa Mác hoặc những kẻ phản
bội Mác, những đại biểu của chủ nghĩa cơ hội và chủ nghĩa xét lại đủ mọi loại
thường mắc phải "sai lầm” ấy một cách có ý thức. Chúng cố tình cắt xén, trích dẫn
chủ nghĩa Mác theo cách đặt các nguyên lý tư tưởng của các ông ở bên ngoài lịch
sử, làm cho nó trở nên trừu tượng, mất sinh khí hiện thực.
7


Do vậy, nhiệm vụ của các Đảng cộng sản là vừa phải đảm bảo những vấn
đề nguyên tắc và quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin, vừa phải biết vận
dụng sáng tạo kinh nghiệm xây dựng CNXH của các mô hình XHCN vào khai
phá cho mình những con đường đi cho phù hợp với điều kiện, đặc điểm của từng
quốc gia, dân tộc. Khắng định điều này, V.I.Lênin viết : “Chừng nào mà giữa các
dân tộc và các nước vẫn còn những sự khác nhau về dân tộc và về chế độ nhà
nước... thì chừng đó sự thống nhất sách lược quốc tế của phong trào công nhân
cộng sản ở tất cả các nước vẫn không đòi hỏi phải xoá bỏ mọi màu sắc khác nhau,
vẫn không đòi hỏi phải thủ tiêu mọi sự khác nhau về dân tộc,... mà nó đòi hỏi phải
áp dụng những nguyên tắc cơ bản của CNCS (chính quyền xô viết và chuyên
chính vô sản) sao cho những nguyên tắc ấy được cải biến đúng đắn trong những
vấn đề chi tiết, được làm cho phù hợp, cho thích hợp với những đặc điểm nhà
nước - dân tộc... Tìm tòi, nghiên cứu, phát hiện, dự đoán, nắm vững những gì là
đặc điểm của dân tộc trong cách thức cụ thể mà mỗi nước dùng để giải quyết
nhiệm vụ quốc tế thống nhất”[13, tr.96].
Thực tiễn xây dựng CNXH theo con đường “quá độ rút ngắn” với chính sách
kinh tế mới (NEP) được V.I.Lênin thực hiện ở nước Nga trong những năm đầu xây
dựng CNXH là một ví dụ điển hình về sự vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác vào
trường hợp cụ thể mang tính đặc thù của nước Nga xô viết. Nhưng tính đặc thù của
nước Nga với NEP lại có ý nghĩa phổ biến chung đối với các nước nông nghiệp lạc
hậu đi lên CNXH. Như vậy, “CNXH hiện thực, với Chính sách kinh tế mới (NEP)

thay thế Chính sách cộng sản thời chiến do chính Lênin khởi thảo và quyết định, lịch
sử trên quy mô toàn thế giới đã bắt đầu một thời đại mới và lịch sử CNXH hiện thực
cũng bắt đầu hình thành trên quan điểm Cách tân, Đổi mới để Phát triển.”[2, tr.263]
Với đặc thù của một nước lạc hậu, V.I.Lênin cũng chỉ ra những khó khăn, phức
tạp, những ngoắt nghéo cản trở khi thực hiện bước chuyển từ một xã hội cũ sang một
xã hội mới. Những khó khăn phức tạp đó không chỉ diễn ra trong việc cải tạo những
quan hệ cũ CNTB, trong xây dựng kinh tế, mà đặc biệt là trong cải tạo những phong
8


tục, tập quán cũ để xây dựng đời sống tinh thần mới, để hình thành ý thức tư tưởng
XHCN mới. V.I.Lênin viết: “Sức mạnh của tập quán ở hàng triệu và hàng chục triệu
người là một sức mạnh ghê gớm nhất... Chiến thắng bọn đại tư bản tập trung còn
nghìn lần dễ hơn là “chiến thắng” hàng triệu và hàng triệu tiểu chủ”[13, tr.34].
Thực tiễn lịch sử của CNXH hiện thực từ khi ra đời đến nay đã cho thấy
ngoài mô hình CNXH Xô Viết trước đây, đã xuất hiện đa dạng những mô hình
CNXH mới với nhiều tìm tòi, thử nghiệm con đường đi như: CNXH đặc sắc Trung
Quốc; CNXH của Việt Nam đang định hướng xây dựng; CNXH Cu Ba; CNXH thế
kỷ XXI v.v. Trên cơ sở vận dụng học thuyết Mác - Lênin, mỗi mô hình này đang
tìm tòi những cách thức, những biện pháp đa dạng phù hợp với điều kiện của nước
mình để đi tới mục tiêu chung là CNXH.
Tính tất yếu, tính đa dạng của con đường đi lên CNXH đồng thời đòi hỏi
phải tôn trọng tính đặc thù của mỗi nước trên con đường phát triển của mình. Tính
đặc thù đó do hoàn cảnh lịch sử, điều kiện tự nhiên, kinh tế, chính trị, văn hóa, xã
hội v.v. của mỗi nước chi phối dẫn đến những khác biệt, độc đáo của những mô
hình, những con đường phát triển khác nhau. Tính đa dạng và tính đặc thù của con
đường đi lên CNXH càng không chấp nhận việc ấn định một khuôn mẫu định sẵn
cho mọi nước. Đòi hỏi khách quan phải trung thành và vận dung sáng tạo đúng đắn
những nguyên lý, quy luật phù hợp với điều kiện cụ thể của mỗi nước. Do vậy, trên
con đường xây dựng CNXH, mọi sự bắt chước, rập khuôn máy móc đều dẫn đến

những sai lầm, thậm chí đổ vỡ là điều khó tránh khỏi. Khẳng định điều này,
V.I.Lênin viết: "Tất cả các dân tộc đều sẽ đi lên CNXH, đó là điều không thể tránh
khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới CNXH không phải một cách hoàn toàn
giống nhau; mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm của mình vào hình thức này hay hình
thức khác của chế độ dân chủ, vào loại này hay loại khác của chuyên chính vô
sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác của việc cải tạo XHCN đối với các mặt
khác nhau của đời sống xã hội"[11, tr.160].
9


Như vậy, trên tầm cao của tư duy lý luận, chủ nghĩa Mác - Lênin đã làm rõ
tính tất yếu phổ biến của quá trình phát triển của xã hội loài người, của con đường
đi lên CNXH; đồng thời vạch ra tính đa dạng và tính đặc thù khác biệt ẩn chứa
trong quá trình phát triển của các dân tộc, các quốc gia, các xã hội khác nhau, chỉ
rõ con đường độc đáo của sự phát triển xã hội trong những hoàn cảnh lịch sử khác
nhau. Đây là nền tảng lý luận khoa học để mỗi Đảng cộng sản quán triệt và vận
dụng linh hoạt, sáng tạo vào quá trình xây dựng CNXH của mình.
2. Tính tất yếu và những đặc trưng về chủ nghĩa xã hội và con đường lên
chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam
Trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng
tạo vào điều kiện đặc thù của Việt Nam để tìm ra con đường đi của cách mạng
nước ta nhằm giải quyết triệt để mâu thuẫn dân tộc và mâu thuẫn giai cấp của xã
hội Việt Nam vào cuối thế kỷ XIX, đầu thế kỷ XX và đưa đất nước định hướng lên
CNXH. Con đường độc lập dân tộc gắn liền với CNXH của Việt Nam là một tất
yếu lịch sử đã được khẳng định. Hồ Chí Minh đã nhiều lần đề cập đến mô hình
tổng thể của CNXH ở Việt Nam, với một cách diễn đạt ngắn gọn, súc tích và dễ
hiểu: “Chủ nghĩa xã hội nghĩa là tất cả mọi người các dân tộc ngày càng ấm no,
con cháu chúng ta ngày càng sung sướng”.[10, tr.317]
Thời kỳ trước đổi mới, cùng với hệ thống XHCN, Việt Nam đã lâm vào tình
trạng khủng hoảng và trì trệ trong phát triển kinh tế - xã hội. Chính thực tế này đòi

hỏi phải nhận thức đúng đắn và đầy đủ hơn những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về tính tất yếu, tính đa dạng và tính đặc thù của
con đường đi lên CNXH. Từ đó, đổi mới được đặt ra như là một nhu cầu tất yếu cấp
thiết nhằm tìm tòi con đường vượt qua khủng hoảng và tiếp tục định hướng XHCN.
Có thể khắng định: đổi mới chính là một sự vận dụng sáng tạo độc đáo mang tính
đặc thù của Việt Nam để đi tới mục tiêu chung thống nhất là CNXH.
Tuy vậy, sự nghiệp đổi mới công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước sau 30
năm đổi mới hiện nay cũng đang đặt ra nhiều vấn đề cần tiếp tục nghiên cứu một
cách nghiêm túc trên tinh thần khoa học cả về lý luận và thực tiễn để làm sáng tỏ
hơn con đường quá độ lên CNXH của Việt Nam.
10


2.1. Đảng Cộng sản Việt Nam vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác – Lênin
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta hiện nay
Thứ nhất, về tính tất yếu và đặc thù của thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở Việt Nam
Vận dụng lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về thời kỳ quá độ lên CNXH và
xuất phát từ đặc thù của đất nước, Việt Nam lựa chọn kiểu quá độ bỏ qua là một tất
yếu khách quan hợp qui luật. Tại Đại hội IX, bước đầu Đảng ta đã làm rõ thế nào
là quá độ bỏ qua chế độ tư bản chủ nghĩa. Điều này có ý nghĩa rất quan trọng trong
việc thống nhất về nhận thức không chỉ trong Đảng, mà trong toàn xã hội để trên
cơ sở đó, triển khai các hoạt động cả về mặt lý luận và thực tiễn cho phù hợp với
đặc thù của đất nước. Song cho đến nay quan niệm về “bỏ qua chế độ tư bản chủ
nghĩa” vẫn cần được nghiên cứu để làm sáng tỏ và cụ thể hóa hơn, chuẩn xác hơn.
Xét từ góc độ lý luận, quan hệ sản xuất được cấu thành từ ba yếu tố cơ bản:
(Sở hữu tư liệu sản xuất; tổ chức, quản lý quá trình sản xuất; phân phối tổng sản
phẩm xã hội). Trong bước quá độ định hướng lên CNXH, Việt Nam không thể xác
lập vị trí thống trị của quan hệ sở hữu tư nhân tư bản chủ nghĩa về tư liệu sản xuất
chủ yếu là hoàn toàn đúng đắn bởi vì chế sở hữu này là nguyên nhân sâu xa của mọi

tình trạng bóc lột, bất bình đẳng. Song điều này không có nghĩa là mọi tư liệu sản
xuất đều là của chung. Do hiểu chưa đúng đắn vấn đề này nên thời kỳ trước đổi mới,
chúng ta đã phạm sai lầm khi nóng vội muốn thiết lập ngay một quan hệ sản xuất
mới trong khi điều kiện phát triển kinh tế và lực lượng sản xuất chưa cho phép.
Hiện nay, một xu hướng ngược lại là không muốn thừa nhận vai trò chủ đạo
của kinh tế nhà nước, buông lỏng vai trò quản lý của Nhà nước và đòi tư nhân hóa
toàn bộ nền kinh tế - đó cũng là một biểu hiện của sự vi phạm qui luật khách quan.
Trên thực thế, phân tích các yếu tố cấu thành quan hệ sản xuất, trong chủ
nghĩa tư bản quan hệ tổ chức, quản lý quá trình sản xuất, rộng hơn là quản lý, tổ
chức Nhà nước và đời sống xã hội ở nhiều nước tư bản chủ nghĩa đến nay đã đạt
được những thành tựu quan trọng và chứa đựng nhiều yếu tố khoa học, nhiều kinh
11


nghiệm quản lý và phân phối phúc lợi xã hội, an sinh xã hội đang được thực hiện
một cách hiệu quả. Đây là những kinh nghiệm quí mà các nước khi xây dựng
CNXH cần phải nghiên cứu học tập một cách nghiêm túc, trên tinh thần khách
quan khoa học để “chắt lọc” từ đó những “vật liệu” quí phục vụ cho việc xây dựng
CNXH. Đây cũng là một tất yếu mà chủ nghĩa Mác - Lênin đã đòi hỏi những người
cộng sản cần nắm vững khi bước vào thời kỳ quá độ lên CNXH để có thể phát triển
theo con đường rút ngắn.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH bổ sung, phát
triển năm 2011 xác định “Mục tiêu tổng quát khi kết thúc thời kỳ quá độ ở nước ta
là xây dựng được về cơ bản nền tảng kinh tế của chủ nghĩa xã hội với kiến trúc
thượng tầng về chính trị, tư tưởng, văn hoá phù hợp, tạo cơ sở để nước ta trở
thành một nước xã hội chủ nghĩa ngày càng phồn vinh, hạnh phúc”[3, tr.71]. Như
vậy, việc xác định và hoàn thiện mục tiêu nói trên là phù hợp với thực tiễn, với
mong muốn của toàn dân và được cộng đồng quốc tế ủng hộ. Việc hoàn thành được
mục tiêu tổng quát như trên vừa đúng quy luật, vừa thuận lòng dân, ý dân lại vừa
hợp với xu thế thời đại.

Thứ hai, tính đặc thù trong cách thức tiến hành công nghiệp hóa, hiện đại
hóa ở Việt Nam từ một nước nông nghiệp lạc hậu
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa là một tất yếu kinh tế nhằm tạo cơ sở vật chất
- kỹ thuật cần thiết cho CNXH, đồng thời tạo cơ sở nền tảng để trên đó xây dựng
đời sống văn hóa xã hội và tinh thần tương ứng. Cách thức và biện pháp để tiến
hành công nghiệp hóa là rất đa dạng không giống nhau, song việc lựa chọn bước đi,
cách thức và biện pháp như thế nào là phụ thuộc vào điều kiện đặc thù và thế mạnh
của mỗi nước.
Xuất phát điểm từ một nước nông nghiệp lạc hậu với dân số đông, nguồn
nhân lực dồi dào, Việt Nam bước vào công nghiệp hóa, hiện đại hóa, trước hết là
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn; tiến hành công nghiệp hóa
một cách toàn diện trên các lĩnh vực, song phố biến là gia công và tái xuất nhằm
tận dụng nguồn nhân lực trình độ còn thấp, đồng thời giải quyết nhiều việc làm cho
người lao động.
12


Với sự lựa chọn này, sau 30 năm thực hiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất
nước, khách quan đánh giá Việt Nam đã đạt được nhiều thành tựu quan trọng trong
việc thiết lập cơ sở vật chất - kỹ thuật cho CNXH và xây dựng nền tảng văn hóa, xã
hội, tinh thần mới trong sự ốn định chính trị để phát triển. Vì thế, đời sống của
nhân dân đang từng bước được cải thiện và nâng cao; uy tín của Việt Nam trên
trường quốc tế được khắng định. Tăng trưởng kinh tế có nhiều chuyển biến tích
cực, trong đó: giai đoạn 1986-2014 đạt bình quân 6,6%/năm; giai đoạn 2006-2010
đạt 6,32%; giai đoạn 20112015 dự kiến đạt 5,82%/năm. Tăng trưởng Việt Nam
trong gần 30 năm Đối mới đứng thứ 2 Châu Á chỉ sau Trung Quốc: Trung Quốc
đạt 9,7%/năm, Việt Nam đạt 6,6%/năm; Hàn Quốc 6,2%/năm; Malaysia
6,0%/năm; Thái Lan 5,2%/năm. Thu nhập bình quân đầu người tăng khá, đến năm
2014 đạt 2.052 USD. Cơ cấu ngành kinh tế chuyển dịch theo hướng giảm tỉ trọng
nông nghiệp, tăng tỉ trọng công nghiệp và dịch vụ. Tỉ trọng ngành nông lâm ngư

nghiệp giảm từ 20,1% năm 2011 xuống 18,1% năm 2014 [1].
Song sự phát triển của Việt Nam những năm qua chưa phải là bền vững và
tốc độ còn rất chậm, chất lượng của tăng trưởng thấp. Tăng trưởng chủ yếu do tích
lũy vốn (chiếm 52,7%), tốc độ tăng năng suất lao động thấp. Đóng góp của yếu tố
năng suất tống hợp (TFP) vào tăng trưởng còn hạn chế (chỉ 28%), hệ số sử dụng
vốn (ICOR) còn cao. Năng lực cạnh tranh quốc gia chưa được cải thiện nhiều, nhất
là về thể chế kinh tế, kết cấu hạ tầng và đối mới công nghệ. [1]
Phát triển kinh tế phụ thuộc nhiều vào vốn, tài nguyên và lao động trình độ
thấp (Tỷ lệ lao động nông nghiệp còn 46,7%). Năng suất lao động thấp, đối mới
công nghệ chậm, sản xuất chưa gắn được nhiều với mạng sản xuất và chuỗi giá trị
toàn cầu. Đầu vào phụ thuộc nhiều vào nhập khẩu. Xuất khẩu thô, xuất khẩu dưới
hình thức gia công còn lớn, giá trị gia tăng thấp và chưa thấy rõ những hiệu ứng lan
tỏa tích cực từ dòng vốn FDI đổ vào trong cải thiện năng suất và công nghệ.
Với cách thức công nghiệp hóa như vậy nên sau gần 30 năm đổi mới đã làm
xuất hiện tình trạng người lao động mất việc làm ở độ tuổi còn rất trẻ (khoảng 35 13


40 tuổi) do chủ sử dụng lao động, muốn trẻ hóa lực lượng lao động nhằm nâng cao
năng lực cạnh tranh và đảm bảo năng suất lao động cao. Nếu cách thức công
nghiệp hóa kiểu này không được nhanh chóng cải thiện thì hậu quả không chỉ dừng
lại ở góc độ kinh tế mà sẽ là yếu tố tác động mạnh mẽ làm suy giảm niềm tin của
nhân dân vào sự lãnh đạo của Đảng và sự lựa chọn con đường định hướng XHCN,
từ đó có thể dẫn đến những mất ổn định chính trị, xã hội.
Để công nghiệp hóa nhanh và bền vững đạt hiệu quả cao thì việc tìm kiếm
những mô hình, cách thức công nghiệp hóa cho phù hợp với điều kiện đặc thù của
Việt Nam đang trở thành vấn đề cấp bách cả về lý luận và thực tiễn. Phải chăng
cần hướng tới phát triển những ngành đòi hỏi công nghệ cao, hiện đại và sử dụng
lao động trình độ cao. Muốn vậy, phát triển nguồn nhân lực, đặc biệt là nguồn nhân
lực chất lượng cao trở thành khâu đột phá mang tính cấp bách và cần phải được ưu
tiên hiện nay.

Thứ ba, vấn đề năng lực và phẩm chất của nhà lãnh đạo, quản lý đất nước
Như trên đã phân tích, đi lên CNXH là tất yếu khách quan, song để hiện thực
hóa nó lại phụ thuộc vào nhân tố chủ quan - trong đó bao gồm hai nhân tố chủ
quan quan trọng có ý nghĩa quyết định: một là, năng lực và phẩm chất của tổ chức
Đảng và nhà lãnh đạo, quản lý, đặc biệt là đội ngũ lãnh đạo cấp chiến lược; hai là
sự đồng thuận ủng hộ của nhân dân. Thiếu đi một trong hai yếu tố này thì tất yếu
con đường đi lên CNXH không thể trở thành hiện thực.
Lịch sử Việt Nam từ khi có Đảng cộng sản ra đời và lãnh đạo, cách mạng
nước ta đã đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Ngày nay Đảng đang lãnh đạo
đất nước phát triển theo định hướng XHCN và chủ động, tích cực hội nhập quốc tế.
Đó là một tất yếu khách quan.
Song hiện nay do nhiều yếu tố tác động như cơ chế thị trường, khoa học và
công nghệ, toàn cầu hóa và hội nhập quốc tế, nên một số tổ chức Đảng và đội ngũ
đảng viên thoái hóa biến chất, phai nhạt niềm tin, lý tưởng cách mạng. Biểu
hiện“tình trạng suy thoái về tư tưởng, chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ
14


phận không nhỏ cán bộ đảng viên; tình trạng tham nhũng, lẵng phí, quan liêu, tiêu
cực và tệ nạn xã hội chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, thậm chí có biểu hiện ngày càng
phức tạp”[4, tr.170-171]. Những yếu tố trên ít nhiều tác động trực tiếp đến nhận
thức và hành động trong tiến trình xây dựng chế độ XHCN ở nước ta hiện nay.
Đặc biệt, sự phát triển mạnh của chủ nghĩa thực dụng, của tình trạng tham
nhũng đang đe dọa sự phát triển ổn định của quốc gia. Các nhóm lợi ích này đang
tận dụng đến mức tối đa những kẽ hở, những yếu kém trong lãnh đạo quản lý,
những bất cập của hệ thống pháp luật, cùng với sự buông lỏng trong định hướng
chính trị - xã hội cho nền kinh tế để vơ vét làm giàu bất chính; làm cạn kiệt tài
nguyên và gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng; hoặc chà đạp lên lợi ích quốc gia
và đạo lý dân tộc; lơ là trong công tác lãnh đạo quản lý, vi phạm dân chủ và quyền
lợi, lợi ích của dân. Đây là nguyên nhân sâu xa khiến cho niềm tin của dân đối với

sự lãnh đạo của Đảng và sự quản lý Nhà nước trong những năm qua có chiều
hướng suy giảm. Do vậy, lấy lại niềm tin và tăng cường sự đồng thuận, ủng hộ của
dân đối với sự lãnh đạo của Đảng, quản lý của Nhà nước, đối với chế độ đang trở
thành vấn đề đặc biệt cấp bách hiện nay. Nếu không ý thức rõ điều này để tăng
cường công tác xây dựng Đảng, tăng cường hiệu lực quản lý Nhà nước và để kiên
quyết đấu tranh chống tham nhũng... thì hậu họa khôn lường là khó tránh khỏi.
Để khôi phục niềm tin và tạo sự đồng thuận của nhân dân đối với sự lãnh đạo
của Đảng thì phải đặc biệt coi trọng công tác xây dựng Đảng. Xây dựng một nhà
nước vận hành tốt có bộ máy hành chính công tâm huyết, có năng lực và có đạo
đức. Đặc biệt, mỗi nhà lãnh đạo, quản lý, nhất là lãnh đạo quản lý cấp chiến lược
cần học tập, rèn luyện để có những phẩm chất cơ bản sau: Có đạo đức tốt, kiên
định mục tiêu con đường định hướng XHCN; có năng lực tư duy chiến lược với
tầm bao quát rộng lớn; có năng lực hoạch định các chính sách có tầm ảnh hưởng
không chỉ trong phạm vi quốc gia mà cả trong khu vực và quốc tế. Có tính năng
động cao và khả năng xử lý nhanh những vụ việc xảy ra. Kiên trì theo đuổi các
15


quyết định đã ban hành và có năng lực dự báo đưa ra những phương án dự phòng
để có thể thay thế khi cần thiết; biết phân quyền cho cấp dưới và các cộng sự, qua
đó quần chúng tin và thực hiện các quyết định lãnh đạo; có năng lực thu thập và xử
lý thông tin nhanh, chính xác. Đây là năng lực rất cần thiết cho các nhà lãnh đạo,
quản lý trong thời cuộc hiện nay.
2.2. Quan điểm của Đảng ta về đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa
ở Việt Nam
Vận dụng sáng tạo quan điểm của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, Đảng ta khẳng định, đi lên CNXH là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn của
đảng và nhân dân ta. Trải qua thực tiễn đổi mới, nhận thức lý luận của Đảng ta đã
từng bước xác định, bổ sung và hoàn thiện dần những đặc trưng xã hội XHCN
được phát triển qua các nhiệm kỳ đại hội. Đại hội XI cho rằng, nhận thức về CNXH

và con đường đi lên CNXH ngày càng sáng tỏ hơn với một hệ thống quan điểm lý
luận khoa học.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991
nêu lên sáu đặc trưng là: Xã hội XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội do
nhân dân lao động làm chủ; có một nền kinh tế phát triển cao dựa trên lực lượng
sản xuất hiện đại và chế độ công hữu về các tư liệu sản xuất chủ yếu; có nền văn
hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng khỏi áp bức, bóc
lột, bất công, làm theo năng lực, hưởng theo lao động, có cuộc sống ấm no, tự do
hạnh phúc, có điều kiện phát triển toàn diện cá nhân; các dân tộc trong nước bình
đẳng, đoàn kết và giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có quan hệ hữu nghị và hợp tác
với nhân dân tất cả các nước trên thế giới.
Từ sáu đặc trưng được nêu trong Cương lĩnh 1991, Đảng ta đã bổ sung, phát
triển thành tám đặc trưng ở Cương lĩnh bổ sung, phát triển năm 2011: Xã hội
XHCN mà nhân dân ta xây dựng là một xã hội: Dân giàu, nước mạnh, dân chủ,
công bằng, văn minh; do nhân dân làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao dựa trên
lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất tiến bộ, phù hợp; có nền văn hoá
16


tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc,
có điều kiện phát triển toàn diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng,
đoàn kết, tôn trọng và giúp nhau cùng phát triển; có Nhà nước pháp quyền XHCN
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo; có quan hệ
hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới.
Như vậy, đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ XI và qua thực tế xây dựng
CNXH ở Việt Nam, Đảng ta đã nhận thức đầy đủ hơn về những đặc trưng CNXH ở
nước ta, đồng thời có sự bổ sung, phát triển thêm những đặc trưng mới, gồm tám
đặc trưng cơ bản, đó là:
Thứ nhất, dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh
Đặc trưng này được đặt lên hàng đầu và có ý nghĩa bao trùm, thể hiện cô đọng

tư tưởng cơ bản của chủ tịch Hồ Chí Minh: CNXH là nhằm nâng cao đời sống vật
chất và văn hoá của nhân dân, thực hiện ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được
hạnh phúc, ấm no. Xây dựng CNXH chính là làm cho cuộc sống của nhân dân
ngày càng giàu lên thì nước mới mạnh. Đồng thời, bảo đảm sự công bằng trên
mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, từng bước xây dựng xã hội dân chủ văn
minh. Mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh” thể
hiện mục tiêu xuyên suốt của CNXH mà chúng ta xây dựng và đạt tới. đồng
thời, xây dựng niềm tin của nhân dân với sự nghiệp cách mạng XHCN.
Thứ hai, là xã hội do nhân dân làm chủ
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991,
Đảng ta nêu xã hội mà chúng ta đang xây dựng là: do nhân dân l ao động làm chủ.
Song từ thực tiễn của công cuộc đổi mới xây dựng CNXH ở nước ta, Đảng ta
nhận thức rằng sự nghiệp xây dựng CNXH là của dân, do dân và vì nhân dân. Đó
là sự nghiệp của mọi người dân yêu nước, bất kể đó là người Việt Nam ở trong
nước hay định cư ở nước ngoài, các giai cấp, dân tộc, tôn giáo, các doanh nhân…
Vì vậy, Văn kiện Đại hội XI chỉ rõ xã hội mà chúng ta đang xây dựng là xã hội do
nhân dân làm chủ. Đây là sự phát triển mới về lý luận CNXH khoa học.
17


Đặc trưng này thể hiện tư tưởng cơ bản của Hồ Chí Minh “bao nhiêu lợi ích
đều vì dân, bao nhiêu quyền hạn đều của dân… quyền hành và lực lượng đều ở nơi
dân”[9, tr.120]. Bất cứ chế độ xã hội có giai cấp nào cũng đều do một giai cấp nhất
định làm chủ. trong xã hội XHCN, người chủ duy nhất là nhân dân lao động, đây là
sự khác biệt căn bản giữa CNXH và các chế độ xã hội trước đó. đặc trưng này chi
phối và thể hiện trong toàn bộ hoạt động chính trị, kinh tế, xã hội của đảng và nhà
nước ta, xét đến cùng, xây dựng CNXH là bảo đảm quyền làm chủ của nhân dân
lao động trên thực tế, trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Do vậy, trong văn kiện
Đại hội Đảng XI đã xác định: “dân chủ xã hội chủ nghĩa là bản chất của chế độ ta,
vừa là mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển đất nước… Nhà nước tôn trọng

và bảo đảm quyền con người, quyền công dân; chăm lo hạnh phúc, sự phát triển tự
do của mỗi người”.[3, tr.84-85]
Tư tưởng nhân dân làm chủ, là người chủ của xã hội là sự kế thừa tư tưởng
làm chủ của Hồ Chí Minh đã nêu đậm nét ngay từ khi cách mạng thành công. Đây
là sự phát triển mới của Đảng ta trong Văn kiện Đại hội XI, Đại hội XII.
Thứ ba, có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện
đại và quan hệ sản xuất tiến bộ phù hợp.
Với tư cách là một chế độ xã hội tiên tiến, CNXH khi ở giai đoạn trưởng
thành, chín muồi nhất định phải có một nền kinh tế phát triển. Có như vậy mới làm
ra nhiều của cải, mức sống của nhân dân mới được nâng cao. Luận điểm “kinh tế
phát triển có dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và quan hệ sản xuất phù hợp” có
một nội hàm chặt chẽ, sâu sắc. Đây là nội dung mới so với đặc trưng trong Cương
lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH năm 1991. Nền kinh tế phát
triển làm cơ sở cho CNXH không ngừng hoàn thiện, đó là nền kinh tế XHCN dựa
trên chế độ công hữu về tư liệu sản xuất chủ yếu. Nếu không khẳng định dứt khoát
vấn đề này, thì đã để mất tiêu chí quan trọng, điểm mấu chốt nhất để phân biệt chế
độ XHCN với chế độ tư bản chủ nghĩa. CNXH chỉ có thể chiến thắng chủ nghĩa tư
bản khi phát triển lực lượng sản xuất tiên tiến hiện đại phù hợp với quan hệ sản xuất
XHCN. Vì thế, cần hiểu đúng đặc trưng trong Văn kiện Đại hội XI, để có kế hoạch
xây dựng, phát triển lực lượng sản xuất, củng cố quan hệ sản xuất cho hợp lý.
18


Thứ tư, có một nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc
Về đặc trưng này, Đảng ta khẳng định lại như trong Cương lĩnh 1991, nền văn
hoá tiên tiến được hiểu theo nghĩa rộng, đó chính là nền văn hoá XHCN. Các lĩnh
vực thuộc đời sống tinh thần như văn học, nghệ thuật, giáo dục, khoa học, trí tuệ,
phẩm chất đạo đức… phát triển ở trình độ tiên tiến, cần nhấn mạnh nền văn hoá đó
đạt tới trình độ tiên tiến, nhưng in đậm sắc thái, bản sắc dân tộc, phải chăm lo, giữ
gìn và phát triển bản sắc tốt đẹp đó. Thực tế hiện nay, một số hình thức nghệ thuật

tốt đẹp của dân tộc không phát triển được, trái lại, bị co lại, hoặc thờ ơ; nhiều công
trình văn hoá có lịch sử lâu đời bị xuống cấp; những ứng xử, giao tiếp tốt đẹp của
cha ông ít được bồi dưỡng cho thế hệ trẻ… không giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc,
đó là điều vô cùng nguy hiểm. Nhấn mạnh bản sắc văn hoá dân tộc, song không có
nghĩa là bài ngoại, mà phải tiếp thu có chọn lọc tất cả những tinh hoa văn hoá của thế
giới, làm cho giá trị đó hoà quyện với bản sắc dân tộc.
Thứ năm, con người có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, có điều kiện phát
triển toàn diện
So với Cương lĩnh 1991, đặc trưng này, Đảng ta khái quát gọn lại, rõ hơn, bỏ
cụm từ “bóc lột” và “làm theo năng lực, hưởng theo lao động”. CNXH là xã hội
vì con người, do con người và giải phóng triệt để con người, đưa con người thực sự
làm chủ xã hội. Nội dung mà Đảng ta nêu ra trên đây là thể hiện bản chất tốt đẹp
của CNXH. Đây cũng chính là sự khác biệt về chất với xã hội tư bản chủ nghĩa,
nhưng cũng là nguyện vọng đầu tiên của nhân dân lao động trên con đường tiến tới
giải phóng con người. Khẳng định nội dung trên tức là đặt đúng vị trí, vai trò của
người lao động trong xã hội XHCN, tạo điều kiện để con người phát triển toàn diện
những nguyện vọng và năng lực cá nhân, về trí lực, thể lực, đạo đức một cách đầy đủ.
Thực hiện được điều đó là một quá trình phấn đấu lâu dài, đòi hỏi sự nỗ lực cao của
Đảng, Nhà nước và toàn thể nhân dân với tinh thần chủ động, sáng tạo, kiên trì và lòng
quyết tâm cao nhất, vì đây là mục tiêu mà CNXH cần đạt tới.
19


Thứ sáu, các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tôn
trọng và giúp đỡ nhau cùng phát triển
Bản thân nội dung chính sách dân tộc này đã được nêu từ lâu, điểm mới là
nội dung ấy được nêu thành đặc trưng của CNXH ở Việt Nam. Có những nước tư
bản phát triển cao, nhưng sự bất bình đẳng về dân tộc, chủng tộc vẫn diễn ra, xung
đột dân tộc, tôn giáo không hề giảm… nhưng không phải chỉ giới hạn ở đây là một
đặc trưng phân biệt CNXH và chủ nghĩa tư bản, trong CNXH mỗi nước có nhiều

dân tộc, các dân tộc đó không mất đi mà ngày càng phát triển cả về kinh tế, xã hội
và bản sắc dân tộc. Điều đó chỉ được thực hiện đầy đủ với chính sách dân tộc trong
nước bình đẳng, đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau cùng tiến bộ. Một số nước xây dựng
CNXH trong nhiều năm, nhưng xung đột dân tộc vẫn diễn ra, có nhiều nguyên
nhân, song nguyên nhân chính là do chính sách dân tộc chưa đúng hoặc thực hiện
chưa tốt.
Thứ bảy, có nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của nhân dân, do nhân
dân, vì nhân dân do Đảng Cộng sản lãnh đạo
Đây là đặc trưng mà Đảng ta bổ sung và phát triển mới so với Cương lĩnh
xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ. Nhà nước XHCN là một thành tố của hệ
thống chính trị XHCN, là một thiết chế có chức năng trực tiếp trong việc thể chế
hoá và tổ chức thực hiện yêu cầu dân chủ của nhân dân; là công cụ trong cuộc đấu
tranh chống lại mọi âm mưu, thủ đoạn đi ngược lại lợi ích của nhân dân; là công cụ
hữu hiệu để vai trò lãnh đạo của Đảng trong quá trình xây dựng CNXH được thực
hiện. Vì thế, Đảng ta xác định: nhà nước là trụ cột, là một công cụ chủ yếu, vững
mạnh của nhân dân trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc XHCN.
Tư tưởng nhà nước pháp quyền XHCN mà Đảng ta khẳng định có cơ sở từ
tư tưởng dân chủ và xây dựng nhà nước pháp quyền trong lịch sử. Tư tưởng về nhà
nước pháp quyền đối lập với độc đoán, độc tài của nhà nước chủ nô, phong kiến.
Đây là bước tiến của của lịch sử dân chủ và pháp quyền.
20


Nhà nước pháp quyền mà Đảng ta khẳng định trong quá trình xây dựng
CNXH là: Nhà nước của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân. Quyền lực nhà nước là thống nhất có sự phân công rành
mạch và phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các
quyền lập pháp, hành pháp, tư pháp. Nhà nước pháp quyền XHCN tổ chức và hoạt
động trên cơ sở hiến pháp và pháp luật. Nhà nước tôn trọng và bảo đảm quyền con
người, quyền công dân. Nhà nước pháp quyền XHCN do Đảng Cộng sản Việt Nam

lãnh đạo đồng thời bảo đảm sự giám sát của nhân dân.
Thứ tám, có quan hệ hữu nghị và hợp tác với các nước trên thế giới
Về đặc trưng này, Đảng ta khẳng định lại như trong Cương lĩnh xây dựng đất
nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH. Ở một nước mà chủ nghĩa tư bản thống trị
thì không thể có đặc trưng này. Với mục đích lợi nhuận, giai cấp thống trị luôn làm
mọi cách bóc lột, áp bức các dân tộc. Các nước XHCN theo đúng bản chất của nó
không thể hành động như chủ nghĩa tư bản, mà cần thiết và có khả năng thực hiện
đầy đủ đặc trưng trên. Thực tế quá trình xây dựng CNXH, nhất là những năm đổi
mới đất nước đến nay, Đảng ta luôn nhận thức đầy đủ mối quan hệ, đoàn kết quốc
tế, từ đó đề ra đường lối, chính sách phù hợp để tăng cường, hợp tác đoàn kết với
các nước, các tổ chức quốc tế góp phần to lớn vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ
Tổ quốc XHCN.
Ngay từ khi thành lập nước Việt Nam dân chủ cộng hoà, chúng ta đã chủ
trương tham gia các thể chế kinh tế quốc tế, trong lời kêu gọi toàn quốc kháng
chiến, tháng 12/1946, Bác Hồ nêu rõ: “Đối với các nước dân chủ, nước Việt Nam
sẵn sàng thực thi chính sách mở cửa và hợp tác trong mọi lĩnh vực”[9, tr.120].
Hiện nay, nhận thức đầy đủ xu thế mới của thế giới, Đại hội Đảng XI đã xác định:
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát
triển; đa phương hoá, đa dạng hoá quan hệ, chủ động và tích cực hội nhập quốc tế;
nâng cao vị thế của đất nước; vì lợi ích quốc gia, dân tộc, vì một nước Việt Nam
XHCN giàu mạnh; là bạn, đối tác tin cậy và thành viên có trách nhiệm trong cộng
đồng quốc tế, góp phần vào sự nghiệp hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ
xã hội trên thế giới.
21


Hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước trên cơ sở những nguyên
tắc cơ bản của Hiến chương Liên hợp quốc và luật pháp quốc tế. Trước sau như
một ủng hộ các Đảng cộng sản và công nhân, các phong trào tiến bộ xã hội trong
cuộc đấu tranh vì những mục tiêu chung của thời đại; mở rộng quan hệ với các

đảng cánh tả, đảng cầm quyền và những đảng khác trên cơ sở bảo đảm lợi ích quốc
gia, giữ vững độc lập, tự chủ, vì hoà bình, hữu nghị, hợp tác và phát triển.
Có thể xem đây là mô hình CNXH của Việt Nam. Những đặc trưng trong mô
hình đó vừa phản ánh tính phổ biến theo tinh thần học thuyết Mác-Lênin về xây
dựng CNXH, vừa thể hiện tính đặc thù dân tộc, có tính đến các đặc điểm của thời
đại. Tuy nhiên, ở đây vẫn còn nhiều vấn đề cần được tiếp tục nghiên cứu sâu và cụ
thể hoá. Những đặc trưng trên có mối quan hệ mật thiết với nhau, vừa làm tiền đề,
vừa là điều kiện của nhau. Việc thực hiện thắng lợi những nội dung này sẽ tác động
tích cực tới việc thực hiện có kết quả nội dung khác. Quá trình thực hiện đồng bộ
các nội dung đó sẽ từng bước đưa đất nước ta thực hiện thắng lợi mục tiêu độc lập
dân tộc và CNXH.
2.3. Quan điểm của Đảng Cộng sản Việt nam về con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội ở Việt Nam.
Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH (bổ sung
phát triển năm 2011) chỉ rõ: “Đi lên đi lên CNXH là khát vọng của nhân dân ta, là
sự lựa chọn đúng đắn của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù
hợp với xu thế phát triển của lịch sử”[3, tr.70]. Đây chính là sự tiếp tục khẳng định
các quan điểm đã nêu ở các Đại hội trước và cụ thể hoá, phát triển trong điều kiện
mới. Để thực hiện thành công các mục tiêu trên, toàn Đảng, toàn dân ta cần nêu cao
tinh thần cách mạng tiến công, ý chí tự lực tự cường, phát huy mọi tiềm năng và trí
tuệ, tận dụng thời cơ, vượt qua thách thức, quán triệt và thực hiện tốt các phương
hướng cơ bản sau đây:
Một là, đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước gắn với phát triển
kinh tế tri thức, bảo vệ tài nguyên, môi trường.
22


Thực tiễn nước ta đi lên CNXH trong điều kiện kinh tế kém phát triển, cơ sở
vật chất kỹ thuật nghèo nàn mà đòi hỏi của CNXH lại rất cao. Quá trình xây dựng
CNXH đến nay đã chứng minh những thành tựu của sự nghiệp công nghiệp hoá,

hiện đại hoá đã góp phần to lớn vào việc phát triển kinh tế của đất nước. Trong điều
kiện hiện nay, thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá mới có thể rút ngắn được
quá trình phát triển của đất nước.
Nội dung của công nghiệp hoá, hiện đại hoá được Đại hội XI xác định: tranh
thủ thời cơ thuận lợi tạo ra tiềm năng, lợi thế của nước ta để rút ngắn quá trình công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước theo định hướng XHCN. Coi kinh tế tri thức là
yếu tố quan trọng của nền kinh tế và công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Đại
hội XII tiếp tục chỉ ra phương hướng, nhiệm vụ: “Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
trong giai đoạn tới là tiếp tục đẩy mạnh thực hiện mô hình công nghiệp hoá, hiện
đại hoá trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN và hội
nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy khoa học, công nghệ, tri thức
và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ yếu”[5, tr.90].
Trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tập trung đẩy mạnh công
nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn; giải quyết đồng bộ vấn đề nông
nghiệp, nông thôn, nông dân; phát triển nhanh công nghiệp và xây dựng, dịch vụ;
phát triển kinh tế vùng, kinh tế biển… Đồng thời, bảo vệ và sử dụng có hiệu quả tài
nguyên quốc gia, cải thiện môi trường tự nhiên.
Hai là, phát triển kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
Đây là yếu tố được đặt lên hàng đàu, nhằm từng bước tạo ra sự phát triển
mạnh mẽ của nền kinh tế đất nước, phát huy vai trò của các thành phần kinh tế, của
mọi người dân trong cách mạng XHCN.
Tư tưởng phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN đã làm sáng tỏ
thêm một bước nội dung cơ bản của định hướng XHCN trong phát triển kinh tế thị
trường với mục tiêu: thực hiện dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh; giải phóng và phát triển sức sản xuất; nâng cao đời sống nhân dân; đẩy mạnh
23


xoá đói giảm nghèo; khuyến khích mọi người làm giàu chính đáng… mục tiêu trên
đây của phát triển nền kinh tế thị trường là vì con người, nó khác hẳn với mục tiêu

tất cả vì lợi nhuận phục vụ lợi ích của giai cấp tư sản; của chủ nghĩa tư bản.
Phát triển kinh tế thị trường định hướng XHCN là phát triển các thành
phần kinh tế và khẳng định vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước trong nền
kinh tế quốc dân. Đồng thời, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội trong quá
trình phát triển; quan tâm giải quyết các vấn đề xã hội một cách thoả đáng,
bảo đảm sự phát triển kinh tế đi đôi với thực hiện công bằng xã hội và giữ
vững định hướng XHCN.
Ba là, xây dựng nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con
người, nâng cao đời sống nhân dân, thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Văn hóa vừa là mục tiêu, vừa là động lực thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội.
Mọi hoạt động văn hoá nhằm xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện.
văn hoá trở thành nhân tố thúc đẩy con người tự hoàn thiện nhân cách, kế thừa
truyền thống dân tộc, phát huy tinh thần yêu nước, ý thức tự lực tự cường xây dựng
và bảo vệ Tổ quốc XHCN. Hiện nay, cần tiếp tục “xây dựng con người Việt Nam
phát triển toàn diện phải trở thành một mục tiêu của chiến lược phát triển. Đúc kết
và xây dựng hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị chuẩn mực của con người Việt Nam
trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa và hội nhập quốc tế”[5, tr.126]. Do đó,
nhiệm vụ của cả hệ thống chính trị nước ta phải phát huy đồng bộ các giải pháp để
văn hóa thấm sâu, lan rộng trong mọi lĩnh vực hoạt động, mọi mặt của đời sống và
quan hệ xã hội, mọi lực lượng, mọi tổ chức, cộng đồng và cá nhân, để văn hóa thực
sự trở thành nền tẳng tinh thần vững chắc, nguồn lực nội sinh quan trọng của sự
phát triển bền vững đất nước và bảo vệ Tổ quốc.
Bốn là, bảo đảm vững chắc quốc phòng và an ninh quốc gia, trật tự ,
an toàn xã hội.
Hiện nay, cần thống nhất cao về nhận thức và giải quyết hiệu quả trong thực
tiễn quan hệ biện chứng giữa xây dựng và bảo vệ Tổ quốc trong tình hình mới; giữa
24


tăng cường quốc phòng và an ninh với xây dựng hệ thống chính trị, phát triển kinh

tế, văn hóa, xã hội, đảy mạnh hoạt động đối ngoại. Văn kiện Đại hội II, Đảng ta xác
định mục tiêu, nhiệm vụ: “Củng cố quốc phòng, giữ vững an ninh quốc gia ổn định
chính trị, trật tự, an toàn xã hội là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng,
Nhà nước, của cả hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và
Công an nhân dân là nòng cốt”[5, tr.148]. Tư duy về quốc phòng và an ninh có sự
phát triển, gắn quốc phòng với an ninh quốc gia, gắn xây dựng vững chắc thế trận
quốc phòng toàn dân với thế trận an ninh nhân dân trên phạm vi quốc gia cũng như
từng địa bàn tỉnh, thành phố; đặc biệt là trên các địa bàn chiến lược, xây dựng các
khu phòng thủ vững chắc, bảo đảm sẵn sàng ứng phó với các tình huống bất trắc.
Xây dựng "thế trận lòng dân", tạo nền tảng vững chắc xây dựng nền quốc phòng
toàn dân và nền an ninh nhân dân. Chuẩn bị các nguồn lực đủ mạnh, các đối sách,
các phương án chủ động, kiên quyết bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống
nhất, toàn vẹn lãnh thổ của Tổ quốc trong mọi tình huống.
Năm là, thực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hữu nghị,
hợp tác và phát triển; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế.
Tư tưởng trên của Đảng ta thể hiện quyết tâm đưa các quan hệ quốc tế được
mở rộng đi vào chiều sâu, phấn đấu tham gia ngày càng nhiều vào các hoạt động
trên phạm vi khu vực và quốc tế. Thực hiện “đa dạng hóa, đa phương hóa trong
quan hệ đối ngoại; chủ động và tích cực hội nhập quốc tế; là bạn, là đối tác tin cậy
và thành viên có trách nhiệm của cộng đồng quốc tế”[5, tr.153].
Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế cần được hiểu đầy đủ rằng: chúng ta hoàn
toàn chủ động quyết định đường lối, chính sách phát triển kinh tế - xã hội nói
chung, chính sách hội nhập kinh tế quốc tế nói riêng. Chủ động là nắm vững quy
luật, tính tất yếu của sự vận động kinh tế toàn cầu, phát huy đầy đủ năng lực nội
sinh, đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế. Chủ động hội nhập quốc tế
sâu hơn và sáng tạo, phân tích, lựa chọn phương thức hành động, dự báo được
những tình huống thuận lợi và khó khăn khi hội nhập quốc tế.
25



×