Tải bản đầy đủ (.doc) (18 trang)

TIỂU LUẬN tư TƯỞNG của lê NIN về VAI TRÒ của lý LUẬN CÁCH MẠNG ý NGHĨA đối với CÔNG tác xây DỰNG ĐẢNG TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (144.47 KB, 18 trang )

TƯ TƯỞNG CỦA LÊNIN VỀ VAI TRÒ CỦA LÝ LUẬN CÁCH MẠNG
Ý NGHĨA TRONG CÔNG TÁC XÂY DỰNG ĐẢNG TA HIỆN NAY
Vào cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản phát triển tương đối
ổn định và hoà bình, phong trào công nhân phát triển về bề rộng và xu hướng
thiên về đấu tranh nghị trường. Lúc này, nhiều chính đảng của giai cấp công
nhân được thành lập như ở nước Đức, Mỹ, Pháp, Anh. Tháng 7 năm 1889 quốc
tế II được thành lập. Khi Ăngghen còn sống, nội bộ quốc tế II ổn định và kiên
quyết đấu tranh chống xu hướng cải lương, thoả hiệp, cơ hội. Năm 1895
Ăngghen mất. Bọn cơ hội, xét lại trong quốc tế II ngóc đầu dậy chống chủ nghĩa
Mác, lũng đoạn phong trào công nhân, mưu toan biến các Đảng dân chủ - xã hội
ở Tây Âu thành các đảng cơ hội, cải lương, Đồng thời, làm cho phong trào cộng
sản và công nhân quốc tế bị phân hoá thành các trào lưu tư tưởng khác nhau, trào
lưu cơ hội cánh hữu, do Bécstanh đứng đầu, công khai đòi xét lại chủ nghĩa Mác,
thực chất là phủ nhận chủ nghĩa Mác. Trào lưu cơ hội phái giữa, do Causky cầm
đầu, là chủ nghĩa cơ hội dấu mặt, họ khoác áo chủ nghĩa Mác, nhưng chống lại
chủ nghĩa Mác. Phái tả do Lênin đứng đầu, kiên trì bảo vệ và phát triển chủ
nghĩa Mác. Lênin cho rằng cả hai trào lưu cơ hội cánh hữu và phái giữa đều là
bọn cơ hội chủ nghĩa, tay sai của giai cấp tư sản.
Vào thời kỳ này, chủ nghĩa tư bản ở Nga đang phát triển mạnh. Cùng với
sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, giai cấp công nhân Nga cũng phát triển.
Trong 25 năm (1865 – 1890) riêng số công nhân trong các xí nghiệp đại công
nghiệp đã tăng từ 7 vạn lên gần 1,5 triệu. Sang đầu thế kỷ XX số lượng công
nhân tăng lên gần 3 triệu người. Dưới ách thống trị tàn bạo của chế độ Nga
Hoàng, công nhân và nông dân Nga không được hưởng một chút quyền tự do


chính trị nào cả. Các cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân liên tiếp nổ ra, quy
mô ngày càng to lớn, tính chất có bước phát triển.
Từ những năm 70 và nhất là từ những năm 80 của thế kỷ XIX, công nhân
Nga bắt đầu thức tình và đấu tranh chống bọn tư bản, song đều thất bại vì các
cuộc đấu tranh đó đều mang tính tự phát.


Do yêu cầu khách quan của phong trào công nhân Nga, các tổ chức chính
trị đầu tiên của công nhân Nga được thành lập, (năm 1875 “Hội liên hiệp công
nhân miền Nam Nga” thành lập ở Ôđétxa; năm 1878 “Hội liên hiệp công nhân
miền Bắc nước Nga” thành lập ở Pêtécbua), nhưng đều bị Nga Hoàng đàn áp và
tan rã, mặc dù vậy, phong trào công nhân vẫn không ngừng phát triển. Chỉ từ
năm 1881 -1886 có tới 48 cuộc bãi công, số công nhân tham gia lên tới 8 vạn
người. Lúc này trung tâm cách mạng đã chuyển từ Anh, Đức sang Nga.
Nhằm đáp ứng yêu cầu phát triển của phong trào công nhân, năm 1838
nhóm mácxít đầu tiên, gọi là “Giải phóng lao động”, ra đời ở Giơnevơ (Thuỵ sỹ).
Nhóm này do Plêkhanốp lãnh đạo. Họ đã cố gắng truyền bá chủ nghĩa Mác vào
nước Nga nhưng bị phái “Dân tuý” cản trở. Phái “Dân tuý” cho rằng, việc đưa
chủ nghĩa Mác vào nước Nga là phá sản nước Nga. Theo quan điểm của phái
“Dân tuý”, sự nghiệp cách mạng ở nước Nga là do giai cấp công nhân Nga lãnh
đạo và họ phủ nhận vai trò, sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân. Quan điểm
như vậy của phái “Dân tuý” đã làm cho quần chúng lạc hướng, sao nhãng cuộc
đấu tranh chống lại giai cấp áp bức bóc lột. Họ làm cho giai cấp công nhân Nga
không nhận thức được vai trò, sứ mệnh lịch sử của mình, đồng thời kìm hãm
việc thành lập một chính đảng độc lập của giai cấp công nhân.
Vì vậy, để truyền bá chủ nghĩa Mác vào nước Nga, nhóm “Giải phóng lao
động” đã tích cực đấu tranh chống phái “Dân tuý” nhưng họ không đánh bại
được hoàn toàn phái “Dân tuý” vì họ mắc sai lầm nghiêm trọng. Họ đã không đả


động gì đến vai trò của nông dân trong cách mạng, mà còn cho rằng, giai cấp tư
sản Nga là một lực lượng có thể ủng hộ cách mạng. Hơn nữa, họ lại đang sống
lưu vong ở nước ngoài, chưa hề liên hệ gì với phong trào công nhân.
Phong trào công nhân tự phát ngày càng phát triển mạnh mẽ ở Nga, đặt ra
yêu cầu phải kết hợp chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân. Lênin
là người đầu tiên thực hiện sự kết hợp đó ở Nga. Năm 1895 Lênin thống nhất các
tổ chức mácxít ở Pêtécbua thành “Hội liên hiệp giải phóng giai cấp công nhân”.

Song, tổ chức này bị chính quyền Nga Hoàng khủng bố, Lênin và những người
lãnh đạo Hội bị bắt. Ban lãnh đạo mới được thành lập do Máctốp đứng đầu chủ
trương: công nhân chỉ nên đấu tranh kinh tế, còn đấu tranh chính trị là công việc
của giai cấp tư sản tự do và quyền lãnh đạo cuộc đấu tranh chính trị nên để cho
giai cấp tư sản tự do. Đây là phái “kinh tế”, là bọn cơ hội, thoả hiệp, cải lương
đầu tiên trong hàng ngũ các tổ chức mácxít ở Nga. Lênin coi luận điệu của phái
“kinh tế” là phản lại chủ nghĩa Mác; là phủ nhận sự cần thiết sự thành lập một
chính đảng của giai cấp công nhân; là mưu mô muốn giai cấp công nhân phụ
thuộc về chính trị giai cấp tư sản. Người cho rằng: phái “kinh tế” là trung tâm
của chính sách thoả hiệp và chủ nghĩa cơ hội. Do đó, muốn thành lập chính đảng
của giai cấp vô sản phải đánh bại phái “Kinh tế”.
Năm 1898, tại Minxcơ nhóm mácxít đã họp và tuyên bố thành lập “Đảng
công nhân dân chủ xã hội Nga”. Tuy nhiên, Đại hội không thông qua được
Cương lĩnh và Điều lệ. Ban chấp hành do Đại hội bầu ra đều bị bắt ngay sau khi
Đại hội vừa kết thúc. Do đó, trên thực tế, Đảng vẫn chưa hình thành. Thực trạng
đó đã làm cho các tổ chức mácxít và phong trào công nhân Nga rơi vào tình
trạng doa động về tư tưởng, tan rã về tổ chức. Tình hình càng trở nên nghiêm
trọng khi phái “Kinh tế” lợi dụng các cơ quan ngôn luận như: Báo “Tư tưởng
công nhân” và Báo “Sự nghiệp công nhân” để tuyên truyền những quan điểm cơ


hôị, xét lại. Vấn đề cấp bách đặt ra là phải thành lập một đảng tập trung thống
nhất trong toàn quốc để chấm dứt tình trạng phân tán, tan rã đang diễn ra lúc đó.
Theo Lênin, muốn thành lập một chính đảng cách mạng tập trung thống nhất,
trước hết phải đánh bại các quan điểm tư tưởng cơ hội của phái “Kinh tế”, biểu
hiện chủ nghĩa cơ hội Bécstanh ở Nga.
Nhằm mục đích đánh bại và chống lại khuynh hướng cơ hội chủ nghĩa đó
của phái “Kinh tế”, đồng thời, cũng để chống chủ nghĩa cơ hội quốc tế, đặt cơ sở
chính trị, tư tưởng, tổ chức cho việc thành lập một chính đảng kiểu mới, Lênin
đã viết tác phẩm “Làm gì”. Tác phẩm được bắt đầu viết từ tháng 5 năm 1901 và

xuất bản vào tháng 02 năm 1902.
1. Vai trò của lý luận cách mạng.
Đối với Đảng Cộng sản.
Trước hết, Lênin nêu lại những tư tưởng của Mác nói về vai trò của lý
luận: Mác viết cho các lãnh tụ của các đảng thế này: “Nếu thực sự cần thiết phải
liên hợp thì cứ ký kết những thoả hiệp nhằm đạt những mục tiêu thực tiễn của
phong trào, nhưng chớ có buôn bán nguyên tắc, chớ có nhân nhượng về lý luận.
Tư tưởng của Mác là như thế, thế mà trong chúng ta còn có những người đã nhân
danh Mác mà tìm cách làm giảm ý nghĩa của lý luận!”1.
Như vậy, ở đây ta thấy, Lênin trích dẫn lại lời của Mác để nhắc nhở những
người cộng sản rằng, lý luận là lập trường của giai cấp, nếu có phải nhân nhượng
thì tuyệt đối không được nhân nhượng về lý luận và nguyên tắc! những kẻ nhân
danh Mác mà tìm cách làm giảm ý nghĩa của lý luận cách mạng đó chính là bọn
cơ hội.
Lý luận cách mạng có vị trí, vai trò vô cùng to lớn, nó là đòi hỏi tất yếu
khách quan của phong trào cách mạng. “Cao trào tự phát của quần chúng càng
1

Lênin, Toàn tập, Nxb tiến bộ, M, 1975, tập 6, tr. 30.


tăng lên và phong trào càng mở rộng thì sự cần thiết có một ý thức cao trong
trong công tác lý luận, chính trị và tổ chức của Đảng dân chủ xã hội càng phải
tăng lên vô cùng nhanh chóng hơn”2. Bởi vì, phong trào công nhân tự bản thân
nó bao giờ cũng mang tính tự phát. Phong trào đấu tranh tự phát đó không vượt
qua được giới hạn cao nhất của nó là chủ nghĩa công đoàn. Cuộc đấu tranh của
công đoàn ở các nước tư bản chống lại bọn chủ nghĩa và chíhnh phủ là một cuộc
đấu tranh chỉ cốt là để cải thiện điều kiện bán sức lao động của công nhân cho
bọn tư bản mà thôi. Trong khi đó, lợi ích của giai cấp công nhân không những là
đấu tranh để đòi cải thiện đời sống mà còn là để thủ tiêu chủ nghĩa tư bản. Lênin

đã trình bày và phân tích khá sâu sắc vai trò của lý luận và kiên quyết phê phán
khuynh hướng tư tưởng sùng bái tính tự phát của công nhân; phê phán, vạch trần
thái độ khinh thường của phái kinh tế. Ông khẳng định dứt khoát: “Không có lý
luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách mạng”3.
Lênin chỉ rõ: Lý luận cách mạng ở đây là lý luận của chủ nghĩa Mác. Đây
là hệ thống lý luận mang bản chất cách mạng và khoa học, phản ánh mục tiêu, lý
tưởng, sứ mệnh lịch sử, lợi ích của giai cấp công nhân, đồng thời chỉ ra con
đường, biện pháp đúng đắn để giai cấp công nhân làm cách mạng vô sản tự giải
phóng mình và giải phóng toàn xã hội, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và
chủ nghĩa cộng sản. Bởi vì, chủ nghĩa Mác là kết quả của sự phát triển những tư
tưởng tiên tiến của nhân loại gắn liền với trí tuệ thiên tài và công lao to lớn của
C.Mác và Ph.Ăngghen trong việc nghiên cứu chủ nghĩa tư bản, chỉ ra bản chất
quy luật vận động, phát triển của chủ nghĩa tư bản. Trong đó, triết học Đức đóng
vai trò mở đường. Lênin nói: “Nếu không có triết học Đức mở đường, đặc biệt là
nếu không có triết học Hêghen, thì chủ nghĩa xã hội khoa học Đức, chủ nghĩa xã

2
3

Lênin, Toàn tập, Nxb tiến bộ, M, 1975, tập 6, tr. 67.
Lênin, Toàn tập, Nxb tiến bộ, M, 1975, tập 6, tr. 30.


hội khoa học duy nhất, chưa hệ có từ trước tới nay, sẽ không bao giờ được xây
dựng nên”4.
Lênin cũng chỉ rõ vai trò, vị trí của chủ nghĩa xã hội không tưởng Người
nói: “Cũng giống như chủ nghĩa xã hội, lý luận Đức sẽ không bao giờ quên rằng
nó đã dựa được vào Xanhximông, Phuriê và Ôoen là ba nhà tư tưởng, mặc dù
học thuyết của ba ông có tính chất ảo tưởng và không tưởng, đã được liệt kê vào
hàng những nhà tư tưởng vĩ đại nhất của tất cả các thời đại, và đã dự kiến một

cách tài tình được rất nhiều chân lý mà ngày nay chúng ta đem khoa học ra
chứng minh đều thấy là đúng”5.
Theo Lênin, chủ nghĩa Mác là một hệ thống lý luận hoàn chỉnh với ba bộ
phận hợp thành đó là, triết học cổ điển Đức, kinh tế chính trị học Anh, chủ nghĩa
xã hội không tưởng Pháp, đồng thời là sự thống nhất chặt chẽ giữa nội dung lý
luận và phương pháp luận. Học thuyết Mác đã chỉ ra những quy luật vận động,
phát triển khách quan của tự nhiên, xã hội và tư duy nói chung, quy luật vận
động và phát triển của chủ nghĩa tư bản nói riêng. Đó là lý luận giúp con người
ta không những nhận thức được một cách đúng đắn về thế giới mà còn trang bị
cho con người những kiến thức, kỹ năng để cải tạo hiện thực khách quan một
cách hợp quy luật và hiệu quả.
Chủ nghĩa Mác là học thuyết duy nhất đúng từ trước tới nay bàn về giải
phóng triệt để con người, giai cấp và toàn xã hội khỏi ách áp bức, bóc lột, đói
nghèo, lầm than, xây dựng xã hội công bằng, bình đẳng, bác ái - chế độ cộng sản
chủ nghĩa. Đó là lý luận không những chỉ ra mục tiêu, mà còn chỉ ra lực lượng,
phương thức để giải phóng con người, giải phóng xã hội.
Chủ nghĩa Mác là sự khái quát thực tiễn đấu tranh giai cấp của giai cấp
công nhân, thể hiện một cách khoa học mục tiêu, lý tưởng, lợi ích, lập trường, sứ
4
5

Lênin, Toàn tập, Nxb tiến bộ, M, 1975, tập 6, tr. 32 - 33.
Lênin, Toàn tập, Nxb tiến bộ, M, 1975, tập 6, tr. 33.


mệnh lịch sử của giai cấp công nhân, đó là thế giới quan, phương pháp luận, là
vũ khí tư tưởng lý luận của sắc bén giai cấp công nhân, là ngọn đèn chỉ lối, soi
đường, là điều kiện cơ bản để giai cấp công nhân làm cách mạng vô sản, lật đổ
ách thống trị của giai cấp tư sản, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và chủ
nghĩa cộng sản. Do vậy, chỉ có được trang bị bằng lý luận của chủ nghĩa Mác,

mang bản chất cách mạng và khoa học thì giai cấp công nhân mới được giác ngộ,
mới ý thức được mục tiêu, lý tưởng, mới nắm vững nội dung và tư tưởng đấu
tranh cách mạng, để thực hiện sứ mệnh lịch sử của mình, khi đó phong trào công
nhân mới chuyển từ phong trào “tự phát” thành phong trào “tự giác”.
Đối với phong trào công nhân.
Riêng đối với Đảng dân chủ - xã hội Nga lúc bấy giờ nó lại có một tầm
quan trọng hơn nữa. Lênin đưa ra ba lý do để làm rõ điều này.
Một là: Đảng đang trong quá trình hình thành và đang bị phân tán về tư
tưởng, tổ chức. Vì vậy, Đảng cần được trang bị lý luận Mác - lý luận tiên phong
làm cơ sở để thống nhất về chính trị, tư tưởng, tổ chức, nếu không thì sẽ dẫn đến
những hậu quả tai hại cho phong trào cách mạng. Lênin viết: “thứ nhất, đảng ta
chỉ mới hình thành, đang tạo nên bộ mặt của mình và còn xa mới thanh toán
được hết những xu hướng khác của tư tưởng cách mạng, những xu hướng đang
có cơ làm cho phong trào đi chệch con đường đúng đắn. Ngược lại, chính trong
thời gian vừa qua, chúng ta lại thấy trỗi dậy (đúng như Ácxenrốt đã nói trước từ
lâu với phái “Kinh tế”), những khuynh hướng cách mạng không dân chủ - xã hội.
Trong những điều kiện như thế, một sai lầm thoạt trông “không quan trọng” có
thể đưa đến những hậu quả tai hại nhất và phải cận thị mới coi những cuộc tranh
luận giữa các phe phái và sự phân định ranh giới chặt chẽ giữa các sắc thái này


nọ có thể quyết định tương lai của Đảng dân chủ - xã hội Nga trong rất nhiều
năm”6.
Hai là: Đảng là một bộ phận của phong trào cộng sản và công nhân quốc
tế. “Điều đó không chỉ có nghĩa là chúng ta phải chống chủ nghĩa Sô vanh quốc
gia. Điều đó còn có nghĩa là một phong trào bắt đầu ở một nước trẻ tuổi chỉ có
thể đạt được kết quả, nếu nó vận dụng được các kinh nghiệm của các nước khác.
Muốn vận dụng được như vậy thì không thể chỉ biết qua kinh nghiệm ấy, hoặc
chỉ giản đơn sao chép lại những nghị quyết mới nhất, mà cần phải biết phân tích
một cách có phê phán kinh nghiệm ấy và tự mình kiểm tra lại nó. Ai hình dung

được phong trào công nhân hiện đại đã phát triển và lan rộng đến mức nào thì sẽ
hiểu được việc thực hiện những nhiệm vụ ấy đòi hỏi phải có một sự trữ về lực
lượng lý luận và kinh nghiệm chính trị (và cách mạng) như thế nào”7.
Ba là: “Đảng dân chủ - xã hội Nga có những nhiệm vụ mà dân tộc chưa
từng một đảng xã hội chủ nghĩa nào trên thế giới đã có”8.
Đó chính là ba lý do càng khẳng định vị trí, vai trò của lý luận cách mạng
đối với Đảng dân chủ - xã hội Nga nói riêng, Đảng Cộng sản nói chung. Trong
khi đó Đảng dân chủ - xã hội Nga đang bị chủ nghĩa cơ hội lũng đoạn và xuyên
tạc về mặt lý luận. Đảng phải được trang bị lý luận Mác cách mạng và khoa học
để có cơ sở đấu tranh chống chủ nghĩa cơ hội. Mặt khác, là đội tiên phong, là
lãnh tụ chính trị của giai cấp, đảng phải tiên phong về mặt lý luận thì đảng mới
làm cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp tiên phong; và chỉ có được vũ
trang bằng lý luận Mác thì đảng mới có đủ trí tuệ và khả năng thực hiện vị trí,
vai trò của một lãnh tụ chính trị. Lênin chỉ rõ: “chỉ đảng nào được một lý luận
tiên phong hướng dẫn thì mới có khả năng làm tròn vai trò chiến sỹ tiên phong”9.
Lênin, Toàn tập, Nxb tiến bộ, M, 1975, tập 6, tr. 31.
Lênin, Toàn tập, Nxb tiến bộ, M, 1975, tập 6, tr. 31.
8 Lênin, Toàn tập, Nxb tiến bộ, M, 1975, tập 6, tr. 31.
9 Lênin, Toàn tập, Nxb tiến bộ, M, 1975, tập 6, tr. 31.
6
7


Trong tác phẩm Lênin còn chỉ ra rằng: lý luận Mác là hệ thống lý luận
mang bản chất giai cấp công nhân, Đảng có được vũ trang bị lý luận Mác thì
Đảng mới mang hệ tư tưởng của giai cấp công nhân. Đồng thời, Đảng mới có trí
tuệ, khả năng thực hiện vai trò là lãnh tụ chính trị của giai cấp công nhân. Đảng
có tiên phong về lý luận thì mới làm cho giai cấp công nhân trở thành giai cấp
tiên phong, mới phát triển lên trình độ tự giác từ giai cấp tự mình thành giai cấp
vì mình.

Đảng đang trong quá trình hình thành, trong trạng thái phân tán về tư
tưởng, tổ chức và non yếu về mặt lý luận, cho nên cần phải được trang bị lý luận
cáh mạng để làm cơ sở cho sự nhất trí về chính trị, tư tưởng và tổ chức. Do đó,
nhiệm vụ hàng đầu và quan trọng nhất của Đảng Cộng sản là phải được vũ trang
bằng lý luận Mác, gắn phong trào công nhân với lý luận của chủ nghĩa xã hội
khoa học; Đảng phải kiên định và nắm vững bản chất cách mạng và khoa học,
vận dụng đúng đắn, sáng tạo chủ nghĩa Mác vào điều kiện cụ thể của mình;
Đảng phải tuyên truyền, giác ngộ hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa cho giai cấp công
nhân và các tầng lớp nhân dân lao động. Đồng thời, Đảng phải kiên quyết đấu
tranh trên mặt trận tư tưởng, lý luận, chống sự ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản,
coi đó là một bộ phận không thể tách rời của cuộc đấu tranh giai cấp của giai cấp
công nhân. Nếu không làm như vậy, thì phong trào công nhân không thể giành
được thắnh lợi và nhất định rơi vào ảnh hưởng của hệ tư tưởng tư sản.
Chính vì lý luận cách mạng có vị trí, vai trò to lớn như vậy, cho nên,
Lênin đòi hỏi Đảng và mọi cán bộ, đảng viên của Đảng phải học tập nhiều hơn
những vấn đề lý luận, đặc biệt “đối với những người lãnh đạo, nhiệm vụ của họ
là phải học tập, ngày càng nhiều hơn, tất cả những vấn đề lý luận; phải tự giải
thoát, ngày càng nhiều hơn, khỏi ảnh hưởng của những câu cổ truyền của thế
giới quan cũ, và không bao giờ được quên rằng, chủ nghĩa xã hội từ khi ra đời đã


trở thành một khoa học, đòi hỏi phải được coi là một khoa học, nghĩa là phải
được nghiên cứu”10.
Lênin khẳng định, đảng mácxít là người kế thừa chính đáng tất cả các
thành quả tiến bộ và các truyền thống dân chủ - cách mạng của các dân tộc trong
nước Nga. Tuy nhiên, Người cũng chỉ ra rằng, kế thừa di sản chưa phải đã là đủ
mà còn cần phải tiếp tục phát triển để tiến lên, để độc lập xác định con đương và
những biện pháp cách mạng có hiệu quả.
Học tập, nghiên cứu chủ nghĩa Mác để vận dụng vào thực tiễn cách mạng,
nhưng không phải là học tập, vận dụng một cách giáo điều, xơ cứng. Học tập,

nghiên cứu chủ nghĩa Mác đòi hỏi phải nắm vững bản chất cách mạng và khoa
học của học thuyết. Trên cơ sở đó vận dụng một cách sáng tạo để đề ra cương
lĩnh, đường lối, xác định những vấn đề xây dựng Đảng cho phù hợp với thực tiễn
của từng giai đoạn cách mạng. Phải thường xuyên nghiên cứu, tổng kết thực tiễn,
đúc rút kinh nghiệm, bổ sung, phát triển làm giàu thêm kho tàng lý luận cách
mạng.
Lênin cũng đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải không ngừng học tập, nghiên
cứu lý luận cách mạng mà còn phải tích cực tuyên truyền, phổ biến cho quần
chúng: “cần phải có nhiều nhiệt tình hơn nữa trong việc phổ biến trong quần
chúng công nhân cái ý thức ngày càng sáng rõ, đạt được bằng cách ấy và phải
củng cố ngày càng mạnh mẽ tổ chức của đảng và tổ chức công đoàn….” 11. Lênin
còn chỉ rõ: “muốn đem lại cho công nhân những tri thức chính trị, những người
dân chủ - xã hội phải đi vào tất cả các giai cấp trong dân cư, họ phải phái các đội
ngũ trong đạo quân của họ đi về tất cả các ngả”12.

Lênin, Toàn tập, Nxb tiến bộ, M, 1975, tập 6, tr. 34.
Lênin, Toàn tập, Nxb tiến bộ, M, 1975, tập 6, tr. 34.
12 Lênin, Toàn tập, Nxb tiến bộ, M, 1975, tập 6, tr. 101.
10
11


Trong tác phẩm lênin đã đấu tranh không khoan nhượng chống lại chủ
nghĩa cơ hội, những kẻ khoác áo chủ nghĩa Mác, nhưng phản bội lại chủ nghĩa
Mác và làm tay sai cho chủ nghĩa tư bản. Lênin chỉ rõ, cuộc đấu tranh trên mặt
trận tư tưởng, lý luận là một trong ba hình thức đấu tranh giai cấp. Người viết:
“Ăngghen công nhận rằng cuộc đấu tranh vĩ đại của Đảng dân chủ - xã hội
không phải chỉ có hai hình thức (kinh tế và chính trị), mà có ba hình thức, và xếp
hình thức đấu tranh lý luận ngang với hai hình thức đấu tranh trên” 13. Chính vì
vậy, Đảng và cán bộ đảng viên của Đảng phải tích cực tham gia đấu tranh trên

mặt trận tư tưởng, lý luận, coi đó là một bộ phận khăng khít của cuộc đấu tranh
giai cấp. Đồng thời, Lênin khẳng định, trong xã hội còn có đối kháng giai cấp,
phải tăng cường hệ tư tưởng xã hội chủ nghĩa. Đây là một tất yếu khách quan.
Vì, vấn đề đặt ra chỉ là như thế này: hệ tư tưởng tư sản hoặc hệ tư tưởng xã hội
chủ nghĩa. Không có hệ tư tưởng trung gian (vì nhân loại không tạo ra một hệ tư
tưởng “thứ ba” nào cả; vả chăng, trong một xã hội bị những sự đối kháng giai
cấp chia sẻ thì không bao giờ có hệ tư tưởng ở ngoài hoặc ở trên các giai cấp). Vì
vậy, mọi sự coi nhẹ hệ tư tưởng, xã hội chủ nghĩa đều có nghĩa là tăng cường hệ
tư tưởng tư sản”14.
2. Ý nghĩa đối với công tác xây dựng Đảng ta hiện nay.
Lênin đã từng khẳng định vai trò to lớn của lý luận cách mạng đối với
phong trào cách mạng. Lịch sử đấu tranh của giai cấp vô sản đã chứng minh
rằng, họ chỉ trở thành giai cấp “vì mình” khi có lý luận chủ nghĩa Mác soi
đường. Ở Việt Nam, vào năm 1911, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất
Thành (Hồ Chí Minh) đã ra đi tìm đường cứu nước, thực chất là đi tìm một lý
luận cách mạng mới. Tiếp thu và vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin. Hồ Chí Minh
13
14

Lênin, Toàn tập, Nxb tiến bộ, M, 1975, tập 6, tr. 32.
Lênin, Toàn tập, Nxb tiến bộ, M, 1975, tập 6, tr. 49-50.


và Đảng ta đã xây dựng nên lý luận cách mạng Việt Nam trong thời đại mới. Từ
đó phong trào cách mạng nước ta phát triển mạnh mẽ chưa từng thấy và giành
được những thắng lợi có ý nghĩa lịch sử toàn thế giới. Với ý nghĩa đó, Hồ Chí
Minh đã ví: lý luận như bó đuốc soi đường, không lý luận thì như người mù đi
trong đêm tối, lần mãi không thấy đường ra.
Lênin đã khái quát công thức sự ra đời của các Đảng Cộng sản là sự kết
hợp của chủ nghĩa xã hội khoa học với phong trào công nhân. Người còn khẳng

định: “… chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới có khả
năng làm tròn vai trò chiến sỹ tiên phong”15.
Những tư tưởng trên của Lênin chỉ rõ vai trò của lý luận đối với sự hình
thành và tồn tại của Đảng Cộng sản. Lý luận của chủ nghĩa Mác là một trong các
yếu tố cơ bản cấu thành Đảng, không có lý luận chủ nghĩa Mác thì không thể có
bất cứ một tổ chức cộng sản chân chính nào. Đảng chỉ làm tròn vai trò lãnh đạo
xã hội khi được trang bị lý luận tiên phong, không có lý luận tiên phong thì
không còn là một Đảng trí tuệ, không có khả năng “dẫn đường” cho bất kỳ ai, và
do đó, Đảng không còn lý do để tồn tại. Vai trò của lý luận đối với Đảng Cộng
sản có tính chất sống còn, vì vậy các Đảng Cộng sản phải thực sự coi trọng lĩnh
vực cực kỳ quan trọng này.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời từ sự kết hợp chủ nghĩa Mác - Lênin với
phong trào công nhân và phong trào yêu nước. Trong quá trình lãnh đạo cách
mạng, Đảng ta luôn luôn coi trọng lý luận, luôn xác định lấy chủ nghĩa Mác Lênin làm nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho mọi hành động của Đảng. Tại
Đại hội Đảng VII (1991), Đảng ta khẳng định: cùng với chủ nghĩa Mác - Lênin,
tưởng Hồ Chí Minh hợp thành nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động
của Đảng và của cách mạng Việt Nam. Giữ vững ngọn cờ lý luận Mác - Lênin và
15

Lênin, Toàn tập, Nxb tiến bộ, M, 1975, tập 6, tr. 30.


vận dụng sáng tạo lý luận đó vào thực tiễn Việt Nam, Đảng ta đã đưa cách mạng
Việt Nam vượt qua mọi chông gai, giành được những thắng lợi có ý nghĩa lịch
sử. Việc chủ nghĩa xã hội bị sụp đổ ở Liên Xô và các nước Đông Âu chứng minh
một chân lý: nếu xa rời lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác - Lênin, để chủ
nghĩa cơ hội, chủ nghĩa xét lại thao túng thì không tránh khỏi kết quả bi thảm
cho các phong trào xã hội chủ nghĩa.
Sớm phát hiện ra những khuyết điểm của mô hình chủ nghĩa xã hội theo
kiểu của Liên Xô và Đông Âu, Đảng ta đã từng bước đề ra những chủ trương,

biện pháp theo hướng đổi mới. Tại Đại hội Đảng VI (1986), Đảng ta chủ trương
tiến hành đổi mới căn bản và toàn diện, trong đó trước hết là đổi mới tư duy. Đổi
mới nhưng vẫn đứng vững trên nền tảng lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh. Đảng ta xác định, đổi mới dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, trong điều kiện thời đại ngày nay và đặc điểm
của Việt Nam. Lý luận đổi mới không trở lại với những khuyết tật và giáo điều
cũ về chủ nghĩa xã hội đã bị cuộc sống bác bỏ. Song, nó phải kế thừa những mặt
tốt đẹp của chủ nghĩa xã hội hiện thực đã tạo ra những thành tựu lý luận trong
giai đoạn trước. Lý luận đổi mới đất nước nhất thiết không được trông cậy vào
việc sao chép một mô hình sẵn có nào đó, bởi lẽ đất nước chúng ta, dân tộc
chúng ta, lịch sử chúng ta khác với những dân tộc khác. Tuy nhiên, chúng ta
cũng cần phải học hỏi và tiếp thu, vận dụng những thành tựu của nền văn minh
hiện đại, của các dân tộc khác đã đạt được. Để thực hiện được điều đó, đòi hỏi
Đảng ta luôn luôn phải không ngừng nâng cao trình độ trí tuệ để Đảng ngang
tầm với việc giải quyết các nhiệm vụ cách mạng, đó là một trong những nhiệm
vụ hàng đầu của công tác xây dựng Đảng hiện nay.
Đảng ta xác định, công tác tư tưởng, công tác lý luận là hình thái giữ vai
trò trọng yếu nhất đối với sự lãnh đạo của Đảng, của cách mạng Việt Nam trong


mọi giai đoạn cách mạng, cho nên, ngay phiên họp đầu tiên, ngày 28/3/1992, Bộ
Chính trị (Khoá VII) đã ra Nghị quyết số 01- NQ/TW “Về công tác lý luận trong
tình hình hiện nay”, Nghị quyết xác định “Tiếp tục đổi mới tư duy, đi sâu tổng
kết thực tiễn và phát trển lý luận một cách sáng tạo, trước hết là tổng kết có lý
luận những kinh nghiệm cơ bản trong công cuộc đổi mới … Việc tổng kết này là
nhiệm vụ trung tâm của công tác lý luận mấy năm trước mắt nhằm làm sáng tỏ
hơn nữa căn cứ khoa học và thực tiễn của việc xây dựng mô hình về con đường
đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam” 16. Ngày 18/02/1995, để chuẩn bị cơ sở lý
luận cho Đại hội VIII của Đảng, Bộ Chính trị ra Nghị quyết số 09 - NQ/TW “Về
một số định hướng lớn trong công tác tư tưởng hiện nay”, Hội nghị Trung ương
5 Khoá IX từ ngày 18/2 đến ngày 02/3/2002, đã thảo luận và thông qua 5 Nghị

quyết quan trọng trong đó có Nghị quyết về “Nhiệm vụ chủ yếu của công tác tư
tưởng, lý luận trong tình hình mới”. Hội nghị đã khẳng định 6 nhiệm vụ chủ yếu
của công tác tư tưởng, lý luận trong tình hình mới, trong đó có hai nhiệm vụ
quan trọng: nêu cao tinh thần chủ động tiến công, làm thất bại chiến lược “diễn
biến hoà bình” kết hợp với âm mưu bạo loạn lật đổ của các thế lực thù địch; nêu
cao ý thức tổ chức kỷ luật trong phát ngôn, phê phán và đấu tranh kiên quyết với
những hành vi phao tin, đồn nhảm, vu cáo bộ lãnh đạo Đảng, Nhà nước, nói trái
nghị quyết, gây chia rẽ nội bộ. Đó chính là những quan điểm lý luận cơ bản để
tiếp tục đẩy mạnh sự nghiệp đổi mới, đưa đất nước ta bước vào thời kỳ công
nghiệp hoá, hiện đại hoá trong bối cảnh thế giới phức tạp hiện nay.
Có thể nói công tác tư tưởng, lý luận hiện nay ở nước ta đang đứng trước
một tình hình đặc biệt. Sự sụp đổ và thoái trào của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở
Liên Xô và Đông Âu; cuộc tiến công của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản
động, cơ hội, xét lại bằng chiến lược “diễn biến hoà bình” ở trong nước và trên
16

Nguyễn Đức Bình, “Về công tác lý luận trong giai đoạn hiện nay”, Tạp chí Cộng sản, tháng 6/1992.


thế giới; nhiều chủ trương chính sách đổi mới đang được triển khai, cần phải
được tiếp tục bổ sung, điều chỉnh kịp thời. Do đó, công tác lý luận cần phải được
bổ sung, phát triển làm rõ sao cho phù hợp với tình hình mới. Vì, không có cái gì
là vĩnh viễn không thay đổi, là tuyệt đối, là thiêng liêng cả.
Đặc biệt là, phải nhận thức lại chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh sao cho đúng hơn, toàn diện hơn, đồng thời phải nắm được thực tiễn của
đất nước đầy đủ hơn để vận dụng lý luận Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh,
xây dựng nên hệ thống lý luận về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ
nghĩa xã hội của Việt Nam trong thời đại mới. Để làm được điều đó, một mặt
phải chống giáo điều, xơ cứng dẫn đến trì trệ, bảo thủ; mặt khác đề phòng đội lốt
“sáng tạo” để đưa các quan điểm cơ hội, xét lại, hữu khuynh vào sự nghiệp đổi

mới, làm cho cách mạng đi chệch hướng đã chọn.
Khẳng định và làm rõ những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa Mác - Lênin,
làm rõ những vấn đề cần nhận thức lại, những vấn đề cần bổ sung, điều chỉnh và
phát triển trên cơ sở tổng kết và khái quát những kinh nghiệm thực tiễn mới,
những thành tựu của khoa học hiện đại. Nghiên cứu một cách toàn diện và có hệ
thống tư tưởng Hồ Chí Minh, đồng thời chú trọng nghiên cứu những tinh hoa trí
tuệ của nhân loại và của dân tộc. Đối với những học thuyết khác về xã hội, cần
nghiên cứu trên quan điểm khách quan, biện chứng.
Để làm được việc đó trước hết, chúng ta phải không ngừng nâng cao sự tu
dưỡng về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, trên cơ sở lập trường,
quan điểm, phương pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh, mà tổng kết những kinh nghiệm của Đảng ta, phân tích một cách đúng đắn
những đặc điểm của cách mạng nước ta. Có như thế, chúng ta mới có thể dần
dần hiểu được quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam, định ra được những


đường lối, phương châm, bước đi cụ thể của cách mạng xã hội chủ nghĩa thích
hợp với tình hình nước ta.
Sau 20 năm đổi mới, Đảng ta đã giành được nhiều thành tựu quan trọng
trong hoạt động lý luận đó là: Từ Đại hội VI đến nay, trình độ lý luận của Đảng
ta đã có bước phát triển rõ rệt. Điểm nổi bật nhất là, Đảng ta đã không ngừng đổi
mới phương pháp tư duy lý luận, kiên định và vận dụng sáng tạo chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, khắc phục bệnh giáo điều, chủ quan, duy ý
chí, mở ra bước chuyển biến quan trọng trong tư duy lý luận, từng bước xây
dựng và hoàn chỉnh đường lối đổi mới toàn diện, làm cho nước ta phát triển ngày
càng mạnh mẽ.
Đảng đã khái quát được mục tiêu chung của cách mạng nước ta là, “độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội; dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh”; giải đáp có căn cứ khoa học một số vấn đề cơ bản về
lý luận và thực tiễn, như: kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; phát

triển kinh tế gắn với phát triển nền văn hoá tiên tiến đậm đà bản sắc van hoá dân
tộc; thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội; bảo vệ môi trường sinh thái; xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ gắn với chủ động hội nhập nền kinh tế quốc tế;
phát huy nguồn lực con người; xây dựng nhà nước pháp quyền định hướng xã
hội chủ nghĩa; xây dựng Đảng cầm quyền trong điều kiện mới, … Con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng được xác định rõ hơn.
Nhận thức đầy đủ hơn nội dung, giá trị và tầm vóc của tư tưởng Hồ Chí
Minh, khẳng định chủ nghĩa Mác - Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh là nền
tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho hành động của Đảng.
Đảng ta ngày càng nhận thức đầy đủ hơn nội dung và giá trị của tư tưởng
Hồ Chí Minh đối với cách mạng nước ta và đi đến kết luận: Tư tưởng Hồ Chí
Minh đã soi đường cho cuộc đấu tranh của nhân dân ta giành thắng lợi, là tài sản


tinh thần to lớn của Đảng ta và dân tộc ta; khẳng định lấy chủ nghĩa Mác - Lênin,
tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động - đó là
bước phát triển quan trọng trong nhận thức và tư duy lý luận của Đảng ta….
Tuy nhiên, tiềm năng của sự nghiệp đổi mới nói riêng và sự nghiệp cách
mạng xã hội chủ nghĩa nói chung còn đặt ra rất nhiều vấn đề lý luận cần phải tập
trung giải đáp. Nhận thức về chủ nghĩa xã hội và con đường đi lên chủ nghĩa xã
hội mới chỉ dừng lại ở những nét khái quát chung, còn không ít vấn đề cụ thể đặt
ra từ thực tiễn chưa có lời giải đáp hoặc giải đáp chưa đủ sức thuyết phục.
Nhiều cán bộ, đảng viên nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh còn giản đơn; hiểu biết về bản chất chủ nghĩa tư bản hiện đại chưa
sâu sắc có mặt còn lệch lạc. Một số cán bộ, đảng viên chưa thấy rõ những thay
đổi của chủ nghĩa tư bản hiện đại trong thời đại này nay; ngược lại, một số người
còn mơ hồ cho rằng, chủ nghĩa tư bản đã thay đổi bản chất, có khả năng khắc
phục những mâu thuẫn nội tại, do đó dẫn đến sự ngộ nhận rằng cơ sở của đấu
tranh giai cấp không còn nữa, v v …
Trình độ nhận thức và khả năng tư duy lý luận của một bộ phận cán bộ,

đangr viên còn chưa đáp ứng được yêu cầu của nhiệm vụ, chức trách được giao.

Bằng lý luận và phương pháp bút chiến sắc sảo Lênin đã đấu tranh đánh
bại chủ nghĩa cơ hội, từ đó khẳng định vai trò của lý luận cách mạng. Đó là lý
luận của phong trào giải phóng giai cấp của giai cấp vô sản, là hệ tư tưởng của
Đảng Cộng sản.


Với tác phẩm “Làm gì” Lênin đã phát triển những tư tưởng của C.Mác và
Ph.Ăngghen và hoàn chỉnh học thuyết về đảng kiểu mới của giai cấp công nhân,
một học thuyết thống nhất, chặt chẽ giữa lý luận và thực tiễn. Học thuyết đó là
nền tảng lý luận, là kim chỉ nam cho hành động của đảng kiểu mới của giai cấp
công nhân Nga và các Đảng Cộng sản các nước trên thế giới, đồng thời là tiêu
chuẩn cơ bản để phân biệt đảng kiểu mới với đảng kiểu cũ, Đảng Cộng sản chân
chính với các đảng cơ hội cải lương.
Đã hơn một thế kỷ trôi qua, thế giới đã trải qua biết bao đổi thay và biến
động, nhưng những luận điểm cơ bản của Lênin về cuộc đấu tranh trên lĩnh vực
tư tưởng lý luận vẫn giữ nguyên giá trị và mang tính thời sự sâu sắc. Những tư
tưởng đó vẫn sẽ mãi còn là vũ khí tư tưởng, lý luận sắc bén của giai cấp công
nhân, là cơ sở khoa học để thành lập, xây dựng và củng cố các Đảng Cộng sản đảng Mác - Lênin chân chính.



×