Tải bản đầy đủ (.doc) (20 trang)

TIỂU LUẬN vấn đề lý LUẬN và THỰC TIỄN TRONG NHẬN THỨC về TRI THỨC hóa CÔNG NHÂN ở VIỆT NAM HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (176.7 KB, 20 trang )

VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN TRONG NHẬN THỨC VỀ
“TRÍ THỨC HÓA CÔNG NHÂN” Ở VIỆT NAM HIỆN NAY
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại trong điều kiện toàn cầu hóa
diễn ra nhanh chóng, đang tác động mạnh mẽ đến nền kinh tế của các quốc gia
trong đó có Việt Nam. Vì vậy, để công cuộc đổi mới đất nước, đẩy mạnh công
nghiệp hóa, hiện đại hóa (CNH, HĐH), từng bước phát triển kinh tế tri thức và tích
cực hội nhập quốc tế sâu rộng đòi hỏi tất yếu phải nhận thức sâu sắc về trí thức hóa
công nhân. Đây là nhiệm vụ không phải đơn giản mà rất khó khăn, vừa có tính cơ
bản, vừa có tính lâu dài, cần tiến hành thường xuyên và liên tục.
Trong thời gian từ nay đến năm 2020 và 2050, với sự phát triển mạnh mẽ của
cuộc cách mạng khoa học - công nghệ hiện đại, kinh tế thế giới chuyển mạnh sang
nền kinh tế tri thức, tốc độ tăng trưởng kinh tế sẽ cao, khoảng cách giữa các nước
giàu và nghèo sẽ ngày càng gia tăng. Do vậy, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại
hoá đất nước phải đẩy mạnh hơn, công nghiệp hoá phải gắn với phát triển kinh tế
tri thức để rút ngắn thời gian, bảo đảm kinh tế phát triển bền vững, môi trường
được bảo vệ, an sinh xã hội được tăng cường, xã hội phát triển hài hoà, nguồn nhân
lực ngày càng có chất lượng, trình độ cao. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ XII, Đảng ta đã xác định:“CNH, HĐH trong giai đoạn tới là tiếp tục đẩy mạnh
thực hiện mô hình CNH, HĐH trong điều kiện phát triển kinh tế thị trường định
hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập quốc tế gắn với phát triển kinh tế tri thức, lấy
khoa học, công nghệ, tri thức và nguồn nhân lực chất lượng cao làm động lực chủ
yếu”[8, tr90]. Trong bối cảnh đó, nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ
nghĩa trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta, với đầy đủ những mặt
tích cực và cả những mặt trái của nó đặt ra cho giai cấp công nhân Việt Nam
những đòi hỏi mới, những thử thách mới phải vượt qua.
1


Qua 30 năm đổi mới, đất nước ta đang đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá, giai cấp công nhân Việt Nam đã có những bước trưởng thành đáng kể.
Nghị quyết Hội nghị Trung ương 6 (khoá X) chỉ rõ: “…cùng với quá trình công


nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, giai cấp công nhân nước ta đã có những
chuyển biến quan trọng, tăng nhanh về số lượng, đa dạng về cơ cấu, chất lượng
được nâng lên, đã hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí
thức”[5,tr44]. Giai cấp công nhân Việt Nam có sứ mệnh lịch sử to lớn “Là giai cấp
lãnh đạo cách mạng thông qua đội tiền phong là Đảng Cộng sản Việt Nam; giai
cấp đại diện cho phương thức sản xuất tiến tiến; giai cấp tiên phong trong sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, lực lượng đi đầu trong sự nghiệp công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước”[6, tr43]. Đây là vấn đề lý luận và thực tiễn trong nhận
thức về “trí thức hóa công nhân” ở Việt Nam hiện nay.
1. Quan niệm về trí thức hóa công nhân Việt Nam hiện nay
Xuất phát từ những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và từ thực tiễn của công cuộc đổi mới đất nước, Đảng và nhân dân ta đã
từng bước nhận thức được những vấn đề cơ bản về trí thức hoá công nhân Việt
Nam. Kết quả của quá trình nhận thức đó được thể hiện tập trung ở các văn kiện
Đảng, pháp luật của Nhà nước, các công trình nghiên cứu khoa học, các diễn đàn
và hội thảo về những vấn đề có liên quan đến trí thức hóa công nhân Việt Nam.
Trong đó, quan niệm về trí thức hóa công nhân Việt Nam được đưa ra dưới nhiều
góc độ khác nhau, nhưng tinh thần chung là: Trí thức hoá công nhân Việt Nam là
quá trình tác động một cách toàn diện để nâng nhận thức và năng lực hoạt động
thực tiễn của công nhân lên trình độ cao, mà trước hết là về học vấn, chuyên môn,
kỹ năng nghề nghiệp, ý thức chính trị, ý thức pháp luật và tác phong công
nghiệp..., nhằm đáp ứng đòi hỏi khách quan của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước
và quá trình tích cực và chủ động hội nhập quốc tế, làm cho giai cấp công nhân
ngày càng xứng đáng với sứ mệnh lịch sử vẻ vang của mình đối với giai cấp, dân
tộc và nhân loại.
2


2. Tính tất yếu và tầm quan trọng của trí thức hoá công nhân Việt Nam
hiện nay

Sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội nói chung và nhiệm vụ CNH, HĐH gắn
với phát triển kinh tế tri thức trong giai đoạn đổi mới nói riêng tất yếu đòi hỏi phải
trí thức hóa công nhân Việt Nam.
Khi xác định phương hướng xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam trong
thời kỳ thực hiện CNH, HĐH đất nước, Đảng ta đã nhiều lần đề cập đến nhiệm vụ
trí thức hoá công nhân. Tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII, Đảng ta đã nhấn
mạnh: “Giai cấp công nhân nếu không có đội ngũ trí thức của mình và nếu bản
thân công - nông không được nâng cao kiến thức, không dần dần được trí thức hóa
thì không thể xây dựng được chủ nghĩa xã hội ” [4, tr113-114]. Đến Hội nghị Ban
chấp hành Trung ương lần thứ sáu khóa X, Đảng ta đã khẳng định: “Đào tạo, bồi
dưỡng, nâng cao trình độ mọi mặt cho công nhân, không ngừng trí thức hóa giai
cấp công nhân là một nhiệm vụ chiến lược’’[5, tr24]. Như vậy, với vai trò là giai
cấp lãnh đạo cách mạng Việt Nam, giai cấp công nhân Việt Nam chẳng những phải
có tay nghề giỏi mà còn cần phải có trình độ học vấn và tri thức khoa học. Mặt
khác, nền kinh tế tri thức càng phát triển thì tính quan trọng của các yếu tố vật chất
trong sản xuất càng có xu hướng giảm, yếu tố sống - người lao động, đặc biệt là vai
trò người lao động nắm vững tri thức và công nghệ hiện đại ngày càng tăng. Với
nền kinh tế tri thức, “tri thức sẽ cho phép công nhân nắm được quy luật khách
quan của sự phát triển xã hội, góp phần phát triển lý luận cách mạng xã hội và
tiến hành cuộc cách mạng ấy có hiệu quả trong thời đại mới, làm tăng tính tiên
phong của giai cấp công nhân trong cả sản xuất lẫn quản lý sản xuất và quản lý xã
hội”[9, tr4].
Trí thức hóa công nhân có tầm quan trọng đặc biệt đối với việc nâng cao trình
độ nhận thức của giai cấp công nhân về bản chất, nội dung, điều kiện thực hiện sứ
mệnh lịch sử của mình.
3


Trí thức hoá công nhân Việt Nam trở thành nhu cầu thường xuyên, tất yếu
của việc nâng cao năng lực, trí tuệ, tay nghề cho công nhân để họ nhanh chóng có

điều kiện tiếp thu và làm chủ khoa học - kỹ thuật và công nghệ mới, qua đó nâng
cao năng suất, chất lượng hiệu quả lao động và công tác xã hội. Đồng thời, trí thức
hóa công nhân đã tạo ra nền tảng tri thức cho việc nâng cao trình độ nhận thức của
giai cấp công nhân Việt Nam về bản chất, nội dung, điều kiện thực hiện sứ mệnh
lịch sử của mình trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, xây
dựng thành công chủ nghĩa xã hội ở nước ta và góp phần đẩy mạnh phong trào
cách mạng thế giới.
Trí thức hoá công nhân Việt Nam tác động trực tiếp đến quá trình từng bước
thay lao động giản đơn và nặng nhọc bằng lao động trí tuệ, vận hành máy móc
“thông minh”, tự động hóa và năng suất ngày càng cao.
Thực hiện trí thức hóa công nhân là tạo điều kiện cho công nhân từng bước
thay lao động giản đơn và nặng nhọc bằng lao động trí tuệ. Đó là một trong những
điều kiện quan trọng để công nhân đóng góp ngày càng nhiều cho xã hội, có thu
nhập ngày càng cao, đời sống văn hoá tinh thần ngày càng phong phú và cuộc sống
ngày càng hạnh phúc.
Trí thức hóa công nhân Việt Nam góp phần tạo ra động lực quan trọng đưa
công cuộc đổi mới đất nước nói chung và sự nghiệp CNH, HĐH nói riêng đến
thắng lợi.
CNH, HĐH không phải đơn thuần là trang bị máy móc, thay đổi dây chuyền
công nghệ sản xuất, mà điều quan trọng hơn là thay đổi tỷ trọng sản xuất công
nghiệp trong tổng giá trị sản phẩm của nền kinh tế quốc dân. Vì vậy CNH, HĐH
thành công chỉ khi chúng ta thay đổi công nghệ, thiết bị sản xuất cũ bằng công
nghệ, thiết bị sản xuất mới, hiện đại và tạo ra một đội ngũ công nhân có trình độ
học vấn cao, tay nghề giỏi - tức là thực hiện thắng lợi nhiệm vụ trí thức hoá công
nhân. Ngược lại, chỉ trên cơ sở có một đội ngũ công nhân được trí thức hoá mới có
4


thể sử dụng thành thạo hệ thống máy móc và hệ thống công nghệ tiên tiến. Sự sáng
tạo của công nhân Việt Nam trong quá trình hướng trình độ kinh tế đất nước tới

trình độ kinh tế tri thức đã tạo ra động lực to lớn để mang lại hiệu quả cao cho quá
trình sản xuất và tổ chức xã hội. Đây mới chính là động lực thực sự thúc đẩy sự
nghiệp CNH, HĐH đất nước nói chung và nhiệm vụ CNH, HĐH nông nghiệp nông
thôn nói riêng đến thắng lợi.
3. Nội dung của trí thức hoá công nhân ở Việt Nam hiện nay
Trí thức hóa công nhân Việt Nam là quá trình mang tính toàn diện, do đó nội
dung trí thức hóa công nhân cũng mang tính toàn diện:
Thứ nhất: trí thức hoá công nhân Việt Nam là một quá trình nâng cao trình độ
học vấn cho công nhân. Mức độ sự nâng cao trình độ học vấn ấy không phải là bất
kỳ mà phải được xác định cụ thể phù hợp với điều kiện ở trong nước và quốc tế
nhằm đạt được trình độ học vấn tương đương trình độ học vấn khởi điểm của trí
thức Việt Nam (cao đẳng, đại học).
Trình độ học vấn là mức độ hiểu biết và lĩnh hội được những tri thức khoa
học của con người trong quá trình học tập (mà trong thực tế bao gồm cả hai hình
thức - được đào tạo và tự đào tạo). Trình độ học vấn của công nhân chính là tri
thức khoa học mà người công nhân tiếp thu được trước hết qua quá trình đào tạo ở
các bậc phổ thông, cao đẳng, đại học và trên đại học trong hệ thống giáo dục quốc
dân mà cơ sở pháp lý chính là bằng cấp và được xã hội thừa nhận. Ngoài ra, trong
các môi trường gia đình, đoàn thể, xã hội với nhiều hoạt động phong phú của cá
nhân mà người công nhân tự học tập, tự ý thức... nâng cao học vấn của mình. Trình
độ học vấn của công nhân càng cao, càng giúp cho bản thân người công nhân dễ
dàng tiếp nhận tri thức mới của khoa học, công nghệ hiện đại, từ đó ứng dụng và
sáng tạo trong quá trình sản xuất và quản lý xã hội, góp phần nâng cao địa vị chính
trị - xã hội của giai cấp công nhân trong quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của
mình. Do đó, nâng cao trình độ học vấn của công nhân vừa là yêu cầu cấp bách của
5


sự nghiệp CNH, HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức, vừa là kết quả của
quá trình trí thức hoá công nhân và gắn liền với đường lối chính sách giáo dục, đào

tạo và phát triển khoa học công nghệ - quốc sách hàng đầu của nước ta hiện nay.
Trình độ học vấn ngày càng được nâng cao của giai cấp công nhân Việt Nam
còn là tiền đề để giai cấp công nhân nhận thức được quy luật, con đường, điều kiện
để cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới, từng bước nâng cao bản lĩnh chính trị,
trình độ chuyên môn, năng lực cải tiến công cụ lao động và năng lực ứng dụng,
sáng tạo công nghệ mới. Tuy nhiên, mức độ sự nâng cao trình độ học vấn ấy không
phải là bất kỳ mà phải được xác định cụ thể phù hợp với điều kiện ở trong nước và
quốc tế nhằm đạt được trình độ học vấn tương đương trình độ học vấn khởi điểm
của trí thức Việt Nam (cao đẳng, đại học). Điều này đặc biệt quan trọng đối với
công nhân ở các ngành kinh tế mũi nhọn, trọng điểm và những ngành công nghệ
cao. Như vậy là, trình độ học vấn là nền tảng tri thức đảm bảo thắng lợi cho sự
nghiệp CNH, HĐH gắn với phát triển kinh tế tri thức ở nước ta trong hội nhập
quốc tế hiện nay.
Thứ hai: Trí thức hóa công nhân Việt Nam là quá trình nâng cao trình độ
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cho công nhân nhất là những công nhân ở các
ngành công nghệ cao tiến tới đạt trình độ tay nghề từ bậc 6 trở lên và có những cải
tiến công cụ lao động và ứng dụng, sáng tạo công nghệ mới vào quá trình lao động
sản xuất.
Trí thức hoá công nhân không chỉ dừng lại ở việc nâng cao trình độ học vấn
thuần tuý hay chỉ đánh dấu về mặt bằng cấp mà còn tập trung vào vấn đề cốt lõi là
nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của công nhân xứng đáng là
lực lượng sản xuất cơ bản, đáp ứng trong phân công lao động xã hội và góp phần
thực hiện thắng lợi công cuộc đổi mới nói chung và nhiệm vụ CNH, HĐH đất nước
nói riêng nhằm xây dựng cơ sở vật chất, kỹ thuật ngày càng vững chắc cho chủ
nghĩa xã hội.
6


Trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp là khả năng tiếp thu và vận dụng
những kiến thức đã được thu nhận trong quá trình đào tạo để thực hành về một

nghề nghiệp nhất định. Trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của công nhân
được đánh giá qua trình độ đào tạo nghề (sơ cấp, trung cấp, cao đẳng nghề), qua
quá trình thực hành nghề và học hỏi, bổ sung kinh nghiệm để nâng bậc theo quy
định cụ thể của từng ngành nghề nhất định. Qua quá trình trí thức hóa công nhân,
trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của công nhân ngày càng được nâng
cao, nhất là những công nhân ở các ngành công nghệ cao và tiến tới đạt trình độ
tay nghề từ bậc 6 trở lên.
Trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của công nhân còn thể hiện ở
trình độ và năng lực cải tiến công cụ lao động và ứng dụng, sáng tạo công nghệ
mới vào quá trình lao động sản xuất. Bởi vì “đặt lên hàng đầu là đẩy mạnh CNH,
HĐH đất nước gắn với phát triển kinh tế tri thức”[3, tr211]. Quá trình trí thức hóa
công nhân từng bước nâng cao khả năng tiếp cận và làm chủ khoa học và công
nghệ tiên tiến, hiện đại trong điều kiện phát triển kinh tế tri thức, góp phần hiện đại
hoá, xã hội hoá lực lượng sản xuất và do đó góp phần xây dựng và hoàn thiện hệ
thống sản xuất và xã hội mới XHCN.
Vì vậy, việc nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của công
nhân trở thành nội dung cơ bản và mang tính chủ đạo của quá trình trí thức hoá
công nhân Việt Nam nhằm tạo ra bước chuyển biến căn bản của người công nhân
từ một trình độ, tri thức và năng lực của người lao động chân tay, nửa cơ khí và cơ
khí sang trình độ, tri thức và năng lực của người lao động trí thức - sử dụng tri thức
khoa học - kỹ thuật - công nghệ hiện đại là chính với những bước đi vừa tuần tự
vừa đi tắt đón đầu. Đây là một sự nghiệp lớn lao gắn liền với quá trình CNH, HĐH
đất nước và từng bước hình thành kinh tế tri thức ở nước ta trong giai đoạn hiện
nay.
7


Thứ ba: Trí thức hoá công nhân Việt Nam là quá trình nâng ý thức chính trị, ý
thức pháp luật và tác phong công nghiệp của công nhân lên một trình độ cao từng
bước hình thành lối sống mới, con người mới XHCN

Ý thức chính trị của giai cấp công nhân nước ta ngày càng được nâng cao thể
hiện rõ nhất thông qua những nhận thức và thái độ của người công nhân về: giác
ngộ giai cấp; nhận thức về các tổ chức trong hệ thống chính trị; thái độ đối với sự
nghiệp đổi mới đất nước; nhận thức về nhu cầu và lợi ích chính trị của mình; thái
độ đối với các giai cấp, tầng lớp xã hội và đối với người sử dụng lao động.
Nâng cao trình độ và ý thức chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam lên
một trình độ cao gắn liền với việc trang bị những kiến thức lý luận cho công nhân,
nghĩa là công nhân phải thấm nhuần chủ nghĩa Mác-Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
quan điểm, đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước và thực hiện nó trong
thực tiễn cuộc sống. Thông qua đó mà bản lĩnh chính trị của giai cấp công nhân
từng bước được hình thành, rèn luyện, thử thách, thể hiện và phát huy trong tiến
trình cách mạng thông qua sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Bản lĩnh chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng được tôi luyện
và thử thách trong công cuộc cải tạo xã hội cũ và xây dựng xã hội mới mà nhiệm
vụ trọng tâm trong suốt thời kỳ quá độ là tiến hành CNH, HĐH đất nước. Đặc biệt,
trong hội nhập quốc tế hiện nay, bản lĩnh chính trị của giai cấp công nhân Việt
Nam là tinh thần kiên định con đường và mục tiêu xã hội chủ nghĩa mà Đảng, Bác
Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn; yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội và có ý thức góp
phần vào xây dựng một nước Việt Nam dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng,
văn minh, tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân loại, vì hoà bình,
độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.
Sống trong xã hội mà trình độ sản xuất chưa cao, còn nhiều dấu ấn của nông
dân lạc hậu, vì vậy, giai cấp công nhân Việt Nam không thể không bị ảnh hưởng
của những dấu ấn đó, nhất là trong việc hình thành tác phong công nghiệp, ý thức
pháp luật. Qua quá trình trí thức hóa, giai cấp công nhân Việt Nam mới thành giai
8


cấp công nhân hiện đại: vừa có tri thức, vừa có đạo đức cách mạng, trung thực, có
tác phong công nghiệp và nhân cách cao, tôn trọng nhân quyền và pháp luật nhà

nước, từng bước hình thành lối sống mới của con người mới xã hội chủ nghĩa.
Nhất là, khi chúng ta chuyển từ nền kinh tế hành chính tập trung quan liêu bao cấp
sang nền kinh tế nhiều thành phần, hoạt động theo cơ chế thị trường định hướng xã
hội chủ nghĩa, có sự quản lý của nhà nước thì quá trình trí thức hoá công nhân sẽ
tạo điều kiện khắc phục dần những biểu hiện của sự tha hoá trong một bộ phận
công nhân như: tệ sùng bái đồng tiền, chủ nghĩa cá nhân cực đoan, làm ẩu, làm dối,
vô kỷ luật, tuỳ tiện không coi trọng quy trình kỹ thuật hoặc quy tắc an toàn lao
động... vi phạm pháp luật nhà nước, ảnh hưởng đến uy tín và vai trò lãnh đạo của
giai cấp công nhân trong quá trình CNH, HĐH đất nước.
Do đó, quá trình trí thức hoá công nhân đòi hỏi người công nhân phải từng
bước hình thành ở mức độ cao của tác phong công nghiệp và ý thức pháp luật trong
lao động và cuộc sống. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI đã nhấn
mạnh đến môi trường rèn luyện đó nhằm hoàn thiện con người mới trong quá trình
lao động: “Đơn vị sản xuất, công tác, học tập, chiến đấu phải là môi trường rèn
luyện phong cách làm việc có kỷ luật, có kỹ thuật, có năng suất và hiệu quả cao,
bồi đắp tình bạn, tình đồng chí, đồng đội, hình thành nhân cách con người và nền
văn hóa Việt Nam”[7, tr77].
Với các nội dung đó, hiện nay, trí thức hoá công nhân Việt Nam đang từng
bước được thực hiện với những biểu hiện chủ yếu sau: Công nhân được đào tạo lần
đầu ở trường lớp tập trung, tại chức, từ xa và tự đào tạo theo các khoá học khác
nhau với nội dung ngày càng phong phú và toàn diện hơn; công nhân được đào tạo
lại (bồi dưỡng) thường xuyên với nội dung cập nhật và hình thức phong phú hơn;
công nhân có trình độ học vấn và trình độ chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp cao
hơn; hình thành ngày càng đông đảo bộ phận công nhân trí thức và trí thức công
nhân trong giai cấp công nhân và do đó sự xích lại giữa công nhân và trí thức ngày
càng gần hơn.
9


Trí thức hoá công nhân Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt

Nam theo định hướng xã hội chủ nghĩa là một quá trình từng bước mang tính chủ
động, có kế hoạch với sự tham gia ngày càng nhiều và có hiệu quả của cả hệ thống
chính trị, của toàn bộ xã hội, trên cơ sở phát huy vai trò, vị trí, khả năng của giai
cấp công nhân trong sự liên minh đoàn kết, hợp tác với các giai cấp, tầng lớp khác
và của các tổ chức kinh tế - giáo dục - nghề nghiệp ở trong nước và quốc tế nhằm
tạo ra sức mạnh tổng hợp đẩy mạnh quá trình đó góp phần thực hiện thắng lợi công
cuộc đổi mới đất nước.
Hệ thống tổ chức Đảng, Nhà nước và các tổ chức chính trị - xã hội của nhân
dân trong hệ thống chính trị ở nước ta hiện nay có vị trí quan trọng và là những chủ
thể hàng đầu tham gia thực hiện trí thức hoá công nhân. Trong báo cáo tổng kết
một số vấn đề lý luận - thực tiễn qua 30 năm đổi mới, một trong ba đột phá chiến
lược được Đảng ta quan tâm là: “phát triển nhanh nguồn nhân lực, nhất là nguồn
nhân lực chất lượng cao”[3, tr55] nhằm xây dựng lực lượng sản xuất tiên tiến phục
vụ cho mục tiêu phát triển đất nước bền vững theo định hướng xã hội chủ nghĩa.
Một chủ thể không thể thiếu được và là chủ thể tham gia trực tiếp vào quá
trình trí thức hoá công nhân, đó là đội ngũ trí thức Việt Nam. Cùng với các tổ chức
trong hệ thống chính trị và đội ngũ trí thức Việt Nam, các tổ chức kinh tế - xã hội,
văn hóa - giáo dục và cơ quan chức năng- nghiệp vụ (báo chí, trường học, tuyên
huấn...) cũng là những chủ thể đảm nhận các nhiệm vụ khác nhau trong thực hiện
trí thức hoá công nhân nước ta hiện nay.
Giai cấp công nhân nói chung và người công nhân nói riêng vừa là đối tượng
vừa là chủ thể trực tiếp của quá trình trí thức hoá công nhân Việt Nam. Để thực
hiện có hiệu quả những nội dung của trí thức hoá công nhân, cùng với sự tác động
của các chủ thể khác, giai cấp công nhân Việt Nam cũng như từng người công
nhân phải tự mình vươn lên, học hỏi, thích ứng với quá trình phát triển của lực
lượng sản xuất, với cơ chế thị trường, với công cuộc đổi mới và hội nhập. Đó chính
10


là yếu tố nội lực quan trọng và quyết định nhất hiệu quả thực hiện trí thức hóa công

nhân Việt Nam hiện nay.
Hiện nay, cần khẳng định rằng, trên chặng đường tiếp theo của thời kỳ quá độ
xây dựng chủ nghĩa xã hội, sau 30 năm đổi mới đất nước toàn diện giai cấp công
nhân Việt Nam dưới ánh sáng vinh quang của Đảng đã không ngừng lớn mạnh, họ
thực sự được giải phóng mạnh mẽ sức sản xuất, trở thành lực lượng đầu tàu kéo
theo các giai cấp tầng lớp khác trong xã hội để làm tròn sứ mệnh lịch sử do nhiệm
vụ cách mạng đặt ra. Bởi vì “Đảng ta xác định con người là trung tâm của chiến
lược phát triển, xây dựng con người Việt Nam phát triển có nhân cách, lối sống tốt
đẹp…”[3, tr56]; do đó, trong phương hướng, nhiệm vụ những năm tiếp theo, chúng
ta tiếp tục “xây dựng con người Việt Nam phát triển toàn diện trở thành một mục
tiêu chiến lược phát triển”[8, tr126].
4. Các nhóm giải pháp chủ yếu đẩy mạnh trí thức hóa công nhân ở Việt
Nam hiện nay
Từ khi nước ta kết thúc chặng đường đầu tiên của thời kỳ quá độ để bước vào
giai đoạn thực hiện đẩy mạnh CNH, HĐH trên phạm vi cả nước (1996) đến nay,
giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng tăng về số lượng và chất lượng, đáp ứng
được yêu cầu sự nghiệp đổi mới đất nước trong hội nhập kinh tế quốc tế. Về số
lượng, trước năm 1986, đội ngũ công nhân nước ta chỉ có khoảng 3,38 triệu người,
chiếm 16% lực lượng lao động xã hội; những năm sau đó con số này liên tục được
tăng lên và đạt: 6,6 triệu - năm 2003, 8,5 triệu - năm 2007 và 9,5 triệu - năm 2008
[10, tr50]. Hiện nay, cả nước có trên 14,5 triệu lao động đang làm việc trong khối
doanh nghiệp là 10,9 triệu lao động [1]. Bên cạnh sự phát triển về số lượng, “chất
lượng được tăng lên”, như nhận định của Hội nghị lần thứ sáu Ban chấp hành
Trung ương khóa X của Đảng Cộng sản Việt Nam. Khi đánh giá chất lượng giai
cấp công nhân Việt Nam, Hội nghị đã đề cập đến khía cạnh tri thức của công nhân
và khẳng định rằng, trong giai cấp công nhân Việt Nam “đã hình thành ngày càng
11


đông đảo bộ phận công nhân trí thức” [10, tr35]. Văn kiện Đại hội đại biểu toàn

quốc lần thứ XII, Đảng ta tiếp tục xác định: “Quan tâm giáo dục, đào tạo, bồi
dưỡng, phát triển giai cấp công nhân cả về số lượng và chất lượng; nâng cao bản
lĩnh chính trị, trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, tác phong công
nghiệp, kỷ luật lao động của công nhân; bảo đảm việc làm, nâng cao thu nhập, cải
thiện điều kiện làm việc, nhà ở, các công trình phúc lợi phục vụ cho công nhân;
sửa đổi, bổ sung các chính sách, pháp luật về tiền lương, bảo hiểm xã hội, bảo
hiểm y tế, bảo hiểm thất nghiệp,... để bảo vệ quyền lợi, nâng cao đời sống vật chất
và tinh thần của công nhân”[8, tr160].
Trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH đã xuất hiện một số ngành kinh tế mũi
nhọn của quốc dân, như: Điện lực, Dầu khí, Điện tử, Tin học, Viễn Thông, Ngân
hàng...; số lượng công nhân, đặc biệt là công nhân tri thức (có trình độ Cao đẳng,
Đại học) ở những ngành này đang tăng nhanh. Ngành Ngân hàng, tỉ lệ người có
trình độ Đại học trên 80%, ngành hàng không khoảng 50%, ngành điện lực gần
30% [2]. Cùng với việc nâng cao trình độ học vấn cho công nhân, chất lượng và
qui mô đào tạo nghề cho công nhân cũng ngày càng được nâng cao. Hiện nay, cả
nước có 155 trường Cao đẳng nghề, 305 trường trung cấp nghề, 867 trung tâm dạy
nghề và trên 700 cơ sở giáo dục khác tham gia dạy nghề. Bên cạnh những thành
tựu đạt được, trong quá trình trí thức hóa công nhân vẫn còn một số hạn chế nhất
định. Trình độ học vấn, chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp của công nhân còn thấp
so với yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH đất nước; đang còn có sự mất cân đối lớn
giữa lao động kỹ thuật và lao động giản đơn ở nhiều ngành, lĩnh vực...
Trước thực trạng đó, quá trình trí thức hóa công nhân Việt Nam hiện nay đạt
hiệu quả cần thực hiện các nhóm giải pháp sau:
Thứ nhất, xây dựng giai cấp công nhân phát triển nhanh cả về số lượng và
chất lượng, đáp ứng yêu cầu sự nghiệp đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá
gắn liền với phát triển kinh tế tri thức và và hội nhập quốc tế.
12


Trí thức hoá công nhân góp phần nâng cao chất lượng toàn diện cho giai cấp

công nhân. Trước hết, nó thúc đẩy quá trình đào tạo, đào tạo lại và bồi dưỡng trình
độ học vấn, kỹ năng nghề nghiệp cho công nhân, đặc biệt là công nhân trẻ; qua đó
phát triển giai cấp công nhân về số lượng và chất lượng, cơ cấu hợp lý. Trí thức hoá
công nhân đảm bảo cho giai cấp công nhân có khả năng thích ứng nhanh với sự
phát triển mạnh mẽ của khoa học và công nghệ, cũng như tốc độ ứng dụng khoa
học vào sản xuất, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri thức của đất nước ta trong giai đoạn hiện
nay. Đây là cơ sở để “phát triển mạnh mẽ lực lượng sản xuất với trình độ khoa
học, công nghệ ngày càng cao; đồng thời hoàn thiện quan hệ sản xuất trong nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa”[3, tr232].
Đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá gắn với phát triển kinh tế tri
thức tất yếu phải có đội ngũ công nhân tri thức. Để phát triển kinh tế tri thức,
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng ta xác định phải “Phát huy và
sử dụng có hiệu quả nhất nguồn tri thức của con người Việt Nam và khai thác
nhiều nhất tri thức của nhân loại”[7, tr221]. Quá trình trí thức hoá công nhân
là quá trình từng bước hình thành đội ngũ công nhân trí thức ở nước ta, trong
điều kiện“phát triển kinh tế tri thức, nâng cao trình độ khoa học, công nghệ của
các ngành, các lĩnh vực”[8, tr77].
Trong giai đoạn hiện nay, trí thức hoá công nhân gắn liền với công nhân
hoá trí thức. Bởi lẽ, trình độ của giai cấp công nhân ngày càng được nâng lên,
một số ít có học hàm học vị cao; trong khi đó, đội ngũ trí thức nước ta (trừ
những người phản lại lợi ích dân tộc) đã làm chủ đất nước và hầu hết làm công
ăn lương, dẫu cho nhà nước hay cho xã hội. Cả sản phẩm vật chất hay tinh thần
do họ làm ra đều cống hiến cho xã hội, phục vụ cho xã hội không khác gì công
nhân. Điều này đã làm cho trí thức được xem như một bộ phận của công nhân,
và cùng với quá trình công nhân được trí thức hoá sẽ làm cho mối quan hệ giữa
13


công nhân và trí thức ngày càng xích lại gần nhau và vị trí, vai trò của giai cấp

công nhân ngày càng được tăng lên.
Hiện nay, giai cấp công nhân cần liên minh chặt chẽ, rộng rãi với giai cấp
nông dân trong quá trình đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp nông thôn, hướng tới
xây dựng một nền nông nghiệp sản xuất hàng hóa lớn, ứng dụng công nghệ cao, đa
dạng, phát triển nhanh và bền vững; đẩy mạnh CNH, HĐH gắn với phát triển kinh
tế tri thức, trong đó chú trọng đầu tư có chiều sâu vào các ngành kinh tế trọng
điểm; Kết hợp tiếp thu và ứng dụng những thành tựu khoa học kỹ thuật và công
nghệ hiện đại với phát huy công nghệ truyền thống của dân tộc trong quá trình sản
xuất; tích cực và chủ động hội nhập quốc tế trên cơ sở vừa đổi mới chính sách kinh
tế đối ngoại thu hút vốn đầu tư nước ngoài... Tiếp tục “đẩy mạnh CNH, HĐH, đô
thị hóa gắn với phát triển kinh tế tri thức, bảo vệ môi trường”[3, tr241]. Thực hiện
đồng bộ nhóm giải pháp này nhằm tạo ra sức mạnh tổng hợp đẩy nhanh CNH,
HĐH đất nước và qua đó tạo ra cơ sở vật chất hiện đại cho việc thực hiện nhiệm vụ
trí thức hóa công nhân Việt Nam.
Thứ hai, đổi mới công tác giáo dục và đào tạo đối với xã hội nói chung và
đối với công nhân nói riêng
Thực hiện quan điểm đổi mới mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục và
đào tạo nguồn lao động nói chung và lao động công nhân nói riêng; xây dựng một
xã hội học tập để nâng cao dân trí, tạo ra động lực học suốt đời cho cả người học và
người dạy; tăng cường đầu tư cho giáo dục và đào tạo, phát triển khoa học và công
nghệ. Phải nhanh chóng tạo ra nguồn lực lao động chất lượng cao “là động lực
quan trọng nhất để phát triển lực lượng sản xuất hiện đại, kinh tế tri thức, nâng
cao năng suất, chất lượng, hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế”[8, tr120].
Tăng cường vai trò lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng đối với hệ thống chính trị các cấp,
mà trực tiếp là các Bộ Giáo dục và Đào tạo, Bộ Khoa học và Công nghệ, Bộ Lao
động, Thương binh và xã hội với các đơn vị có liên quan trong quá trình đào tạo
14


công nhân; tiếp tục đổi mới chính sách xã hội hoá giáo dục và đào tạo công nhân

theo hướng trí thức hóa; mở rộng quy mô đào tạo những ngành trực tiếp đẩy mạnh
CNH, HĐH nói chung và phục vụ CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn nói riêng.
Ba là, trí thức hoá công nhân phát huy nội lực của mình nâng cao năng
lực sáng tạo trong sản xuất, đời sống, nhất là năng lực ứng dụng, sáng tạo công
nghệ mới của giai cấp công nhân.
Trình độ học vấn, chuyên môn nghiệp vụ và năng lực công tác của công
nhân chỉ thực sự phát huy có hiệu quả khi họ có được năng lực sáng tạo và năng
lực ứng dụng thực tiễn cao. Do vây, trí thức hoá công nhân cần chú trọng cả việc
bồi dưỡng năng lực sáng tạo và năng lực ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản
xuất. Họ thực sự trở thành những nhà khoa học thực thụ trong môi trường lao
động công nghiệp hiện đại và có điều kiện “phát triển bằng tài năng và hưởng
lợi ích xứng đáng với giá trị lao động sáng tạo của mình”[8, tr122]. Chỉ trên cơ
sở hai năng lực này, giai cấp công nhân mới có thể độc lập lao động, sáng tạo và
nghiên cứu; thích ứng nhanh với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học, công
nghệ, tạo ra những sản phẩm có giá trị to lớn cho xã hội, thúc đẩy nền kinh tế đất
nước phát triển, đẩy nhanh quá trình thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá, hiện
đại hoá, đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp cơ bản hiện đại vào năm
2020 và là nước công nghiệp hiện đại vào năm 2050.
Bản thân giai cấp công nhân cần giác ngộ lý tưởng cách mạng, sứ mệnh lich
sử của mình, từ đó nâng cao trình độ học vấn, chuyên môn và kỹ năng nghề nghiệp
cho công nhân Việt Nam; nâng cao ý thức chính trị, ý thức giai cấp, tinh thần yêu
nước của công nhân Việt Nam; nâng cao ý thức pháp luật và tác phong công
nghiệp cho công nhân; chăm lo đời sống vật chất, tinh thần cho công nhân. Lấy
giai cấp công nhân Việt Nam làm hình mẫu “xây dựng con người Việt Nam với
những đặc tính cơ bản: yêu nước, nhân ái, nghĩa tình, trung thực, đoàn kết, cần cù,
sáng tạo”[3, tr243].
15


Thứ tư, từng bước hoàn thiện và thực hiện tốt hệ thống chính sách xã hội đối

với công nhân.
Nhà nước cần kết hợp với các ngành, các cấp, đặc biệt là với tổ chức Công
đoàn để xây dựng hệ thống chính sách xã hội đồng bộ và ngày càng hoàn thiện. Xã
hội hoá quá trình thực hiện chính sách xã hội đối với công nhân trên cơ sở phát huy
dân chủ trong toàn xã hội nói chung và trong công nhân nói riêng.
Trước hết xây dựng và thực hiện hệ thống chính sách hướng nghiệp ở cấp học
phổ thông. Thực hiện các chính sách này để giúp cho thanh niên, học sinh định hướng
đúng đắn việc chọn nghề và hiểu rõ được ý nghĩa của việc gia nhập đội ngũ công
nhân, tạo điều kiện phát triển đội ngũ công nhân trẻ có trình độ cao, chuyển một bộ
phận lớn nông dân thành công nhân.
Nhà nước xây dựng chiến lược, quy hoạch phát triển dạy nghề một cách đồng bộ.
Cần đổi mới hệ thống dạy nghề đáp ứng yêu cầu thị trường lao động trong nước và
quốc tế nhằm đảm bảo sự cân đối ngay trong hệ thống giáo dục - đào tạo, giữa hệ
thống giáo dục - đào tạo với phát triển kinh tế, giữa đào tạo và sử dụng, đáp ứng có
hiệu quả nguồn lao động có chất lượng cao cho yêu cầu phát triển của nền kinh tế.
Tăng cường công tác quản lý nhà nước về dạy nghề. Làm tốt công tác dự báo nhu cầu
lao động theo ngành nghề, cấp trình độ.
Ban hành chính sách khuyến khích mạnh mẽ hơn đối với hoạt động đào tạo
nghề, thu hút mạnh hơn các thành phần kinh tế tích cực tham gia vào lĩnh vực đào tạo
nghề, bao gồm cả ở trình độ cao. Từng bước thực hiện đổi mới chi ngân sách cho dạy
nghề theo cơ chế đặt hàng, đấu thầu đối với các cơ sở dạy nghề của các thành phần
kinh tế; đồng thời thực hiện tốt hơn cơ chế kiểm định, đánh giá chất lượng dạy nghề.
Bổ sung, sửa đổi, xây dựng chính sách đào tạo, đào tạo lại công nhân. Có chính
sách khuyến khích, tạo điều kiện cho công nhân tự học tập nâng cao trình độ học vấn,
chuyên môn, kỹ năng nghề nghiệp, ngoại ngữ. Xây dựng, hoàn thiện nội dung,
16


chương trình đào tạo nghề, gắn đào tạo lý thuyết với rèn luyện kỹ năng thực hành, gắn
đào tạo nghề với giáo dục nâng cao nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ

Chí Minh, về giai cấp công nhân và với rèn luyện phẩm chất đạo đức, tác phong công
nghiệp, kỷ luật lao động…
Điều chỉnh, bổ sung, quy hoạch mạng lưới các cơ sở dạy nghề gắn với các
ngành, các chương trình, dự án lớn, các vùng kinh tế trọng điểm. Ngân sách nhà nước
đầu tư tập trung vào dạy nghề cho lao động nông thôn, các vùng miền núi, dân tộc
thiểu số và những ngành nghề đặc thù mà các đơn vị ngoài công lập không đầu tư.
Nhà nước làm nòng cốt, đồng thời có chính sách để thu hút các thành phần kinh tế đầu
tư xây dựng trường chuẩn, theo chương trình chuẩn để đào tạo công nhân có trình độ
cao cho một số ngành kinh tế mũi nhọn, yêu cầu kỹ thuật, công nghệ hiện đại. Chú
trọng đào tạo đồng bộ, cả ở trong và ngoài nước, đội ngũ giáo viên dạy nghề, cán bộ
quản lý và những công nhân có trình độ cao để đáp ứng yêu cầu nhân lực của nền kinh
tế, nhất là các ngành công nghiệp mới, hiện đại. Củng cố và mở rộng các trường đào
tạo giáo viên dạy nghề theo khu vực trên phạm vi cả nước.
Khuyến khích các doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế hàng năm dành
kinh phí thích đáng và thời gian cho đào tạo, đào tạo lại công nhân. Tăng cường đào
tạo đối với lao động đi làm việc ở nước ngoài theo hợp đồng. Đảm bảo lao động đi
làm việc ở nước ngoài có đủ điều kiện về tay nghề, ngoại ngữ, tác phong công nghiệp,
ý thức chấp hành kỷ luật lao động; quy hoạch và phát triển đa dạng các hình thức, các
thành phần kinh tế tham gia đưa lao động đi làm việc ở nước ngoài.
Như vậy, cần tập trung thực hiện một số nhiệm vụ cụ thể cấp bách nói trên
trong chính sách xã hội có liên quan trực tiếp tới quá trình trí thức hoá công nhân.
Tăng cường kiểm tra, đôn đốc kịp thời việc thực hiện chính sách xã hội đối với
công nhân.
Thứ năm, thu hút sự tham gia tích cực của đội ngũ trí thức (kể cả trí thức
17


Việt Nam ở nước ngoài) trong việc thực hiện nhiệm vụ trí thức hoá công nhân Việt
Nam
Phát huy năng lực của trí thức trong việc thực hiện các chương trình, đề tài

nghiên cứu của Nhà nước; trong việc xây dựng đường lối, chủ trương, chính sách
của Đảng trên các lĩnh vực của đời sống xã hội và trong việc tham gia giáo dục và
đào tạo nhằm nâng cao tri thức toàn diện cho công nhân. Mở rộng dân chủ, khuyến
khích sáng tạo, phát minh, sáng kiến và bảo vệ sở hữu trí tuệ trong nghiên cứu
khoa học của trí thức; mở rộng vai trò tư vấn, phản biện của các hội khoa học và kỹ
thuật, đối với các đề án phát triển kinh tế - xã hội của quốc gia.
Đẩy mạnh phát triển Đảng và nâng cao chất lượng công tác chính trị tư tưởng
đối với trí thức và sinh viên; tạo môi trường và điều kiện thuận lợi cho hoạt động
của trí thức trong học tập, nghiên cứu và tiếp cận với các thành tựu khoa học và
công nghệ mới của nhân loại; thực hiện chính sách đặc biệt trọng dụng, đãi ngộ và
tôn vinh trí thức. Trên cơ sở phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc, tăng
cường xây dựng đội ngũ trí thức ngày càng lớn mạnh, đất nước ta phải biết“trọng
dụng trí thức trên cơ sở đánh giá đúng phẩm chất, năng lực và kết quả cống
hiến… Có cơ chế, chính sách đặc biệt để thu hút nhân tài của đất nước”[8, tr161].
Nhà nước cần xây dựng một hành lang pháp lý đồng bộ và có chính sách đặc
biệt thu hút nhiều hơn nữa lực lượng trí thức trong cộng đồng người Việt Nam ở
nước ngoài tham gia vào quá trình trí thức hóa công nhân; bảo đảm “có cơ chế
chính sách thu hút đồng bào hướng về Tổ quốc, đóng góp xây dựng và bảo vệ đất
nước”[8, tr166].
Việt Nam đang tiến hành đổi mới đất nước, đẩy mạnh CNH, HĐH, từng bước
phát triển kinh tế tri thức và tích cực, chủ động hội nhập quốc tế tất yếu đòi hỏi
phải tiếp tục trí thức hoá công nhân. Đây là một nhiệm vụ hết sức khó khăn, vừa có
tính cấp bách, vừa có tính cơ bản lâu dài, cần được tiến hành thường xuyên và liên
tục trong suốt quá trình thực hiện sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt
18


Nam. Vì vậy, trí thức hoá công nhân không chỉ là nhiệm vụ riêng của giai cấp công
nhân mà còn là nhiệm vụ quan trọng của toàn dân tộc dưới sự lãnh đạo của Đảng
Cộng sản Việt Nam, góp phần quyết định sự thành công của sự nghiệp CNH, HĐH

trên con đường đổi mới đất nước.
Tóm lại, trí thức hoá công nhân là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược
xây dựng giai cấp công nhân Việt Nam ngày càng lớn mạnh về số lượng và chất
lượng trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Trí thức hoá
công nhân ở nước ta hiện nay có nội dung toàn diện và có vai trò to lớn trong sự
nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, sớm đưa nước ta trở thành một
nước công nghiệp hiện đại nói riêng và trong sự nghiệp cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay và những giai đoạn cách mạng tiếp theo nói chung. Thực
hiện nhiệm vụ này cần tiến hành có hiệu quả, đồng bộ hệ chính sách xã hội phù
hợp. Đồng thời, phát huy tốt vai trò của toàn Đảng, của hệ thống chính trị, của giai
cấp công nhân và toàn xã hội để trí thức hoá công nhân có hiệu quả, góp phần thực
hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước trong giai đoạn
hiện nay và thực hiện thắng lợi mục tiêu “dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công
bằng, văn minh”.

TÀI LIỆU THAM KHẢO
19


1. Báo cáo của Ban chỉ đạo Tổng điều tra cơ sở kinh tế sự nghiệp năm 2012,
Viện Công nhân Công đoàn.
2. Báo cáo của các tập đoàn kinh tế, Tổng Công ty 91 và doanh nghiệp lớn,
2007.
3. Báo cáo tổng kết một số vấn đề lý luận và thực tiễn qua 30 năm đổi mới
(1986 - 2016), Nxb CTQG, H. 2015,tr55, 56, 211, 241, 243.
4. Đảng Cộng sản Việt Nam (1991), Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần
thứ VII, Nxb Sự thật, Hà Nội, tr.113-114.
5. Đảng Cộng sản Việt Nam (2007), Văn kiện Hội nghị lần thứ sáu, Ban chấp
hành Trung ương khoá X, Nxb Chính trị quốc gia, Hà Nội, tr24, 44.
6. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X,

Nxb CTQG, H. 2007, tr43.
7. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI,
Nxb CTQG, H. 2011, tr77, 221.
8. Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XII,
VPTWĐ, H. 2016, tr77, 90, 120, 122, 126, 160, 161, 166.
9. Văn Tạo (2012), “Kinh tế tri thức và công nhân tri thức”, Báo Nhân dân
ngày 7/11/2012, tr4.
10. Đặng Ngọc Tùng (Chủ Biên) (2008), Xây dựng, phát huy vai trò giai cấp
công nhân Việt Nam thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH đất nước, Nxb Lao động, Hà
Nội, tr 24, 35, 50.

20



×