Tải bản đầy đủ (.doc) (26 trang)

TIỂU LUẬN xây DỰNG đội NGŨ ĐẢNG VIÊN có CHẤT LƯỢNG CAO, có số LƯỢNG PHÙ hợp, một GIẢI PHÁP QUAN TRỌNG TRONG xây DỰNG tổ CHỨC cơ sở ĐẢNG VỮNG MẠNH HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (212.39 KB, 26 trang )

XÂY DỰNG ĐỘI NGŨ ĐẢNG VIÊN VỮNG MẠNH CÓ
CHẤT LƯỢNG CAO, SỐ LƯỢNG PHÙ HỢP. MỘT GIẢI
PHÁP QUAN TRỌNG XÂY DỰNG TỔ CHỨC CƠ SỞ ĐẢNG
TRONG SẠCH VỮNG MẠNH

Lịch sử đấu tranh cách mạng của đất nước ta đã khảng định Đảng Cộng
sản Việt Nam - Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục, rèn luyện
và lãnh đạo- là lực lượng chính trị duy nhất lãnh đạo, đưa cách mạng Việt
Nam từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Tổ chức cơ sở Đảng là tổ chức lãnh
đạo của Đảng ở các đơn vị cơ sở. Trong hệ thống tổ chức của Đảng, tổ chức
cơ sở đảng giữ vị trí vai trò đặc biệt quan trọng. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt
Nam (Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X) đã xác định: "Tổ chức cơ sỏ đảng
(chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng là hạt nhân chính trị ở cơ
sở". Đảng là một tổ chức, được tổ chức một cách chặt chẽ và khoa học từ Ban
Chấp hành Trung ương đến chi bộ. Các tổ chức cơ sở đảng là những bộ phận
cấu thành Đảng, nhưng cấu thành với vai trò là nền tảng của Đảng. Không có
tổ chức cơ sở đảng thì không có Đảng. Sự tồn tại, sự vững chắc của toàn
Đảng và các cơ quan lãnh đạo của Đảng phụ thuộc vào năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của các tổ chức cơ sở đảng. Sức sống và cội nguồn sức mạnh
của Đảng được bắt nguồn từ trong mối liên hệ máu thịt giữa Đảng và quần
chúng, nếu tách khỏi quần chúng, quan liêu xa rời quần chúng, Đảng sẽ mất
đi nguồn sức mạnh, sẽ không còn lý do để tồn tại. Trong mối liên hệ bản chất
đó, tổ chức cơ sở đảng giữ vai trò là chiếc cầu nối giữa Đảng với quần chúng.
Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp đưa đường lối, chính sách của Đảng
vào quần chúng, đồng thời tổ chức quần chúng thực hiện thắng lợi đường lối,


-2chính sách ấy. Đường lối, chính sách của Đảng là sự kết tinh trí tuệ của toàn
Đảng, nó thể hiện ý chí của một giai cấp, thông qua đội tiền phong của mình.
Đường lối, chính sách của Đảng phải được thâm nhập sâu rộng vào trong
phong trào cách mạng của quần chúng, nghĩa là phải được quán triệt đầy đủ


và tổ chức thực hiện triệt để mới làm cải biến được hiện thực khách quan.
Công việc này phải thông qua nhiều khâu, nhiều bước, nhiều tổ chức, trong
đó trực tiếp nhất, sinh động nhất, cụ thể nhất là thông qua hoạt động lãnh đạo
của các tổ chức cơ sở đảng. Tổ chức cơ sở đảng vừa là nơi tuyên truyền giáo
dục, vừa là nơi tổ chức thực hiện đường lối, đồng thời thông qua việc quán
triệt và tổ chức thực hiện mà tổ chức cơ sở đảng nắm được tình hình và những
kiến nghị của quần chúng, báo cáo với Đảng để Đảng nghiên cứu, bổ sung,
phát triển, hoàn thiện đường lối cho phù hợp với tình hình thực tiễn.
Tổ chức cơ sở đảng là nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện, kết nạp
và sàng lọc đảng viên, nơi đào tạo cán bộ cho Đảng, nơi xuất phát đề cử ra cơ
quan lãnh đạo các cấp của Đảng. Điều lệ Đảng Công sản Việt Nam quy định
mọi đảng viên đều phải "phục tùng tổ chức, kỷ luật của Đảng", "hoạt động
trong một tổ chức cơ sở đảng". Tổ chức cơ sở đảng là nơi đảng viên trực tiếp
sinh hoạt, trực tiếp hoạt động, phấn đấu, rèn luyện, tu dưỡng và là nơi trực
tiếp quản lý đảng viên cả đội ngũ và từng người. Ngoài ra, tổ chức cơ sở đảng
còn có vai trò kiểm tra, giám sát mọi hoạt động của cơ quan quản lý và người
chỉ huy, bảo đảm cho mọi hoạt động của cơ quan quản lý và người chỉ huy
theo đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà
nước. Như vậy tổ chức cơ sở đảng có vị trí vai trò đặc biệt quan trọng vì Đảng
có vững mạnh và hoàn thành sứ mệnh lịch sử của mình hay không là phụ
thuộc quyết định vào năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của các tổ chức cơ
sở đảng. Chính vì vậy, việc chăm lo xây dựng các tổ chức cơ sở đảng, đặc
biệt là chi bộ trong sạch vững mạnh không ngừng nâng cao năng lực lãnh đạo


-3và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở đảng, làm cho tổ chức cơ sở đảng thực sự
trở thành hạt nhân lãnh đạo chính trị, trung tâm đoàn kết của đơn vị cơ sở vừa
là nhiệm vụ cơ bản lâu dài, vừa là nhiệm vụ cấp bách hiện nay. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã khẳng định: "Đối với Đảng ta, việc xây dựng chi bộ cho tốt, cho
vững mạnh là một việc vô cùng quan trọng"1. Để xây dựng tổ chức cơ sở đảng

trong quân đội trong sạch vững mạnh có rất nhiều giải pháp cần phải nghiên
cứu, quán triệt và vận dụng một cách đồng bộ có hệ thống các giải pháp. Song
trong phạm vi bài tiểu luận một giải pháp được tập trung phân tích làm rõ là:
"Xây dựng đội ngũ đảng viên vững mạnh có chất lượng cao, số lượng
phù hợp".
1. Đội ngũ đảng viên và những vấn đề đặt ra hiện nay đối với
việc xây dựng đội ngũ đảng viên vững mạnh có chất lượng cao, số
lượng phù hợp.
Đội ngũ đảng viên của Đảng ở cơ sở là người trực tiếp tổ chức thực
hiện đường lối, chính sách của Đảng, nghị quyết chỉ thị, mệnh lệnh của cấp
trên, trực tiếp liên hệ mật thiết với quần chúng và lãnh đạo quần chúng thực
hiện thắng lợi các nhiệm vụ của đơn vị.
Để xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững mạnh thì một vấn đề đặt ra là
phải: "Xây dựng đội ngũ đảng viên vững mạnh có chất lượng cao, số lượng
phù hợp". Đây là một nội dung hết sức quan trọng và cũng là một nhiệm vụ
trọng tâm của công cuộc đổi mới chỉnh đốn Đảng theo tinh thần Nghị quyết
Trung ương 6 (lần2) khoá VIII.
Đội ngũ đảng viên là những thành viên, những tế bào cơ bản của tổ
chức đảng, giữa đảng viên với tổ chức đảng có mối quan hệ biện chứng với
nhau. Sức mạnh của toàn Đảng là do sức mạnh tổng hợp của đội ngũ đảng
1

HCM, toàn tập, Nxb CTQG, H19996, tập 12, tr 77


-4viên, đặc biệt là đội ngũ đảng viên ở cơ sở tạo nên, nhiệm vụ của đơn vị có
hoàn thành hay không là phụ thuộc vào số lượng và chất lượng của đội ngũ
cán bộ, đảng viên. Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu và uy tín của Đảng nhất
là ở tổ chức cơ sở đảng có được phát huy hay không cũng là do chất lượng
của đội ngũ đảng viên cao hay thấp. Nếu Đảng ta có một đội ngũ đảng viên

với số lượng thích hợp, có chất lượng cao mọi đảng viên của Đảng đều có
phẩm chất tốt, năng lực tổ chức thực hiện và vận động quần chúng tốt, có kiến
thức toàn diện và phong cách lãnh đạo tốt, luôn phát huy được vai trò tiền
phong gương mẫu, sẽ trực tiếp góp phần xây dựng tổ chức cơ sở đảng vững
mạnh, mọi tổ chức cơ sở đảng đều mạnh thì Đảng ta sẽ mạnh. Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã dạy: "Đảng mạnh là do chi bộ tốt. Chi bộ tốt là do các đảng viên
đều tốt"2. Như vậy Hồ Chí Minh không chỉ khẳng định vai trò của tổ chức cơ
sở đảng mà còn khẳng định vai trò rất to lớn của của đội ngũ đảng viên đối
với công tác xây dựng tổ chức cơ sở đảng. Vì vậy, muốn xây dựng tổ chức cơ
sở đảng trong sạch vững mạnh, tất yếu phải xây dựng đội ngũ đảng viên vững
mạnh.
Kinh nghiệm thực tiễn trong suốt những năm lãnh đạo cách mạng, đặc
biệt trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ cho thấy Đảng ta và
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã luôn quan tâm đến công tác xây dựng đội ngũ đảng
viên của Đảng. Chính vì vậy, Đảng ta và Đảng bộ Quân đội luôn coi trọng và
làm tốt công tác quản lý, giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên nên Đảng ta
đã xây dựng được một đội ngũ đảng viên ưu tú, trung kiên, tuyệt đối trung
thành với mục tiêu, lý tưởng của Đảng, trung thành với Tổ quốc và nhân dân,
có phẩm chất chính trị tốt, có đạo đức cách mạng trong sáng, có năng lực lãnh
đạo, năng lực vận động quần chúng tốt và tổ chức thực hiện nhiệm vụ giỏi.
Đây là yếu tố vô cùng quan trong, đảm bảo cho quân đội ta luôn phát huy
2

Sđd, HCM tập 12, tr 95


-5được sức mạnh tổng hợp, có sức chiến đấu cao, lần lượt đánh bại hai tên đế
quốc đầu sỏ là đế quốc Pháp và đế quốc Mỹ, hoàn thành thắng lợi cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân, thống nhất đất nước, đưa cả nước đi lên xây
dựng chủ nghĩa xã hội.

Hiện nay trong công cuộc đổi mới, chỉnh đốn Đảng, việc xây dựng đội
ngũ đảng viên nói chung và xây dựng đội ngũ đảng viên trong quân đội nói
riêng còn xuất xuất từ yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân đội trong
tình hình mới. Hiện nay, cách mạng nước ta đã bước sang một giai đoạn mới,
giai đoạn đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, vì mục tiêu dân
giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Đây là cuộc cách
mạng toàn diện nhất, sâu sắc nhất và triệt để nhất, nó diễn ra trên tất cả các
lĩnh vực của đời sống kinh tế xã hội. Quy mô rộng lớn và tính chất gay go
quyết liệt, phức tạp, lâu dài của cuộc cách mạng đòi hỏi phải có sự thống nhất
cao hơn nữa cả về nhận thức và hành động, cả về ý chí, niềm tin và nghị lực
của toàn Đảng, toàn dân và toàn quân ta. Sự phát triển mới về nhiệm vụ của
cách mạng, của quân đội đã đặt ra yêu cầu rất cao đối với phẩm chất và năng
lực của đội ngũ cán bộ, đảng viên của Đảng, của quân đội trên tất cả các mặt:
nhận thức, bản lĩnh chính trị, quan điểm tư tưởng và hành động, năng lực và
đạo đức tác phong. Cho nên, nếu Đảng không đổi mới công tác tổ chức cán
bộ, không đổi mới, nâng cao chất lượng của đội ngũ đảng viên của Đảng
trong quân đội thì Đảng không thể lãnh đạo thắng lợi nhiệm vụ cách mạng,
nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc trong giai đoạn mới. Nói cách khác, xây dựng đội
ngũ đảng viên đủ về số lượng, nâng cao chất lượng là giải pháp cơ bản quan
trọng nhằm xây dựng, củng cố, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
của các tổ chức cơ sở đảng, làm trong sạch đội ngũ đảng viên của Đảng, đáp
ứng yêu cầu đổi mới và chỉnh đốn Đảng, đáp ứng yêu cầu xây dựng quân đội
cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, đủ sức hoàn thành thắng


-6lợi nhiệm vụ chính trị, quân sự, nhiệm vụ xây dựng thế trận tiến hành chiến
tranh nhân dân bảo vệ Tổ quốc do Đảng đề ra.
Trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước, trước những thời cơ thuận
lợi và thách thức mới, đội ngũ đảng viên trong quân đội đã nhanh chóng thích
ứng với tình hình mới và đã tiếp tục góp phần cùng toàn Đảng, toàn dân và

toàn quân ta giành được những thành tựu quan trọng trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Nói về những ưu điểm
của đội ngũ đảng viên trong quân đội thời kỳ đổi mới, Đại hội Đảng toàn
quân lần thứ VIII đã nhận định: "Đội ngũ đảng viên trong quân đội vẫn giữ
vững và phát huy được vai trò tiền phong gương mẫu, năng động sáng tạo
trong công tác, phẩm chất, năng lực có bước trưởng thành, trách nhiệm chính
trị đối với nhiệm vụ, kiên quyết chống suy thoái về chính trị, cơ hội, thực
dụng, khả năng tư duy và ứng xử thực tiễn tốt hơn, đáp ứng được nhiệm vụ,
chức trách đảm nhiệm. Đại đa số cán bộ, đảng viên trong quân đội giữ vững
được phẩm chất đạo đức, lối sống cách mạng, đề cao được trách nhiệm chính
trị đối với nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và tham gia xây dựng đất nước, đặc biệt
là ý chí vươn lên, tinh thần tự lực, tự cường, khắc phục khó khăn, hoàn thành
mọi nhiệm vụ được giao, góp phần cùng toàn Đảng thực hiện thắng lợi sự
nghiệp đổi mới, đấu tranh chống "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ và làm
thất bại âm mưu của kẻ thù muốn vô hiệu hoá lực lượng vũ trang".
Tuy nhiên, so với yêu cầu của nhiệm vụ cách mạng, nhiệm vụ quân đội
trong tình hình mới, đội ngũ cán bộ, đảng viên trong quân đội vẫn còn bộc lộ
một số yếu kém bất cập mà Nghị quyết Đại hội Đảng toàn quân lần thứ VIII
đã chỉ ra là: "Trước diễn biến phức tạp của tình hình và tác động tiêu cực xã
hội, Đảng bộ Quân đội tuy không có suy thoái về chính trị, nhưng một số cán
bộ, đảng viên có cả cán bộ cao, trung cấp còn biểu hiện hẫng hụt về trí tuệ,


-7thiếu dũng khí đấu tranh, bộc lộ sự giảm sút ý chí, nhạt phai lý tưởng, niềm
tin đối với chủ nghĩa xã hội, tư tưởng trung bình chủ nghĩa, không phát huy
được vai trò tiền phong gương mẫu trong công tác và trong cuộc sống; một số
đảng viên chưa phát huy được vai trò tiên phong gương mẫu trong học tập,
công tác và rèn luyện kỷ luật, chưa sâu sát gần gũi quần chúng; tính chiến đấu
trong sinh hoạt chưa cao cá biệt có đảng viên còn suy thoái về đạo đức lối
sống, cơ hội, thực dụng, tham nhũng, chạy theo quyền lực, lợi ích kinh tế, vật

chất, gây hậu quả xấu, phải khai trừ ra khỏi Đảng và xử lý bằng pháp luật.
Một số cấp uỷ chưa nhận thức đầy đủ, đúng đắn về nhiệm vụ kiểm tra, chưa
gắn vai trò lãnh đạo với trách nhiệm kiểm tra. Chưa tạo được sự chuyển biến
mạnh mẽ, rõ rệt về thực hiện cuộc vận động xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí ở các cấp các ngành trong toàn quân.
Đáng quan tâm là cán bộ và cấp uỷ viên vi phạm kỷ luật còn chiếm tỷ lệ cao
so với tổng số vụ vi phạm kỷ luật của đảng viên, đã trực tiếp ảnh hưởng đến
uy tín, sức chiến đấu của Đảng bộ và Quân đội". Những yếu kém trên do
nhiều nguyên nhân nhưng trong đó có nguyên nhân do các tổ chức đảng đã
buông lỏng việc giáo dục, rèn luyện và quản lý đảng viên, không chấp hành
nghiêm túc Điều lệ Đảng và các nguyên tắc tổ chức sinh hoạt Đảng, coi nhẹ
công tác kiểm tra và kỷ luật Đảng. Như Đại hội VIII của Đảng đã chỉ rõ:
"Trong điều kiện cơ chế thị trường, kinh tế nhiều thành phần, mở cửa với bên
ngoài, cán bộ, đảng viên hàng ngày, hàng giờ chịu sự tác động của nhiều nhân
tố rất phức tạp, kể cả những hoạt động chống phá Đảng, vấn đề giữ vững bản
chất giai cấp công nhân của Đảng đứng trước những thách thức mới. Song,
Đảng thiếu sự chuẩn bị đầy đủ cho bước chuyển này, chưa chú ý đúng mức
vấn đề giáo dục, rèn luyện phẩm chất chính trị và đạo đức đối với cán bộ,
đảng viên"3 Đến Đại hội IX của Đảng tiếp tục chỉ ra: "Trong công tác xây
3

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VIII, H1996, tr 137


-8dựng Đảng bên cạnh những ưu điểm, đang nổi lên một số mặt yếu kém và
khuyết điểm nhất là khuyết điểm về công tác giáo dục, rèn luyện đội ngũ cán
bộ, đảng viên chưa ngăn chặn và đẩy lùi được sự suy thoái về tư tưởng chính
trị và đạo đức, lối sống"4. Đại hội X của Đảng tiếp tục chỉ ra: “Một số bộ phận
không nhỏ cán bộ, đảng viên, kể cả một số cán bộ chủ chốt cấp huyện yếu
kém cả về phẩm chất và năng lực; thiếu tính chiến đấu và tinh thần bảo vệ

quan điểm, đường lối của Đảng, chính sách và phấp luật của nhà nước, gảm
sút lòng tin phai nhạt lý tưởng; một số có biểu hiện mất mãn, mất lòng tin, nói
và làm trái với quan điểm đường lối của Đảng, vi phạm nguyên tắc tổ chức và
hoạt động của Đảng, vi phạm pháp luật nhà nước. Bệnh cơ hội, chủ nghĩa cá
nhân trong một bộ phận cán bộ, đảng viên có chiều hướng gia tăng; vẫn còn
tình trạng “chạy chức”, “chạy quyền”, “chạy tội”, “chạy bằng cấp”. Thoái hoá
biến chất về chính trị, tư tưởng, về đạo đức lối sống; tệ quan liêu tham những,
lãng phí, sách nhiễu dân trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên diễn
ra nghiêm trọng, kéo dài chưa được ngăn chặn, đẩy lùi, nhất là trong các cơ
quan công quyền… ”5
Hiện nay cách mạng nước ta đang đứng trước tình hình thế giới và khu
vực xuất hiện những diễn biến phức tạp, nhanh chóng, khó lường và sâu sắc
làm thay đổi cục diện chính trị thế giới đã và đang tác động mạnh mẽ vào
cách mạng nước ta và đặt ra nhiều vấn đề mới đối với sự lãnh đạo của Đảng,
công tác xây dựng Đảng và công tác xây dựng đội ngũ đảng viên. Cuộc cách
mạng khoa học và công nghệ đưa đến sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng
sản xuất trên thế giới và quá trình quốc tế hoá sâu sắc nền sản xuất vật chất và
đời sống xã hội. Nhất là từ sau sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên
Xô và các nước ở Đông Âu đã làm cho chủ nghĩa xã hội lâm vào thoái trào,
các lực lượng xã hội chủ nghĩa bị thu hẹp. Các nước xã hội chủ nghĩa còn lại
4
5

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, H2001, tr 138
ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ X, H2006, tr 263, 264


-9đứng trước những khó khăn thử thách to lớn. Tình hình đó tác động rất mạnh
vào tư tưởng tình cảm, sự suy nghĩ và niềm tin của cán bộ đảng viên của ta.
Lợi dụng sự sụp đổ của chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và các nước

ở Đông Âu, các thế lực thù địch đứng đầu là đế quốc Mỹ đang thực hiện
những âm mưu thủ đoạn chiến lược "diễn biến hoà bình" bạo loạn lật đổ để
chống phá cách mạng nước ta trên nhiều lĩnh vực. Một trong những trọng
điểm mà chúng tập trung chống phá đó là Đảng và Quân đội ta. Bằng những
âm mưu, thủ đoạn rất xảo quyệt, trong đó sự "xâm nhập tư tưởng" được coi là
đòn đột phá của chúng. Mục tiêu đầu tiên là công kích, xuyên tạc, bôi nhọ chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, lung lục cán bộ, đảng viên và nhân
dân về tư tưởng, gieo rắc hoài nghi về mục tiêu và con đường xã hội chủ
nghĩa, lôi kéo, mua chuộc, làm sa ngã, biến chất đội ngũ đảng viên làm suy
yếu Đảng ta. Đồng thời, chúng ra sức tuyên truyền hệ tư tưởng tư sản, gieo
rắc lối sống tư sản buông thả, truỵ lạc, chủ nghĩa thực dụng và tự do dân chủ
kiểu phương Tây. Gieo rắc lối tư duy phi lịch sử, phủ nhận quá khứ, phủ nhận
truyền thống vẻ vang của dân tộc ta. Mặt khác, chúng triệt để lợi dụng những
cán bộ, đảng viên yếu kém, cơ hội để kích động, khoét sâu thêm mâu thuẫn,
gây chia rẽ mất đoàn kết trong nội bộ Đảng hòng làm cho Đảng ta suy yếu và
tự sụp đổ từ bên trong. Trắng trợn hơn, chúng ngang nhiên can thiệp, đòi
chúng ta phải thực hiện đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, mà thực chất là
nhằm phủ nhận những thành quả cách mạng của dân tộc ta, phủ nhận vai trò
lãnh đạo của Đảng, muốn Đảng ta phải từ bỏ chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh, từ bỏ con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, hướng nước ta đi theo
con đường tư bản chủ nghĩa. Đối với quân đội ta, chúng dùng chiêu bài "phi
chính trị hoá quân đội", chúng muốn tách quân đội ta ra khỏi sự lãnh đạo của
Đảng, làm cho quân đội mất phương hướng, mục tiêu, không còn là lực lượng
trung thành, tin cậy của Đảng.


- 10 Từ những cơ sở lý luận và thực tiễn trên cho thấy công tác xây dựng
đội ngũ đảng viên là một khâu rất quan trọng trong toàn bộ công tác xây dựng
Đảng. Trong giai đoạn hiện nay vấn đề xây dựng đội ngũ đảng viên lại càng
trở lên cần thiết và cấp bách. Có nhận thức đúng đắn vai trò tầm quan trọng

của vấn đề này các tổ chức cơ sở đảng mới có thể thực hiện một cách nghiêm
túc, có hiệu quả trong lãnh đạo đơn vị và xây dựng đảng bộ vững mạnh.
Chính vì vậy để giữ vững và tăng cường sự lãnh đạo của Đảng đối với quân
đội, nhất là ở đơn vị cơ sở, một giải pháp cơ bản và vô cùng quan trọng là
phải: "Xây dựng đội ngũ đảng viên vững mạnh có chất lượng cao, số lượng
phù hợp". Nhằm trang bị cho đội ngũ đảng viên trong quân đội có những
phẩm chất năng lực cần thiết, đủ khả năng phòng và đấu tranh với mọi âm
mưu thủ đoạn của kẻ thù để vững vàng vượt qua mọi khó khăn thử thách, kiên
định với chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên định mục tiêu lý
tưởng của Đảng, hoàn thành tốt nhiệm vụ mà Đảng và quân đội giao cho.
2.- Nội dung và giải pháp xây dựng đội ngũ đảng viên vững mạnh
có chất lượng cao, số lượng phù hợp.
Sức mạnh của toàn Đảng là do sức mạnh tổng hợp của đội ngũ đảng
viên của Đảng tạo nên. Số lượng, chất lượng của đội ngũ đảng viên trực tiếp
quyết định năng lức lãnh đạo, sức chiến đấu, hiệu lực lãnh đạo và uy tín của
Đảng. Sức mạnh của Đảng không chỉ phụ thuộc vào sự đúng đắn, sáng tạo
của cương lĩnh chính trị, đường lối, nhiệm vụ chính trị; đường lối, nhiệm vụ
tổ chức mà còn phụ thuộc phần rất lớn vào chất lượng và số lượng đội ngũ
đảng viên của Đảng; số lượng, chất lượng của đội ngũ đảng viên là điều kiện
trực tiếp quyết định thắng lợi của đường lối chính trị và sức mạnh lãnh đạo
của Đảng trên thực tế. Vì vậy, Đảng có một đội ngũ đảng viên có số lượng
thích hợp, có chất lượng cao, mọi đảng viên của Đảng tuyệt đối trung thành


- 11 với Đảng có phẩm chất chính trị tốt, có đạo đức cách mạng trong sáng, có
năng lực lãnh đạo, vận động quần chúng và tổ chức thực hiện giỏi thì không
một chủ trương, nhiệm vụ nào không được hoàn thành, không một khó khăn
nào không vượt qua. Nội dung xây dựng đội ngũ đảng viên vững mạnh, phải
chú trọng cả chất lượng và số lượng, lấy chất lượng là khâu chủ yếu trước hết.
Muốn vậy, cần phải nắm vững tiêu chuẩn của người đảng viên trong giai

đoạn cách mạng mới, đồng thời cụ thể hoá tiêu chuẩn đó cho phù hợp với yêu
cầu nhiệm vụ chính trị, đặc điểm và tính chất hoạt động của từng đơn vị.
Chất lượng đảng viên thể hiện ở tiêu chuẩn đảng viên, vì thế muốn
nâng cao được chất lượng của đội ngũ đảng viên, trước hết phải xây dựng
được tiêu chuẩn đảng viên. Đây vừa là cơ sở để xem xét, đánh giá đảng viên
vừa là tiêu chí để đảng viên phấn đấu. Trong tình hình hiện nay, đội ngũ đảng
viên trong quân đội ngoài việc nắm vững và thực hiện tốt nhiệm vụ của người
đảng viên đã ghi trong Điều lệ Đảng và tiêu chuẩn chung của người đảng viên
mà Nghị quyết Trung ương 3 khoá VII đã nêu, còn phải phấn đấu theo tiêu
chuẩn riêng của đảng viên trong quân đội mà Nghị quyết 79 của Đảng uỷ
Quân sự Trung ương đã xác định là:
- "Tuyệt đối trung thành với mục tiêu lý tưởng xã hội chủ nghĩa, với
Đảng, với nhân dân, nhất trí cao với đường lối quan điểm của Đảng, đoàn kết
xung quanh Ban chấp hành Trung ương, phục tùng sự lãnh đạo của Đảng, đặt
lợi ích của Tổ quốc, của nhân dân lên trên lợi ích cá nhân, giám hy sinh vì
nghĩa lớn trong mọi tình huống.
- Nâng cao bản lĩnh chính trị vững vàng, cảnh giác cách mạng, ý chí
chiến đấu gương mẫu trong mọi nhiệm vụ, kiên quyết đấu tranh bảo vệ đường
lối quan điểm, bảo vệ Tổ quốc, bảo vệ sự lãnh đạo của Đảng, chống quan


- 12 điểm sai trái, tiêu cực âm mưu thủ đoạn của các thế lực thù địch, quyết tâm
hoàn thành thắng lợi mọi nhiệm vụ.
- Đề cao ý thức dân chủ, tôn trọng kỷ cương, tăng cường đoàn kết
thống nhất nội bộ, gắn bó với quần chúng, với nhân dân, chấp hành triệt để
nguyên tắc và nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nói đi đôi với
làm.
- Có ý thức cầu tiến bộ, chăm lo học tập, nâng cao kiến thức đáp ứng
yêu cầu nhiệm vụ cách mạng, cương vị công tác trong hoàn cảnh mới,
rèn luyện phẩm chất đạo đức, lối sống cách mạng và làm tốt công tác

xây dựng Đảng".
Trên cơ sở những tiêu chuẩn trên, các tổ chức đảng trong toàn quân tiến
hành các mặt công tác xây dựng đội ngũ đảng viên, làm căn cứ để xem xét tư
cách đảng viên và phân tích chất lượng đảng viên hàng năm. Đồng thời là cơ
sở để từng đảng viên tự tu dưỡng phấn đấu vươn lên hoàn thành mọi nhiệm
vụ.
Để xây dựng được đội ngũ đảng viên đủ tiêu chuẩn, có đủ phẩm chất và
năng lực, ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ, đòi hỏi chúng ta phải tiến hành
một cách đồng bộ tất cả các giải pháp, trong đó cần thực hiện tốt một số giải
pháp cơ bản sau đây:
Một là: Tăng cường giáo dục, rèn luyện, bồi dưỡng phẩm chất, năng
lực và phong cách lãnh đạo khoa học cho đội ngũ cán bộ đảng viên.
Giáo dục, rèn luyện đảng viên là một nội dung cơ bản quan trọng của
công tác xây dựng đội ngũ đảng viên, nhằm nâng cao trình độ về mọi mặt cho
đội ngũ đảng viên, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng, của quân đội và
yêu cầu của công tác xây dựng Đảng trong từng giai đoạn cách mạng. Đây là


- 13 một vấn đề trọng tâm trong công tác xây dựng chỉnh đốn Đảng hiện nay. Đại
hội IX của Đảng đã chỉ ra: "Phải tăng cường công tác giáo dục tư tưởng chính
trị, rèn luyện đạo đức cách mạng chống chủ nghĩa cá nhân" 6. Vì vậy, các tổ
chức đảng phải tiến hành giáo dục thường xuyên liên tục và gắn với yêu cầu
nhiệm vụ, yêu cầu của công tác xây dựng Đảng, gắn với hoàn cảnh, cuộc sống
thực tiễn của người đảng viên và đội ngũ đảng viên. Việc giáo dục rèn luyện
phải sát với từng đối tượng vừa tiến hành trong cả đội ngũ đảng viên, vừa đi
vào từng người cụ thể trên các mặt về chính trị tư tưởng, nhân cách và lối
sống cho cán bộ, đảng viên, đặc biệt là giáo dục cán bộ lãnh đạo, quản lý các
cấp và cán bộ, đảng viên hoạt động trong các lĩnh vực có môi trường dễ làm
hư hỏng như các lĩnh vực có liên quan đến tiền, dự án, cấp phép, điều tra, xét
xử, công tác cán bộ, tham mưu hoạch định các chủ trương, chính sách cụ

thể…Từng cơ quan, đơn vị xây dựng và thực hiện nghiêm những tiêu chuẩn
đạo đức, lối sống cần “xây” và hành vi cần “chống” liên tục làm tốt, làm có
hiệu quả công tác giáo dục, rèn luyện đảng viên. Muốn giáo dục, rèn luyện
đảng viên có hiệu quả, phải đổi mới nội dung, chương trình, phương pháp và
hình thức giáo dục sát với từng đối tượng, kể cả giáo dục lý luận chính trị và
giáo dục kiến thức chuyên môn. Chương trình giáo dục phải nhằm thực hiện
thắng lợi nhiệm vụ của người đảng viên, nhiệm vụ của quân đội, của đơn vị
theo cương vị đảm nhiệm.
Nội dung giáo dục, rèn luyện đảng viên phải toàn diện, vừa giáo dục,
rèn luyện về phẩm chất chính trị, đạo đức cách mạng, vừa bồi dưỡng, nâng
cao trình độ kiến thức, năng lực và kinh nghiệm thực tiễn cho đảng viên. Cần
chú ý tập trung vào những nội dung cơ bản như: Giáo dục lý luận chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, mục tiêu lý tưởng, đường lối, chính sách
của Đảng, pháp luật của Nhà nước, nhiệm vụ của quân đội, của đơn vị. Giáo
6

ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Nxb CTQG, H2001, tr 53


- 14 dục lòng yêu nước xã hội chủ nghĩa, lòng trung thành vô hạn với Đảng, với
Tổ quốc và nhân dân. Giáo dục về điều lệ Đảng, nhất là các nguyên tắc tổ
chức lãnh đạo, sịnh hoạt Đảng. Xây dựng ý chí quyết tâm chiến đấu, tinh
thần chủ động khắc phục mọi khó khăn gian khổ, hy sinh, rèn luyện ý thức tổ
chức kỷ luật, xây dựng tinh thần đoàn kết, tình đồng chí, đồng đội và tinh
thần quốc tế trong sáng cho đảng viên. Giáo dục, rèn luyện phẩm chất đạo
đức cách mạng và lối sống trong sáng lành mạnh của người cách mạng. Giáo
dục cho đảng viên nhận thức rõ bản chất, âm mưu thủ đoạn chiến lược "diễn
biến hoà bình" bạo loạn lật đổ của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực thù địch,
nâng cao tinh thần cảnh giác cách mạng và khắc phục những hiện tượng mơ
hồ, ảo tưởng, mất cảnh giác trong Đảng hiện nay. Giáo dục quan điểm thực

tiễn, quan điểm quần chúng, xây dựng ý thức tôn trọng quần chúng, lãnh đạo
và phục vụ quần chúng. Cùng với giáo dục về chính trị tư tưởng và đạo đức
lối sống phải bồi dưỡng, nâng cao trình độ về mọi mặt và phong cách lãnh
đạo cho đảng viên để có năng lực hoạt động giỏi, năng lực lãnh đạo, tổ chức
chỉ huy, quản lý, giáo dục bộ đội thực hiện nhiệm vụ chức trách.
Yêu cầu giáo dục rèn luyện đảng viên phải vận dụng mọi biện pháp của
công tác tư tưởng và công tác tổ chức và kết hợp chặt chẽ các biện pháp đó.
Trước hết, đối với các tổ chức cơ sở đảng trong quân đội phải xây dựng nội
dung chương trình, kế hoạch tổ chức học tập và thường xuyên đổi mới nâng
cao chất lượng học tập về lý luận chính trị cơ bản cho đảng viên thông qua hệ
thống nhà trường, học viện trong và ngoài quân đội, tổ chức các lớp học tại
chức, tổ chức các đợt sinh hoạt chính trị, các đợt sinh hoạt đảng bộ, sinh hoạt
tự phê bình và phê bình trong Đảng. Tăng cường công tác giáo dục, rèn luyện
đảng viên phải thông qua việc quản lý kiểm tra phân công công tác cho đảng
viên. Sau từng thời gian phải tổ chức kiểm điểm, kiểm tra việc thực hiện
nhiệm vụ của đảng viên. Nhận xét đánh giá phân loại đảng viên chỉ rõ những


- 15 mặt mạnh, mặt yếu để họ có phương hướng biện pháp phấn đấu tiến bộ, hoàn
thành chức trách nhiệm vụ của tổ chức cơ sở đảng giao cho.
Đại hội X của Đảng đã nhấn mạnh các yêu cầu nâng cao chất lượng
đảng viên.
“Về chính trị tư tưởng, Tuyệt đối trung thành với sự nghiệp cách mạng
của Đảng, của dân tộc, tích cực thực hiện đuờng lối đổi mới của Đảng, hoàn
thành tốt nhiệm vụ chính trị được giao. Có bản lĩnh chính trị vững vàng,
không dao động trước khó khăn, thách thức. Có ý thức giữ vững và nêu cao
vai trò lãnh đạo của đảng.
Về trình độ năng lực, có hiểu biết cơ bản về chủ nghĩa Mác-Lê nin, tư
tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của Đảng, chính sách, pháp luật
của nhà nước; có trình độ chuyên môn nghiệp vụ để đủ sức hoàn thành tốt

nhiệm vụ. Có năng lực vân động và lãnh đạo quần chúng tổ chức thực hiện
đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng.
Về phẩm chất đạo đức lối sống, có tinh thần trách nhiệm cao, gương
mẫu đi đầu trong công tác; xử lý hài hoà các lới ích, đặt lợi ích của Đảng, của
Tổ quốc lên trên hết. Liên hệ mật thiết với nhân dân, tôn trọng và bảo vệ
quyền làm chủ của nhân dân. Có lối sống trong sạch, lành mạnh, có kỷ cương,
kỷ luật. Không quan liêu, tham nhũng, lãng phí và kiên quyết đấu tranh
phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí và các tiêu cực khác.”7
Cùng với việc giáo dục rèn luyện đảng viên của tổ chức đảng, đối với
mỗi đảng viên cần phải đặc biệt coi trọng việc tự học, tự rèn nâng cao trí tuệ,
tu dưỡng đạo đức và lối sống. Hồ Chí Minh đã dạy: "Công việc ngày càng
nhiều và càng phức tạp. Xã hội ngày càng tiến lên. Vì vậy, trình độ của đảng
viên và cán bộ cũng phải tiến lên mới làm tròn được nhiệm vụ. Cho nên đảng
7

ĐCSVN, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, Nxb CTQG, H2006, tr 300, 301.


- 16 viên và cán bộ phải cố gắng học tập chính trị, văn hoá và chuyên môn" 8. Hồ
Chí Minh còn chỉ rõ: "Đạo đức cách mạng không phải trên trời sa xuống. Nó
do đấu tranh rèn luyện bền bỉ hàng ngày mà phát triển và củng cố. Cũng như
ngọc càng mài càng sáng, vàng càng luyện càng trong" 9. Cho nên, trên cơ sở
nắm vững tiêu chuẩn, nhiệm vụ đảng viên, mỗi đảng viên phải tích cực học
tập, rèn luyện nâng cao trình độ về mọi mặt theo tinh thần Nghị quyết Đại
hội VIII của Đảng đã chỉ ra: "Mọi cán bộ, đảng viên, trước hết là cán bộ lãnh
đạo chủ chốt, phải có kế hoạch thường xuyên học tập, nâng cao trình độ lý
luận chính trị, kiến thức và năng lực hoạt động thực tiễn. Học tập là nghĩa vụ
bắt buộc đối với mọi cán bộ, đảng viên và phải được quy định thành chế độ.
Lười học tập, lười suy nghĩ, không thường xuyên tiếp nhận những thông tin
mới, những hiểu biết mới, cũng là biểu hiện của sự thoái hoá" 10. Để thực hiện

đúng yêu cầu của Nghị quyết, đòi hỏi từng đảng viên phải xây dựng được kế
hoạch học tập, nhất là kế hoạch tự học, phải kết hợp cả học ở trường, học sách
vở, học lẫn nhau và học quần chúng nhân dân. Phải luôn luôn ghi nhớ và thực
hiện tốt lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Muốn trở nên người quân nhân
mới, xứng đáng với các vinh hạnh đứng trong quân đội nước Việt Nam dân
chủ cộng hoà, thì mỗi chiến sĩ từ trên đến dưới, các cấp bậc đều phải nghiên
cứu học tập, luôn luôn cầu tiến bộ" 11. Cùng với việc học tập, mỗi đảng viên
phải tự giác rèn luyện đạo đức cách mạng. Bởi vì, đây chính là cái gốc của
người cách mạng. Phải tự cải tạo mình, tự nâng cao mình, "không tự nâng cao
mình thì không thể được". Phải luôn nêu cao đức tính cần, kiệm, liêm, chính,
chí công, vô tư. Phấn đấu trở thành người đảng viên ưu tú của Đảng theo hình
mẫu "Người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân". Bên cạnh đó,
Sđd, HCM, tập 11, tr 155
Sđd, HCM, tập 9, tr 293
10
ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ VIII, H1996, tr 140-141
11
Sđd, HCM, tập 5, tr 417
8
9


- 17 người đảng viên phải thường xuyên xây dựng cho mình có phong cách lãnh
đạo tốt, phải gần gũi, thương yêu, giúp đỡ quần chúng, đi sâu, đi sát đơn vị,
nói đi đôi với làm, lý luận gắn liền với thực tiễn.
Hai là: Tiếp tục đổi mới, nâng cao chất lượng công tác quản lý
đảng viên.
Quản lý đảng viên là một công tác quan trọng trong nhiệm vụ xây dựng
Đảng và bảo vệ Đảng, có quản lý tốt mới có cơ sở để giáo dục, rèn luyện đảng
viên, phân công giao nhiệm vụ cho đảng viên, điều chỉnh phân bổ lức lượng

lãnh đạo đều khắp trong đơn vị. Quản lý tốt còn có cơ sở chính xác để sàng
lọc đảng viên hoặc phát hiện, giới thiệu nguồn cán bộ cho Đảng. Do vậy các
tổ chức đảng phải thường xuyên quản lý chặt chẽ, toàn diện và có trọng tâm,
trọng điểm, cả đội ngũ đảng viên và từng đảng viên. Quản lý cả về phẩm chất
chính trị tư tưởng, đạo đức, lối sống và trình độ năng lực, sức khoẻ, quản lý cả
lai lịch chính trị, quan hệ xã hội bản thân và gia đình, cả quá trình công tác và
đời tư của từng đảng viên. Chú trọng quản lý đảng viên là cán bộ chủ trì, cán
bộ quản lý vật tư, trang bị kỹ thuật, tài chính… Phải chấp hành nghiêm chỉnh
các nguyên tắc, chế độ quy định về quản lý đảng viên. Kết hợp chặt chẽ giữa
việc quản lý của tổ chức với việc tự quản lý của đảng viên, giữa quản lý của
chi bộ với quản lý của tổ chức đảng cấp trên, giữa quản lý đảng viên với quản
lý cán bộ và quản lý bộ đội, giữa quản lý trong nội bộ Đảng với việc quản lý,
giám sát của quần chúng.
Nội dung biện pháp quản lý đảng viên phải được tiến hành thường
xuyên, liên tục, chặt chẽ, cụ thể, quản lý toàn diện cả đội ngũ đảng viên và
từng đảng viên. Đối với toàn đội ngũ đảng viên, phải nắm chắc cả số lượng
và chất lượng đảng viên của từng đơn vị, từng bộ phận, nắm vững tỷ lệ lãnh
đạo, số lượng cấp uỷ viên và chất lượng của từng cấp uỷ…


- 18 Đối với từng đảng viên, phải nắm chắc cả phẩm chất, năng lực và
phong cách. Ngoài ra còn phải nắm chắc tình hình sức khoẻ của đảng viên,
hoàn cảnh gia đình, tâm tư, tình cảm nguyện vọng, tình cảm của từng người.
Phẩm chất và năng lực của đảng viên bao giờ cũng được biểu hiện ra trong
quá trình hoạt động thực tiễn và sinh hoạt cá nhân của họ, vì thế phải kết hợp
chặt chẽ giữa quản lý trên hồ sơ, qua thủ tục hành chính của Đảng với quản lý
trong sinh hoạt và hoạt động thực tiễn của đảng viên. Phải quản lý đảng viên
cả ở nơi công tác và ở nơi cư trú, cả trong giờ làm việc và giờ nghỉ. Phải đánh
giá chính xác điểm mạnh, điểm yếu và sở trường của từng đảng viên để phân
công công tác phù hợp cho đảng viên nhất là ở vị trí chủ trì hoặc ở những vị

trí cần có năng khiếu, có chuyên môn cao. Phải thực hiện phương châm: Quản
lý mọi lúc, mọi nơi, mọi đối tượng, không để bất kỳ đảng viên nào đứng
ngoài sự quản lý của tổ chức đảng kể cả đảng viên là cán bộ cao cấp, cán bộ
lãnh đạo, cán bộ đã nghỉ hưu. Trong đó đặc biệt quan tâm quản lý các đảng
viên giữ vị trí quan trọng chủ chốt, những đảng viên nắm tài chính và cơ sở
vật chất kỹ thuật. Tránh bị bất ngờ trước những diễn biến tư tưởng sa sút về
nhận thức chính trị, phẩm chất đạo đức, lối sống của đảng viên.
Ba là: Thường xuyên làm tốt công tác phát triển Đảng, nâng cao chất
lượng kết nạp đảng viên mới.
Phát triển Đảng là vấn đề có tính quy luật trong công tác xây dựng
Đảng, là nội dung quan trọng trong xây dựng đội ngũ đảng viên, là biện pháp
để nâng cao chất lượng, phát triển số lượng, nâng cao tỷ lệ lãnh đạo của
Đảng, bảo đảm cho sự tồn tại vững mạnh của Đảng. Do đặc điểm, tính chất
hoạt động của quân đội có nét đặc thù nên phải tăng cường sự lãnh đạo của
Đảng đối với quân đội và nâng cao sức mạnh chiến đấu của quân đội. Bởi
vậy, việc phát triển đảng trong Đảng bộ Quân đội càng có ý nghĩa quan trọng.


- 19 Muốn làm tốt công tác này đòi hỏi các tổ chức đảng phải căn cứ vào tình hình
thực tiễn của đơn vị mình để xây dựng kế hoạch phát triển Đảng. Dựa vào kế
hoạch đó, các tổ chức đảng phải tích cực, chủ động tạo nguồn, bồi dưỡng
nguồn, thông qua việc giao nhiệm vụ để rèn luyện, thử thách, phân công đảng
viên kèm cặp, giúp đỡ quần chúng phấn đấu. Trong quá trình tiến hành phải
nắm vững và thực hiện đúng phương châm, phương hướng, tiêu chuẩn và
nguyên tắc, nắm vững thủ tục kết nạp đảng viên theo quy định của Điều lệ
Đảng, quy định của Ban Bí thư, hướng dẫn của Ban Tổ chức Trung ương và
hướng dẫn của Tổng cục Chính trị về công tác phát triển Đảng. Phải quán triệt
và thực hiện tốt những nội dung mà Nghị quyết Trung ương 3 khoá VII đã
xác định đó là: "Làm tốt công tác tạo nguồn để lựa chọn, bồi dưỡng, kết nạp
những người ưu tú có đủ tiêu chuẩn trong Đoàn thanh niên, trong công nhân,

nông dân, trí thức, chiến sĩ các lực lượng vũ trang. Chú ý những cơ sở trọng
yếu, những nơi còn ít và chưa có đảng viên". Cần phải giải quyết tốt mối quan
hệ giữa số lượng và chất lượng, coi trọng chất lượng phấn đấu tiểu đội có
đảng viên, trung đôi có tổ đảng, đại đội có chi bộ, chi bộ có chi uỷ, tiểu đoàn
có đảng uỷ bộ phận, trung đoàn có đảng uỷ cơ sở. Nhưng phải luôn quán triệt
quan điểm: phát triển Đảng phải luôn đi đôi với củng cố Đảng, cùng với sự
phát triển đảng viên mới, phải chăm lo củng cố đội ngũ đảng viên hiện có,
phải nâng cao chất lượng của đội ngũ đảng viên ngay từ lúc mới kết nạp,
không vì chạy theo số lượng đơn thuần mà bỏ qua chất lượng, kết nạp những
người không đủ tiêu chuẩn, chưa đủ điều kiện như: Động cơ vào Đảng không
đúng đắn, lai lịch chính trị, quan hệ xã hội không rõ ràng, phẩm chất, năng
lực, trình độ học vấn thấp, không có quan điểm quần chúng, uy tín và khả
năng lãnh đạo quần chúng thấp. Phải tuân thủ nghiêm ngặt các khâu, các
bước, đảm bảo đúng thủ tục nguyên tắc, nâng cao cảnh giác, kiên quyết không
để phần tử xấu, cơ hội tìm cách chui vào Đảng, đây là điều rất hệ trọng đối


- 20 với một đảng cầm quyền như Đảng ta. V.I.Lênin đã khẳng định: "Không thể
thu nhận những kẻ vào Đảng để kiếm địa vị; phải đuổi những kẻ đó ra khỏi
Đảng"12.
Phải xác định công tác phát triển Đảng là nhiệm vụ của các tổ chức
đảng là trách nhiệm của cấp uỷ, của mọi đảng viên và tổ chức Đoàn Thanh
niên Cộng sản Hồ Chí Minh. Vì vậy, các tổ chức đảng, nhất là chi bộ và đảng
uỷ cơ sở phải có kế hoạch phát triển đảng. Chi bộ phải lựa chọn, bồi dưỡng
nguồn và phân công đảng viên giúp đỡ quần chúng phấn đấu vào Đảng.
Bốn là: Đi đôi với công tác phát triển Đảng, các tổ chức cơ sở đảng
phải làm tốt công tác sàng lọc đảng viên.
Sàng lọc đảng viên cũng là một quy luật đối với sự tồn tại và phát triển
của Đảng, là biện pháp cơ bản để bảo đảm sự trong sạch của đội ngũ đảng
viên và tổ chức cơ sở đảng, nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, nâng cao

uy tín và sức chiến đấu của Đảng.
Uy tín của Đảng cao hay thấp cũng tuỳ thuộc một phần vào chất lượng
của đội ngũ đảng viên. Vì vậy, các tổ chức đảng phải thường xuyên làm tốt
công tác sàng lọc, nâng cao chất lượng của đội ngũ đảng viên. Phải kiên quyết
và kịp thời đưa những người không đủ tiêu chuẩn ra khỏi Đảng bằng các hình
thức thích hợp. Khai trừ đảng viên thới hoá về chính trị, tư tưởng, đạo đức lối
sống, tham nhũng, lãng phí, quan liêu cố tình vi phạm kỷ luật Đảng và pháp
luật của nhà nước. Vận động ra Đảng hoặc xoá tên ra khỏi danh sách đảng
viên đối với những đảng viên phai nhạt lý tưởng, giảm sút ý chí chiến đấu,
không làm tròn nhiệm vụ đảng viên, đã được tổ chức Đảng giúp đỡ mà không
tiến bộ . Phải đưa ra càng sớm càng tốt những người không đủ tư cách, những
người thoái hoá, biến chất dù họ ở cương vị gì trong cơ quan của Đảng, nhà
12

V.I.Lênin, toàn tập, Nxb TB M1978, tập 37, tr 56


- 21 nước. Đồng thời đề phòng những lệch lạc, sai lầm trong công tác sàng lọc
đảng viên đòi hỏi các tổ chức đảng phải quán triệt sâu sắc quy định 19QĐ/TW ngày 3/1/2002 của Bộ Chính trị về những điều cấm đối với đảng
viên, quy định số 168/ĐUQSTW ngày 5/9/2000 của Đảng uỷ Quân sự Trung
ương và hướng dẫn số 355/HD-CT ngày 29/4/2003 của Tổng cục Chính trị về
việc "Đánh giá chất lượng đảng viên và tổ chức cơ sở đảng trong Đảng bộ
Quân đội". Trên cơ sở đánh giá, phân tích chất lượng đảng viên hàng năm, đối
chiếu theo hướng dẫn số 319/KH-CT ngày 9/10/1996 của Tổng cục Chính trị,
nếu đối tượng xem xét là những: "Đảng viên cơ hội về chính trị, có quan điểm
đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập, nói và làm trái với đường lối nghị quyết
của Đảng, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên, đảng viên vi phạm nghiêm trọng
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt của Đảng như: không chấp hành chủ trương,
chính sách, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước, chỉ thị mệnh lệnh
của cấp trên, vô tổ chức, vô kỷ luật, gây mất đoàn kết nội bộ nghiêm trọng.

Thoái hoá về phẩm chất đạo đức và lối sống, tham vọng, thực dụng, ích kỷ,
vụ lợi, tham nhũng, hối lộ, lừa đảo, buôn lậu, làm thất thoát tài sản Nhà nước,
quân đội, sống truỵ lạc quân phiệt, trù đập người lương thiện và ức hiếp quần
chúng), không còn tín nhiệm trong quần chúng. Đảng viên bỏ sinh hoạt đảng,
hoặc không đóng đảng phí từ 3 tháng trở lên trong năm mà không có lý do
chính đáng" thì tổ chức đảng phải kiên quyết, kịp thời đưa những đối tượng
đó ra khỏi Đảng.
Đưa những người không đủ tư cách đảng viên ra khỏi Đảng là một việc
hệ trọng, có quan hệ đến sinh mệnh chính trị và danh dự, uy tín cá nhân của
người đó, nó tác động trực tiếp đến ý thức tư tưởng, tình cảm của cả đội ngũ
đảng viên. Đồng thời phải tỉnh táo cảnh giác với âm mưu phá hoại của kẻ thù
không để chúng lợi dụng tuyên truyền xuyên tạc, kích động gây chia rẽ nội
bộ. Cho nên, khi tiến hành phải xem xét kỹ lưỡng, kiên quyết, nhưng cũng


- 22 phải thận trọng, bảo đảm chặt chẽ, kịp thời, chính xác và vững chắc, đề phòng
những lệch lạc. Phải bảo đảm công bằng, dân chủ, công khai. Nếu đã vi phạm
đều phải xử lý nghiêm khắc theo kỷ luật Đảng, không phân biệt, cấp bậc,
chức vụ. Phải thực hiện đúng lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh: "Sửa chữa
sai lầm, cố nhiên cần dùng cách giải thích thuyết phục, cảm hoá, dạy bảo.
Song không phải tuyệt nhiên không dùng xử phạt. Lầm lỗi có việc to, việc
nhỏ. Nếu nhất luật không xử phạt thì sẽ mất cả kỷ luật, thì sẽ mở đường cho
bọn cố ý phá hoại. Vì vậy, hoàn toàn không dùng xử phát là không đúng. Mà
chút gì cũng dùng đến xử phạt cũng không đúng. Vì vậy, cần phải phân tách
rõ ràng cái cớ sai lầm, phải xét kỹ lưỡng việc nặng hay nhẹ, phải dùng xử
phạt cho đúng"13. Lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh chính là phương châm
trong thi hành kỷ luật Đảng, là biện pháp hữu hiệu để sàng lọc đảng viên, làm
trong sạch đội ngũ đảng viên, giúp cho chúng ta có quan điểm đúng trong thi
hành kỷ luật Đảng, tránh được những sai lầm trong quá trình thực hiện.
Năm là: Đổi mới, và tăng cường công tác kiểm tra, giám sát, gắn xây

dựng đội ngũ đảng viên với xây dựng tổ chức đảng trong sạch vững mạnh và
xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở.
Công tác kiểm tra là một trong những chức năng lãnh đạo của Đảng, là
một khâu quan trọng của tổ chức thực hiện, đó cũng là một biện pháp hiệu
nghiệm để khắc phục được những khuyết điểm, thiếu sót khi mới manh nha,
phát huy ưu điểm, giúp tổ chức đảng và đảng viên nghiêm chỉnh chấp hành
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết của Đảng, chỉ thị, mệnh lệnh
của cấp trên. Mục đích chính của kiểm tra không phải là để "tóm, bắt", "bới
lông tìm vết", để kỷ luật mà trước hết và chủ yếu là giáo dục, ngăn ngừa, hạn
chế đế mức thấp nhất tình hình vi phạm kỷ luật của cán bộ, đảng viên nhằm
13

Sđd, HCM, tập 5, tr 284


- 23 đảm bảo cho người đảng viên luôn luôn giữ vững vị trí tiên phong của mình.
Chính vì thế, công tác kiểm tra đảng viên có ý nghĩa hết sức quan trọng, có
thể nói lãnh đạo mà không có kiểm tra thì coi như không có lãnh đạo. Luận
giải sự cần thiết của công tác kiểm tra V.I.Lênin đã khẳng định: "Cái chúng ta
cần không phải là các pháp lệnh mới, các cơ quan mới, hay các biện pháp đấu
tranh mới. Chúng ta cần kiểm tra năng lực của nhân viên công tác, kiểm tra
việc chấp hành thực tế…" và V.I.Lênin đã coi đó là "Mấu chốt của toàn bộ
công tác, của toàn bộ chính sách hiện nay" 14. Như vậy V.I.Lênin đã khẳng
định rằng sau khi đường lối chính sách đã được xác định thì việc tổ chức thực
hiện và kiểm tra việc thực hiện trở thành vấn đề quan trọng hàng đầu trong
hoạt động lãnh đạo của Đảng. Chủ tịch Hồ Chí Minh, cũng rất coi trọng công
tác kiểm tra, kiểm soát, là vấn đề thuộc về lãnh đạo. Khi giải thích rõ thế nào
là lãnh đạo đúng, Hồ Chí Minh khẳng định: Lãnh đạo đúng nghĩa là: Phải
quyết định mọi vấn đề một cách cho đúng… Phải tổ chức sự thi hành cho
đúng… Phải tổ chức sự kiểm soát"15. Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Muốn chống bệnh

quan liêu, bệnh bàn giấy; muốn biết các nghị quyết có được thi hành không,
thi hành có đúng không; muốn biết ai ra sức làm, ai làm qua chuyện, chỉ có
một cách là khéo kiểm soát. Kiểm soát khéo, bao nhiêu khuyết điểm cũng lòi
ra hết, hơn nữa, kiểm soát khéo về sau khuyết điểm nhất định bớt đi"16.
Quán triệt sâu sắc những tư tưởng trên, trong tình hình hiện nay, các tổ
chức đảng trong quân đội cần phải tiếp tục đổi mới nâng cao chất lượng, hiệu
quả công tác kiểm tra đảng viên, kể cả kiểm tra thường xuyên, kiểm tra định
kỳ và kiểm tra bất thường. Phải xây dựng chương trình, kế hoạch kiểm tra
tháng, quý, năm và kiểm tra thường xuyên một cách chặt chẽ, chu đáo. Nội
dung kiểm tra cần tập trung vào kiểm tra việc chấp hành đường lối, chính
14

V.I.Lênin, toàn tập, Nxb TB M1978, tập 45, tr 19
Sđd, HCM, tập 5, tr 285
16
Sđd, HCM, tập 5, tr 287
15


- 24 sách và các nghị quyết của Đảng, chỉ thị, mệnh lệnh của cấp trên kiểm tra tổ
chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng, kiểm tra tư cách và việc
thực hiện nhiệm vụ của người đảng viên, kiểm tra việc thi hành kỷ luật của tổ
chức đảng ở cấp dưới, kiểm tra tài chính Đảng. Nhất là cần tập trung vào một
số nội dung mà Đại hội IX của Đảng đã chỉ ra cụ thể: "Tăng cường công tác
kiểm tra của các cấp uỷ, của uỷ ban kiểm tra các cấp, tập trung vào các nội
dung chủ yếu: thực hiện các nghị quyết chủ trương, chính sách của Đảng và
Nhà nước; chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ và quy chế làm việc; củng
cố đoàn kết nội bộ, giáo dục, rèn luyện nâng cao phẩm chất, đạo đức cách
mạng của cán bộ, đảng viên"17. Phải nắm vững tư tưởng chỉ đạo trong công
tác kiểm tra của Đảng là: "Chủ động, chiến đấu, giáo dục, hiệu quả". Trong

quá trình tiến hành kiểm tra phải phát huy được trách nhiệm của tổ chức đảng
các cấp, phải phát động được tính tự giác của đảng viên, đặc biệt phải phát
huy được tinh thần trách nhiệm của quần chúng trong kiểm tra, giám sát đảng
viên. Nội dung kiểm tra phải được thông báo trước, cá nhân chuẩn bị chu đáo,
đầy đủ, trung thực bằng văn bản để báo cáo trước hội nghị, toàn hội nghị nêu
cao tinh thần phê bình và tự phê bình để đóng góp cho đồng chí, đồng đội một
cách thẳng thắn, trung thực, nghiêm túc, không qua loa, chiếu lệ. Sau khi
kiểm tra phải sớm kết luận rõ ràng, chính xác, phải chỉ rõ được ưu điểm,
khuyết điểm, cá nhân hoặc tổ chức đảng được kiểm tra phải nghiêm túc tiếp
thu, sửa chữa. Đối với trường hợp phạm lỗi nặng phải xử lý kiên quyết, dứt
điểm, tránh tình trạng "đánh trống, bỏ dùi", kiểm tra nhưng không kết luận
hoặc kết luận rồi nhưng không xử lý hoặc xử lý không nghiêm sẽ không mang
lại kết quả, không đạt được mục đích của việc kiểm tra.
Để tăng cường vai trò của uỷ ban kiểm tra, Đại hội X của Đảng đã bổ
sung thêm chức năng giám sát cho uỷ ban kiểm tra, tăng thẩm quyền và trách
17

ĐCSVN, Văn kiện ĐHĐB toàn quốc lần thứ IX, H 2001, tr 146


- 25 nhiệm xem xét kỷ luật của cấp uỷ và uỷ ban kiểm tra các cấp. Uỷ ban kiểm tra
các cấp có quyền yêu cầu các cấp uỷ, tổ chức đảng và đảng viên giải trình các
vấn đề thuộc thẩm quyền và trách nhiệm kiểm tra, giám sát được giao. Bởi vì
kiểm tra, giám sát trước hết là nhiệm vụ của cấp uỷ. Kiểm tra gắn với thi hành
kỷ luật trong Đảng, công tác kiểm tra phải gắn liền với công tác giám sát, có
giám sát mới phát hiện được các vấn đề mới, khắc phục được thiếu sót,
khuyết điểm ngay từ lúc mới manh nha, đồng thời để tăng thêm thẩm quyền
xem xét kỷ luật, tăng thêm cán bộ có chất lượng, tạo điều kiện, phương tiện
làm việc cho uỷ ban kiểm tra.
Nội dung bổ sung nhiệm vụ giám sát của uỷ ban kiểm tra được nghi ở

Điều 32: "Giám sát cấp uỷ viên cùng cấp, cán bộ diện cấp uỷ cùng cấp quản
lý và tổ chức đảng cấp dưới về việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính
sách của Đảng, nghị quyết của cấp uỷ và về đạo đức, lối sống, theo quy định
của Ban Chấp hành Trung ương".
Như vậy, kết hợp cả kiểm tra và giám sát đối với đảng viên thì càng
phát huy vai trò trách nhiệm cao hơn của đảng viên, giúp cho đảng viên phát
huy được những ưu điểm, nhanh chóng khắc phục được những yếu kém,
khuyết điểm, giúp cho đảng viên hoàn thành tốt nhiệm vụ của người đảng
viên.
Tóm lại: Trên đây là một số giải pháp cơ bản để xây dựng đội ngũ
đảng viên có chất lượng cao, số lượng phù hợp, những biện pháp đó là một
thể thống nhất có mối quan hệ chặt chẽ với nhau, tạo tiền đề cho nhau. Vì thế,
các tổ chức đảng phải thường xuyên quán triệt và thực hiện tốt tất cả các giải
pháp, không nên coi trọng hoặc xem nhẹ một giải pháp nào. Chất lượng của
đội ngũ đảng viên có được nâng cao hay không là tuỳ thuộc vào hiệu quả của
việc thực hiện các giải pháp đó. Trong tình hình hiện nay, nhiệm vụ của cách


×