Tải bản đầy đủ (.doc) (23 trang)

TIỂU LUẬN CHUYÊN NGÀNH LỊCH sử ĐẢNG TINH THẦN độc lập, tự CHỦ, SÁNG tạo của ĐẢNG TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (189.46 KB, 23 trang )

TINH THẦN ĐỘC LẬP, TỰ CHỦ VÀ SÁNG TẠO CỦA ĐẢNG TAĐối với nước ta, thế kỷ XX là thế kỷ của những biến đổi to lớn, thế kỷ
đấu tranh oanh liệt, giành lại độc lập, tự do thống nhất Tổ Quốc và xây dựng
chủ nghĩa xã hội. Đại hội Đảng IX đã khảng định một trong ba chiến công có
ý nghĩa lịch sử và thời đại trong thế kỷ này là “thắng lợi của sự nghiệp đổi
mới và từng bước đưa đất nước quá độ lên chủ nghĩa xã hội” 1. Thắng lợi đó
gắn liền với sự lãnh đạo sáng suốt và tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong sự nghiệp đổi mới.
Độc lập, tự chủ và sáng tạo vừa là truyền thống vừa là bản lĩnh của
Đảng Cộng sản Việt Nam. Đó còn là một bài học xuyên suốt lịnh sử lãnh đạo
và đấu tranh của Đảng, một nhân tố bảo đảm cho Đảng hoàn thành sứ mệnh
lịch sử là đội tiên phong lãnh đạo cách mạng Việt Nam.
1. Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Đảng ta
Những năm đầu thế kỷ XX Người cộng sản đầu tiên của Việt Nam đã
tiếp cận và tiếp thu lý luận cách mạng của thời đại là chủ nghiã Mác - Lênin
vào năm 1920. Mười năm tiếp theo với những hoạt động vô cùng phong phú,
sáng tạo của Người cộng sản - Nguyễn Ái Quốc mà nổi bật là quá trình Người
chuẩn bị những điều kiện cần thiết cho sự mở đầu ra đời một Đảng Cộng sản
ở Đông Nam Châu Á - Đảng Cộng sản Việt Nam. Ngay trong quá trình vận
động và chuẩn bị cho sự ra đời của Đảng đã thể hiện những nét rất riêng ở
Nguyễn Ái Quốc, Người hiểu rõ rằng chủ nghĩa Mác - Lênin không chỉ là vũ
khí đấu tranh của giai cấp công nhân, mà còn của tất cả các dân tộc bị áp bức.
Đối với các dân tộc bị sáp bức, lý luận đó là cái cần thiết là con đường tự giải
phóng mình. Vì vậy, Nguyễn Ái Quốc đã thấy sự cần thiết phải truyền bá lý
luận đó vào cả phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam. Tiếp
nhận lý luận cách mạng của thời đại, phong trào công nhân Việt Nam đã
chuyển dần từ tự phát tiến lên tự giác và phong trào yêu nước Việt Nam từng
bước thoát khỏi sự bế tắc về đường lối. Điểm nổi bật ở đây là sự kết hợp yếu
1

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr.6



2
tố giai cấp và dân tộc, gắn liền vấn đề giải phóng dân tộc với giải phóng xã
hội. Nếu giải phóng xã hội để thực hiện chủ nghĩa xã hội là cái đích cần đi tới
thì mục tiêu giành độc lập dân tộc phải đặt ra trước hết. Cách mạng Việt Nam
phải giải quyết cả hai vấn đề nặng nề mà trước hết là giải phóng dân tộc. Sự
ra đời của Đảng (3/2/1930) với chính cương và sách lược vắn tắt do Nguyễn
Ái Quốc khởi thảo và luận cương chính trị thông qua tháng 10/1930 đã thể
hiện quan điểm đó.
Cần phải thấy rằng thời điểm Nguyễn Ái Quốc thành lập Đảng Cộng
sản Việt Nam, vấn đề dân tộc và thuộc địa không phải đã được các Đảng cộng
sản ở Châu Âu và Quốc tế cộng sản hiểu đúng và đặt đúng vị trí của nó. Đặt
trong bối cảnh như thế mới thấy hết tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo
trong đường lối trên cơ sở nắm bắt đúng yêu cầu thực tiễn của đất nước và
dân tộc, không sao chép đường lối cách mạng của các Đảng cộng sản khác,
hay các phong trào dân tộc khác nhau trên thế giới; coi chủ nghĩa Mác - Lênin
như “bàn chỉ nam” cho con thuyền cách mạng Việt Nam.
Chặng đường mười năm sau ngày thành lập Đảng, Nguyễn Ái Quốc
vẫn hoạt động ở nước ngoài. Từ sự vận động đầy sôi động của cách mạng,
của đất nước. Hội nghị Trung ương lần thứ 6 (11/1939) khảng định lại quan
điểm đã nêu ở hội nghị thành lập Đảng là: giương cao ngọn cờ giải phóng
dân tộc. Như vậy, cũng phải mất tới 10 năm mới chứng minh một quan điểm,
một đường lối đúng, tháng 2/1941 Nguyễn Ái Quốc về nước cùng Trung
ương Đảng lãnh đạo cao trào giải phóng dân tộc. Hội nghị Trung ương đảng
lần thứ 8 (5/1941) đã quyết định những vần đề cơ bản và cụ thể dẫn tới thắng
lợi của cuộc cách mạng tháng 8/1945. Với sứ mệnh nặng nề là lãnh đạo toàn
dân tộc giành cho được độc lập, Đảng và Hồ Chí Minh ra sức lãnh đạo xây
dựng và phát triển lực lượng cách mạng bao gồm lực lượng chính trị và lực
lượng vũ trang, xây dựng căn cứ địa cách mạng ở cả miền núi đồng bằng và
thành thị, tập trung và tổ chức toàn dân “đem sức ta mà giải phóng cho ta”

với một nước thuộc địa nhỏ yếu phải đương đầu với những kẻ thù hùng mạnh


3
trên thế giới là Pháp - Nhật, nên phải có phương pháp hình thức đấu tranh thích
hợp đi từ khởi nghĩa từng phần đến tổng khởi nghĩa, phải sáng tạo và năng động
chớp đúng thời cơ để giành thắng lợi trước cách mạng chính quốc. Như vậy,
thắng lợi của cách mạng tháng tám năm 1945 là thắng lợi của tinh thần độc lập,
tự chủ, sáng tạo cả về: mục tiêu, hình thức, phương pháp đấu tranh; xây dựng
phát triển lực lượng ; chiến lược và chỉ đạo chiến lược; phát huy nhân tố tự thân
với tranh thủ thời cơ do tình hình chiến tranh thế giới đem lại.
Ngay sau khi thắng lợi của cách mạng tháng Tám, nước Việt Nam độc
lập lại dơi vào vòng vây và sự tấn công của chủ nghĩa đế quốc. Nhiệm vụ
hàng đầu là bảo vệ thành quả cách mạng và thành công nổi bật của Đảng ta
sau khi giành chính quyền trong thời gian từ tháng 9/1946 là tăng cường
sức mạnh thực sự của cách mạng để có thể tự bảo vệ trong điều kiện đồng
chí bè bạn chưa thể trực tiếp giúp đỡ. Sự nhạy cảm đặc biệt về chính trị của
Đảng và Hồ Chí Minh đã dẫn đến thành công trong sách lược lợi dụng mâu
thuẫn trong hàng ngũ kẻ thù, một yếu tố có ý nghĩa quyết định đến khả
năng tự bảo vệ. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, cả dân tộc đã đứng lên tự giải
phóng, nay lại tự mình bảo vệ và phát triển thành quả cách mạng bằng
những phương sách đầy sáng tạo đưa con thuyền cách mạng Việt nam vượt
qua những thác gềnh để lướt tới.
Những cuộc chiến tranh nhằm giải phóng đất nước đã kết thúc với
thắng lợi hoàn toàn vào năm 1975. Đó là thành quả của đường lối chiến tranh
nhân dân của Đảng Cộng sản Việt Nam. Bản thân sự kiên trì tiến hành kháng
chiến suốt 30 năm vượt qua biết bao nhiêu thử thách của thời gian và những
tác động phức tạp của tình hình thế giới đã thể hiện sự độc lập, tự chủ và sáng
tạo của Đảng ta và dân tộc ta. Có thể thấy rõ là, trong hai cuộc kháng chiến,
Đảng và nhân dân ta đã nhận được sự giúp đỡ và ủng hộ to lớn, có hiệu quả

của các nước xã hội chủ nghĩa và các lực lượng tiến bộ trên thế giới, song
Đảng ta luôn giữ vững sự độc lập, tự chủ trong đường lối tiến hành đấu tranh


4
cách mạng. Nhờ sáng tạo trong hình thức và phương pháp đấu tranh mà
chúng ta đã giành thắng lợi từng bước, tiến tới thắng lợi hoàn toàn.
Với chặng đường 45 năm liên tục chiến đấu và hy sinh giành thắng lợi
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân có thể coi độc lập, tự chủ và sáng
tạo là tinh thần tiêu biểu chi phối toàn bộ hoạt động lãnh đạo của Đảng. Kinh
nghiệm của từng thời kỳ cũng như bài học chung trong lãnh đạo là: nếu
không độc lập, tự chủ và sáng tạo, phạm vào chủ nghĩa giáo điều, rập khuôn
kinh nghiệm bên ngoài, chịu ảnh hưởng nặng nề của bên ngoaì thì sẽ phạm
phải sai lầm và tổn thất.
Trong cách mạng xã hội chủ nghĩa ở Miền Bắc từ năm 1954 và trên cả
nước từ năm 1975, suốt một thời kỳ dài, Đảng ta mặc dù đã vạch ra đường lối
chung và đường lối phát triển kinh tế, song trên thực tế đã thực hiện theo mô
hình của các nước xã hội chủ nghĩa đi trước, nhất là cơ chế quản lý. Sự trì trệ
và kém hiệu quả của quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta trong
đường lối và phương pháp, rập khuôn cách làm của nước ngoài. Tuy vậy,
cũng phải thấy rằng, Đảng ta cũng sớm bắt đầu quá trình tìm tòi cách làm
mới, sớm tính đến hiệu quả của trình xây dựng đất nước. Quá trình tìm tòi đó
đã bắt đầu từ những năm 60 trên miền Bắc.
Độc lập, tự chủ và sáng tạo để tìm hướng đi phù hợp với hoàn cảnh của
đất nước là rất khó khăn, phức tạp. Để khẳng định được con đường giải phóng
dân tộc nêu ra ở Cương Lĩnh đầu tiên là đúng cũng phải mất gần 10 năm tức
là đến Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ sáu, (tháng 11 - 1939). Sau năm
1954, để xác định một cách đúng đắn đường lối và phương pháp cách mạng
Việt Nam, có được Nghị quyết Hội nghị Trung ương Đảng lần thứ 15 (tháng
1 - 1959), Đảng ta cũng phải mất 5 năm.

Năm 1958, miền Bắc bắt đầu quá trình cải tạo xã hội chủ nghĩa và xây
dựng chủ nghĩa xã hội. Năm năm sau, Đảng ta cũng thấy rõ những hạn chế,
khiếm khuyết của mô hình và cơ chế đang thực hiện. Vì vậy, năm 1963, Đảng
đã tiến hành những cuộc vận động lớn như: “cải tiến quản lý hợp tác xã”,


5
“cải tiến kỹ thuật” trong nông nghiệp và “3 xây, 3 chống” trong công nghiệp
và thương nghiệp. Tiếp đó là quá trình tìm kiếm cách làm ăn mới diễn ra liên
tục cả từ phía Đảng và Nhà nước và cả từ phía quần chúng nhân dân, cả từ
phía Trung ương và cả từ phía các địa phương.
Sau khi giải phóng hoàn toàn miền Nam thống nhất đất nước (1975),
Đảng ta với tinh thần độc lập, tự chủ, động viên ý chí tự lực tự cường, phát
huy sức mạnh của cả dân tộc để xây dựng và phát triển đất nước với quy mô
và tốc độ lớn. Nếu thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc do còn bị
chi phối bởi quy luật chiến tranh nên sự tìm tòi kéo dài mà chưa tìm được
con đường để phát triển, thì trong thời kỳ cả nước xây dựng chủ nghĩa xã hội,
chỉ trong 4 năm chúng ta đã tìm ra được một hướng đi mới với nghị quyết
Trung Ương 6 (năm1979) khuyến khích sản xuất bung ra. Hội nghị này được
coi là sự mở đầu của công cuộc đổi mới nói chung và đổi mới tư duy nói riêng.
Những chủ trương và các giải pháp Hội nghị đưa ra có tính chất đột phá, không
chỉ nhằm khắc phục những khó khăn trước mắt mà còn có ý nghĩa đặc biệt quan
trọng cho sự khởi đầu của tư duy mới đúng đắn sáng tạo, một xu thế mới, tháo
gỡ những gì trói buộc sự phát triển kinh tế - xã hội, đó là một dấu hiệu về khả
năng chuyển đổi mô hình CNXH ở Việt Nam. Mặc dù vậy, để có được quyết
định rứt khoát đường lối đổi mới tại Đại hội Đảng VI (12/1986), cả nước cũng
phải trải qua nhiều thể nghiệm, với cả sai lầm vấp váp.
Từ thực tiễn lịch sử càng cho chúng ta thấy Đảng ta đã nêu cao trách
nhiệm trước đất nước và nhân dân, với tinh thần độc lập tự chủ và sáng tạo
rất lớn. Cũng cần thấy rằng, các nước XHCN trước đây đã trải qua nhiều

chục năm thực hiện cơ chế và mô hình cũ, khi tìm đến cái mới bằng cải tổ,
cải cách, thì lại mắc sai lầm và dẫn đến sụp đổ. Như thế, càng thấy sự khó
khăn, phức tạp của quá trình cách mạng, tinh thần sáng tạo và ý thức độc
lập, tự chủ của Đảng ta càng có ý nghĩa quyết định giúp cách mạng vượt lên
mọi thử thách để giành thắng lợi.


6
Tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo trong cách mạng XHCN càng được
thể hiện nổi bật trong sự nghiệp đổi mới từ năm 1986 đến nay là: chúng ta
không rập khuôn máy móc theo mô hình cải tổ của các nước; sáng tạo bước đi
riêng, tỉnh táo và kịp thời phát hiện những sai lầm của các nước để đưa công
cuộc đổi mới của nước ta phát triển đúng hướng và có hiệu quả. Thắng lợi của
công cuộc đổi mới chính là thắng lợi của đường lối đổi mới mang tính độc
lập, tự chủ, sáng tạo rất cao của Đảng ta. Đảng ta đã kiên định con đường
XHCN, nắm vững nguyên tắc, đồng thời nhạy bén nắm bắt cái mới. Không
chỉ dừng lại ở xác định đường lối, Đảng ta đã đặc biệt quan tâm thể chế hoá
và cụ thể hoá đường lối thành pháp luật và chính sách; bình tĩnh và chủ động
vượt qua những thách thức nặng nề, những chấn động chính trị của thế giới,
bảo đảm cho đất nước và chế độ XHCN đứng vững và phát triển.
Trong lịch sử Đảng ta, có những thời điểm khó khăn tưởng như không
thể vượt qua nổi, công cuộc đổi mới trong những năm qua là một trong những
thời điểm như thế. Từ những thành tựu của công cuộc đổi mới, Đảng ta củng
cố thêm nhận thức: nếu biết nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ và sáng tạo thì
hoàn toàn có thể vượt qua mọi thử thách dù là thử thách nghiêm trọng nhất.
Trong diễn văn kỷ niệm 105 năm ngày sinh Chủ tịch Hồ Chí Minh, nói về độc
lập, tự chủ, sáng tạo, tự lực, tự cường, Tổng bí thư Đỗ Mười đã chỉ rõ: “Kinh
nghiệm lịch sử đã chỉ rõ rằng cách mạng chỉ giành được thắng lợi khi chúng
ta kiên định mục tiêu, nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, đổi
mới, sáng tạo”2. Như vậy, không chỉ trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân

dân mà cả trong cách mạng xã hội chủ nghĩa, Đảng ta đều chú trọng phát huy
tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo. Ở đây, cần thiết phải thấy rõ những yếu tố
đã làm nên truyền thống và bản lĩnh độc lập, tự chủ sáng tạo của Đảng ta!
Trước hết đó là phẩm chất chính trị của Đảng ta - Đảng do Chủ tịch
Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo và rèn luyện. Phẩm chất và bản lĩnh Hồ Chí
Minh là độc lập, tự chủ và sáng tạo đã trở thành phẩm chất và bản lĩnh của
2

Đỗ Mười: Diễn văn kỷ niệm lần thứ 105 ngày sinh Chủ Tịch Hồ Chí Minh, Báo Nhân dân, ngày 20/05/1995


7
Đảng và luôn luôn được Đảng giữ vững và phát huy. Cần nhấn mạnh rằng,
phẩm chất chính trị của đội tiên phong là sự trung thành vô hạn với giai cấp
và dân tộc, một lòng một dạ vì nước, vì dân. Đảng ta là đạo đức, là văn minh
như Chủ tịch Hồ Chí Minh từng khẳng định. Không có phẩm chất chính trị
như thế, chắc chắn không thể có ý trí độc lập, tự chủ và tinh thần sáng tạo.
Độc lập, tự chủ, sáng tạo chỉ có được với một Đảng luôn luôn tiêu biểu
cho trí tuệ của dân tộc. Trí tuệ của Đảng trước hết là trang bị lý luận tiền
phong, là không ngừng nâng cao trình độ lý luận, khả năng tư duy lý luận và
tổng kết lý luận. Đó cũng là khả năng nắm bắt và vận dụng quy luật khách
quan trên cơ cở phải nhìn cho rộng, suy cho kỹ như Hồ Chí Minh đã căn dặn.
Ở mỗi thời kỳ lịch sử, Đảng chú trọng xây dựng Đảng, nâng cao trình độ trình
độ lãnh đạo lên ngang tầm với đòi hỏi của nhiệm vụ cách mạng, của đất nước
và dân tộc. Cuộc sống hàng ngày khảng định rằng: không nâng cao trí tuệ của
Đảng thì chẳng những không thực hiện được vai trò lãnh đạo mà cũng không
giữ được độc lập tự chủ, nhất là ở trong những bước ngoặt khó khăn phức tạp.
Độc lập, tự chủ, sáng tạo hoàn toàn xa lạ với chủ nghĩa dân tộc cực
đoan, hẹp hòi, trái lại nó chính là sản phẩm của chủ nghĩa quốc tế chân chính
và trong sáng. Ở đây, đòi hỏi phải giải quyết đúng đắn mối quan hệ giữa dân

tộc và thời đại, giữa những vấn đề cụ thể của cách mạng Việt nam với xu thế
chung của cách mạng thế giới và tình hình quốc tế.
Độc lập, tự chủ, sáng tạo phản ánh kinh nghiệm lãnh đạo chính trị của
Đảng. Một Đảng dày dạn và từng trải trong đấu tranh cách mạng mới có bản
lĩnh độc lập, tự chủ, sáng tạo. Lãnh đạo chính trị là một khoa học và nghệ
thuật mà độc lập, tự chủ, sáng tạo là biểu hiện của khoa học và nghệ thuật đó.
Bởi vì, nó phản ánh quy luật vận động của cách mạng thông qua sự vận dụng
của đội tiền phong lãnh đạo là Đảng Cộng sản.
Hội nghị lần thứ 4 Ban Chấp hành Trung Ương Đảng Khoá VIII
(12/1997) đã nhấn mạnh tư tưởng chỉ đạo xuyên suốt là “Tiếp tục đẩy mạnh
công cuộc đổi mới, khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp


8
tác quốc tế, ra sức cần kiệm để đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng
cao hiệu quả sức cạnh tranh của nền kinh tế, kết hợp chặt chẽ với phát triển văn
hoá giáo dục, thực hiện công bằng và tiến bộ xã hội. Ưu tiên phát triển lực
lượng sản xuất đi đôi với xây dưng quan hệ sản xuất phù hợp theo định hướng
xã hội chủ nghĩa. Nâng cao ý chí tự lực tự cường, giữ vững bản sắc dân tộc
trong tiến trình hội nhập quốc tế. Bảo đảm an ninh quốc phòng vững chắc. Kết
hợp chặt chẽ đổi mới kinh tế - xã hội với cải cách bộ máy nhà nước và hệ thống
hành trính, xây dựng Đảng ngang tầm đòi hỏi của thời kỳ mới”.3
2. Độc lập, tự chủ, sáng tạo trong lực chọn hình thức, bước đi, cách
làm phù hợp của quá trình đổi mới ở Việt nam
V.I.Lênin viết: “Tất cả các dân tộc đều đi đến chủ nghĩa xã hội, đó là
điều không tránh khỏi, nhưng tất cả các dân tộc đều tiến tới chủ nghiã xã hội
không phải một cách hoàn toàn giống nhau. Mỗi dân tộc sẽ đưa đặc điểm
nước mình vào hình thức này hay hình thức khác của chế độ dân chủ vào loại
này hay loại khác của chuyên chính vô sản, vào nhịp độ này hay nhịp độ khác
của việc cải tạo xã hội chủ nghĩa đối với các mặt khác nhau của đời sống xã

hộ”4. Như vậy, việc xác định đúng mục tiêu, phương hướng chiến lược hay
mục tiêu, phương hướng cụ thể của mỗi thời kỳ cách mạng là vấn đề có ý
nghĩa quyết định trước tiên bảo đảm cho cách mạng thắng lợi. Song bằng con
đường nào, với những hình thức nào, bước đi nào, cách làm như thế nào cho
phù hợp để thực hiện mục tiêu, phương hướng đã định, vấn đề này cũng rất
quan trọng. Kinh nghiệm cho thấy: “Phong trào cách mạng có khí dẫm chân
tại chỗ, thậm trí thất bại nữa, không phải vì thiếu phương hướng và mục tiêu
rõ ràng, mà chủ yếu vì thiếu phương pháp cách mạng thích hợp” 5. Thực tiễn
lịch sử sẽ không có và không bao giờ có được một phương pháp cách mạng
duy nhất đúng để có thể áp dụng cho mọi nước, mọi hoàn cảnh. Một phương
thức nào đó thích hợp cho nước này, lại có thể không dùng được ở nước khác;
3

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện hội nghị lần thứ tư ban chấp hành Trung Ương khoá VIII, Nxb Chính
trị quốc gia, Hà Nội, 1998, tr54
4
V.I.Lênin: Toàn tập, tập 30, Nxb Tiến bộ, M.1981, tr.160
5
Lê Duẩn: Dưới lá cờ vẻ vang của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nxb Sự thật, H.1976, tr.34


9
đúng trong thời kỳ này, hoàn cảnh này, song sẽ lại là sai nếu đem áp dụng
máy móc vào thời kỳ khác, hoàn cảnh khác. Tất cả đều tuỳ thuộc ở những
điều kiện lịch sử cụ thể.
Xuất phát từ yêu cầu bức thiết của dân tộc và đất nước, trên cơ sở tổng
kết thực tiễn, đồng thời tham khảo kinh nghiệm của các nước khác, Đảng ta
đã lựa chọn hình thức, bước đi, cách làm của nước ta là:
2.1. Tập trung phát triển kinh tế
Nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của xã hội, xét đến cùng là sự

sản xuất vật chất và tái sản xuất ra đời sống hiện thực. Nước ta từ cuối những
năm 70 của thế kỷ XX, nền kinh tế đã lâm vào khủng hoảng, trì trệ. Nhất là
sau cuộc tổng điều chỉnh giá - lương - tiền lần thứ hai (9/1985) không thành
công, lạm phát tăng đến 774,7%, đời sống nhân dân gặp rất nhiều khó khăn.
Nếu không khắc phục tình trạng đó thì chẳng những dân tôc ta bị kìm hãm
trong nghèo nàm lạc hậu, mà vận mệnh của Đảng, của chế độ XHCN cũng
đứng trước thử thách khó lường. Cho nên, Đảng ta tập trung cho đổi mới kinh
tế, đưa đất nước ra khỏi khủng hoảng, coi đó là nhiệm vụ chính trị đặc biệt
quan trọng.
Trong khi Đảng ta xác định cần tập trung cho đổi mới kinh tế thì cũng
bắt đầu sự khủng hoảng và sụp đổ ở các nước Đông Âu, Liên Xô thành trì
của cách mạng thế giới, có quan hệ chặt chẽ về kinh tế đối ngoại với nước ta
chiến tới 90% phải tan rã và làm toàn bộ kinh tế đối ngoại của nước ta bị xáo
trộn. Mỹ và các nước phương Tây vẫn đang bao vây cấm vận đối với nước
ta. Quan hệ Việt Nam - Trung Quốc, Việt Nam - Cămpuchia, Việt nam ASEAN vẫn chưa có quan hệ bình thường, thậm chí còn đối đầu căng thẳng.
Cho nên, sự nghiệp phát triển kinh tế của nước ta đứng trước những thách
thức hết sức hiểm nghèo, đòi hỏi phải phát huy tinh thần độc lập, tự chủ,
sáng tạo, từ thực tiễn và bám sát thực tiễn trong nước và những biến đổi của
thế giới, vận dụng sáng tạo Chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh


10
nhằm tìm ra những hình thức, bước đi, cách làm thích hợp để ổn định nền
kinh tế vốn đang gặp rất nhiều khó khăn.
Từ những hiện tượng “khoán chui” trong hợp tác xã nông nghiệp, hiện
tượng “xé rào” trong các xí nghiệp quốc doanh; từ chủ trương “làm cho sản
xuất bung ra”, ý tưởng sử dụng các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh và tập
thể ở Hội nghị Trung ương 6, khoá IV (8/1979)… tư duy kinh tế của Đảng đã
từng bước hình thành và phát triển. Cho đến nay chúng ta đã xây dựng được mô
hình kinh tế trong thời kỳ quá độ ở Việt Nam: “Nền kinh tế thị trường định

hướng xã hội chủ nghĩa”6. Đi sâu vào nghiên cứu chúng ta thấy rõ tư duy mới
của Đảng ta là không dập khuân, sao chép máy móc, nếu dập khuân sao chép
trong thời điển này sẽ dẫn đến hậu quả khó lường. Đảng ta tiến hành lãnh đạo
chuyển nền kinh tế tập trung quan liêu bao cấp sang nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, các thành phần kinh tế đều có vai trò, vị trí khác nhau, trong đó kinh
tế quốc doanh và kinh tế tập thể ngày càng trở thành nền tảng của nền kinh tế
quốc dân. Đảng ta chủ trương xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển
sang cơ chế thị trường, nhưng không tuyệt đối hoá và coi thị trường là “liều
thuốc vạn năng”. Trong cơ chế thị trường phải giữ vững được vai trò quản lý,
điều tiết của Nhà Nước để vừa khuyến khích mặt tích cực và hạn chế những
điểm tiêu cực của cơ chế, kết hợp chặt chẽ hài hoà giữa tăng trưởng kinh tế với
thực hiện tiến bộ và công bằng xã hội.
Những chủ trương chính sách của Đảng nêu trên đã được cụ thể hoá
bằng hệ thống pháp luật, quy định của Nhà nước, từng bước đi vào cuộc sống,
ổn định tình hình kinhh tế, đưa nước ta ra khỏi tình trạng khủng hoảng, hoàn
thành những nhiệm vụ, mục tiêu kinh tế trong chặng đường đầu và bước sang
thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước. Thắng lợi trên lĩnh vực kinh tế đã tạo ra những tiền đề cần thiết về vật
chất và tinh thần để giữ vững ổn định chính trị, củng cố niềm tin của nhân dân

6

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ IX, Nxb CTQG, H.2001, tr.96


11
vào sự lãnh đạo của Đảng, vào con đường XHCN mà Đảng và nhân dân ta đã
lựa chọn, tạo điều kiện cho đổi mới các lĩnh vực khác của đời sống xã hội.
Bàn về bước đi của thời kỳ quá độ, Đảng ta cho rằng thời kỳ quá độ của
nước ta chia làm nhiều chặng, nhưng cho đến nay có hai chặng mà chúng ta đã

và đang vượt qua. Đó là chặng đường đầu kéo dài khoảng 20 năm (1975-1995)
là chặng đường chuẩn bị cho công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Chặng đường thứ
hai đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, dự kiến khéo dài 25 năm
(1995 - 2020), nhằm đưa nước ta trở thành một nước công nghiệp. Trong chặng
đường thứ hai, Đảng ta phân ra các bước quá độ nhỏ là:
- Từ năm 1995 đến năm 2000 nhằm đẩy tới một bước công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nền kinh, bước này có tính chất bản lề, quá độ từ chặng đầu đến
chặng đường thứ hai, trong đó cần phải tập trung đặc biệt công nghiệp hoá,
hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn, phát triển toàn diện nông, lâm, ngư
nghiệp, gắn với công nghiệp chế biến, công nghiệp hàng tiêu dùng nhằm vừa
đáp ứng nhu cầu cần thiết của nhân dân, vừa đẩy mạnh xuất khẩu, tăng nhanh
tích luỹ từ nội bộ nền kinh tế khoảng 25%. Một loạt những biện phát thực
hiện tương đối đồng bộ, toàn diện như: nâng cấp, hiện đại hoá có trong điểm
kết cấu hạ tầng, xây dựng hành lang pháp lý và hình thành khung thể chế cho
sự vận hành của nền kinh tế thị trường, cải cách cơ bản hệ thống tài trính và
ngân hàng, tạo thị trường vốn và thị trường các yếu tố của sản xuất, giải quyết
việc làm, khống chế tăng dân số, chuyển mạnh chất lượng giáo dục đào tạo…
Đó là bước chuyển mạnh sang kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa.
- Từ năm 2001 đến 2010 là bước phát triển công nghiệp hoá hiện đại
hoá nền kinh tế. Sau bước tạo đà, bước hai nhằm đưa nước ta trở thành nước
có nền kinh tế phát triển đạt trình độ trung bình thế giới, có mức tăng trưởng
GDP bình quân đầu người tăng gấp đôi năm 2000. Biện pháp lúc này là phát
trển mạnh công nghiệp, công nghệ, kết cấu hạ tầng, kinh tế đối ngoại, dịch vụ
để bảo đảm nhịp độ GDP tăng bình quân hàng năm 8-10%. Phấn đấu đến
2010, tỷ trong nông nghiệp trong GDP chiếm dưới 20%, công nghiệp, xây


12
dựng, dịch vụ chiếm trên 80%, sử dụng 50% sức lao động cùng với công
nghiệp và phương pháp công nghiệp tiên tiến, hiện đại.

- Từ 2011 đến 2020 là bước đẩy mạnh công nghiệp hoá hiện đậi hoá,
hoàn thành về cơ bản quá trình công nghiệp hoá đất nước, đưa nước ta vượt
trình độ trung bình của các nước phát triển, tạo cơ sở và điều kiện để từ đó
tiến vào xã hội thông tin. Hình thức bước đi cách làm của chúng ta trong thực
hiện nhiệm vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá XHCN hoàn toàn phù hợp với
Việt Nam, nó không giống các nước, mà cũng khác lối tư duy kiểu cũ về công
nhiệp hoá, hiện đại hóa của trước thời kỳ đổi mới .
2.2. Đồng thời với đổi mới kinh tế, tiến hành từng bước đổi mới
chính trị
Quan điểm chỉ đạo nhất quán của Đảng ta là kết hợp chặt chẽ ngay từ
đầu đổi mới kinh tế với đổi mới chính trị, lấy đổi mới kinh tế làm trọng tâm,
đồng thời đổi mới chính trị. Giải quyết mối quan hệ giữa đổi mới kinh tế với
đổi mới chính trị là khâu then chốt của quá trình đổi mới. Hai lĩnh vực này
có quan hệ biện chứng, tác động ảnh hưởng lẫn nhau. Chỉ có tập trung sức
làm tốt đổi mới kinh tế và đổi mới kinh tế thành công mới tạo ra những tiền
đề vật chất và tinh thần cần thiết để giữ vững ổn định chính trị. Ngược lại,
đổi mới chính trị thành công sẽ tạo điều kiện, môi trường và động lực để đổi
mới kinh tế thắng lợi.
Chính trị xưa nay vốn là lĩnh vực phức tạp, cực kỳ nhạy cảm, đụng
chạm đến nhiều mối quan hệ xã hội. Nó đòi hỏi quá trình đổi mới nhất thiết
phải tiến hành từng bước, phải trên cơ sở nghiên cứu và chuẩn bị nghiêm túc,
không xới tung nhiều vấn đề cùng một lúc khi chưa có điều kiện chín muồi,
không cho phép để xảy ra mất ổn đinh xã hội dẫn tới rối loạn xã hội. Nếu
chính trị bất ổn định, hơn nữa lại bị rối loạn thì toàn bộ công cuộc đổi mới sẽ
gặp nhiều khó khăn, chúng ta sẽ không thực hiện được bất cứ sự đổi mới nào
khác, mà chỉ tạo điều kiện cho các thế lực lợi dụng phản kích, và tiến đến lật
đổ CNXH, xoá bỏ mọi thành quả cách mạng mà Đảng và nhân dân ta tốn bao


13

xương máu mới giành được. Sự xụp đổ ở các nước Đông Âu và Liên Xô đã
để lại cho chúng ta những bài học đau xót về vấn đề này. Tuy nhiên, đổi mới
chính trị rất cần thiết để thúc đẩy đổi mới kinh tế, chính trị phải được ưu tiên
hàng đầu so với kinh tế. Không vì tính chất nhậy cảm và phức tạp của nó mà
trù trừ do dự, chậm đổi mới làm cản trở đổi mới kinh tế và các lĩnh vực khác.
Chỉ có điều phải làm từng bước thận trọng và vững chắc, hướng tới đổi mới
kinh tế và phục vụ cho nhiệm vụ trung tâm là đổi mới kinh tế.
Quá trình đổi mới trính tri được Đảng ta bắt đầu từ việc đổi mới tư duy
chính trị, đổi mới nhận thức về CNXH và con đường đi lên CNXH ở nước ta
từ sự đổi mới đó mới dẫn tới những đổi mới khác. Khi bắt đầu đổi mới, mặc
dù chịu sự tác động và ảnh hưởng của nhiều luồng tư tưởng khác nhau nhưng
Đảng vẫn khảng định: “Đổi mới tư duy không có nghĩa là phủ nhận những
thành tựu lý luận đã đạt được, phủ nhận những quy luật phổ biến của sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội, phủ nhận đường lối đúng đắn đã được xác
định, trái lại, trính là bổ xung và phát triển những thành tựu ấy”7
Trước những yêu cầu khách quan của sự nghiệp đổi mới trong nước và
những diễn biến phức tạp của tình hình thế giới, Đảng ta chủ trương đổi mới,
kiện toàn tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị. Song khác
với các nước XHCN khác trong cải tổ cải cách lúc đó, đổi mới hệ thống chính
trị ở nước ta không có nghĩa là thay đổi chế độ chính trị này bằng chế độ
chính trị khác, mà điều trính cốt của đổi mới là nhằm tăng cường hiệu lực, sức
mạnh, hiệu quả hoạt động của hệ thống chính trị, các tổ chức chính trị, của
chế độ ta. Mấu chốt trong đổi mới hệ thống chính trị của nước ta là phân định
rõ chức năng, giải quyết tốt mối quan hệ giữa Đảng và nhà nước, bảo đảm
cho quá trình hoạt động của các tổ chức này không bị trùng lập về chức năng,
nhiệm vụ. Vì vậy, một mặt phải nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng bảo
đảm cho Đảng vừa là một bộ phận của hệ thống chính trị, không đứng trên
không đứng ngoài mà đứng trong hệ thống đó, vừa thực hiện được vai trò hạt
7


Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI, Nxb Sự thật Hà Nội 1997, tr125.


14
nhân lãnh đạo hệ thống ấy. Mặt khác, phải tăng cường hiệu lực quản lý Nhà
nước, cũng như phát huy vai trò tích cực hoạt động của các đoàn thể nhân dân
tham gia vào quá trình thực hiện các nhiệm vụ chính trị.
Đồng thời với việc đổi mới hệ thống chính trị, Đảng ta quan tâm mở
rộng dân chủ, phát huy quyền làm chủ của nhân dân trên tất cả các lĩnh vực
của đời sống xã hội thực hiện “dân biết, dân bàn,dân làm, dân kiểm tra”
nhằm khơi dậy và phát huy mọi tiềm năng của mỗi người, mỗi tổ chức tham
gia vào quá trình đổi mới, phấn đấu cho mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội
công bằng, dân chủ, văn minh. Mặt khác, mở rộng dân chủ phải kết hợp với
tăng cường kỷ luật, kỷ cương. Dân chủ phải có lãnh đạo, kiên quyết xử lý mọi
biểu hiện hành động vi phạm quyền làm chủ của nhân dân, cũng như mưu
toan lợi dụng “dân chủ”, “nhân quyềni” để chống phá hoặc can thiệp vào
công việc nội bộ của nước ta.
Thời kỳ đổi mới những tư tưởng đa nguyên chính trị, đa đảng đối lập ở
các nước Đông Âu và Liên Xô đã rồn dập tác động và ảnh hưởng xấu đến tình
hình chính trị, tư tưởng ở nước ta. Các thế lực thù địch được dịp phản kích
quyết liệt hòng xoá bỏ vai trò lãnh đạo của Đảng. Song nhờ có sự nhạy bén về
chính trị và bản lĩnh chính trị vững vàng, Đảng ta kiên quuyết đấu tranh
chống lại những luồng tư tưởng sai trái, phản động, khẳng định đổi mới có
nguyên tắc, kiên định chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, kiên
định con đường mà Đảng và Bác Hồ đã chọn. Cùng với thắng lợi từng bước
của sự nghiệp đổi mới, bản lĩnh chính trị của Đảng đã giúp cho đất nước giữ
được sự ổn định về chính trị trong bối cảnh thế giới chứa nhiều biến động và
tiềm ẩn những yếu tố khó lường.
2.3. Thường xuyên coi trong nhiệm vụ quốc phòng an ninh
Trước chiến lược xoá bỏ CNXH không cần gây chiến tranh xâm lược,

mà dùng phương pháp đánh thẳng vào các yếu tố cơ bản hợp thành chế độ,
làm suy yếu, chuyển hoá chế độ từ bên trong. Với phương thức tiến công này,
kẻ thù lại được sự hỗ trợ của những đồng minh tự nhiên nảy sinh từ bên trong


15
xã hội ta. Như vậy, hàng loạt những vấn đề mới được đặt ra trong mối quan
hệ giữa xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc. Nhiệm vụ bảo vệ trở nên phức tạp
hơn vì các mục tiêu bảo vệ đa dạng hơn các đối tượng mà ta phải chiến đấu
nhiều vẻ hơn phương sách bảo vệ cũng như tổ chức lực lượng để bảo vệ
cũng không thể hoàn toàn giống như trước.
Trước những diễn biến mới của tình hình, Đảng ta đã kịp thời thay
đổi tư duy về nhiệm vụ bảo vệ Tổ Quốc. Phạm trù bảo vệ Tổ Quốc có nội
hàm rộng hơn với sức mạnh bảo vệ Tổ Quốc là: “sức mạnh tổng hợp của
khối đại đoàn kết của toàn dân, của cả hệ thống chính trị dưới sự lãnh đạo
của Đảng, kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại, sức mạnh của
lực lượng và hệ thống quốc phòng toàn dân với sức mạnh của lực lượng và
thế trận an ninh nhân dân. Kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng và an
ninh, quốc phòng an ninh với kinh tế trong các chiến lược, quy hoạch, kế
hoạch phát triển kinh tế xã hội. Phối hợp hoạt động quốc phòng và an ninh
với hoạt động đối ngoại” 8
Trên thực tế Đảng ta đã tích cực chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ quốc
phòng an ninh, coi đây là nhiệm vụ trọng yếu thường xuyên của toàn Đảng,
toàn quân, toàn dân ta. Xác định là lực lượng nòng cốt, Đảng luôn quan
tâm xây dựng lực lượng vũ trang nhân dân và công an nhân dân về chính trị
tư tưởng và tổ chức. Đồng thời thực hiện có hiệu quả về điều chỉnh chiến
lược bố trí thế trận, tổ chức biên chế lực lượng vũ trang trong thời bình.
Quân số giảm từ 1,2 triệu xuống còn 49 vạn quân, 93 sư đoàn xuống còn 35
sư đoàn, xây dựng 17 khu kinh tế quốc phòng, đưa 169 doanh nghiệp giảm
xuống còn 120 doanh nghiệp. Từng bước gắn bó chặt chẽ nhiệm vụ quốc

phòng với nhiệm vụ an ninh, đối phó có hiệu quả âm mưu thủ đoạn “diễn
biến hoà bình” bạo loạn lật đổ của địch, vô hiệu hoá các hoạt động chống
đối từ trong nước và ở ngoài nước, kịp thời ngăn chặn và dập tắt các vụ gây
rối, bạo loạn chính trị.
8

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội 2001, tr117.


16
Việc kết hợp quốc phòng an ninh đã được kết hợp chặt chẽ trong một
chiến lược chung thống nhất gắn bó mật thiết với các nhiệm vụ kinh tế, chính
trị, đối ngoại…
2.4. Chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng quan hệ đối ngoại
Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa
phương hoá, đa rạng hoá các quan hệ quốc tế, Đảng và nhà nước ta tuyên
bố “Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các nước trong cộng
đồng quốc tế, phấn đấu vì hoà bình độc lập và phát triển” 9
Nguyên tắc đối ngoại của chúng ta là tôn trọng độc lập chủ quyền,
toàn vẹn lãnh thổ, không can thiệp vào công việc nội bộ của nhau, không
dùng vũ lực đe doạ hoặc đe doạ dùng vũ lực; bình đẳng và cùng có lợi; giải
quyết các bất đồng và tranh chấp bằng thương lượng hoà bình; làm thất bại
mọi âm mưu và hành động gây sức ép, áp đặt và cường quyền.
Đại hội Đảng IX đã xác định nội dung rất quan trọng là phải xây
dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, phát huy cao độ nội lực, đồng thời
tranh thủ nguồn lực bên ngoài và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để
phát triển nhanh, có hiệu quả và bền vững, đưa nước ta trở thành một
nước công nghiệp.
Về nội dung xây dựng một nền kinh tế độc lập tự chủ đã được đề cập
ở phần trước. Đảng ta nhấn mạnh phải xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ,

nhưng không có nghĩa là coi nhẹ vấn đề hội nhập kinh tế quốc tế. Trái lại,
Đảng luôn kết hợp nội lực với ngoại lực để tạo ra sức mạng tổng hợp của
sự nghiệp phát triển đất nước. Hội nhập kinh tế quốc tế để phát huy vai trò
và tiềm năng của nước ta trong quá trình hợp tác và phát triển của khu vực
và thế giới, tranh thủ các nguồn vốn, thiết bị vật tư, thành tựu khoa học
công nghệ, kiến thức và kinh nghiệm quản lý, mở rộng thị trường, tăng
cường hợp tác cùng có lợi.

9

Đảng Cộng sản Việt Nam: Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ IX, Nxb CTQG, Hà Nội 2001, tr119.


17
Trong hội nhập kinh tế quốc tế phải nắm vững phương trâm chủ động
hội nhập, vừa hợp tác vừa đấu tranh, vừa kiên quyết, vừa mềm dẻo, nhằm bảo
vệ lợi ích trính đáng của ta, đồng thời tranh thủ được các thời cơ thuận lợi
trong hội nhập. Trong bất kỳ tình huống nào cũng phải luôn luôn chủ động,
giành thế chủ động. Chủ động ngay từ nội dung, chủ trương, quyết sách,
phạm vi mức độ, lộ trình… không để ai lôi kéo hoặc xô đẩy, chống lại các âm
mưu lợi dụng nhằm phá hoại chế độ ta.
Trong hội nhập và quan hệ đối ngoại cũng phải thường xuyên coi trọng
và gắn với tăng cường sức mạnh bảo vệ Tổ Quốc. Ông cha ta từ xưa đã biết
dùng ngoại giao như một phương thức để bảo vệ đất nước cả trong thời chiến
cũng như thời bình. Từ khi nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời cho đến
nay tư duy đối ngoại Việt Nam có sự nhảy vọt về chất, xuất hiện một trường
phái ngoại giao Hồ Chí Minh như là một bộ phận tư duy chính trị Hồ Chí
Minh, đó là một cách ngoại giao được kết hợp Cổ - Kim - Đông - Tây với
những nét tinh hoa hết sức phong phú, tinh tế, độc đáo, đáp ứng yêu cầu đấu
tranh của một dân tộc nhỏ yếu bảo vệ nền độc lập non trẻ. Tư duy ngoại giao

Hồ Chí Minh đã tỏ ra cực kỳ sắc bén, đã kết hợp sự thành công đanh thép của
nguyên tắc chiến lược với sự linh hoạt về sách lược công thức “Dĩ bất biến
ứng vạn biến” đã có những bước đi mà ngày nay chúng ta gọi là: “đa phương
hoá” và “đa dạng hoá”, thực hiện được cao nhất yêu cầu “thêm bạn bớt
thù” mà tình thế có thể cho phép.
Trên thực tế, những năm đổi mới, Đảng ta đã chủ động đề xuất và thực
hiện nhiều giải pháp cho những vấn đề pức tạp nhất để phá vỡ sự bao vây cấm
vận của các thế lực thù địch: bình thường hoá quan hệ Việt - Trung, chuyển từ
đối đầu sang đối thoại và hợp tác với các nước ASEAN, bình thường hoá
quan hệ với Mỹ, quan hệ hợp tác với các nước lớn, các tập đoàn kinh tế, các
tổ chức chính trị lớn… nhờ đó, chúng ta đã tạo ra được môi trường thuận lợi
cho sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ Quốc xã hội chủ nghĩa.


18
3.5. Đổi mới và chỉnh đốn Đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức
chiến đấu của Đảng - Nhiệm vụ then chốt trong công cuộc đổi mới
Trước hết, cần khảng định rõ ràng, đổi mới bản thân Đảng và sự lãnh
đạo của Đảng là công việc thường xuyên, không lúc nào được bằng lòng, thoả
mãn. Đảng ta đặt thêm vấn đề chỉnh đốn Đảng chính là nhấn mạnh yêu cầu về
mức độ đổi mới sâu sắc hơn, với quyết tâm cao hơn, để khắc phục một số yếu
kém đã đến mức nghiêm trọng, với mục tiêu làm sao để Đảng ta trong sạch và
vững mạnh hơn, thực hiện tốt hơn vai trò sứ mệnh lãnh đạo đất nước theo
mục tiêu đã định; đứng vững trên nền tảng tư tưởng và các nguyên lý, nguyên
tắc xây dựng Đảng mácxít - lêninít về đảng kiểu mới, trung thành với các chỉ
dẫn của Hồ Chí Minh và truyền thống vẻ vang của Đảng.
Trong quá trình đổi mới hệ thống chính trị, Đảng ta xác định trước hết
phải làm tốt việc đổi mới và trính đốn Đảng, phát huy tốt hơn vai trò Đảng
lãnh đạo hệ thống chính trị. Đảng ta cho rằng trong giai đoạn hiện nay, xây
dựng kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, xây dựng Đảng là nhiệm vụ then chốt,

nhằm tăng cường và giữ vững bản chất giai cấp công nhân của Đảng, nâng
cao bản lĩnh chính trị, phẩm chất và năng lực cán bộ, đảng viên. Đảng phải
được xây dựng toàn diện cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, cán bộ; kiên
quyết khắc phục các khuyết điểm, các hiện tượng tiêu cực, yếu kém, nhằm
nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng lên ngang tầm nhiệm
vụ chính trị giai đoạn mới.
Trên thực tế xây dựng Đảng, Đảng đã từng bước phân định chức năng
nhiệm vụ của mình trong hệ thống chính trị để bảo đảm cho Đảng lãnh đạo hiệu
quả hơn. Đảng đề ra đường lối, chủ trương, chính sách và những giải pháp lớn
về những nhiệm vụ quan trọng để chính quyền nhà nước tổ chức thực hiện.
Đảng chỉ quyết định những vấn đề về đường lối, quan điểm, phương hướng lớn,
Đảng không quyết định tất cả những chính sách, biện pháp cụ thể mà chỉ có một
số nhiệm vụ quyết định đến sinh mệnh chính trị quốc gia, dân tộc như: quốc
phòng, an ninh, đối ngoại, công tác lý luận, tư tưởng. Nhà nước thể chế hoá


19
đường lối của Đảng thành pháp luật, cụ thể hoá thành kế hoạch, chính sách, giải
pháp cụ thể. Đảng kiểm tra uốn nắn những sai lệch trong hoạt động của các cơ
quan nhà nước, các đoàn thể quần chúng. Điều có ý nghĩa quyết định để bảo
đảm sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước là phải xây dựng các tổ chức của
Đảng, đội ngũ cán bộ, đảng viên trong sạch, vững mạnh, có phẩm chất năng lực
tốt hoàn thành chức trách nhiệm vụ được giao.
Trong những năm qua, Đảng ta dành nhiều thời gian, công sức cho
công tác xây dựng Đảng, đặc biệt là Hội nghị Trung Ương 6 (lần 2) Khoá
VIII đã quyết định mở cuộc xây dựng chỉnh đốn Đảng theo di chúc của Chủ
tịch Hồ Chí Minh. Cuộc vận động đã được cán bộ, đảng viên và nhân dân
quan tâm sâu sắc cũng như tích cực hưởng ứng. Chúng ta đã rạo ra được sự
chuyển biến lớn trong toàn Đảng, nâng cao hiệu lực, hiệu quả lãnh đạo của
Đảng. Tuy nhiên so với yêu cầu đề ra cũng còn nhiều mặt hạn chế, chưa đạt

được. Phương hướng chung của việc xây dựng chỉnh đốn Đảng là: tiếp tục
phát huy truyền thống tốt đẹp, giữ vững và tăng cường bản chất giai cấp công
nhân và tính tiên phong của Đảng, xây dựng đảng thực sự trong sạch vững
mạnh cả về chính trị, tư tưởng, phẩm chất đạo đức, tổ chức cán bộ, đổi mới
phương thức lãnh đạo, tăng cường mối liên hệ giữa Đảng với nhân dân, bảo
đảm cho Đảng làm tròn trách nhiệm là đội tiên phong lãnh sự nghiệp cách
mạng Việt Nam trong giai đoạn mới.
Những bước đi, hình thức, cách làm mà Đảng ta đã lực chọn và sử
dụng trong quá trình đổi mới được trình bày trên đây vừa mang những đặc
điểm chung, vừa thể hiện những nét riêng biệt khác với cải cách, cải tổ ở các
nước XHCN. Lựa chọn hình thức, bước đi, cách làm thực chất là lựa chọn
phương pháp cách thức tiến hành đổi mới sao cho có hiệu quả. Quá trình đó
luôn luôn phải đối mặt với những rào cản, trở ngại, thậm chí là sự chống phá
quyết liệt của các thế lực thù địch phản cách mạng. Vì vậy, một mặt phải kiên
định lập trường, dựa chắc trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, tham khảo kinh nghiệm của nước ngoài nhưng không giáo điều


20
dập khuôn. Mặt khác, phải bám sát thực tiễn, kịp thời sử lý đúng đắn những
vấn đề mới nẩy sinh. Kiên quyết đấu tranh chống lại mọi khuynh hướng giáo
điều, bảo thủ, cơ hội, xét lại, chủ quan duy ý chí. Đó là những khuynh hướng
gây tổn hại, thậm chí làm đổ vỡ sự nghiệp đổi mới, sự nghiệp cách mạng của
Đảng và nhân dân ta.
Đảng khởi xướng và lãnh đạo thực hiện đường lối đổi mới ở nước ta trong
một bối cảnh thế giới đầy biến động. Quá trình đổi mới thực sự là một cuộc cách
mạng sâu sắc, toàn diện triệt để trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội.
Chúng ta mới chỉ đi qua chặng đường thứ hai. Chỉ mới những bước khởi đầu ấy
chúng ta đã đạt được những thành tựu to lớn, đem lại niềm phấn khởi, tin tưởng
cho toàn Đảng, toàn dân tộc tiếp tục vững bước trên con đường mà Đảng, Bác

Hồ, lịch sử đã chọn, nhằm xây dựng Tổ Quốc Việt Nam XHCN sánh vai với các
cường quốc năm châu, mang lại độc lập vững chắc cho Tổ Quốc, tự do hạnh
phúc cho nhân dân. Chúng ta tự hào về Đảng ta, một Đảng cách mạng kiên
cường, tài giỏi. Với tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo, Đảng ta đã nhận thức
đúng đắn về CNXH, về con đường đi lên CNXH ở Việt Nam, lựa chọn bước đi
hình thức, cách làm phù hợp, từng bước đưa cách mạng nước ta tiến từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác. Chúng ta tin tưởng chắc chắn rằng, dưới sự lãnh đạo của
Đảng, toàn Đảng, toàn quân, toàn dân ta đoàn kết phấn đấu xây dựng thành công
và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc Việt nam XHCN, đưa sự nghiệp đổi mới của
Đảng ta đi đến thắng lợi cuối cùng.
*
*

*

Nhìn lại chặng đường lịch sử 20 năm thực hiện đường lối đổi mới với
những thành tựu của công cuộc đổi mới đem lại, đã chứng minh đường lối đổi
mới của Đảng là đúng đắn, hình thức, bước đi và cách làm thích hợp. Đường
lối đó đã thể hiện tư tưởng, quan điểm độc lập, tự chủ, năng động sáng tạo
trong tư duy cũng như trong tổ chức thực tiễn. Thực tiễn của đường lối đổi
mới càng chứng tỏ Đảng ta là một Đảng cách mạng và khoa học, luôn giữ


21
vững bản lĩnh chính trị, năng lực trí tuệ và tổ chức thực tiễn, xứng đáng là
người lãnh đạo, người đầy tớ trung thành của nhân dân, và là niềm tin của cả
dân tộc. Để phát huy lịch sử và truyền thống vẻ vang của Đảng, tiếp tục lãnh
đạo sự nghiệp đổi mới trong thời kỳ đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước. Đòi hỏi Đảng ta phải không ngừng đổi mới và chỉnh
đốn Đảng, làm cho Đảng luôn ngang tầm với nhiệm vụ lãnh đạo cách mạng

XHCN, xứng đáng là bộ tham mưu tiền phong của giai cấp công nhân và dân
tộc Việt Nam trong cuộc đấu tranh giai cấp và dân tộc ngay ngo quyết liệt,
phức tạp hiện nay, vì sự nghiệp dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân
chủ, văn minh, bảo vệ vững chắc Tổ Quốc Việt Nam XHCN. Kiên trì với
đường lối đổi mới của Đảng trước mắt toàn Đảng hướng tới tổ chức thành
công Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng vào tháng 6/2006.
Quán triệt tinh thần độc lập tự chủ sáng tạo của Đảng, tiếp tục đẩy
mạnh sự nghiệp đổi mới theo định hướng XHCN trong giai đoạn mới, đòi
hỏi quân đội ta phải không ngừng phát huy tinh thần độc lập, tự chủ, sáng
tạo, về mọi mặt:
- Trước hết là, xây dựng quân đội vững mạnh về chính trị, đây là yêu
cầu quan trọng nhất, là nguyên tắc cơ bản trong xây dựng quân đội nhằm phát
huy ưu thế tuyệt đối về chính trị, tinh thần của quân đội cách mạng làm cơ sở
nâng cao chất lượng tổng hợp, sức mạnh chiến đấu của quân đội. Muốn vậy
phải luôn tăng cường giữ vững sự lãnh đạo tuyệt đối, trực tiếp về mọi mặt của
Đảng đối với quân đội; bảo đảm cho quân đội luôn giữ vững và tăng cường
bản chất giai cấp công nhân, tính dân tộc, tinh nhân dân sâu sắc; luôn kiên
định vững vàng nhạy bén về chính trị, có năng lực tiến công địch trên mặt
trận chính trị, tư tưởng; coi trọng công tác bảo vệ chính trị nội bộ, củng cố tổ
chức đảng, nâng cao năng lực lãnh đạo sức chiến đấu của Đảng; chăm lo xây
dựng đội ngũ cán bộ có phẩm chất năng lực ngang tầm nhiệm vụ; luôn dựa
chắc vào dân, xây dựng và phát triển mối quan hệ gắn bó máu thịt giữa quân


22
đội với nhân dân; xây dựng củng cố quan hệ đoàn kết thống nhất, bình đẳng,
thân ái giữa cán bộ và chiến sỹ, cấp trên cấp dưới.
Trong xây dựng lực lượng và tiềm lực quân sự mạnh trong điều kiện
mới, cần phải xây dựng quân đôi có tổ chức cân đối, hợp lý, trang bị đồng bộ,
từng bước hiện đại, đáp ứng yêu cầu thời bình và sẵn sàng phát triển theo yêu

cầu; bảo đảm cho các hệ thống lãnh đạo, chỉ huy, thống lực lượng sẵn sàng
chiến đấu, huấn luyện, giáo dục, đào tạo, hệ thống bảo đảm hậu cần kỹ thuật
và hệ thống dự bị động viên phát triển cân đối, hài hoà; không ngừng nâng
trình độ chỉ huy, tham mưu, năng lực quản lý bộ đội không ngừng phát triển,
luôn bảo đảm tính chủ động vững chắc, linh hoạt có hiệu quả.
Không ngừng nâng cao chất lượng vũ khí, trang bị kỹ thuật ngày càng
hiện đại, quán lý khai thác tốt vũ khí trang bị hiện có. Để đáp ứng yêu cầu
trước mắt và lâu dài phải xây dựng nền quốc phòng độc lập tự chủ có tiềm lực
tương đối mạnh, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế đất nước, đủ khả
năng duy trì và hiện đại hoá quân đội. Phát huy tinh thần tự lực, tự cường, huy
động tối đa nội lực, kết hợp với mở rộng hợp tác quốc tế để phát triển công
nghiệp quốc phòng, củng cố trang bị vũ khí cho quân đội theo hướng từng
bước hiện đại. Trước mắt cần quản lý, sử dụng, khai thác có hiệu quả những
trang bị hiện có; thực hành tiết kiệm, chống lãng phí, tham ô; tích cực tham
gia lao động sản xuất và làm kinh tế.
Phát huy độc lập, tự chủ, sáng tạo trong nghiên cứu phát triển khoa học,
nghệ thuật quân sự Việt Nam: trên cở sở tiếp tục tổng kết các cuộc chiến
tranh, đúc rút kinh nghiệm, không ngừng phát triển, hoàn thiện khoa học nghệ
thuật quân sự, cách đánh của Việt Nam và tiến lên xây dựng một nền nghệ
thuật quân sự hiện đại của chiến tranh nhân dân phát triển ở trình độ cao.
Đồng thời đẩy mạnh công tác nghiên cứu khoa học xã hội nhân văn quân sự
phục vụ cho trước mắt và dài.
Trước mắt, tập trung huấn luyện theo phương hướng cơ bản, thiết thực
vững chắc, sát với đối tượng tác chiến, với khả năng vũ khí trang bị hiện có,


23
xây dựng ý trí quyết tâm đánh thắng địch trong điều kiện thông thường và
chiến tranh có sử dụng vũ khí công nghệ cao. Xây dựng cho bộ đội có niềm
tin vững chắc vào sự nghiệp đổi mới, nêu cao tinh thần cảnh giác cách mạng,

phòng và chống có hiệu quả, làm thất bại âm mưu, thủ đoạn phá hoại của kẻ
thù, giữ vững trận địa tư tưởng của Đảng trong quân đội. Tham gia tích cực
vào vận động, tuyên truyền quần chúng nhân dân thực hiện thắng lợi đường
lối đổi mới, nhiệm vụ mục tiêu của cách mạng, vận động quần chúng xây
dựng cơ sở chính trị, giữ vững ổn định trên từng địa bàn và trên cả nước, thực
hiện tốt nhiệm vụ của đội quân công tác.
Đất nước còn nghèo, khả năng trang bị cho quân đội còn hạn chế, đời
sống bộ đội còn có nhiều khó khăn, cần giáo dục động viên cán bộ, chiến sĩ
nêu cao ý thức cần kiệm xây dựng quân đội. Tích cực chủ động tham gia lao
động sản xuất và làm kinh tế với năng xuất chất lượng hiệu quả. Xây dựng
quân đội thực sự là nguồn lực trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá
đất nước, là lực lượng nòng cốt giải quyết các vấn đề kinh tế - xã hội trên các
dịa bàn chiến lược còn nhiều khó khăn mà các lực lượng khác khó thực hiện.
làm tốt chức năng của đội quân lao động sản xuất.
Xây dựng quân đội cách mạng trính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại,
thực sự là lực lượng nòng cốt của sức mạnh quốc phòng an ninh bảo vệ Tổ
Quốc, là nhiệm vụ thiêng liêng, trong trách nặng nề của toàn Đảng, toàn dân,
toàn quân ta. Cán bộ, chiến sĩ trong quân đội phải luôn nêu cao ý thức độc
lập, tự chủ, sáng tạo thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ mà Đảng, Tổ Quốc và
nhân dân giao phó, góp phần thực hiện thắng lợi mục tiêu: dân giàu, nước
mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh.



×