Tải bản đầy đủ (.doc) (15 trang)

TIỂU LUẬN KINH tế CHÍNH TRỊ lý THUYẾT GIÁ TRỊ LAO ĐỘNG của TRƯỜNG PHÁI KINH tế CHÍNH TRỊ cổ điển ANH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (111.32 KB, 15 trang )

1

LÝ THUYẾT GIÁ TRỊ - LAO ĐỘNG
CỦA TRƯỜNG PHÁI KINH TẾ CỔ ĐIỂN ANH

Lịch sử tư tưởng kinh tế là một môn khoa học nghiên cứu sự phát
triển của tư tưởng kinh tế. Các tư tưởng kinh tế xuất hiện rất sớm từ thời
cổ đại. Đó là các nhận thức, quan niệm, quan điểm của giai cấp, tập đoàn
xã hội về kinh tế và lợi ích kinh tế, các quan niệm đó ban đầu thường
được lồng trong các quan niệm triết học. Nhìn chung các tư tưởng kinh
tế thời cổ đại (Ấn Độ, Trung Quốc, Hy Lạp và La Mã cổ đại) còn rất
nghèo nàn và thô sơ. Đến chế độ phong kiến tư tưởng kinh tế đã có bước
phát triển quan trọng. Song nhìn chung nó vẫn mang tính rời rạc, giản
đơn chưa thể trở thành học thuyết phần lớn ở dạng chính sách, kiến nghị,
giải pháp thực tiễn lợi ích giai cấp thống trị.
Sự phát triển chủ nghĩa tư bản ở Châu Âu (Tây Âu) đã kéo theo sự
ra đời của kinh tế chính trị tư sản cổ điển. Theo Mác, kinh tế chính trị tư
sản cổ điển ở Anh bắt đầu từ WPetti và kết thúc ở ĐavitRicácđô, còn ở
Pháp bắt đầu từ Beaghinbe kết thúc ở SiSmôđi. Qua học phần kinh tế cổ
điển với nhiều đại biểu tiêu biểu và với nhiều lý thuyết kinh tế quan
trọng: Lý thuyết giá trị - lao động; lý thuyết phân công lao động; lý
thuyết tiền tệ, lý thuyết tư bản; lý thuyết về tiền công, lợi nhuận địa tô;
học thuyết tái sản xuất v.v...Chứa đứng những nhân tố khoa học, mà sau
này được C. Mác và Ăngghen kế thừa, phát triển lên đỉnh cao mới của
khoa học kinh tế chính trị. Đồng thời cũng chứa đựng những yếu tố
không khoa học do hạn chế của thời điểm lịch sử lúc đó cũng như lập
trường giai cấp tư sản và phương pháp nghiên cứu đem lại. Qua học tập
các lý thuyết kinh tế cổ điển, không những giúp cho bản thân tôi hiểu


2



sâu hơn học thuyết kinh tế Mác xít, mà còn nâng cao trình độ tư duy kinh tế.
Tuy vậy, với thời lượng có hạn, trong bài tiểu luận này tôi chỉ tập trung làm rõ
những nhân tố khoa học và những yếu tố không khoa học cùng những
nguyên nhân của yếu tố không khoa học trong học thuyết giá trị - lao động
của các đại biểu kinh tế cổ điển Anh là: W.petti; AđamSmíth, Đavít Ricacđô.
Trước khi đi vào làm rõ lý thuyết giá trị - lao động của kinh tế cổ
điển Anh, tôi sơ lược hoàn cảnh dẫn đến sự ra đời kinh tế cổ điển Anh.
Cuối thế kỷ XVIII, ở nước Anh học thuyết kinh tế cổ điển xuất hiện
vào thời kỳ này, sau khi tích luỹ được khối lượng tiền tệ lớn, giai cấp tư
sản tập trung phát triển lĩnh vực sản xuất. Vì vậy, các công trường thủ
công trong lĩnh vực sản xuất công nghiệp nông nghiệp phát triển mạnh
mẽ. Diễn ra việc tước đoạt ruộng đất của nông dân, hình thành giai cấp
vô sản và chủ chiếm hữu ruộng đất. Đặc biệt cuộc cách mạng công
nghiệp ở Anh từ những năm 60 của thế kỷ XVIII, đã gây ra những bước
tiến bộ lớn về mặt kinh tế. Trong suốt thế kỷ XIX, nước Anh trở thành
“công xưởng của thế giới” và giai cấp tư sản Anh đã tìm thấy có thể làm
giàu trong chế độ bóc lột ở công xưởng. Trong khi đó sự tồn tại của chế
độ phong kiến không chỉ kìm hãm sự phát triển của chủ nghĩa tư bản, mà
còn làm sâu sắc hơn mâu thuẫn trong giai cấp quý tộc, giai cấp tư sản
phát triển công trường thủ công, làm cho thương nghiệp xuất khẩu phụ
thuộc vào công nghiệp, công nghiệp được đặt lên hàng đầu. Vấn đề tích
luỹ ban đầu đã lui về lịch sử. Vì vậy, các chính sách của chủ nghĩa trọng
thương không còn thích hợp với sự phát triển mới của công nghiệp.
Nhiều vấn đề kinh tế của sản xuất đặt ra vượt quá khả năng giải thích
của lý thuyết kinh tế trọng thương. Đòi hỏi phải có lý thuyết kinh tế mới


3


soi đường. Học thuyết kinh tế cổ điển Anh xuất hiện với 3 đại biểu tiêu
biểu:
Wpetti, AĐamSmíth; Đavít Ricácđô.
Cũng như lịch sử các lý thuyết kinh tế khác. Lịch sử lý thuyết giá trị
- lao động là lịch sử của quá trình nhận thức từ thấp đến cao, từ đơn giản
đến phức tạp, từ kém hoàn thiện đến hoàn thiện hơn. Lý thuyết giá trị lao động là một trong những lý thuyết kinh tế cơ bản nhất của khoa học
kinh tế - chính trị. Vì rằng lý thuyết giá trị - lao động là cơ sở, tiền đề để
nghiên cứu các lý thuyết, khái niệm phạm trù của kinh tế chính trị. Vì
thế nghiên cứu sâu sắc lý thuyết giá trị - lao động không những để hiểu
sâu hơn học thuyết giá trị Mác xít mà còn thấy rõ bước ngoặt cách mạng
trong học thuyết giá trị do C. Mác và Ăngghen tiến hành.
Đối với Wpetti: cống hiến to lớn của ông là ở chỗ, ông là người đầu
tiên nêu ra nguyên lý giá trị - lao động, nghĩa là, lao động là cơ sở,
nguồn gốc của giá trị hàng hoá. Trong tác phẩm “bàn về thuế khoá và lệ
phí”, ông nêu lên 3 luận điểm về giá cả hàng hoá, đó là: Giá cả tự nhiên;
giá cả nhân tạo; giá cả chính trị.
Về giá cả tự nhiên ông viết: “Một người nào đó, trong thời gian lao
động khai thác được 1ounce bạc và cũng thời gian đó sản xuất được 1
barrel lúa mì, thì 1 ounce bạc là giá cả tự nhiên của barrel lúa mì. Nếu
nhờ những mỏ mới giàu quặng hơn, nên cùng một thời gian lao động đó,
bây giờ khai thác được 2 ounce bạc, thì 2 ounce bạc, là giá cả tự nhiên
của 1 barrel lúa mì”.
Như vậy về thực chất Pétti khẳng định rằng giá cả tự nhiên chính là
giá trị hàng hoá - giá trị hàng hoá là do thời gian lao động hao phí để sản


4

xuất ra hàng hoá quyết định và cũng chính lượng thời gian hao phí để
sản xuất hàng hoá là cơ sở của sự trao đổi hàng hoá. Pétti đã phân tích sự

phụ thuộc hay là quan hệ giữa giá trị và năng suất lao động, khi ông cho
rằng: Nếu cùng một thời gian đó, bây giờ khai thác được 2 ounce bạc, thì
2 ounce bạc, là giá cả tự nhiên của một barrel lúa mì. Ở đây, Petti muốn
nói với chúng ta rằng giá trị hàng hoá có quan hệ chặt chẽ với năng suất
lao động. Giá trị hàng hoá tỷ lệ nghịch với năng suất lao động khai thác
bạc và đây cũng là một trong những điểm hạn chế của ông, vì chỉ coi lao
động khai thác bạc mới là lao độn sáng tạo ra giá trị còn các lao động
khác chỉ tạo ra của cải và giá trị của các hàng hoá khác chỉ được xác
định nhờ quá trình trao đổi với bạc.
Về giá cả nhân tạo: Nếu giá cả tự nhiên là giá trị hàng hoá, thì giá
cả nhân tạo là giá cả thị trường của hàng hoá. Ông viết “tỷ lệ giữa lúa mì
và bạc chỉ là giá cả nhân tạo chứ không phải là giá cả tự nhiên”. Theo
Petti, giá cả nhân tạo thay đổi phụ thuộc vào giá cả tự nhiên và quan hệ
cung - cầu hàng hoá trên thị trường. Về điểm này ông đã nhìn thấy được
quan hệ giữa giá cả nhân tạo và giá cả tự nhiên, mà thực chất là quan hệ
giữa giá cả thị trường với giá trị hàng hoá. Có lẽ, ông đã hàm ý chỉ ra
rằng muốn nghiên cứu tìm hiểu giá trị của hàng hoá phải bắt đầu từ giá
cả, là một thành công của ông trong sử dụng phương pháp từ hiện tượng
đến bản chất và phương pháp trừu tượng hoá. Vì rằng giá cả là biểu hiện
bằng tiền của giá trị thông qua trao đổi. Hơn vừa phạm trù giá trị là một
phạm trù khó có thể nhìn thấy, rất trừu tượng còn giá cả là một phạm trù
dễ nhìn thấy và nắm lấy được. Do đó ông đã xuất phát từ nghiên cứu giá
cả thị trường để hiểu giá trị và nguồn gốc của nó.


5

Về giá cả chính trị, là một loại đặc biệt của giá cả tự nhiên. Cũng là
chi phí lao động để sản xuất hàng hoá nhưng trong điều kiện chính trị
không thuận lợi. Chi phí trong giá cả chính trị thường cao hơn giá cả tự

nhiên trong điều kiện bình thường. Đối với Wpetti, Người đương thời
của cách mạng tư sản và chiến tranh vệ quốc, thì việc phân biệt giá cả tự
nhiên, tức là chi phí lao động trong điều kiện bình thường, với giá cả
chính trị - là chi phí lao động trong điều kiện chính trị không thuận lợi,
là điều có ý nghĩa to lớn Wpetti đã phần nào thấy được mối liên hệ giữa
giá trị với quan hệ chính trị, giữa kinh tế và chính trị, nếu chính trị
không ổn định sẽ tác động ảnh hưởng tới kinh tế. Nghiên cứu giá trị - lao
động,Wpetti cũng đã đặt ra vấn đề nghiên cứu lao động giản đơn và lao
động phức tạp, so sánh lao động trong thời gian dài, lấy năng suất lao
động trung bình trong nhiều năm để loại trừ tình trạng ngẫu nhiên, song
ông chỉ dừng lại ở đấy, không phân tích gì thêm.
Wpetti còn có một luận điểm nổi tiếng là “lao động là cha còn đất
đai là mẹ của mọi của cải”. Luận điểm này, về phương diện của cải vật
chất, đó là công lao lớn của ông. Nhưng về phương diện giá trị - lao
động thì ông lại xa rời khi kết luận rằng đất đai là cơ sở nguồn gốc của
giá trị. Điều này là mầm mống của lý thuyết các nhân tố sản xuất tạo ra
giá trị mà sau này một số chính trị gia tư sản áp dụng. Mặc dù Wpetti đã
cố gắng tập trung vào nghiên cứu giá trị với một bên là hàng hoá và một
bên là tiền tệ, nhưng ông chưa phân biệt được giá trị với hình thái tiền tệ
của nó là giá cả, khi ông cho rằng lao động khai thác bạc mới là lao động
sáng tạo ra giá trị, còn các loại lao động khác chỉ tạo ra của cải vật chất ở
mức độ so sánh với lao động tạo ra tiền tệ, tức là lao động khai thác bạc.


6

Ông đã không gắn cái đặc tính sáng tạo cho mọi lao động của con người.
Do đó ông đi đến một mơ tưởng cho rằng, giá trị hàng hoá chính là sự
phản ánh giá trị của tiền tệ, giống như ánh sáng của mặt trăng là sự phản
chiếu của ánh sáng mặt trời vậy. Đây rõ ràng là kết quả được tạo ra từ

việc áp dụng một phương pháp suy lý chưa chín muồi xuất phát từ thực
tế hiển nhiên là sản xuất hàng hoá trong thời đại của của Wpetti chưa
phát triển, do đó chưa đủ sức làm bộc lộ sự đối lập giữa giá trị sử dụng
và giá trị trao đổi. Làm cho ông lẫn lộn giữa giá trị sử dụng và giá trị
hàng hoá. Lý luận giá trị- lao động của Wpetti còn chịu ảnh hưởng tư
tưởng của tư tưởng chủ nghĩa trọng thương. Các luận điểm giá trị còn
chưa dựa trên cơ sở vững chắc là lao động, luận điểm khoa học còn xen
kẽ với những luận điểm không khoa học. Tuy nhiên, có thể khẳng định
Wpetti là người đầu tiên trong lịch sử đặt nền móng cho lý thuyết giá trị
- lao động.
Hơn một trăm năm sau. AđamSmith xuất hiện và đã đưa khoa kinh
tế chính trị tiến lên một bước lớn. So với Wpetti và phái trọng nông lý
thuyết giá trị - lao động của AđamSmíth có bước tiến đáng kể. Trong tác
phẩm: của cải của các dân tộc, ông đã phân biệt rõ ràng giá trị trao đổi
với giá trị sử dụng của hàng hoá, ông khẳng định rằng giá trị sử dụng
không quyết định giá trị trao đổi mặc dù giá trị trao đổi không thể nằm
ngoài ở đâu, ngoài giá trị sử dụng, tức là ông đã chống lại quan niệm cho
rằng tính chất hữu dụng là cơ sở quy định giá trị trao đổi. Theo Smith
thuộc tính hữu ích của hàng hoá không can hệ gì đến giá trị trao đổi.
Không có gì hữu ích bằng nước và không khí, nhưng với nó người ta
không thể mua được gì cả. Theo ông, giá trị trao đổi hay giá trị hàng hoá


7

được quyết định bởi lao động, do hao phí lao động để sản xuất ra hàng
hoá quyết định lao động là thước đo thực tế của giá trị. Đó là một định
nghĩa đúng đắn về giá trị với định nghĩa này, ông là người đứng vững
trên cơ sở lý thuyết giá trị - lao động. Khi phân tích giá trị hàng hoá ông
còn cho rằng giá trị được biểu hiện ở giá trị trao đổi của hàng hoá, trong

quan hệ số lượng với hàng hoá khác, còn trong nền sản xuất hàng hoá
phát triển, nó được biểu hiện ở tiền. Ông chỉ ra lượng giá trị hàng hoá là
do hao phí lao động trung bình cần thiết quyết định lao động giản đơn và
lao động phức tạp ảnh hưởng khác nhau đến lượng giá trị hàng hoá.
Trong cùng một thời gian, lao động chuyên môn, phức tạp sẽ tạo ra một
lượng giá trị nhiều hơn lao động không có chuyên sâu hay lao động giản
đơn.
Thực tiễn của sản xuất tư bản chủ nghĩa, mà trực tiếp là ở nước Anh
đã chuyển hoá vào đầu óc ông một định nghĩa thứ hai trái ngược với
định nghĩa trên là: Giá trị là do lao động mà người ta có thể mua được
bằng hàng hoá này quyết định. Từ định nghĩa này, ông suy ra giá trị do
lao động tạo ra chỉ đúng trong nền kinh tế hàng hoá giản đơn. Còn trong
nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, giá trị do các nguồn thu nhập tạo thành, nó
bằng tiền lương cộng với lợi nhuận và địa tô. Ông viết “tiền lương, lợi
nhuận, địa tô là 3 nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập, cũng như của
mọi giá trị trao đổi. Bất cứ thu nhập nào khác cuối cùng cũng do một
trong những nguồn ấy mà ra”. Theo ý kiến của Smit, trong một nước văn
minh chỉ có một số ít hàng hoá là có giá trị trao đổi do một mình lao
động tạo ra, còn giá trị của đại đa số hàng hoá thì còn chứa đựng cả địa
tô và lợi nhuận nữa. Ông đã nhận thấy giá cả trong chủ nghĩa tư bản


8

được đặt ra khác với trước đây, nhưng không thấy được trong chủ nghĩa
tư bản quá trình thực hiện giá trị gắn liền với việc phân phối lại giá trị
dưới hình thái tiền công, lợi nhuận, địa tô. Vì thế ông xác định cơ cấu
giá trị hàng hoá bằng các thu nhập (tiền công + lợi nhuận+ địa tô), bỏ
qua, không tính đến giá trị tư liệu sản xuất (tư bản bất biến) vào giá trị
hàng hoá là một sự thiếu sót, nhầm lẫn đáng tiếc.

Ađamsmít còn đi vào giải thích những sự khác nhau giữa giá cả tự
nhiên và giá cả thị trường. Ông khẳng định rằng hàng hoá được bán theo
giá cả tự nhiên - giá cả tự nhiên là biểu hiện tiền tệ của giá trị. Ông viết:
Nếu giá cả của một hàng hoá nào đó phù hợp với những gì cần thiết cho
thanh toán về địa tô, trả lương cho công nhân và lợi nhuận cho tư bản
được chi phí cho khai thác, chế biến và đưa ra thị trường, thì có thể nói
hàng hoá đó được bán theo giá cả tự nhiên còn giá cả thực tế mà qua đó
hàng hoá được bán là giá cả thị trường. Nó có thể cao hơn; thấp hơn hay
trùng hợp với giá cả tự nhiên. Như vậy theo ý Ađam Smít, giá cả tự
nhiên là trung tâm, là khách quan, còn giá cả thị trường hướng vào nó,
phụ thuộc nó. Ngoài giá cả tự nhiên, giá cả thị trường còn phụ thuộc vào
quan hệ cung - cầu và các loại độc quyền khác.
Qua những phân tích ở trên về lý thuyết giá trị - lao động của
AđamSmít cho chúng ta thấy rằng công lao to lớn đặc biệt quan trọng của
ông là việc bảo vệ luận điểm cho rằng lao động là thực thể của giá trị và là
“thước đo thực tế” của giá trị và mọi lao động đều tạo ra giá trị, là bước tiến
cao hơn hẳn Petti (chỉ có lao động sản xuất bạc mới tạo ra giá trị). Đối với
lịch sử tư tưởng kinh tế, điều này có ý nghĩa to lớn, đánh dấu cả một thời
đại; Nó đã cho ta cơ sở lý luận để giải quyết đúng đắn những vấn đề căn bản


9

của khoa kinh tế chính trị. Về sau những tư tưởng xuất sắc của Smít sẽ đưa
phát triển thêm trong những công trình nghiên cứu của ĐavitRicactô và sẽ
đóng một vai trò quan trọng trong việc hình thành một khoa học kinh tế tiên
tiến.
Song bên cạnh những yếu tố khoa học là những yếu tố không khoa
học. Ông còn lẫn lộn giữa giá trị và giá cả: giữa việc hình thành giá trị
với việc phân phối giá trị; đặc biệt là khi đưa ra định nghĩa thứ hai về

thực tế ông lại xa rời lý thuyết giá trị lao động việc đồng nhất giá trị trao
đổi với các quyền lực đối với lao động đã mua được, việc đồng nhất đặc
trưng ấy của Smít đã có một tác hại. Chính điều đó đã dẫn tới kết luận
sai lầm: Giá trị bằng lao động được trả công tức là bằng tiền công.
Tóm lại: Lý thuyết giá trị - lao động của Smít rất mâu thuẫn vừa có
tính khoa học vừa không khoa học. Từ những mâu thuẫn trong đó các lý
thuyết của Smít nói chung, lý thuyết giá trị- lao động nói riêng đã dẫn tới
một học thuyết mới ra đời. Đó là học thuyết giá trị của ĐavitRcácđô.
ĐavitRcácđô là một nhà kinh tế học kiệt xuất của kinh tế tư sản cổ
điển, ông cũng là người kết thúc kinh tế chính trị cổ điển Anh. Học
thuyết giá trị trước Mác được phát triển cao nhất ở Ricácđô. Học thuyết
giá trị của Ricácđô mang tính khoa học và khá hoàn chỉnh, nó chiếm một
vị trí trung tâm trong lý luận kinh tế của ông. Ricácđô đã có ý thức xem
xét tất cả các phạm trù kinh tế khác trên cơ sở lý luận giá trị - lao động.
Đ. Ricácđô, định nghĩa giá trị hàng hoá như sau: “Giá trị của hàng
hoá hay số lượng của một hàng hoá nào khác mà hàng hoá đó trao đổi, là
do số lượng lao động tương đối, cần thiết để sản xuất ra hàng hoá quyết


10

định chứ không phải do khoản thưởng lớn hay nhỏ trả cho lao động đó
quyết định”.
Cũng như AđamSmit, ĐavitRcácđô đã phân biệt rõ 2 thuộc tính của
hàng hoá là giá trị sử dụng và giá trị trao đổi. Ông bác bỏ lý luận giá trị
sử dụng quyết định giá trị hàng hoá, ông đã chứng minh rằng các nhân tố
tự nhiên giúp con người tạo nên giá trị sử dụng. Nhưng không thêm một
phân tử gì vào giá trị hàng hoá cả. Ông khẳng định: Tính hữu ích không
phải là thước đo giá trị trao đổi, mặc dù hàng hoá rất cần thiết giá trị này.
Giá trị khác xa với của cải, giá trị không tuỳ thuộc vào việc có nhiều hay

ít của cải, mà tuỳ thuộc vào điều kiện sản xuất khó khăn hay thuận lợi.
Sở dĩ có nhiều nhầm lẫn trong khoa kinh tế chính trị là do người ta coi
“sự tăng của cải và tăng giá trị là một”. Theo ông giá trị trao đổi hàng
hoá được quy định bởi lượng lao động chứa đựng trong hàng hoá, lượng
lao động đó tỷ lệ thuận với lao động tạo ra hàng hoá “tính hữu ích không
tăng cùng nhịp độ với tăng giá trị”. Song tính hữu ích là cần thiết của
hàng hoá vì vật không có tính hữu ích thì nó không có được giá trị trao
đổi.
ĐavitRcácđô cho rằng: hàng hoá hữu ích sở dĩ có giá trị trao đổi là
do hai nguyên nhân: Tính chất khan hiếm và lượng lao động cần thiết để
sản xuất ra chúng. Như vậy ông đã nhận thức được giá trị trao đổi được
quyết định bởi lượng lao động đồng nhất của con người, chứ không phải
là lượng hao phí cá biệt. Về điểm này ông là người đầu tiên đã phân biệt
được lao động cá biệt và lao động xã hội. Nhưng ông đã nhầm lẫn khi
cho rằng giá trị hàng hoá được điều tiết bởi lượng lao động lớn nhất hao
phí trong điều kiện xấu nhất quyết định. Với điểm này ông lại là người


11

thụt lùi so với AđamSmít (giá trị hàng hoá là do hao phí lao động trung
bình cần thiết quyết định) và về sau này C. Mác xác định trong điều kiện
trung bình quyết định.
ĐavitRcácđô cho rằng giá trị trao đổi là giá trị tương đối được biểu
hiện ở số lượng nhất định của hàng hoá khác. Bên cạnh giá trị tương đối
của ông, lúc thì hiểu nó là giá trị tuyệt đối (giá trị của hàng hoá), lúc thì
hiểu đó là giá trị tương đối (giá trị so sánh, giá trị trao đổi) hay hình thái
giá trị. Ông ủng hộ định nghĩa thứ nhất của Smít về giá trị. Coi giá trị
của hàng hoá là do số lượng lao động hao phí cần thiết để sản xuất ra
hàng hoá đó quyết định là đúng đắn, là khoa học. Còn định nghĩa thứ hai

Smít cho rằng: “Giá trị do lao động mà người ta có thể mua được bằng
hàng hoá này quyết định” là không đúng. Theo ĐavitRcácđô, không phải
chỉ trong nền sản xuất hàng hoá giản đơn, mà ngay cả trong nền sản xuất
lớn tư bản chủ nghĩa, giá trị vẫn do lao động quyết định, lao động vẫn là
cơ sở của mọi giá trị. Ông cảm thấy mâu thuẫn trong những định nghĩa
giá trị của Smít và ông gạt bỏ định nghĩa thứ hai đi.
Khi nghiên cứu về cơ cấu giá trị, ĐavitRcácđô đã phê phán
AđamSmit cho rằng giá trị là do các thu nhập hợp thành (tiền công, lợi
nhuận, địa tô là nguồn gốc đầu tiên của mọi thu nhập cũng như mọi giá
trị trao đổi). ĐavitRcácđô vạch rõ, Smít đã nhầm lẫn giữa quá trình hình
thành giá trị và quá trình phân phối giá trị. Việc phân phối giá trị không
ảnh hưởng đến việc hình thành giá trị. Việc tăng tiền công không làm
cho giá trị hàng hoá tăng lên mà lại làm cho lợi nhuận hoặc địa tô giảm
xuống. Ông cũng hoàn toàn không nhất trí với Smít không tính đến lao
động quá khứ trong giá trị hàng hoá (giá trị hàng hoá = V+m) và ông cho


12

rằng: giá trị hàng hoá không chỉ do lao động trực tiếp để sản xuất hàng
hoá tạo ra, mà còn phải tính đến cả những lao động đã hao phí vào các
công cụ lao động...(lao động quá khứ). Như vậy, theo Đavitricácđô giá
trị hàng hoá = c + v+m. Song ông chưa biết được c chuyển vào giá trị
hàng hoá như thế nào. Chỉ có đến C.Mác sau này mới hoàn chỉnh và giải
thích có cơ sở khoa học công thức giá trị hàng hoá = c + v +m.
ĐaVít Ricácđô đã phân biệt giá trị tự nhiên và giá cả thị trường , giá
cả là biểu hiện bằng tiền của giá trị, giá cả tự nhiên là giá cả cần thiết để
thường xuyên thoả mãn số cầu, cộng với một lợi nhuận thông thường.
Theo C.Mác thì Ricácđô đã nói đến giá cả sản xuất. Ông đã cố gắng tìm
hiểu sự vận động của giá cả. Theo ông, giá cả không phải do cung- cầu

quyết định, quyết định mức giá ở trong tay những người sản xuất, cung cầu chỉ ảnh hưởng đến giá cả. Ông viết: “Cái có tính chất điều tiết giá trị
là hao phí lao động sản xuất, không phải quan hệ cung - cầu và tâm
trạng người mua”.
ĐavitRicacsđô phân tích mối quan hệ giữa giá trị và năng suất lao
động và kết luận, khi năng suất lao động tăng lên thì giá trị giảm xuống.
Điều mà Wpetti đã dự đoán đã được ông luận chứng rõ ràng. Khác với
Smít, ĐavítRicácđô cho rằng quy luật giá trị không chỉ hoạt động trong
các xã hội trước tư bản, mà còn hoạt động cả trong chủ nghĩa tư bản nữa,
quy luật giá trị có chức năng phân phối lại lao động, quy định tỷ lệ trao
đổi và điều tiết sự hình thành giá cả.
So với Smít, học thuyết giá trị của Ricácđô triệt để hơn, hoàn thiện
hơn và trở thành nhất quán. Nhưng cũng như Smít, ông không nghiên
cứu sâu về chất của giá trị vì vậy ông không nhìn thấy tính lịch sử của


13

phạm trù giá trị mà cho nó là một phạm trù vĩnh viễn, đồng nhất giá trị
với các hình thái của nó. Ông chưa thấy được mâu thuẫn giữa giá trị và
giá trị sử dụng vì ông không nhận thấy được tính 2 mặt của lao động sản
xuất hàng hoá. Mặc dù ông và cả AđamSmít đều biết rằng lao động tạo
ra giá trị là một thứ lao động không kể hình thái của nó (cảm giác, mơ
màng gần đến mà không biết được). Khác với Smít, ĐavitRicacđô cho
rằng quy luật giá trị vẫn hoạt động trong chủ nghĩa tư bản là hoàn toàn
đúng, song hoạt động như thế nào, ông không chứng minh được và
không thể giải quyết được vấn đề giá cả sản xuất. Đồng thời ông cũng
chưa hiểu được giá trị trao đổi là hình thức biểu hiện giá trị của hàng
hoá. Cũng như biết được rằng trong cấu thành giá trị hàng hoá là có cả
lao động sống và lao động quá khứ, nhưng lao động quá khứ chuyển vào
giá trị hàng hoá ra sao thì ông không sao giải thích nổi.

Tóm lại ĐavitRicácđô đã đứng vững trên cơ sở lý luận giá trị - lao
động. C.Mác đánh giá “Nếu AđamSmit đã đưa khoa học kinh tế chính trị
vào hệ thống, thì ĐavitRcácđô đã kết cấu toàn bộ khoa học kinh tế chính
trị bằng một nguyên lý thống nhất nguyên lý chủ yếu quyết định của ông
là thời gian lao động quyết định giá trị” .
Kinh tế chính trị tư sản cổ điển Anh nói chung, lý thuyết giá trị - lao
động của các nhà kinh tế cổ điển Anh nói riêng. Được bắt đầu từ nguyên
lý giá trị - lao động của Wpetti, ông cũng là người đầu tiên trong lịch sử
đặt nền móng cho lý thuyết giá trị - lao động. Hơn một trăm sau,
AđamSmit dựa trên cơ sở lý thuyết giá trị - lao động đã đưa ra và phát
triển những học thuyết của mình đưa kinh tế chính trị vào hệ thống.
ĐavitRicácđô là người đã đứng vững trên cơ sở lý thuyết giá trị - lao


14

động đã kết cấu toàn bộ khoa học kinh tế chính trị bằng một nguyên lý
thống nhất. Thời gian lao động quyết định giá trị hàng hoá. Quá trình
nghiên cứu lý thuyết giá trị lao động, các ông đã có sự kế thừa, phát triển
những nhân tố khoa học, hợp lý, đồng thời phê phán, gạt bỏ những nhân
tố không khoa học, tầm thường. Chính vì thế ĐavitRicácđô đã đạt đến
đỉnh cao lý thuyết giá trị - lao động trong kinh tế chính trị tư sản cổ điển
Anh. Những nhân tố khoa học hợp lý là cơ sở, tiền đề trực tiếp mà C.
Mác và Ăngnghen kế thừa có phê phán và phát triển lên đỉnh cao mới
của lý luận giá trị trong khoa học kinh tế chính trị tiên tiến. Tuy nhiên
bên cạnh những nhân tố khoa học, lý thuyết giá trị - lao động của các
ông cũng còn có nhiều nhân tố không khoa học, tầm thường. Chỉ chú ý
phân tích mặt lượng giá trị, ít chú ý đến mặt chất và hoàn toàn không
phân tích hình thái giá trị. Đây là một nhược điểm chủ yếu của kinh tế cổ
điển, khuyết điểm này là do thiếu quan điểm lịch sử xem xét các hàng

hoá tiền tệ tư bản là hình thái vĩnh viễn, có được những nhân tố khoa
học, song còn những nhân tố chưa khoa học, tầm thường là vì các ông đã
có thế giới quan mang tính duy vật, song phương pháp chủ yếu là mang
tính 2 mặt, máy móc, siêu hình, tuy nhiên các ông ít nhiều đã sử dụng
thành công phương pháp tự nhiên và phương pháp trừu tượng hoá trong
nghiên cứu. Về chính trị các ông đứng trên lập trường của chủ nghĩa tự do
tư sản. Song có thể khẳng định rằng kinh tế cổ điển nói chung, kinh tế cổ
điển Anh nói riêng có đóng góp to lớn trong khoa học kinh tế chính trị.
Trường phái kinh tế chính trị cổ điển khoa học được coi là một nguồn gốc
của chủ nghĩa Mác. Bản thân Ricácđô được C.Mác đánh giá cao và kính
trọng, Mác coi Ricácđô là “cha đẻ của kinh tế chính trị tư sản cổ điển”.


15

Nghiên cứu lịch sử tư tưởng kinh tế nói chung, lý thuyết giá trị lao
động nói riêng có ý nghĩa cả về lý luận và thực tiễn. Nó không những
nâng cao nhận thức, mà còn là cơ sở để hiểu sâu sắc hơn học thuyết kinh
tế Mác xít. Đồng thời, thấy rõ bước ngoặt cách mạng trong học thuyết
giá trị do Mác và Ăngghen tiến hành.



×