Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN LỊCH sử ĐẢNG TÍNH CÁCH MẠNG và KHOA học của ĐƯỜNG lối độc lập dân tộc gắn LIỀN với CHỦ NGHĨA xã hội TRONG CƯƠNG LĨNH đầu TIÊN của ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (202.77 KB, 25 trang )

1

TÍNH CÁCH MẠNG VÀ KHOA HỌC CỦA ĐƯỜNG LỐI ĐỘC LẬP
DÂN TỘC GẮN VỚI CHỦ NGHĨA XÃ HỘI TRONG CƯƠNG LĨNH
ĐẦU TIÊN CỦA ĐẢNG CỘNG SẢN VIỆT NAM
=============================
MỞ ĐẦU
Mùa xuân 1930 thay mặt Quốc tế cộng sản, đồng chí Nguyễn Ái Quốc
đã triệu tập và chủ trì Hội nghị hợp nhất các Tổ chức cộng sản ở Việt Nam,
thành lập một Đảng cộng sản duy nhất đảm nhiệm sứ mệnh lãnh đạo cách
mạng Việt Nam. Sự ra đời của Đảng Cộng sản Việt Nam đã mở ra bước ngoặt
vĩ đại cho cách mạng Việt Nam. Nó chấm dứt thời kỳ cách mạng Việt Nam ở
trong tình trạng “đen tối không có đường ra”, thời kỳ bế tắc, khủng hoảng về
đường lối cứu nước suốt hơn hai phần ba thế kỷ, kể từ khi nước ta bị thực dân
Pháp xâm lược. Sự kiện đó đưa cách mạng Việt Nam bước vào thời kỳ mới,
thời kỳ giai cấp công nhân, nhân dân lao động và dân tộc ta được sự lãnh đạo
của một đảng Mác-Lênin chân chính, Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong Hội nghị thành lập Đảng, vấn đề mang ý nghĩa đặc biệt to lớn và
trực tiếp đối với cách mạng Việt Nam là Đảng đã thông qua được Cương lĩnh
cách mạng. Tuy là vắn tắt, song Cương lĩnh đã trình bày đầy đủ những vấn đề
cơ bản của của cách mạng Việt Nam, nhất là đã vạch ra được đường lối đúng
đắn, đường lối độc lập dân tộc và gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Đây chính là
ngọn đèn soi đường cho cách mạng nước ta đi lên, là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
toàn bộ sự nghiệp cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng.
Như vậy, ngay khi ra đời, Đảng đã là một tổ chức độc lập về chính trị
tư tưởng và tổ chức, nắm quyền lãnh đạo cách mạng, trung thành và vận dụng
sáng tạo lí luận chủ nghĩa Mác-Lênin vào thực tiễn đất nước, đề ra đường lối
cách mạng đúng đắn. Đường lối đó đã đáp ứng được yêu cầu của lịch sử, phù
hợp với nguyện vọng của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả



2

dân tộc, đã quy tụ được sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc với sức mạnh thời đại
đấu tranh dưới ngọn cờ của chủ nghĩa Mác-Lênin. Đường lối đúng đắn đó đã
làm cho cách mạng Việt Nam liên tiếp giành được những thắng lợi to lớn
trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân, cách mạng xã hội chủ nghĩa cũng
như trong sự nghiệp đổi mới, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước hiện
nay.
NỘI DUNG

1. Quá trình hình thành và sự thể hiện đường lối độc lập dân tộc gắn
với chủ nghĩa xã hội trong cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Trong thế kỷ XX, lịch sử thế giới và lịch sử dân tộc Việt Nam đã trải qua
nhiều biến động to lớn, làm thay đổi bộ mặt thế giới, làm chuyển biến sâu sắc xã
hội Việt Nam. Những thay đổi to lớn đó đã minh chứng cho tính đúng đắn, sáng
tạo, tính khoa học, tư duy chính trị sâu sắc, tính nhân văn cao cả của chủ tịch Hồ
Chí Minh và Đảng Cộng sản Việt Nam trong việc lựa chọn con đường độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã đưa cách mạng Việt Nam tiến lên.
Chủ nghĩa Mác-Lênin chỉ rõ trong xã hội có giai cấp, việc giải quyết
các vấn đề xã hội bao giờ cũng mang tính giai cấp, vấn đề dân tộc cũng vậy.
Các giai cấp khác nhau luôn có quan điểm khác nhau về vấn đề dân tộc, vì thế
giải quyết vấn đề dân tộc bao giờ cũng mang tính giai cấp. Lịch sử thế giới từ
thế kỷ XVI đến thế kỷ XVIII, vần đề dân tộc gắn liền với giai cấp tư sản. Lúc
đó giai cấp tư sản là giai cấp tiến bộ đã giương cao ngọn cờ dân tộc chống chế
độ phong kiến lỗi thời. Thắng lợi của trào lưu dân tộc khi đó là thắng lợi của
trào lưu dân tộc tư sản, thắng lợi của chủ nghĩa tư bản. Tuy nhiên, khi chủ
nghĩa tư bản chuyển sang thời kỳ đế quốc chủ nghĩa thì giai cấp tư sản không
những là kẻ bóc lột quần chúng lao động trong nước, mà còn là kẻ áp bức,
bóc lột nhiều dân tộc trên thế giới. Từ cuối thế kỷ XIX, đặc biệt là sau thắng
lợi của Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), giai cấp công nhân thế giới là



3

giai cấp đại diện cho phương thức sản xuất mới, giai cấp duy nhất có khả
năng giải quyết triệt để vấn đề dân tộc, kết hợp đúng đắn lợi ích giai cấp với
lợi ích của dân tộc. Vị thế, vai trò đó của giai cấp công nhân đã mở ra một
thời kỳ mới, thời kỳ giải quyết vấn đề dân tộc trên cơ sở lập trường của giai
cấp công nhân.
Từ sau khi Thực dân Pháp nổ súng xâm lược nước ta, chiều ngày 31
tháng 08 năm 1858 đến những năm đầu của thế kỷ XX, xã hội Việt Nam đã
có nhiều biến động sâu sắc. Xã hội Việt Nam từ chế độ phong kiến chuyển
sang chế độ thuộc địa nửa phong kiến, cơ cấu giai tầng xã hội thay đổi. Các
cuộc khởi nghĩa, các phong trào yêu nước chống thực dân Pháp xâm lược
theo các trào lưu tư tưởng khác nhau (phong kiến, dân chủ tư sản) nổ ra sôi
nổi, rộng khắp trên cả nước nhưng tất cả đều bị thất bại vì thiếu một lãnh tụ
chính trị, thiếu một đường lối cách mạng đúng đắn. Yêu cầu cấp bách của
lịch sử Việt Nam đặt ra là phải có một con đường giải phóng dân tộc đúng
đắn, đưa cách mạng Việt Nam tiến lên.
Trước đòi hỏi đó, Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh - là người đã nhận thức
và đáp ứng được yêu cầu cấp bách của lịch sử dân tộc Việt Nam. Ra đi tìm
đường cứu nước, với tư duy nhìn xa trông rộng, nhạy bén về chính trị, qua gần
một thập kỷ bôn ba, kiểm nghiệm các cuộc cách mạng trên thế giới, Nguyễn Ái
Quốc đã nắm bắt được xu thế của thời đại, tìm ra con đường cứu nước cứu dân.
Trực tiếp khảo nghiệm ở nhiều nước tư bản, đế quốc và nhiều dân tộc
thuộc địa trên thế giới, Người đã rút ra những kết luận có ý nghĩa vô cùng
quan trọng và đi đến lựa chọn con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam.
Nguyễn Ái Quốc kết luận: chủ nghĩa đế quốc ở đâu cũng tàn ác, vô nhân đạo,
là kẻ thù và là nguyên nhân mọi đau khổ của nhân dân lao động khắp thế giới.
Trong hành trình khảo sát học hỏi, ban đầu Nguyễn Ái Quốc quan tâm, nghiên

cứu nhiều hơn tới hai cuộc cách mạng: Cách mạng Mỹ năm 1776 và Cách mạng


4

Pháp năm 1789. Tuy nhiên, sau đó Người nhận định: “...cách mệnh tư bản, cách
mệnh không đến nơi, tiếng là cộng hoà và dân chủ, kỳ thực trong thì nó tước lục
công nông, ngoài thì nó áp bức thuộc địa. Cách mệnh đã 4 lần rồi, mà nay công
nông Pháp hẵng còn phải mưu cách mạng lần nữa mới hòng thoát khỏi vòng áp
bức”1. Như vậy, Người đã nhận rõ bản chất xấu xa của chủ nghĩa tư bản được
che đậy bởi những khẩu hiệu mỹ miều “tự do, bình đẳng, bác ái”.
Trên cơ sở nhận thức rõ bản chất của chủ nghĩa tư bản, Người đã bắt
gặp và tiếp nhận ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười Nga. Tháng bảy năm
1920 Người được tiếp cận tác phẩm Sơ thảo lần thứ nhất những Luận cương
về vấn đề dân tộc và thuộc địa của Lênin. Bản Sơ thảo luận cương này đã tạo
ra bước ngoặt trên con đường cứu nước của Nguyễn Ái Quốc chẳng khác gì
như: “người đi đường đang khát mà có nước uống, đang đói mà có cơm ăn”. Từ
đây Người quyết định chọn con đường cứu nước theo “chủ nghĩa Lê-nin”. Cách
mạng Tháng Mười đã mở ra một thời đại mới trong lịch sử nhân loại - thời đại
quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn thế giới. Trực
tiếp khảo sát, nghiên cứu Cách mạng Tháng Mười và chế độ chủ nghĩa xã hội
hiện thực ở nước Nga Xô Viết đã làm cho Nguyễn Ái Quốc nhận thấy bản chất
tốt đẹp của chế độ mới, chế độ xã hội chủ nghĩa, nhận ra muốn làm cách mạng
triệt để là phải từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân tiến lên chủ nghĩa xã hội.
Thực tế lịch sử đã làm cho cách mạng giải phóng dân tộc trở thành một bộ phận
khăng khít của cách mạng thế giới; cách mạng giải phóng dân tộc phải được phát
triển thành cách mạng xã hội chủ nghĩa thì thắng lợi mới trọn vẹn, triệt để. Tính
tất yếu lịch sử đó đòi hỏi những người yêu nước chân chính phải đứng trên lập
trường của giai cấp công nhân, cách mạng giải phóng dân tộc phải đi theo con
đường của cách mạng vô sản. Đó chính là cơ sở lý luận và thực tiễn cho chủ tịch

Hồ Chí Minh và Đảng ta xác định luận điểm: trong thời đại mới, độc lập dân tộc
Hồ Chí Minh, Toàn tập, Nxb CTQG,HN. 2000, t2, tr. 274.

1


5

phải gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Luận điểm này cũng là sợi chỉ đỏ xuyên suốt
trong tiến trình lịch sử cách mạng Việt Nam từ khi có Đảng.
Xâm chiếm Việt Nam và thực hiện khai thác, vơ vét tài nguyên khoáng
sản…, vô tình chính sách khai thác thuộc địa của thực dân Pháp đã đưa đến sự ra
đời của một giai cấp mới, tiên tiến, có khả năng lãnh đạo và đưa cách mạng đến
thành công. Đó chính là giai cấp công nhân Việt Nam - lực lượng đại diện cho
phương thức sản xuất mới, tiến bộ, đứng vào vị trí trung tâm của xã hội. So với
giai cấp công nhân thế giới, giai cấp công nhân Việt Nam tuy ra đời muộn và có
những đặc điểm riêng, song nó mang đầy đủ bản chất của giai cấp công nhân
quốc tế. Đó là có tính tổ chức chặt chẽ, tính kỷ luật nghiêm minh, tính cách
mạng triệt để mà các giai cấp đương thời ở Việt Nam không một giai cấp nào có
được. Giai cấp công nhân Việt Nam ra đời trước giai cấp tư sản dân tộc, không
có sự thao túng của tầng lớp công nhân quý tộc như ở các nước châu Âu, không
bị ảnh hưởng bởi những trào lưu tư tưởng cải lương và các khuynh hướng cơ
hội, xét lại của Quốc tế II. Và vì ra đời ở một nước thuộc địa, bị áp bức bóc lột
nặng nề, được nuôi dưỡng, phát triển, trưởng thành trong lòng một dân tộc có
truyền thống yêu nước đã hun đúc qua hàng ngàn năm lịch sử nên giai cấp công
nhân Việt Nam có tính cách mạng triệt để. Sau Cách mạng Tháng Mười Nga
phong trào công nhân Việt Nam được phát triển trong điều kiện quốc tế có nhiều
thuận lợi của cuộc đấu tranh dân tộc và đấu tranh giai cấp sôi nổi, rộng khắp.
Trong bối cảnh đó, phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt Nam thật
sự là một “mảnh đất” lý tưởng để “reo hạt giống đỏ” cách mạng là lý luận MácLênin và tiếp thu những kinh nghiệm của Cách mạng Tháng Mười.

Sau khi đến với chủ nghĩa Mác-Lênin, trở thành người cộng sản, đồng chí
Nguyễn Ái Quốc đã không ngừng học hỏi và xúc tiến mạnh mẽ việc truyền bá
chủ nghĩa Mác-Lênin vào phong trào công nhân và phong trào yêu nước Việt
Nam, biến tư tưởng cách mạng nhất của thời đại thành đường lối cách mạng,


6

thành tổ chức cách mạng ở Việt Nam. Người đã trực tiếp mở nhiều lớp huấn
luyện, đào tạo truyền bá chủ nghĩa Mác - Lênin vào trong nước.
Qua một thời gian tiếp thu chủ nghĩa Mác - Lênin, phong trào công
nhân và phong trào yêu nước Việt Nam có sự phát triển vượt bậc, có sự
chuyển biến mạnh mẽ về chất, đặc biệt từ sau phong trào “vô sản hoá” (1928)
của tổ chức Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Đánh giá sự trưởng thành của
phong trào công-nông, Luận cương chính trị (10/1930) của Đảng viết:
“Những cuộc bãi công trong năm 1928-1929, những cuộc đấu tranh rất dữ dội
của thợ thuyền và dân cày trong năm nay (1930) đã chứng tỏ ra rằng sự đấu
tranh giai cấp ở Đông Dương ngày càng bành trướng. Điều đặc biệt và quan
trọng nhứt trong phong trào cách mạng ở Đông Dương là sự tranh đấu của
quần chúng công nông có tính chất độc lập rất rõ rệt, chớ không phải là chịu
ảnh hưởng quốc gia chủ nghĩa như lúc trước nữa” 2. Chỉ trong thời gian ngắn
từ giữa năm 1929 đến tháng một năm 1930, ở Việt Nam đã xuất hiện ba tổ
chức cộng sản ở ba miền Bắc, Trung, Nam. Đó là, Đông Dương Cộng sản
Đảng, An Nam Cộng sản Đảng và Đông Dương Cộng sản Liên Đoàn, ba tổ chức
này đều có cùng mục tiêu là đánh đổ đế quốc-phong kiến và xây dựng một xã
hội mới tốt đẹp theo lý tưởng cộng sản. Sự trưởng thành vượt bậc của phong trào
công-nông và sự xuất hiện của các tổ chức cộng sản nói trên ở Việt Nam đã
chứng minh sự đúng đắn của chủ nghĩa Mác - Lênin về con đường cứu nước ở
Việt Nam. Đồng thời, chỉ ra rằng phong trào vận động giải phóng dân tộc ở nước
ta vào đầu năm 1930 đã phát triển đến độ chín muồi, yêu cầu phải có một Đảng

Cộng sản thống nhất lãnh đạo cách mạng cả nước. Các tổ chức cộng sản ra đời là
do chịu ảnh hưởng của sự tiếp thu chủ nghĩa Mác-Lênin và trực tiếp là hoạt động
của tổ chức Việt Nam Cách mạng Thanh niên. Ba tổ chức cộng sản ra đời trong
một nước, tuy giống nhau về phương hướng, mục tiêu, về tính chất và mô hình
2

Đảng Cộng sản VIệt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, Nxb CTQG, H 1998, tr. 93.


7

tổ chức, nhưng cũng có nhiều điểm khác nhau trong nhận thức, quan điểm, trong
phương châm và cách thức hoạt động. Do vậy, trên thực tế đã xảy ra tình trạng
hoạt động phân tán, cục bộ và thậm chí công kích lẫn nhau giữa các tổ chức
cộng sản. Từ tình hình đó, những người cộng sản trong cả ba tổ chức đều nhận
thức được sự cần thiết và cấp bách phải thống nhất thành lập một Đảng Cộng sản
ở Đông Dương và Việt Nam. Nếu để kéo dài tình trạng phân hoá, cục bộ sẽ làm
trở ngại đến phong trào chung, làm yếu đi sức mạnh tổng hợp của cách mạng
Việt Nam, không thể tập trung lực lượng của quần chúng vào cuộc đấu tranh
chính chống đế quốc-phong kiến. Lúc này, phong trào cách mạng Việt Nam đặt
ra yêu cầu là phải đoàn kết, hợp nhất các tổ chức cộng sản thành một tổ chức
thống nhất, một Đảng duy nhất “để trong thì vận động và tổ chức dân chúng,
ngoài thì liên lạc với dân tộc bị áp bức và vô sản giai cấp mọi nơi”, tranh thủ,
tiếp nhận sự giúp đỡ của Quốc tế Cộng sản.
Nắm được sự chỉ đạo của Quốc tế cộng sản, nhận thức được đòi hỏi của
lịch sử và tầm quan trọng của vấn đề đoàn kết nội bộ đối với cách mạng Việt
Nam, lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã triệu tập hội nghị hợp nhất các tổ chức cộng
sản. Tháng hai năm 1930 Người về Trung Quốc chủ trì Hội nghị hợp nhất ba tổ
chức cộng sản, thành lập Đảng Cộng sản Việt Nam tại Hương Cảng. Một lần
nữa yêu cầu của cách mạng Việt Nam lại được đáp ứng bởi tài năng, trí tuệ của

vĩ nhân, anh hùng cứu quốc giải phóng dân tộc- Hồ Chí Minh. Từ sau Hội nghị
hợp nhất, cách mạng Việt Nam có một đội tiền phong tập trung và thống nhất
lãnh đạo cách mạng cả nước. Trong Hội nghị hợp nhất, Đảng đã thông qua một
số văn kiện quan trọng do đồng chí Nguyễn Ái Quốc soạn thảo bao gồm: Chính
cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt, Chương trình tóm tắt, Điều lệ Đảng tóm tắt và
Lời kêu gọi nhân ngày thành lập Đảng. Đây là các văn kiện được coi là Cương
lĩnh đầu tiên của Đảng, trong đó xác định những vấn đề cơ bản thuộc về chiến
lược và sách lược của cách mạng Việt Nam. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng thể


8

hiện nhiều nội dung: phương hướng chiến lược; nhiệm vụ, mục tiêu cơ bản của
cách mạng Việt Nam; lực lượng cách mạng; phương pháp cách mạng; quan
điểm về đoàn kết của cách mạng Việt Nam với cách mạng vô sản thế giới và giai
cấp vô sản chính quốc, về vai trò lãnh đạo của Đảng. Tư tưởng độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội là phương hướng chiến lược của cách mạng Việt
Nam được thể hiện trong Chính cương vắn tắt của Đảng: “chủ trương làm tư
sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”3.
Bản chất của phương hướng chiến lược được hiểu là con đường cách
mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn: tiến hành cách mạng giải phóng
dân tộc, tiến tới xây dựng xã hội cộng sản. Đó là một quá trình nối tiếp nhau
của hai giai đoạn cách mạng khác nhau, có mối quan hệ mật thiết với nhau, ảnh
hưởng tác động lẫn nhau, giữa chúng không có bức tường thành ngăn cách.
Giai đoạn đầu là tiến hành đấu tranh giải phóng dân tộc, thực hiện dân tộc độc
lập và ruộng đất cho dân cày, dân chủ cho nhân dân. Giai đoạn tiếp theo là xây
dựng hình thái kinh tế-xã hội cộng sản chủ nghĩa, mà giai đoạn đầu là chủ
nghĩa xã hội. Chủ nghĩa cộng sản là mục tiêu hướng tới của cách mạng giải
phóng dân tộc; cách mạng giải phóng dân tộc là tiền đề, điều kiện cho cách
mạng xã hội chủ nghĩa. Chủ trương “làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ

địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản” cũng là linh hồn của quan điểm dân
tộc và giai cấp, phù hợp với thực tiễn cách mạng ở một nước thuộc địa nửa
phong kiến như Việt Nam, và cũng là thể hiện tư tưởng của lãnh tụ Nguyễn Ái
Quốc: giải phóng dân tộc gắn với giải phóng giai cấp, giải phóng con người.
Và đây cũng là quy luật của cách mạng vô sản ở các nước thuộc địa.
Phương hướng trên là chủ trương đúng đắn, thể hiện tinh thần triệt để
cách mạng của Đảng, thể hiện sự vận dụng sáng tạo tư tưởng cách mạng
không ngừng của Lê-nin vào thực tiễn cách mạng Việt Nam. Chủ trương đó là
3

Văn kiện Đảng, Toàn tập, Nxb CTQG, HN. 1998, t.2, tr2.


9

một trong những nội dung bao trùm trong các bài giảng ở các lớp huấn luyện
chính trị ở Quảng Châu (1925-1927) của Nguyễn Ái Quốc. Bằng sự tiếp thu
lý luận Mác-Lênin, qua trải nghiệm thực tiễn, đồng thời được chứng kiến
những thành tựu vĩ đại của Cách mạng Tháng Mười Nga (1917), Người đã
định hướng cho dân tộc Việt Nam và các dân tộc bị áp bức trên thế giới thấy
rằng: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mệnh Nga là đã thành công, và
thành công đến nơi, nghĩa là dân chúng được hưởng cái hạnh phúc tự do, bình
đẳng thật, không phải tự do và bình đẳng giả dối như đế quốc chủ nghĩa Pháp
khoe khoang bên An Nam. Cách mệnh Nga đã đuổi được vua, tư bản, địa chủ
rồi, lại ra sức cho công nông các nước và dân bị áp bức các thuộc địa làm
cách mệnh để đập đổ tất cả đế quốc chủ nghĩa và tư bản trong thế giới” 4. Bởi
vậy, muốn cách mệnh thành công thì phải đi theo con đường cách mạng
Tháng Mười Nga. Như vậy, chủ trương thực hiện con đường độc lập dân tộc
gắn liền với chủ nghĩa xã hội cho cách mạng Việt Nam đã được Nguyễn Ái
Quốc xác định từ những năm 1925. Và đến tháng hai năm 1930 được khẳng

định chính thức trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam. Chủ
trương này đã thể hiện sự khác biệt về chất giữa con đường cứu nước của
Nguyễn Ái Quốc với con đường cứu nước của các vị tiền bối trước đó, thể
hiện sự sáng suốt trong nắm bắt yêu cầu cách mạng Việt Nam và xu thế thời
đại.
Nhiệm vụ, mục tiêu của “tư sản dân quyền cách mạng” được Nguyễn
Ái Quốc vạch ra trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng là đánh đuổi thực dân
Pháp và đánh đổ bọn phong kiến, giành độc lập cho dân tộc và ruộng đất
cho dân cày, đồng thời sớm hình thành tư tưởng phân hoá giai cấp địa chủ
phong kiến, tập trung đánh đế quốc và Việt gian tay sai, đặt nhiệm vụ giải
phóng dân tộc lên hàng đầu. Thực hiện nhiệm vụ, mục tiêu đó, về lực
4

Hồ Chí Minh toàn tập, Nxb CTQG, HN 2000, t2, tr 280.


10

lượng cách mạng, Người chủ trương đoàn kết tất cả các giai cấp cách
mạng, các lực lượng và các cá nhân yêu nước thành lập mặt trân dân tộc
thống nhất chống đế quốc, trên cơ sở lấy giai cấp công nhân, giai cấp nông
dân là lực lượng chính do giai cấp công nhân lãnh đạo. Đây là lực lượng
giữ vai trò quyết định, bảo đảm cho cách mạng Việt Nam đi đến thắng lợi.
Việc xác định lực lượng cách mạng như vậy cũng thể hiện tầm cao trí tuệ
của lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc trên cơ sở phân tích sâu sắc thực tiễn xã hội
Việt Nam và kế thừa, phát huy truyền thống “lấy dân làm gốc” của dân tộc,
đặc biệt là nhận thức được thái độ chính trị của các giai cấp trong xã hội
Việt Nam, điều mà các nhà yêu nước trước đó không nhận ra.
2. Tính cách mạng và khoa học của đường lối độc lập dân tộc gắn
với chủ nghĩa xã hội trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng

Đường lối độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội trong Cương lĩnh
đầu tiên của Đảng thể hiện rằng: ngay từ khi ra đời, Đảng ta đã có một chủ
trương, một phương hương chiến lược đúng đắn, cách mạng và khoa học.
Đường lối đó là cách mạng, vì nó nhằm thủ tiêu hoàn toàn chế độ thuộc địa
vốn là con đẻ của chủ nghĩa thực dân đế quốc. Đường lối đó là khoa học, vì
nó phản ánh đúng quy luật phát triển của cách mạng Việt Nam trong xu thế của
thời đại mới, thời đại gắn cách mạng giải phóng dân tộc với cách mạng xã hội
chủ nghĩa. Đường lối đó là cách mạng và khoa học vì nó là sự cụ thể hoá lý luận
chủ nghĩa Mác- Lênin một cách sáng tạo, tài tình, phù hợp với thực tiễn cách
mạng Việt Nam mà trước đó trên thế giới chưa từng có tiền lệ. Đó là đường lối
giải phóng dân tộc trên lập trường của giai cấp công nhân, giải phóng dân tộc
gắn với giải phóng giai cấp. Đường lối đó của Đảng là khoa học, tính khoa học
đã được hiện thực lịch sử chứng minh. Ngay khi được đưa ra nó đã được sự
đồng tình ủng hộ của đông đảo hàng triệu quần chúng lao động và các lực lượng
yêu nước trong xã hội Việt Nam. Nó không những đã đánh bại các trào lưu tư


11

tưởng theo xu hướng dân chủ tư sản, muốn đưa nước ta theo con đường tư bản
chủ nghĩa mà còn lôi kéo đông đảo những người ban đầu theo xu hướng đó đi
theo. Vì nó là con đường duy nhất đúng, nó đã không chỉ đáp ứng được ý chí,
nguyện vọng lợi ích của công - nông mà còn của cả dân tộc đang bị áp bức, bị
bóc lột, mất tự do, độc lập dưới ách thống trị của thực dân đế quốc.
Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời và việc thông qua Cương lĩnh đầu tiên
gắn liền với công lao vô cùng to lớn của Nguyễn Ái Quốc- người thanh niên
yêu nước nhiệt thành đã quyết chí ra đi xem các nước họ làm như thế nào rồi
về giúp đồng bào mình. Ánh sáng của Cách mạng Tháng Mười đã đưa Người
đến với con đường cứu nước, cứu dân theo chủ nghĩa Mác-Lênin. Nguyễn Ái
Quốc với tầm cao trí tuệ và phương pháp làm việc khoa học là luôn kết hợp lý

luận với thực tiễn, lấy thực tiễn để kiểm nghiệm đánh giá lý luận, từ đó Người
luôn có những đánh giá đúng đắn các vấn đề và giải quyết đúng nhu cầu thực
tiễn đặt ra. Từ nhận thức thực tiễn xã hội Việt Nam thuộc địa nửa phong kiến
và qua nghiên cứu các cuộc cách mạng trên thế giới Người đã đi đến kết luận:
“Muốn cứu nước và giải phóng dân tộc không còn con đường nào khác con
đường cách mạng vô sản”5. Sự khẳng định này không những đặt “nền móng”
cho nội dung của Cương lĩnh đầu tiên mà còn thể hiện rằng, ngay từ những
năm đầu của thế kỷ XX đã có sự gặp gỡ lịch sử giữa dân tộc và giai cấp, độc
lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế vô
sản, lấy mục tiêu giải phóng dân tộc làm tiền đề và điểm xuất phát. Chính
cuộc gặp gỡ lịch sử này đã làm cho vấn đề độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là nội dung cốt lõi trong tư tưởng Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí
Minh. Tư tưởng đó trở thành “cốt lõi, cốt tử” trong các chủ trương chính sách
chỉ đạo mọi hoạt động của Đảng, đồng thời là nguồn gốc, nguyên nhân sâu xa

5

Hồ Chí Minh, Toàn tập, NxbCTQG, HN.2000, t3, tr.1.


12

đưa con thuyền cách mạng Việt Nam vượt qua sóng gió, ghềnh thác, đi từ
thắng lợi này đến thắng lợi khác.
Bằng năng lực thiên tài, tư duy chính trị sắc bén, Nguyễn Ái Quốc đã
nhận thức được yêu cầu của lịch sử và xu thế của thời đại, Người đã kịp thời
đáp ứng được yêu cầu cấp bách của cách mạng Việt Nam thành lập một
Đảng Cộng sản thống nhất. Phương thức tiến hành hợp nhất các tổ chức
cộng sản cũng được Nguyễn Ái Quốc áp dụng một cách tối ưu là chuyển
nguyên các tổ chức cộng sản để thành lập một Đảng cộng sản mà không phải

giải tán rồi thành lập lại, việc đó bảo đảm vừa giữ được sự đoàn kết trong
Đảng, đồng thời góp phần quan trọng trong việc xây dựng Cương lĩnh đầu
tiên vạch ra đường lối đúng đắn cho cách mạng Việt Nam.
Nguồn gốc của mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam là xuất phát từ
đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội được xác định từ
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Đường lối này đã hình thành trên cơ sở kết
hợp chặt chẽ giữa chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội khoa học, đã khơi
dậy nguồn sức mạnh to lớn từ động lực dân tộc và giai cấp, bên cạnh đó còn
tranh thủ được sức mạnh thời đại. Chính vì vậy, đường lối độc lập dân tộc gắn
liền với chủ nghĩa xã hội luôn tiềm ẩn trong nó những khả năng to lớn có thể
giải quyết những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam. Đường lối độc lập
dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là vấn đề “cốt lõi, cốt tử”, nó quy định,
chi phối nội dung các chủ trương chiến lược cách mạng của Đảng. Và nhờ
vậy, trên thực tế nó đã luôn phát huy tác dụng trong tất cả các giai đoạn cách
mạng. Lịch sử dân tộc Việt Nam từ khi có Đảng đã minh chứng, trong suốt
quá trình lãnh đạo cách mạng, Đảng ta luôn nắm vững, giương cao ngọn cờ
độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, vì thế đã giải quyết đúng đắn các nhiệm
vụ chiến lược đưa cách mạng tiến lên.


13

Trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, Đảng ta đã nhận thức rõ vấn
đề, muốn xây dựng chủ nghĩa xã hội trước tiên phải giành được độc lập dân
tộc, cách mạng giải phóng dân tộc là thời kỳ dự bị để tiến lên chủ nghĩa xã
hội. Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã xác định rõ giải phóng dân tộc là nhiệm
vụ hàng đầu của cách mạng dân tộc dân chủ. Đây chính là quan điểm đúng
đắn, sáng tạo của Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh, là yếu tố xuyên suốt và có
ý nghĩa quyết định tới thắng lợi của cách mạng nước ta trong thời kỳ đấu
tranh giành chính quyền, đấu tranh giải phóng dân tộc nói chung. Khẳng định

vấn đề trên bởi lẽ chưa giành được độc lập dân tộc thì chưa có điều kiện để
giải quyết đầy đủ các vấn đề khác như ruộng đất, cải thiện chăm lo đời sống
nhân dân, nâng cao dân trí… Đặt nhiệm vụ giành độc lập dân tộc lên hàng
đầu trong thời kỳ này còn bởi vì có như vậy mới phát huy được một động lực
cực kỳ to lớn của đất nước, của dân tộc đó là chủ nghĩa yêu nước vào sự
nghiệp chung đưa cách mạng đến thắng lợi. Thời kỳ này Đảng đưa ra khẩu
hiệu tịch thu ruộng đất của đế quốc và bọn phản quốc chia cho nông dân
nghèo, giảm tô, giảm tức nhờ đó đã lôi cuốn được đông đảo nông dân tham
gia cách mạng. Trong cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, nông dân được
hưởng nhiều quyền lợi to tát như đánh đuổi Nhật - Pháp xoá các thứ thuế vô
lý, được chia công điền và nhiều quyền lợi kinh tế, chính trị khác. Và nông
dân đã trở thành một lực lượng to lớn mạnh mẽ trong các phong trào cách
mạng do Đảng lãnh đạo. Trong thời kỳ đấu tranh giành chính quyền, cách
mạng xã hội chủ nghĩa tuy là phương hướng tiến lên nhưng lại có ảnh hưởng
quyết định đến tính chất triệt để và tạo ra sức mạnh hùng hậu của cách mạng
giải phóng dân tộc. Tính triệt để cách mạng và sức mạnh của cách mạng giải
phóng dân tộc bắt nguồn từ mục tiêu của cách mạng là giải phóng dân tộc kết
hợp với từng bước giải phóng giai cấp. Tư tưởng đó vừa động viên được các
tầng lớp trên (một bộ phận tư sản, phú nông, địa chủ…), vừa động viên được


14

mọi tầng lớp nhân dân lao động trong cả nước tham gia công cuộc đấu tranh
giành độc lập dân tộc. Thực tế không phải ngẫu nhiên mà ngay từ đầu thế kỷ
XX, nhân dân ta đã từ chối con đường cứu nước theo lập trường tư sản, theo
xu hướng đưa đất nước ta đi theo con đường tư bản chủ nghĩa - con đường
không đem lại độc lập tự do thực sự cho Tổ quốc, hạnh phúc, ấm no cho nhân
dân lao động.
Sự kết hợp chặt chẽ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội được thể

hiện trong kháng chiến chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ là Đảng ta lãnh
đạo vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới, tiến hành đồng thời hai chiến
lược cách mạng ở hai miền Nam - Bắc.
Trong kháng chiến chống thực dân Pháp 1945-1954, sau khi Cách
mạng Tháng Tám thành công, Đảng ta ra sức chăm lo xây dựng củng cố
chính quyền non trẻ, đồng thời luôn tỉnh táo nhận thức rõ tình tình. Với
nhãn quan chính trị sắc bén, Đảng ta đã sớm nhận diện kẻ thù trực tiếp đe
dọa tới nền độc lập của dân tộc là thực dân Pháp. Trước tình thế thành quả
cách mạng “ngàn cân treo sợi tóc”, Đảng ta thực hiện chính sách đối ngoại
“dĩ bất biến, ứng vạn biến” để thực hiện nhiệm vụ chiến lược của cách
mạng là giải phóng dân tộc, “Tổ quốc trên hết”, “Dân tộc trên hết”. Đối với
nhiệm vụ giải phóng giai cấp, cải cách ruộng đất, Đảng ta chủ trương tiếp
tục làm từng bước để tranh thủ lực lượng, phục vụ cho nhiệm vụ cần kíp
trước mắt là chống đế quốc. Trong kháng chiến chống Pháp, chúng ta có
nhiều vùng tự do, tuy vậy vẫn chưa đủ điều kiện để xây dựng chủ nghĩa xã
hội. Đảng ta chỉ đề ra chủ trương vừa kháng chiến vừa kiến quốc, tức là
vừa kháng chiến vừa xây dựng chế độ mới - chế độ do nhân dân làm chủ.
Nhiệm vụ xoá bỏ quan hệ sản xuất phong kiến chỉ được đặt ra với yêu cầu
thu hẹp sự bóc lột của giai cấp địa chủ, từng bước thực hành chính sách
ruộng đất. Sau Cách mạng Tháng Tám và trong kháng chiến chống Pháp,


15

71,7% ruộng đất đã được giao quyền cho nông dân sử dụng. Khi cuộc
kháng chiến sắp kết thúc, do yêu cầu bồi dưỡng, động viên nông dân, Đảng
tiến hành cải cách ruộng đất. Tư tưởng chỉ đạo của Đảng là làm sao cải
cách ruộng đất vừa tăng cường khối liên minh công - nông vừa giữ vững,
củng cố Mặt trận dân tộc thống nhất. Như vậy, sau Cách mạng Tháng Tám
việc củng cố chính quyền được Đảng ta coi là nhiệm vụ trọng tâm và đã đạt

nhiều thành tựu quan trọng. Những yếu tố cơ bản của nền dân chủ xã hội
chủ nghĩa đã dần dược xác lập, Đảng lãnh đạo bắt đầu xây dựng ngay một
số cơ sở kinh tế vừa phục vụ cho giai đoạn trước, vừa gây mầm mồng kinh
tế cho giai đoạn sau.
Thời kỳ 1954 - 1975, đất nước ta tạm thời bị chia cắt thành hai miền với
hai chế độc chính trị đối lập nhau. Thời kỳ này, độc lập dân tộc gắn với chủ
nghĩa xã hội được thể hiện ở đường lối tiến hành đồng thời hai chiến lược
cách mạng: cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc, cách mạng dân tộc dân
chủ ở miền Nam. Đảng ta cho rằng cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc
giữ vai trò quyết định nhất của sự nghiệp cách mạng cả nước và sự nghiệp
đấu tranh thống nhất nước nhà, còn cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam
giữ vai trò trực tiếp đánh bại đế quốc Mỹ và tay sai, đồng thời bảo vệ miền
Bắc. Thông qua thực hiện nhiệm vụ mỗi miền và góp phần thực hiện nhiệm
vụ chung của cả nước, hai nhiệm vụ này có quan hệ mật thiết và có tác dụng
thúc đẩy lẫn nhau. Lịch sử hơn 20 năm (1954 - 1975) đã chứng minh đường
lối của Đảng ta là đúng đắn, chúng ta đã “Đánh cho Mỹ cút, đánh cho ngụy
nhào”, non sông thu về một mối, giành độc lập dân tộc trọn vẹn. Thành công
ở thời kỳ này phụ thuộc vào sự lãnh đạo hoàn thành nhiệm vụ mỗi miền, mỗi
chiến lược cách mạng và khéo léo kết hợp hai chiến lược cách mạng. Thắng
lợi của sự nghiệp kháng chiến chống Mỹ chính là thắng lợi của đường lối độc
lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội.


16

Thật vậy, trong kháng chiến chống Pháp, chủ nghĩa xã hội mới chỉ là xu
hướng, triển vọng tiến lên, thì trong kháng chiến chống Mỹ, chủ nghĩa xã hội đã
được xây dựng bước đầu trên nửa phần đất nước. Nếu trong cuộc kháng chiến
lần thứ nhất, chủ nghĩa xã hội còn trong lý tưởng, trong phương hướng, thì trong
cuộc kháng chiến lần thứ hai, chúng ta đã có chủ nghĩa xã hội với tư cách là một

chế độ đang được xây dựng; trong đó, miền Bắc thắng Mỹ bằng sức mạnh của
chế độ xã hội chủ nghĩa và của cả độc lập dân tộc, còn miền Nam thắng Mỹ
bằng sức mạnh của độc lập dân tộc và của cả chế độ xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa ở miền Bắc và cách mạng dân tộc giải
phóng ở miền Nam gắn bó chặt chẽ đã làm cho thế và lực của cả nước cũng
như ở miền Nam không ngừng tăng lên. Nhờ vậy, cách mạng miền Nam mới
phát huy được sức mạnh của cả nước để đánh bại mọi thủ đoạn chiến lược,
chiến thuật của đế quốc Mỹ và tay sai. Kẻ thù cũng nhận thức được sức mạnh
trong mối quan hệ giữa cách mạng hai miền và đã ra sức chống phá mối quan
hệ đặc biệt đó. Chúng đánh phá miền Bắc, xuyên tạc và lu loa rằng: “miền
Bắc xâm lược miền Nam”, v.v... chính là chúng nhận rõ vai trò của miền Bắc
xã hội chủ nghĩa và chúng phải đối phó với thế thua ở miền Nam.
Thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước đã cho phép Đảng
rút ra những kết luận quan trọng: đó là thắng lợi của cả hai chiến lược cách mạng
được tiến hành đồng thời và kết hợp chặt chẽ với nhau. Nhờ có đường lối nắm
vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, Đảng ta đã động viên và tập
hợp được sức mạnh của chủ nghĩa xã hội với sức mạnh của chủ nghĩa yêu nước
truyền thống của dân tộc, sức mạnh của hậu phương với sức mạnh của tiền
tuyến, tạo nên sức mạnh tổng hợp của cả nước cùng đứng lên đánh Mỹ và thắng
Mỹ. Với đường lối ấy, Đảng ta đã kết hợp được lợi ích cơ bản của dân tộc ta với
những mục tiêu của thời đại là hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa
xã hội. Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ, nhân dân Việt Nam đã


17

chứng minh một chân lý: “trong thời đại ngày nay, một dân tộc đất không rộng,
người không đông, kinh tế kém phát triển, song đoàn kết chặt chẽ và đấu tranh
kiên quyết dưới sự lãnh đạo của một đảng Mác- Lênin có đường lối và phương
pháp cách mạng đúng đắn, nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã

hội thì hoàn toàn có thể đánh bại mọi thế lực xâm lược”.
Sau giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (1975) đến nay, cả nước
cùng tập trung thực hiện mục tiêu chiến lược là quá độ lên chủ nghĩa xã hội
với hai nhiệm vụ chiến lược là xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ vững chắc tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Trong giai đoạn này, sự kết
hợp độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đạt trình độ cao, đầy đủ, hài hoà và
nhuần nhuyễn đến mức trùng hợp với nhau, trong độc lập dân tộc có chủ
nghĩa xã hội, trong chủ nghĩa xã hội có độc lập dân tộc.
Độc lập dân tộc là điều kiện để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Để giành được
độc lập dân tộc như hiện nay chúng ta đã phải hy sinh biết bao xương máu
của bao thế hệ cha anh. Trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội chúng ta
phải ra sức giữ gìn nền độc lập ấy, vì độc lập dân tộc còn là động lực to lớn, là
cơ sở ban đầu không thể thiếu để xây dựng xã hội mới, xã hội chủ nghĩa.
Muốn xây dựng Tổ quốc ta từ một nước nghèo trở thành một nước dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh thì ta phải có hoà bình, ổn
định, nền độc lập dân tộc phải được giữ vững. Sẽ không thể có chủ nghĩa xã
hội nếu như nền độc lập của dân tộc không được giữ vững, không được củng
cố tăng cường thường xuyên. Nếu trước đây, với ngọn cờ độc lập dân tộc Đảng
ta phát động được cuộc tổng khởi nghĩa toàn dân, cuộc kháng chiến toàn dân
để giành và giữ nền độc lập dân tộc thì bây giờ với ngọn cờ độc lập dân tộc,
Đảng cũng sẽ huy động được lực lượng toàn dân xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
Thực tiễn những năm qua cũng đã chứng minh điều đó, trong xây dựng chủ
nghĩa xã hội, các chủ trương đường lối chính sách của Đảng ta luôn quan tâm


18

chăm lo củng cố xây dựng khối đại đoàn kết dân tộc và nền độc lập dân tộc.
Chính nhờ vậy mà đã khai thác, phát huy được sức mạnh to lớn của quảng đại
quần chúng nhân dân trong nước và kiều bào cho sự nghiệp xây dựng chủ

nghĩa xã hội.
Bên cạnh đó, độc lập dân tộc chỉ được củng cố khi các lĩnh vực chính
trị, kinh tế, văn hoá, quốc phòng, an ninh phát triển vững mạnh, đủ sức đẩy
lùi các thế lực chống đối từ bất cứ hướng nào. Vì vậy, trong thời kỳ mới phải
tăng cường sức mạnh của chủ nghĩa xã hội để củng cố độc lập dân tộc. Đổi
mới tư duy nhận thức về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội, vượt qua những
khó khăn do hậu quả chiến tranh và cơ chế tập trung bao cấp, Đảng ta đã lãnh
đạo cách mạng nước ta tiến hành công cuộc đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước và đã gặt hái những thành quả bước đầu hết sức to
lớn.
Tiếp tục thực hiện con đường độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
trong thời kỳ mới, Đảng ta chỉ ra phải thực hiện tốt cả hai nhiệm vụ chiến lược là
xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Trong mối quan hệ giữa hai nhiệm vụ đó, Đảng ta
chỉ ra nhiệm vụ xây dựng vẫn phải ở vị trí ưu tiên và đồng thời luôn nêu cao tinh
thần cảnh giác, không một chút lơi lỏng việc thực hiện nhiệm vụ bảo vệ. Suốt
những năm qua, thực hiện quá độ lên chủ nghĩa xã hội, Đảng đã lãnh đạo nhân
dân ta thực hiện tốt cả hai nhiệm vụ, kinh tế-xã hội phát triển, đời sống của nhân
dân được nâng cao, chủ nghĩa xã hội được xây dựng từng bước và có hiệu quả,
quốc phòng an ninh vững chắc, độc lập dân tộc được giữ vững. Lãnh đạo cách
mạng Việt Nam tiến lên xây dựng chủ nghĩa xã hội, Đảng ta còn vạch ra đường
lối xác định các chặng đường của thời kỳ quá độ, hoạch định chính xác nhiệm
vụ, mục tiêu cho mỗi chặng đường để từ đó tiếp tục bảo đảm kết hợp chặt chẽ
giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Trong từng chặng đường và cụ thể ở
mỗi kỳ Đại hội Đảng ta luôn xem xét đánh giá đúng tình hình, trên cơ sở đó xác


19

định các hình thức, bước đi, giải pháp phù hợp để phát triển đất nước. Đến Đại
hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Đảng ta đã vạch ra đường lối đẩy mạnh công

nghiệp hoá, hiện đại hoá nhằm đẩy nhanh xây dựng Tổ quốc chủ nghĩa xã hội
giàu mạnh. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, sự nỗ lực của toàn quân, toàn dân ta sự
nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta đã thu được những thành tựu to lớn.
Khi đánh giá về thành tựu 20 năm đổi mới toàn diện đất nước, Đại hội X đã
khẳng định: “Hai mươi năm qua, với sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân, công cuộc đổi mới ở nước ta đã đạt được những thành tựu to
lớn và có ý nghĩa lịch sử” 6. Đồng thời Đại hội một lần nữa phát triển quan
điểm về đặc trưng của xã hội xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta xây dựng: “là
một xã hội dân giàu, nước mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh; do nhân dân
làm chủ; có nền kinh tế phát triển cao, dựa trên lực lượng sản xuất hiện đại và
quan hệ sản xuất phù hợp với trình độ phát triển của lực lượng sản xuất; có
nền văn hoá tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; con người được giải phóng
khỏi áp bức, bất công, có cuộc sống ấm no, tự do, hạnh phúc, phát triển toàn
diện; các dân tộc trong cộng đồng Việt Nam bình đẳng, đoàn kết, tương trợ và
giúp đỡ nhau cùng tiến bộ; có Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của
nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản; có
quan hệ hữu nghị và hợp tác với nhân dân các nước trên thế giới” 7. Có thể nói
trong giai đoạn hiện nay, cả độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đều là mục
tiêu trực tiếp; sức mạnh tổng hợp do đường lối giương cao ngọn cờ độc lập
dân tộc và chủ nghĩa xã hội tạo ra lúc này là bảo đảm vững chắc cho chúng ta
tận dụng được thuận lợi và thời cơ, vượt qua được khó khăn và thách thức để
đưa sự nghiệp cách mạng theo con đường của Đảng, Bác Hồ và dân tộc ta đã
lựa chọn đi tới thắng lợi cuối cùng, xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội và
cuối cùng là thực hiện lý tưởng cộng sản chủ nghĩa.
6
7

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn Kiện ĐHĐBTQ lần thứ X, Nxb CTQG, H 2006 ,tr 67.
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn Kiện ĐHĐBTQ lần thứ X, Nxb CTQG, H 2006 ,tr 68.



20

Nhìn lại gần 87 năm qua, có thể thấy rằng, mọi thắng lợi của cách mạng
Việt Nam đều bắt nguồn từ sự đúng đắn của đường lối độc lập, tự chủ và sáng
tạo mà tiêu biểu là giải quyết thành công mối quan hệ giữa dân tộc và giai
cấp, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội của Đảng ta, ở một nước có truyền
thống chống ngoại xâm và tinh thần yêu nước đã được hun đúc qua hàng ngàn
năm lịch sử. Cũng chính xuất phát từ lòng yêu nước mà Nguyễn Ái Quốc đã
đến với chủ nghĩa Mác- Lênin. Cũng nhờ có sự gặp gỡ và kết hợp chặt chẽ
giữa chủ nghĩa yêu nước và lý tưởng cộng sản mà sự hợp nhất các tổ chức
cộng sản thành Đảng Cộng sản Việt Nam được diễn ra nhanh chóng và suôn
sẻ. Bởi vì, đều có chung mục tiêu là giành độc lập cho dân tộc, tự do dân chủ
cho nhân dân. Tinh thần yêu nước và lý tưởng cộng sản ấy là những căn cứ để
Nguyễn Ái Quốc- Hồ Chí Minh rút ra những kết luận quan trọng về cách
mạng giải phóng dân tộc, cách mạng vô sản trong thời đại đế quốc chủ nghĩa,
từ đó xây dựng Cương lĩnh đầu tiên cho cách mạng Việt Nam với một trong
các nội dung “cốt lõi” là đường lối độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội.
Việc Nguyễn Ái Quốc so sánh chủ nghĩa đế quốc như con đỉa hai vòi, mối
quan hệ giữa phong trào giải phóng dân tộc ở thuộc địa và phong trào vô sản ở
chính quốc như là hai cánh của con chim, việc dự báo khả năng thành công trước
của cách mạng thuộc địa và tác động trở lại đến phong trào cách mạng ở chính
quốc... đều là kết quả của sự vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng không ngừng
và việc giải quyết đúng đắn vấn đề dân tộc trên lập trường vô sản, phù hợp với
khát vọng giải phóng dân tộc ở các nước thuộc địa: “Ngày mà hành trăm triệu
nhân dân Châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của
một bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng
lồ, và trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản
là chủ nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương



21

Tây trong nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn”8. Đây thực sự là những đóng góp to
lớn của Hồ Chí Minh vào việc phát triển và làm phong phú thêm lý luận của chủ
nghĩa Mác- Lênin. Đây cũng là cơ sở để khẳng định: trong hoàn cảnh một nước
thuộc địa nửa phong kiến như Việt Nam hồi đầu thế kỷ XX, đường lối cách
mạng đúng đắn chỉ có thể là độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội, chứ
không thể theo con đường tư bản chủ nghĩa. Bởi vì, chủ nghĩa tư bản là nguồn
gốc của sự bóc lột, bất công là nguồn gốc sinh ra chủ nghĩa thực dân xâm lược
và áp bức các dân tộc khác. Nếu đi theo chủ nghĩa tư bản là trái với quy luật lịch
sử. Và thực tiễn lịch sử Việt Nam đã chứng minh, chỉ từ khi Đảng Cộng sản Việt
Nam ra đời, tìm được con đường đi đúng, đáp ứng được nguyện vọng của nhân
dân và suốt quá trình cách mạng chúng ta luôn giữ vững hướng đi đó, đất nước
ta mới có cơ hội tiến hành giải phóng dân tộc, cách mạng nước ta mới giành liên
tiếp từ thắng lợi này đến thắng lợi khác.
3. Nhận thức về tính cách mạng và khoa học của đường lối độc lập
dân tộc gắn với chủ nghĩa xã hội trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng
sản Việt Nam, cần kiên quyết đấu tranh chống các quan điểm sai trái.
Sự đúng đắn, tính cách mạng và khoa học của đường lối độc lập dân tộc
gắn với chủ nghĩa xã hội trong Cương lĩnh đầu tiên của Đảng đã được thực
tiễn lịch sử dân tộc chứng minh. Đáng tiếc rằng, trong thời gian gần đây, khi
mà công cuộc đổi mới của ta thu được nhiều thành tựu to lớn, con đường đi
lên chủ nghĩa xã hội ở nước ta ngày càng rõ hơn, thì lại có những quan điểm
phủ nhận con đường đó, phủ nhận lịch sử. Có người cố tình xuyên tạc tư
tưởng của Chính cương sách lược vắt tắt, họ bị đặt rằng: tư tưởng xuyên suốt
của văn kiện này là đại đoàn kết dân tộc, là đối lập hoàn toàn với Luận cương
chính trị tháng 10 năm 1930. Họ cố tình quên rằng: Đảng ta và đồng chí
Nguyễn Ái Quốc đã giải quyết nhuần nhuyễn mối quan hệ dân tộc và giai cấp

8

Hồ Chí Minh Toàn tập, tập 1, Nxb CTQG, H 1995 tr .36.


22

trên lập trường cách mạng triệt để của giai cấp công nhân, đại đoàn kết dân
tộc trên cơ sở khối liên minh công nông vững chắc dưới sự lãnh đạo của
Đảng.
Có thể nói rằng: ngay từ khi ra đời Đảng Cộng sản Việt Nam đã sớm có
một Cương lĩnh, đường lối đúng đắn. Với đường lối, phương pháp cách mạng
chính xác, Đảng đã sớm đưa cách mạng Việt Nam đi đúng quĩ đạo cách mạng
của thời đại, gắn độc lập dân tộc với chủ nghĩa xã hội, chấm rứt thời kỳ khủng
hoảng về đường lối cách mạng ở nước ta kéo dài hơn 70 năm. Với Cương
lĩnh đúng đắn đó, giai cấp công nhân Việt Nam thông qua đội tiền phong là
Đảng Cộng sản Việt Nam đã qui tụ được lực lượng đông đảo của toàn dân tộc
làm nên lịch sử một cách tự giác, có tổ chức giành thắng lợi ngày càng to lớn.
Quan điểm sai trái khác lại cho rằng, vì lựa chọn con đường độc lập dân
tộc gắn với chủ nghĩa xã hội mà đất nước ta đã phải tổn thất quá nhiều xương
máu và của cải trong hai cuộc chiến tranh giải phóng. Họ lập luận rằng, không
tiến hành chiến tranh, không phải đổ máu, chúng ta cũng có thể giành được độc
lập như Ấn Độ, hoặc họ cho rằng xu thế của thời đại sẽ không cho một dân tộc
này cai trị một dân tộc khác, chúng ta sẽ được “trao trả” độc lập. Dù họ không
hiểu hay cố tình phủ nhận lịch sử vì mục đích chính trị đen tối thì cũng là sự xúc
phạm tới sự hy sinh cao cả của hàng triệu người con đất Việt đã ngã xuống vì
độc lập tự do của Tổ quốc. Tệ hại hơn, quan điểm này còn là sự phủ nhận cả
truyền thống giữ nước của dân tộc ta đã được hun đúc qua hơn bốn ngàn năm
lịch sử, truyền thống đó được nâng lên một tầm cao mới ở thời đại Hồ Chí Minh:
“Chúng ta thà hy sinh tất cả chứ không chịu mất nước, nhất định không chịu làm

nô lệ”. Trên thực tế, sự hy sinh xương máu không thể tính bằng tiền của của hơn
1 triệu liệt sĩ, hàng trăm ngàn thương binh trong hai cuộc chiến tranh ấy đã góp
phần quan trọng làm sụp đổ cả chủ nghĩa thực dân mới lẫn chủ nghĩa thực dân
mới trên thế giới, đã cổ vũ và góp phần quan trọng cho phong trào giải phóng


23

dân tộc trên thế giới. Đó là điều mà những người có lương tri và tiến bộ không ai
và không bao giờ có thể phủ nhận được.
Từ 1986 đến nay hơn 30 năm, với đường lối đổi mới giương cao
ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, nhân dân Việt Nam dưới sự
lãnh đạo của Đảng đã giành được thành tựu to lớn và quan trọng: tăng
trưởng kinh tế nhanh và ổn định, đời sống nhân dân dần được nâng cao,
chính trị ổn định, quan hệ đối ngoại mở rộng, vị thế của Việt Nam ngày
càng được nâng cao trên trường quốc tế (nhất là khi chúng ta trở thành
thành viên của Tổ chức thương mại thế giới - WTO, Uỷ viên không
thường trực của Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc)... Đó là thực tế mà thế
giới công nhận và cũng là điều minh chứng cho sự đúng đắn của con
đường chúng ta đã chọn, là lý do giải thích vì sao Đảng ta kiên định với
đường lối độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, con đường đã được
Nguyễn Ái Quốc, Đảng Cộng sản Việt Nam và quan trọng hơn là chính
lịch sử dân tộc Việt Nam lựa chọn từ những năm đầu của thế kỷ XX.
Hiện nay, thế giới đang bước vào những năm đầu của thế kỷ XXI, thế kỷ
của toàn cầu hoá, hội nhập với nhiều biến động to lớn. Việt Nam đã là thành
viên của nhiều tổ chức khu vực và quốc tế điều đó phù hợp với xu thế của thời
đại. Xu thế đó tạo ra nhiều cơ hội và thuận lợi đồng thời cũng tạo ra nhiều
thách thức, khó khăn, trong đó có cả nguy cơ mất độc lập dân tộc. Thực tế, dù
thế giới có hội nhập, hợp tác thì trong đó cũng vẫn là sự tranh đua quyết liệt về
lợi ích kinh tế, chính trị của mỗi quốc gia, dân tộc. Các cuộc đấu tranh dân tộc,

giai cấp vẫn diễn ra gay go, quyết liệt với những nội dung và hình thức mới.
Bởi vậy, kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội vẫn là nguyên tắc
chiến lược “bất di bất dịch” của cách mạng Việt Nam. Chúng ta không được và
không bao giờ được mơ hồ, mất cảnh giác, ngộ nhận với những luận điệu sai


24

trái, nếu không những hậu quả vô cùng tai hại sẽ xảy ra, mà bài học đau xót từ
thực tiễn ở Đông Âu và Liên xô rất có thể sẽ tái hiện ở Việt Nam.
Trong giai đoạn hiện nay, đất nước ta đang tập trung thực hiện hai nhiệm
vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt
Nam xã hội chủ nghĩa. Sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước diễn
ra trong bối cảnh thế giới có nhiều diễn biến phức tạp hiện nay đã và đang đặt
ra yêu cầu ngày càng cao cho nhiệm vụ bảo vệ. Phạm trù bảo vệ Tổ quốc hiện
nay không chỉ bó hẹp như trước đây mà là rất rộng lớn, “Bảo vệ Tổ quốc xã hội
chủ nghĩa là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh
thổ, bảo vệ an ninh quốc gia, trật tự an toàn xã hội và nền văn hoá; bảo vệ
Đảng, Nhà nước, nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa; bảo vệ sự nghiệp đổi
mới và lợi ích quốc gia dân tộc” 9. Do vậy, là lực lượng nòng cốt cho toàn dân
thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc, Quân đội ta cần phải được xây dựng “cách
mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại”, trong đó lấy xây dựng về
chính trị là cơ sở. Phải xây dựng Quân đội ta luôn có sức chiến đấu cao, có bản
lĩnh chính trị vững vàng, luôn sẵn sàng chiến đấu và chiến đấu thắng lợi làm
thất bại mọi âm mưu, thủ đoạn chống phá của chủ nghĩa đế quốc và các thế lực
thù địch đối với cách mạng Việt Nam.
KẾT LUẬN
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội là con đường, là mục tiêu
xuyên suốt của cách mạng Việt Nam, điều đó đã được xác định ngay từ
Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam trong ngày đầu thành

lập. Đó là sự lựa chọn duy nhất đúng đắn và thể hiện sự sáng suốt của
Đảng trong sự lựa chọn mục tiêu, con đường của cách mạng Việt Nam. Sự
đúng đắn, sáng suốt đó đã được chứng minh bằng những thắng lợi, những
9

Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội ĐBTQ lần thứ IX, Nxb CTQG, H 2001, tr 39-40.


25

thành tựu mà đất nước ta đã đạt được dưới sự lãnh đạo của Đảng gần 80
năm qua. Giữ vững mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội đã trở
thành bài học của cách mạng nước ta, Cương lĩnh xây dựng đất nước
trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội của Đảng ta đã chỉ ra: “Nắm
vững ngọn cờ độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Đó là bài học xuyên
suốt của cách mạng nước ta. Độc lập dân tộc là điều kiện tiên quyết để
thực hiện chủ nghĩa xã hội và chủ nghĩa xã hội là cơ sở vững chắc cho độc
lập dân tộc” 10. Trong đánh giá khái quát 30 năm đổi mới và rút ra những
bài học kinh nghiệm, Đảng ta cũng chỉ rõ: “Trong quá trình đổi mới phải
kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên nền tảng chủ
nghĩa Mác-Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” 11.
Bài học trên khẳng định việc lựa chọn con đường, mục tiêu cách mạng
nước ta ngay từ Cương lĩnh đầu tiên của Đảng Cộng sản Việt Nam là hoàn
toàn đúng đắn, là phù hợp với xu thế của thời đại, là nguồn gốc những thắng
lợi của cách mạng Việt Nam trong lịch sử. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ
nghĩa xã hội là sự lựa chọn của chính lịch sử dân tộc Việt Nam. Độc lập dân
tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội không những là mục tiêu mà còn là yếu tố
bảo đảm cho tính đúng đắn của đường lối trong từng giai đoạn cách mạng và
cho sự thắng lợi của cách mạng trong thời kỳ quá độ tiến lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.


10
11

Đảng cộng sản Việt Nam, Cương lĩnh xây dựng đất nước trong TKQĐ lên CNXH, Nxb CTQG, HN.1991, tr 4.
Đảng cộng sản Việt Nam, Văn kiên Đại hội ĐBTQ lần thứ XII, Nxb CTQG, H 2016,


×