Tải bản đầy đủ (.docx) (34 trang)

Tiểu luận cao học giải pháp nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ Huyện kinh môn hải dương

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (120.13 KB, 34 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1- Tính cấp thiết của đề tài
Lịch sử đấu tranh cách mạng của nước ta đã khẳng định: Đảng cộng sản
Việt Nam - Đảng do Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập và lãnh đạo, là lực lượng
chính trị duy nhất lãnh đạo, đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi này đến
thắng lợi khác.
Qua 79 năm chiến đấu xây dựng và trưởng thành, Đảng cộng sản Việt
Nam đã xây dựng được 1 hệ thống tổ chức chính trị vững mạnh từ Trung ương
đến cơ sở, thực hiện thắng lợi nhiệm vụ và khẳng định vai trò là Đảng duy nhất
cầm quyền, lãnh đạo đưa đất nước từng bước quá độ lên CNXH, bảo vệ vững
chắc độc lập dân tộc và các thành quả cách mạng đã giành được. Một trong
những đóng góp hết sức quan trọng vào những thành công của cách mạng đó
chính là hệ thống tổ chức Đảng cơ sở. Trong suốt quá trình cách mạng, từ cách
mạng dân tộc dân chủ nhân dân đến cách mạng XHCN, đặc biệt ngày nay trong
sự nghiệp đổi mới đất nước, tổ chức Đảng ở cơ sở đã luôn làm tốt vai trò, nhiệm
vụ của mình, là nền tảng của Đảng, là hạt nhân lãnh đạo chính trị ở cơ sở. Đại
hội Đảng toàn quốc lần thứ VI đã ghi rõ "Những thành tựu đã đạt được, những
tiềm năng đã khai thác, những kinh nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ sự nỗ lực
phấn đấu của quần chúng ở cơ sở mà hạt nhân là tổ chức Đảng".
Bước vào thế kỷ XXI, Đảng ta, nhân dân ta đang thực hiện công cuộc đẩy
mạnh Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Đây là nhiệm vụ to lớn, khó
khăn và trong điều kiện tình hình kinh tế, chính trị, xã hội trong nước cũng như
thế giới có nhiều biến động khó khăn. Để hoàn thành được sự nghiệp cách
mạng, đòi hỏi sự nỗ lực phấn đấu của toàn đảng, toàn dân. Hội nghị lần thứ 7 BCH Trung ương Đảng, khoá X, Đảng đã đề ra nghị quyết "Về nâng cao năng
lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng và chất lượng đội ngũ cán
bộ, Đảng viên", nhằm đưa các tổ chức trong hệ thống chính trịcơ sở lên tầm cao
mới, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ của cách mạng trong giai đoạn hiện nay.


Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới, đòi hỏi Đảng ta, các tổ chức cơ sở
Đảng phải đổi mới chính mình, củng cố xây dựng đội ngũ để nâng cao năng lực


lãnh đạo, sức chiến đấu giải quyết những vấn đề nảy sinh từ cơ sở. Do đó Đảng
ta phải thường xuyên chăm lo xây dựng, củng cố và nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.Với ý nghĩa quan trọng của tổ chức cơ sở
Đảng, để đóng góp vào việc xây dựng tổ chức cơ sở Đảng, đáp ứng yêu cầu sự
nghiệp đổi mới, trên cơ sở vận dụng những nguyên lý của chủ nghĩa MácLênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về xây dựng Đảng vào thực tiễn. Qua tiểu luận
này xin đề cập đến vấn đề nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
Đảng bộ - Kinh Môn - Hải Dương. Trong công tác lãnh đạo nhân dân thực hiện
công cuộc CNH-HĐH, nông nghiệp nông thôn, xây dựng …… ngày càng giàu
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh.
2. Mục tiêu của đề tài:
Làm sáng tỏ những nội dung cơ bản về cơ sở lý luận và thực tiễn theo
quan điểm lý luận của Chủ nghĩa Mác - lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan
điểm đường lối của Đảng ta về xây dựng tổ chức cơ sở Đảng
Khái quát những nội dung, lý luận cơ bản về tổ chức cơ sở Đảng theo
quan điểm của Chủ nghĩa Mác - lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của
Đảng cộng sản Việt Nam..
Phân tích, đánh giá đúng thực trạng, năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu
Đảng bộ thị trấn Minh Tân trong những năm qua. Từ đó xác định rõ nguyên
nhân yếu kém và rút ra kinh nghiệm, đề xuất, kiến nghị , giải pháp nhằm nâng
cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của Đảng bộ … trong giai đoạn hiện nay.
3. Nhiệm vụ của đề tài
- Làm rõ cơ sở lý luận về các tổ chức cơ sở Đảng
- Đánh giá năng lực lãnh đạo của các tổ chức cơ sở Đảng.
- Đề xuất kiến nghị với Đảng uỷ …..


4. Giới hạn của đề tài:
Căn cứ vào số liệu từ năm 2005 – 2008 của Đảng bộ …..để làm căn cứ
cho chuyên đề về nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ …..
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng hiện nay.

5- Kết cấu của đề tài:
Tiểu luận được kết cấu thành 3 chương:
Chương 1: Cơ sở lý luận về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ
chức cơ sở Đảng.
Chương 2: Thực trạng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ
….. trong những năm qua.
Chương 3: Phương hướng và giải pháp nhằm nâng cao năng lực lãnh đạo,
sức chiến đấu của Đảng bộ …. trong thời gian tới.


Chương 1
Cơ sở lý luận về năng lực lãnh đạo và sức chiến đấucủa tổ chức cơ sở
Đảng ở nước ta hiện nay
1- Khái niệm tổ chức cơ sở Đảng:
Điều 21, Điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam được thông qua tại Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng xác định rõ về tổ chức cơ sở Đảng là: "ở xã,
phường, thị trấn, cơ quan, hợp tác xã, doanh nghiệp, đơn vị sự nghiệp, đơn vị
cơ sở trong quân đội, công an và các đơn vị cơ sở khác có từ 30 Đảng viên
chính thức trở lên, lập tổ chức cơ sở Đảng " ... "Tổ chức cơ sở Đảng dưới 3
Đảng viên, lập chi bộ cơ sở, có các tổ Đảng trực thuộc. Tổ chức cơ sở có từ 30
Đảng viên trở lên lập Đảng bộ cơ sở, có các chi bộ trực thuộc Đảng uỷ"
Điều 10 điều lệ Đảng cộng sản Việt Nam ghi rõ "Tổ chức cơ sở Đảng
được lập tại đơn vị hành chính, sự nghiệp, kinh tế hoặc công tác, đặt dưới sự
lãnh đạo của cấp uỷ huyện, quận, thị xã, thành phố trực thuộc". Điều lệ Đảng
cũng có quy định riêng cho tổ chức Đảng trong quân đội nhân dân Việt Nam và
công an nhân dân Việt Nam.
Như vậy, tổ chức cơ sở Đảng của Đảng cộng sản Việt Nam gồm chi bộ cơ
sở, Đảng bộ cơ sở. Đảng bộ cơ sở có 2 loại: Đảng bộ cơ sở có các chi bộ trực
thuộc; Đảng bộ cơ sở có Đảng bộ bộ phận và chi bộ trực thuộc. Các tổ chức cơ
sở Đảng đều có cấp uỷ cấp trên trực tiếp. Ví dụ: huyện uỷ là cấp trên trực tiếp

của tổ chức cơ sở Đảng ở xã, thị trấn thuộc huyện đó; quận uỷ và cấp trên trực
tiếp của tổ chức cơ sở Đảng ở phường thuộc quận ...
Ngoài ra, nếu được cấp uỷ cấp trên trực tiếp đồng ý, trong một số tổ chức
cơ sở Đảng còn có Đảng bộ bộ phận trực thuộc Đảng uỷ cơ sở. Trong các Đảng
bộ bộ phận có các chi bộ trực thuộc.
2- Vị trí, vai trò của tổ chức cơ sở Đảng:
2.1. Quan điểm của Mác - Lê nin:


Mác - FĂng ghen là những người đầu tiên nêu lên những quan điểm, tư
tưởng về tổ chức cơ sở Đảng. Hai ông sáng lập ra "Liên đoàn những người cộng
sản" và các chi bộ của liên đoàn, quốc tế I và các Đảng cộng sản của quốc tế II.
Trong quá trình hoạt động cách mạng, hai ông đã chỉ ra rằng: “Các chi bộ bị
buông lỏng về mặt tổ chức sẽ dẫn đến cắt đứt liên lạc với BCH trung ương, làm
cho Đảng mất chỗ dựa vững chắc và duy nhất”. Hai ông đã đặc biệt nhắc nhở
các Đảng cơ sở khâu đặc biệt quan trọng là củng cố các chi bộ, “ Biến mỗi chi
bộ thành trung tâm và hạt nhân của hiệp hội công nhân, là mắt xích quan trọng,
là chỗ dựa vững chắc của Đảng”
Kế thừa và phát triển những quan điểm đó, Lênin trong xây dựng và lãnh
đạo Đảng Bôn sê vích Nga, Đảng chủ nghĩa dân chủ - xã hội Nga, một Đảng
kiểu mới của giai cấp công nhân đã chỉ rõ "Việc thành lập các tổ chức cách
mạng trong các xí nghiệp, nhà máy là nhiệm vụ đầu tiên, cấp bách của Đảng
chủ nghĩa dân chủ - Xã hội Nga, mỗi nhà máy phải là một thành trì".
Khi trở thành Đảng cầm quyền, các tổ chức cơ sở Đảng tăng lên cả về số
lượng và phong phú về nội dung, chức năng, nhiệm vụ và phương thức hoạt
động. Lênin yêu cầu: những chi bộ ấy liên hệ chặt chẽ với nhau và với tư tưởng
Đảng phải trao đổi kinh nghiệm lẫn nhau, phải làm công tác cổ động tuyên
truyền, nhưng công tác tổ chức phải thích nghi với mọi lĩnh vực của đời sống xã
hội, với tất cả mọi tầng lớp quần chúng lao động, những chi bộ ấy phải thông
qua công tác muôn hình muôn vẻ và rèn luyện mình, rèn luyện Đảng, giai cấp,

quần chúng một cách có hệ thống.
Người yêu cầu Đảng cộng sản phải bằng nhiều biện pháp nâng cao vai trò
tổ chức cơ sở Đảng, phát huy tình chủ động, sáng tạo của cơ sở thì những mục
tiêu của chính sách kinh tế của nhà nước Xô Viết mới thành hiện thực.
2.2. Tư tưởng Hồ Chí Minh:
Chủ tịch Hồ Chí Minh có cùng quan điểm tổ chức cơ sở Đảng là nền tảng
của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở, Người đã kế thừa và phát triển sáng tạo
quan điểm này phù hợp với điều kiện ở nước ta.


Chủ tịch Hồ Chí Minh cho rằng các chi bộ Đảng bộ cơ sở là "tổ chức cơ
bản của Đảng", là "nền tảng, nền móng" của Đảng, là hạt nhân chính trị ở cơ sở,
là dây chuyền" để Đảng liên hệ với quần chúng nhân dân. Chất lượng của chi
bộ, Đảng bộ cơ sở là một trong những yếu tố quyết định năng lực lãnh đạo và
sức chiến đấu của Đảng ở cơ sở để thực hiện thắng lợi nhiệm vụ chính trị ở cơ
sở. Chủ tịch Hồ CHí Minh viết "Để lãnh đạo cách mạng thì Đảng phải mạnh, là
do chi bộ tố” 1; “Muốn làm nhà cho tốt thì phải xây dựng nền móng cho vững,
muốn thực hiện kế hoạch tốt phải chăm lo củng cố chi bộ" 2.

1 Hồ Chí Minh toàn tập, H 1996, Tr 12,92
2 Hồ Chí Minh toàn tập, H 1996, Tư 10, 266
2.3. Quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam.
Đảng cộng sản Việt Nam do chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, giáo dục, rèn
luyện. Trong suốt quá trình lãnh đạo Đảng cộng sản Việt Nam, luôn luôn quan
tâm lãnh đạo, xây dựng, củng cố tổ chức cơ sở Đảng.
- Văn kiện Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VI của Đảng, Đảng ta khẳng
định "Những thành tựu đã đạt được, những tiềm năng để khai thác, những kinh
nghiệm có giá trị đều bắt nguồn từ sự nỗ lực phấn đấu của quần chúng ở cơ sở
mà hạt nhân là tổ chức cơ sở đảng, những mặt khác sự yếu kém của nhiều tổ
chức cơ sở đảng đã hạn chế những thành tựu của cách mạng". Qua hơn 20 năm



đổi mới, nước ta đã đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng về kinh tế xã hội, giữ vững ổn định về chính trị và hiện nay đang phấn đấu thực hiện chiến
lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 - 2020, trong điều kiện có những thời cơ
thuận lợi, nhưng cũng gặp không ít khó khăn thách thức mới. Trong hoàn cảnh
đó, tổ chức cơ sở Đảng nói chung, tổ chức cơ sở Đảng ở xã, phường, thị trấn nói
riêng có vị trí vai trò quan trọng. Tại hội nghị lần thứ V, BCH TW khoá X, Đảng
ta đã đề ra nghị quyết quan trọng về "Đổi mới và nâng cao chất lượng hệ thống
chính trị ở cơ sở xã, phường, thị trấn" nhằm đưa các tổ chức trong hệ thống
chính trị ở cơ sở nhất là tổ chức cơ sở Đảng ở những địa bàn lên tầm cao mới,
đáp ứng yêu cầu của cách mạng,
- Tổ chức cơ sở Đảng là cầu nối giữa đảng với nhân dân, đưa đường lối
chính sách vào nhân dân, tuyên truyền cho nhân dân hiểu và lãnh đạo nhân dân
thực hiện.
- Tổ chức cơ sở Đảng còn là nơi kiểm nghiệm khẳng định sự đúng đắn
đường lối chính sách của Đảng, đóng góp cho đảng những sáng kiến, những
kinh nghiệm để Đảng bổ sung hoàn chỉnh đường lối chính sách, đề ra chủ
trương chính sách mới.

3- Chức năng, nhiệm vụ tổ chức cơ sở Đảng, cơ sở nói chung


3.1.Chức năng
Tổ chức cơ sở Đảng của đảng ta rất đa dạng, gồm nhiều loại như: Tổ
chức cơ sở đảng ở nông thôn, ở phường, trong doanh nghiệp Nhà nước, đơn vị
hành chính sự nghiệp, ở cơ quan…Từng loại tổ chức cơ sở đảng ngoài những
điểm chung còn có các đặc điểm riêng , do đặc điểm, nhiệm vụ của đơn vị cơ sở
(nơi tổ chức cơ sở đảng được thành lập) qui định. Tuy nhiên các tổ chức cơ sở
đảng đều có hai chức năng chung, chủ yếu sau:
- Là hạt nhân lãnh đạo của Đảng, chính trị ở cơ sở:

Đó là việc thực hiện đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước, Nghị quyết, chủ trương của cấp trên tại đơn vị cơ sở, lãnh đạo đơn vị cơ
sở trong sạch vững mạnh, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân,
động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.
- Là nơi tiến hành các hoạt động xây dựng Đảng: Đó là giáo dục rèn
luyện đảng viên, phân công công việc cho đảng viên, kết nạp đảng viên, xét kỷ
luật đảng viên, đưa người không đủ tư cách ra khỏi đảng. Là nơi đào tạo rèn
luyện cán bộ cho Đảng, chi bộ, Đảng bộ cơ sở, là nơi trực tiếp nắm bắt tâm tư
nguyện vọng của nhân dân, phản ánh với Đảng, để Đảng đề ra đường lối đúng
đắn hợp lòng dân, định hướng hoạt động và uốn nắn những lệch lạc của các tổ
chức, các đoàn thể cơ sở.
3.2. Nhiệm vụ:


Một là: Chấp hành đường lối, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà
nước; đề ra chủ trương, nhiệm vụ chính trị của Đảng bộ, chi bộ và lãnh đạo thực
hiện có hiệu quả.
Hai Là: Xây dựng Đảng bộ, chi bộ trong sạch vững mạnh về chính trị, tư
tưởng và tổ chức; thực hiện đúng nguyên tắc tập trung dân chủ; nâng cao chất
lượng sinh hoạt đảng, thực hiện tự phê bình và phê bình, giữ gìn kỷ luật và tăng
cường đoàn kết thống nhất trong Đảng; thường xuyên giáo dục, rèn luyện và
quản lý cán bộ, đảng viên, nâng cao phẩm chất đạo đức cách mạng, tính chiến
đấu, trình độ kiến thức, năng lực công tác; làm công tác phát triển đảng viên.
Ba là: Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức kinh tế hành chính, sự
nghiệp, quốc phòng, an ninh và các đoàn thể chính trị – xã hội trong sạch, vững
mạnh; chấp hành đúng pháp luật và phát huy quyền làm chủ của nhân dân.
Bốn là: Liên hệ mật thiết với nhân dân, chăm lo đời sống vật chất, tinh
thần và bảo vệ lợi ích chính đáng của nhân dân; lãnh đạo nhân dân tham gia xây
dựng và thực hiện đường lối chính sách của Đảng và pháp luật của Nhà nước.
Năm là: Kiểm tra việc thực hiện, bảo đảm các Nghị quyết, chỉ thị của

Đảng và pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh; kiểm tra tổ
chức đảng và đảng viên chấp hành Điều lệ Đảng.
Đảng uỷ cơ sở nếu được cấp trên trực tiếp uỷ quyền thì được quyết định
kết nạp và khai trừ đảng viên.
Ngoài chức năng, nhiệm vụ của tổ chức cơ sở Đảng. Ban Bí thư Trung
ương đã có quy định cụ thể đối với Đảng bộ, chi bộ cơ sở phường, thị trấn


4-Chức năng, nhiệm vụ của Đảng bộ, chi bộ phường, thị trấn:
4.1. Chức năng:
Ban Bí thư Trung ương quy định số 94/QĐ-TW ngày 03/3/2004 về chức
năng, nhiệm vụ của Đảng bộ, chi bộ cơ sở phường, thị trấn như sau:
Đảng bộ, chi bộ cơ sở phường, thị trấn là hạt nhân chính trị, lãnh đạo thực
hiện đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước; lãnh
đạo thực hiện chức năng quản lý hành chính Nhà nước và quản lý đô thị trên địa
bàn; xây dựng hệ thống chính trị ở cơ sở vững mạnh, phường, thị trấn giàu đẹp,
văn minh; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tình thần của nhân dân,
động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước.
4.2. Nhiệm vụ::
Một là: Lãnh đạo nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội - An ninh quốc
phòng:
Lãnh đạo chính quyền thực hiện các chủ trương nhiệm vụ phát triển kinh
tế, xã hội theo nghị quyết của đại hội Đảng bộ, chi bộ phường, thị trấn và của
cấp trên; tạo môi trường thuận lợi để khuyến khích các thành phần kinh tế và hộ
gia đình phát triển sản xuất kinh doanh dịch vụ đúng chính sách của pháp luật
và nhà nước, tạo thêm việc làm, tăng thu nhập cho người lao động; không
ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân; động viên nhân
dân làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước; xây dựng phường, thị trấn giàu đẹp,
văn minh.



- Lãnh đạo chính quyền thực hiện đúng chức năng quản lý hành chính
nhà nước và công tác quản lý đô thị trên địa bàn; thực hiện nhiệm vụ xây dựng
cơ sở hạ tầng theo quy hoạch; chăm lo phát triển sự nghiệp văn hoá, giáo dục, y
tế, bảo vệ môi trường, thực hiện tốt các chính sách xã hội, xoá đói, giảm nghèo.
- Lãnh đạo xây dựng và thực hiện Quy chế dân chủ ở cơ sở, thực hiện tốt
phương châm "dân biết, dân bàn, dân làm, dân kiểm tra"; giám sát mọi hoạt
động ở cơ sở theo đúng đường lối chính sách của Đảng, pháp luật của nhà
nước; mở rộng dân chủ đi đôi với tăng cường kỷ luật, kỷ cương; kịp thời giải
quyết những vướng mắc phát sinh trong cộng đồng dân cư ở cơ sở theo đúng
luật pháp, không để tích tụ mâu thuẫn trở thành điểm nóng, không để xảy ra
tình trạng
khiếu kiện tập thể, vượt cấp hoặc lợi dụng dân chủ để làm mất ổn định
chính trị trên địa bàn.
- Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng toàn dân và chính sách hậu
phương quân đội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; đề cao
tinh thần cảnh giác cách mạng, bảo vệ nội bộ, bảo vệ tài sản của nhà nước, của
tập thể, tính mạng và tài sản của nhân dân; ngăn chặn và đẩy lùi các tệ nạn xã
hội, nhất là ma tuý mại dâm.
Hai là: Lãnh đạo công tác tư tưởng:
- Thường xuyên giáo dục, bồi dưỡng chủ nghĩa Mác- Lê nin, tư tưởng Hồ
Chí Minh và phát huy truyền thống yêu nước, yêu chủ nghĩa xã hội trong các
tầng lớp nhân dân, nhất là trong thanh niên, thiếu niên; xây dựng tình đoàn kết
gắn bó, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau; xây dựng môi trường văn hoá lành mạnh


ở tổ dân phố, khu dân cư và trong từng gia đình, chú trọng tuyên truyền và nhân
rộng gương người tốt việc tốt, các nhân tố tích cực trên mọi lĩnh vực.
- Tuyên truyền, vận động làm cho nhân dân hiểu và chấp hành đúng
đường lối chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của nhà nước và các

nhiệm vụ của địa phương; kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng của các tầng
lớp nhân dân để giải quyết và báo cáo lên cấp trên.
- Lãnh đạo cán bộ, Đảng viên và nhân dân đấu tranh chống các quan điểm
sai trái, những hành vi nói, viết và làm trái với đường lối, chủ trương, chính
sách của Đảng, pháp luật của nhà nước; chống tư tưởng cơ hội, thực dụng, cục
bộ, bè phái, gia trưởng, bảo thủ và các hủ tục lạc hậu, mê tín, dị đoan; phòng,
chống sự suy thoái về đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên.
Ba là:. Lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ:
- Lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức trong hệ thống chính trị,
các đơn vị kinh tế, sự nghiệp ở cơ sở vững mạnh; xây dựng và thực hiện quy
hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, tích cực tạo nguồn cán bộ tại chỗ,
từng bước trẻ hoá đội ngũ cán bộ, công chức phường, thị trấn.
- Cấp uỷ xây dựng quy chế và công tác tổ chức cán bộ; nhận xét, đánh
giá, bổ nhiệm, miễn nhiệm, khen thưởng, kỷ luật, đãi ngộ đối với cán bộ thuộc
quyền; quản lý và kiểm tra việc thực hiện chính sách đối với cán bộ ở cơ sở theo
phân cấp; giới thiệu người đủ tiêu chuẩn có tín nhiệm trong tổ chức Đảng và
nhân dân để bầu vào các chức danh chủ chốt của HĐND, UBND, MTTQ, các
đoàn thể nhân dân theo luật định và điều lệ của mỗi tổ chức.


- Cấp uỷ đề xuất ý kiến trong việc lựa chọn, giới thiệu cán bộ tham gia
vào các cơ quan lãnh đạo của Đảng, chính quyền, đoàn thể nhân dân ở cấp trên
và cán bộ chủ chốt ở cơ sở do cấp trên quản lý.
Bốn là: Lãnh đạo MTTQ và các đoàn thể nhân dân:
- Lãnh đạo xây dựng MTTQ và các đoàn thể nhân dân ở phường, thị trấn
vững mạnh, thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ theo luật định và điều lệ của
mỗi đoàn thể. Thực hiện tốt các chính sách về dân tộc, tôn giáo của Đảng và nhà
nước, xây dựng khối đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân,
thi đua thực hiện có hiệu quả các nhiệm vụ được giao.
- Lãnh đạo MTTQ và các đoàn thể nhân dân tham gia xây dựng, bảo vệ

đường lối, chủ trương chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và các
nhiệm vụ của địa phương, trước hết là những chủ trương, chính sách về xây
dựng quản lý đô thị, giải quyết việc làm và các chính sách xã hội khác.
Năm là: Xây dựng tổ chức Đảng:
- Đề ra chủ trương, nhiệm vụ và biện pháp xây dựng Đảng chi bộ, chi bộ
trong sạch, vững mạnh, gắn với xây dựng, củng cố hệ thống chính trị cơ sở,
nâng cao năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của tổ chức Đảng và đội ngũ đảng
viên, nhất là phát hiện và đấu tranh chống tệ quan liêu, tham nhũng, lãng phí và
các biểu hiện tiêu cực khác; chú trọng xây dựng và nâng cao chất lượng lãnh
đạo của các chi bộ, tổ đảng ở tổ dân phố, khu dân cư. Thực hiện đúng nguyên
tắc tổ chức và sinh hoạt Đảng, nhất là nguyên tắc tập trung dân chủ, chế độ tự
phê và phê bình; thực hiện có nền nếp và nâng cao chất lượng sinh hoạt đảng,
nhất là sinh hoạt chi bộ, bảo đảm tính lãnh đạo, tính giáo dục và tính chiến đấu.


- Giáo dục, rèn luyện đội ngũ đảng viên nêu cao vai trò tiền phong, gương
mẫu, phấn đấu trở thành người lao động giỏi, công dân gương mẫu, nghiêm
chỉnh chấp hành và vận động, thuyết phục nhân dân chấp hành nghị quyết của
tổ chức Đảng, quyết định của chính quyền và chương trình hành động của các
đoàn thể nhân dân. Cấp uỷ xây dựng kế hoạch và tạo điều kiện cho đảng viên
thực hiện nhiệm vụ học tập, không ngừng nâng cao trình độ về mọi mặt.
- Cấp uỷ xây dựng kế hoạch, biện pháp quản lý, phân công nhiệm vụ và
tạo điều kiện để đảng viên hoàn thành nhiệm vụ được giao. Làm tốt công tác
động viên khen thưởng, kỷ luật đảng viên, xử lý nghiêm, kịp thời những cán bộ
đảng viên vi phạm Điều lệ Đảng, pháp luật của Nhà nước.
- Làm tốt công tác tạo nguồn và phát triển Đảng viên, bảo đảm về tiêu
chuẩn và quy trình, chú trọng đối tượng là đoàn viên thanh niên cộng sản Hồ
Chí Minh và những người lao động giỏi, có uy tín trong quần chúng.
- Xây dựng cấp uỷ và Bí thư cấp uỷ đảm bảo tiêu chuẩn về phẩm chất,
năng lực, thực sự là trung tâm đoàn kết, hoạt động có hiệu quả, được đảng viên

và nhân dân tín nhiệm. Định kỳ hàng năm, cấp uỷ tổ chức để quần chúng tham
gia, góp ý xây dựng đảng, Bí thư cấp uỷ cơ sở, Chủ tịch HĐND, chủ tịch
UBND tự phê bình trước đại diện của nhân dân và chịu trách nhiệm khi để xảy
ra quan liêu, lãng phí, tham nhũng ở địa phương.
- Cấp uỷ thường xuyên kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên chấp hành
Điều lệ, Nghị quyết, Chỉ thị của Đảng, pháp luật của nhà nước và quy định của
Bộ chính trị về những điều Đảng viên không được làm. Phối hợp với các tổ
chức cơ sở Đảng trên địa bàn và các tổ chức cơ sở Đảng có Đảng viên, cán bộ,
công chức đang cư trú trên địa bàn thực hiện các nghị quyết, chỉ thị của đảng,
pháp luật của nhà nước và các nhiệm vụ của địa phương.


5- Năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng
5.1.Khái niệm năng lực lãnh đạo:
Để lãnh đạo cách mạng thắng lợi, đảng phải có năng lực, năng lực lãnh
đạo, năng lực hiểu biết, năng lực tổ chức thực hiện. Năng lực lãnh đạo của Đảng
là do các tổ chức cơ sở đảng và từng đảng viên tạo nên.
Năng lực lãnh đạo là khả năng tri thức tổng hợp các thuộc tính cơ bản
của tổ chức lãnh đạo, nhằm đáp ứng yêu cầu hoạt động lý luận và thực tiễn, bảo
đảm cho hoạt động của tổ chức phù hợp với nhu cầu khách quan của tình hình
chung và tình hình cụ thể của từng địa phương, để hoàn thành các nhiệm vụ
chính trị đề ra.
5.2.Khái niệm về sức chiến đấu:
Theo quan điểm của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X, nâng
cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng là thành tố đầu tiên có ý nghĩa
hết sức quan trọng để xây dựng Đảng, làm cho đảng ta ngày càng giàu trí tuệ,
trong sạch, vững mạnh để lãnh đạo đất nước tiếp tục đi lên. Trong giai đoạn
hiện nay, các tổ chức cơ sở đảng cần tập trung vào những nội dung chủ yếu sau
để nâng cao năng lực và sức chiến đấu của tổ chức cơ sở Đảng.
- Nâng cao năng lực lãnh đạo của Đảng nói chung và tổ chức cơ sở Đảng

nói riêng là:


+ Nâng cao năng lực, hoạch định đường lối, chính sách ở tổ chức cơ sở
Đảng là nâng cao năng lực xác định nhiệm vụ chính trị cho đúng, phù hợp với
đường lối, chính sách của Đảng và thực tiễn tình hình ở địa phương.
+ Nâng cao năng lực tổ chức chỉ đạo thực hiện nhiệm vụ chính trị .
+ Năng lực, tổng kết, rút kinh nghiệm, tạo sự thống nhất giữa nhận thức
và lý luận, sự thống nhất giữa nhận thức và hành động.
+ Nâng cao năng lực lãnh đạo mặt trận và các đoàn thể quần chúng, tăng
cường mối quan hệ gắn bó với dân.
- Nâng cao sức chiến đấu là:
+ Từng cán bộ, đảng viên, từng tổ chức đảng, cấp uỷ Đảng và toàn Đảng
phải có ý chí phấn đấu vươn lên hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ được giao.
+ Thường xuyên rèn luyện phẩm chất, đạo đức, không nể nang, né tránh
"dĩ hoà vi quý".
+ Kiên quyết đấu tranh với những hiện tượng tiêu cực, tham nhũng, say
thoái ở ngay trong bản thân mỗi đảng viên, ổ trong tổ chức Đảng và trong xã
hội, dũng cảm đấu tranh chống các tư tưởng, quan điểm, hành động sai trái, thù
địch.

Chương 2


Thực trạng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của đảng bộ
…… trong những năm vừa qua

1- Khái quát đặc điểm tình hình tự nhiên, kinh tế - xã hội của …..:
…….huyện Kinh Môn - Hải Dương. Phía Bắc giáp xã ); phía đông và
phía nam ; phía tây


.

……có tổng diện tích đất tự nhiện 1.348,04 ha. Trong đó diện tích đất
canh tác, có 330,7 ha, chiếm 24%, đất chuyên dùng 562,7 ha, đất lâm nghiệp
15ha, đất thổ cư 76,5 ha, đất đồi bãi 363,9 ha.
Dân số 15.581 khẩu, được chia thành 8 khu dân cư với 3.993 hộ, có 7 / 8
khu dân cư văn hoá.
Nhân dân trong ………. nghề nghiệp chủ yếu là nông nghiệp, dịch vụ,
vận tải thuỷ, bộ, khai thác vật liệu xây dựng, buôn bán kinh doanh.
……. được bao bọc bởi 3 con sông: Kinh Thầy,…... Có tuyến đường bộ
… chạy qua nối liền 2 tỉnh Hải Dương - Quảng Ninh. Do đặc điểm địa lý thuận
lợi, có nhiều đồi núi, danh lam thắng cảnh. Có tiềm năng phát triển kinh tế,
trồng cây ăn quả. Đặc biệt có nhiều khoáng sản trong lòng đất như:. Tạo thuận
lợi cho phát triển công nghiệp khai khoáng. Hiện nay có .. công ty xí nghiệp của
TW và địa phương đóng trên địa bàn


… trường học : trường mầm non, trường tiểu học, trường THCS. có 13
năm liên tục đạt danh hiệu
2- Thực trạng năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng bộ … những
năm vừa qua:
2.1.Những kết quả đạt được:
Một là: Lãnh đạo phát triển kinh tế – xã hội
Trong những năm qua, tình hình kinh tế - xã hội của nước ta có nhiều
thay đổi nhanh chóng, thời cơ thách thức đan xen. Nhưng Đảng bộ và nhân dân
đã đoàn kết khắc phục mọi khó khăn, tập trung trí tuệ thực hiện thắng lợi nghị
quyết đại hội đảng … lần thứ XXVIII và nghị quyết đại hội huyện Đảng bộ
Kinh Môn lần thứ XXII
Năm 2008, tổng giá trị sản xuất ước đạt 122.974 triệu đồng, tốc độ tăng

trưởng 11,5%/năm.
* Cơ cấu kinh tế:
- Nông nghiệp = 11,4%
- Tiểu thủ công nghiệp = 25,3%
- Dịch vụ thương mại = 63,3%
* Thu nhập bình quân đầu người đạt 7,6 triệu đồng/người/năm.


Đời sống vật chất - tinh thần tăng lên rõ rệt, số hộ đói không còn, hộ
nghèo giảm mỗi năm 10%.
Kinh tế phát triển mạnh theo hướng sản xuất hàng hoá, cơ cấu kinh tế
chuyển dịch đúng hướng, phát triển dân số hàng năm dưới 1%. Việc xây dựng
kết cấu hạ tầng nông thôn được thực hiện tích cực. Cả thị trấn có 80% đường
bê tông, 20% đường cấp phối; các trường học được kiên cố hoá cao tầng 100%;
Trạm y tế đạt chuẩn quốc gia. Năm 2005, vốn xây dựng đạt 3 tỷ đồng, (trong đó
vốn nhà nước 70%, nhân dân đóng góp 30%). Tổng thu ngân sách đạt 3,8 tỷ
đồng = 152% kế hoạch.
Tình hình an ninh chính trị, trật tự ATXH được giữ vững. Các đoàn thể
chính trị - xã hội, chính quyền, Đảng bộ đạt trong sạch vững mạnh. Chính sự ổn
định và phát triển đã tạo đà cho địa phương phát triển kinh tế - xã hội.
Hai là: Xây dựng củng cố tổ chức Đảng và Đảng viên
Đảng bộ …. được thành lập ngày … với 7 đồng chí Đảng viên. Trải qua
59 năm đến nay Đảng bộ đã có 384 đồng chí, được sinh hoạt ở 16 chi bộ. Trong
đó có 6 chi bộ trường học, 1 chi bộ dân quân và 8 chi bộ khu dân cư, 1 chi bộ y
tế
- Đảng viên hưu trí: 171 đồng chí = 46,9%; Đảng viên nữ: 111 đ/c =
30,5%
- Trình độ THCS: 170 đ/c = 46,7%; Trình độ tiểu học 19 đ/c = 5,21%;
trình độ THPT: 175 đ/c = 48%
- Đảng viên trình độ lý luận trung cấp: 87 đ/c = 23,9%



- Đảng viên có trình độ Cao đẳng, Đại học: 88 đ/c = 24,2%
- Đảng viên 40 - 60 năm tuổi Đảng: 70đ/c = 29,2%
- Đảng viên dưới 30 tuổi: 51 đ/c = 14%
- Đảng viên 61 tuổi trở lên: 138 đ/c = 36,9%
- Đảng viên miễn sinh hoạt, công tác: 96 đ/c = 26,4%
Đảng bộ … có .. đ/c đảng viên; đội ngũ đảng viên luôn có lập trường
chính trị, tư tưởng vững vàng, luôn tin tưởng tuyệt đối vào sự lãnh đạo của
Đảng, nội bộ đoàn kết thống nhất phát huy dân chủ và phát huy được vai trò tiên
phong gương mẫu trong mọi hoạt động của địa phương. Đa số đảng viên đều
hoàn thành nhiệm vụ được giao, gắn bó mật thiết với nhân dân, có phẩm chất
đạo đức tốt, lối sống lành mạnh.
Đại hội lần thứ XXVIII của Đảng bộ ….., toàn bộ đảng viên trong Đảng
bộ đã tập trung trí tuệ xây dựng được nghị quyết của đại hội, làm định hướng
cho hoạt động và sự phát triển kinh tế, văn hoá - xã hội nhiệm kỳ 2005-2010.
Đại hội bầu ra BCH gồm 13 đồng chí, 3 đồng chí trong Ban thường vụ, là
những đồng chí tiêu biểu cho trí tuệ, đạo đức cách mạng của toàn đảng viên
trong Đảng bộ.
Năm 2008 qua phân loại chi bộ và đảng viên, có 14 chi bộ đạt chi bộ
trong sạch vững mạnh: Đảng viên loại 1: 288 đ/c.
Trong đó: - Hoàn thành tốt nhiệm vụ: 234 đ/c;


- Hoàn thành nhiệm vụ: 54 đ/c;
Không dự phân loại có: 96 đ/c miễn sinh hoạt; không có đảng viên vi
phạm tư cách.
BCH Đảng bộ xây dựng chương trình hành động cụ thể nhằm triển khai
nghị quyết của TW và của cấp trên.
Ba là:. Quan tâm bồi dưỡng cho đội ngũ cán bộ kế cận.

Trong những năm vừa qua Đảng uỷ đã quan tâm bồi dưỡng cho đội ngũ
cán bộ kế cận, cử 13 đồng chí đi học lớp trung cấp lý luận chính trị do trường
chính trị tỉnh phối hợp với huyện uỷ tổ chức, đã cử 10 đồng chí đi học cao đẳng
và đại học nhằm nâng cao về trình độ lý luận chuyên môn và nghiệp vụ.
Bốn là: Duy trì chế độ sinh hoạt, chế độ báo cáo, giữ nghiêm ý thức tổ
chức kỷ luật trong Đảng.
Thực hiện tốt nguyên tắc tập trung dân chủ trong sinh hoạt Đảng. Do đó
chất lượng đảng viên được nâng lên, phát huy tốt được vai trò lãnh đạo, giữ gìn
phẩm chất chính trị có đạo đức, lối sống lành mạnh, trong sáng, được quần
chúng nhân dân tin tưởng noi theo. Củng cố lãnh đạo, xây dựng chính quyền và
các tổ chức đoàn thể, các tổ chức kinh tế vững mạnh nhiều năm liền được tỉnh,
huyện khen là đơn vị trong sạch, vững mạnh.
Năm là: Làm tốt công tác quản lý đảng viên.


Phân công nhiệm vụ cho từng đảng viên, tạo cho đảng viên yên tâm công
tác và phát triển kinh tế gia đình.
Thường xuyên chăm lo xây dựng đội ngũ cán bộ Đảng, chính quyền và
các đoàn thể, bí thư, trưởng khu được tập huấn các lớp ở trung tâm chính trị
huyện phối hợp tổ chức.
Sáu là: Tăng cường công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ đảng
viên.
Triển khai học tập tốt các nghị quyết của TW, xây dựng chương trình
hành động của Đảng bộ, nâng cao bản lĩnh chính trị và năng lực lãnh đạo, phát
huy tính tiền phong gương mẫu trong việc thực hiện tốt cuộc vận động chỉnh
đốn Đảng.
Bẩy là: Công tác phát triển Đảng viên.
Đảng bộ coi đây là chiến lược cho sự phát triển của Đảng bộ, có kế hoạch
bồi dưỡng, có số lượng, chỉ tiêu rõ ràng và được phân bổ về các chi bộ. Trong
nhiệm kỳ 2001-2005, toàn đảng bộ đã kết nạp được 55 đồng chí. Nhìn chung

đảng viên mới được kết nạp đều có trình độ văn hoá từ Trung học phổ thông trở
lên, có đủ phẩm chất chính trị, các bước tiến hành phải đảm bảo nguyên tắc, sau
khi kết nạp số đảng viên mới đều tu dưỡng rèn luyện học tập để nâng cao trình
độ chính trị về chuyên môn nghiệp vụ.
Tám là: Công tác kiểm tra Đảng


Đã có những bước rõ nét, kể cả tư tưởng nhận thức và tổ chức. Đảng uỷ
đã cùng với uỷ ban kiểm tra xây dựng chương trình làm việc, thực hiện đúng
Chỉ thị, Nghị quyết và Điều lệ Đảng quy định.
Trong nhiệm kỳ qua, uỷ ban kiểm tra đã tập trung xem xét kiểm tra vào
những đảng viên vi phạm và có dấu hiệu vi phạm, đã kỷ luật xoá tên 7 đồng chí,
cảnh cáo toàn Đảng bộ 2 đ/c và 2 đồng chí làm đơn rút khỏi danh sách đảng
viên. Nhìn chung thời gian vừa qua số lượng đảng viên vi phạm, có dấu hiệu vi
phạm đã giảm so với trước đây. Nguyên nhân cơ bản là đảng bộ đã thực hiện tốt
quy chế dân chủ ở cơ sở, nâng cao ý thức tổ chức kỷ luật Đảng, UBKT Đảng
làm việc đúng nguyên tắc, có trách nhiệm, khách quan, do vậy giúp cấp uỷ làm
tốt công xây dựng chỉnh đốn Đảng.
Chín là: Công tác lãnh đạo các tổ chức đoàn thể.
Để tăng cường sự lãnh của Đảng đối với các tổ chức đoàn thể, thường
xuyên hàng quý, 6 tháng Đảng uỷ triển khai các Nghị quyết của Đảng với các
đoàn thể, nhằm giúp cho các đoàn thể nắm và quán triệt cho các hội viên thực
hiện tốt Nghị quyết của Đảng uỷ, thường xuyên trú trọng xây dựng qui chế dân
chủ ở cơ sở, là cầu lối giữ nhân dân với Đảng.
Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể nhân dân luôn được quan tâm lãnh đạo,
làm tốt công tác tham mưu giúp cấp uỷ tuyên truyền vận động các tần lớp nhân
dân chấp hành tốt mọi đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của nhà nước, hăng hái thi đua lao động sản xuất làm giầu chính đáng, tích cực
góp phần nâng cao đời sống vật chất tinh thần của nhân dân địa phương.
Mặt trận tổ quốc và các đoàn thể đã có nhiều cố gắng, động viên nhân

dân tích cực phát triển kinh tế – xã hội, xoá đói giảm nghèo, tham gia các hoạt


động tình nhgĩa, các cuộc vận động toàn dân đoàn kết xây dựng đời sống văn
hoá ở khu dân cư, xây dựng Đảng, chính quyền, hàng năm tổ chức bình xét các
gia đình văn hoá, khu dân cư tiên tiến. Trong nhiều năm liên MTTQ và các đoàn
thể đều đạt đơn vị trong sạch vững mạnh và khá, được tỉnh, huyện tặng bằng
khen và giấy khen
2.2. Những hạn chế, yếu kém:
Bên cạnh những thành tựu đã đạt được trong quá trình lãnh đạo và thực
hiện nhiệm vụ, Đảng bộ thị trấn còn bộc lộ những hạn chế sau:
- Việc lãnh đạo chỉ đạo chuyển đổi cơ cấu kinh tế còn thiếu khoa học, mất
cân đối, chưa nhạy bén với nhịp độ phát triển của nền kinh tế hàng hoá nhiều
thành phần, chưa có những cơ chế hợp lý nhằm khuyến khích các thành phần
kinh tế phát triển, việc áp dụng các tiến bộ KHKT vào sản xuất, chăn nuôi còn
nhiều hạn chế, số ít hộ nông dân chưa thực sự hăng hái đi đầu trong việc đưa
các loại giống cây trồng vật nuôi có giá trị kinh tế cao vào sản xuất, chưa nhân
rộng các mô hình trang trại đang làm ăn có hiệu quả.
- Thiếu những nghị quyết chuyên đề chỉ đạo phát triển sản xuất. Công tác
lãnh đạo chỉ đạo của Đảng bộ đối với chính quyền và các đoàn thể còn lơi lỏng.
Việc triển khai các nghị quyết của Đảng uỷ, HĐND và của UBND chưa thực sự
nghiêm túc, còn chậm đưa vào thực hiện, một số ít cán bộ còn quan liêu, cửa
quyền còn gây phiền hà cho nhân dân, công tác dân vận còn hạn chế. Vai trò của
đoàn thể, nội dung, phương thức hoạt động còn nghèo nàn, khô cứng, chưa bám
sát nhiệm vụ chính trị địa phương, chưa có sức thu hút thuyết phục hội viên,
đoàn viên chưa làm tốt công tác tuyên truyền chủ trương đường lối, chính sách
pháp luật của Đảng, nhà nước tới hội viên, một bộ phận đảng viên còn thiếu


gương mẫu, một số ít cán bộ đảng viên còn bảo thủ, chậm đổi mới, không chịu

học hỏi để nâng cao trình độ chuyên môn nghiệp vụ.
- Chế độ sinh hoạt của cấp uỷ và chi bộ không đều, tính chiến đấu trong
sinh hoạt đảng bộ chưa cao.
2.3. Nguyên nhân
* Nguyên nhân của những ưu điểm:
- …. có vị trí địa lý khá thuận lợi, có núi sông, có đồng bằng màu mỡ với
các loại cây trồng, vật nuôi, có đường bộ, đường thuỷ chạy qua. Đó là điều kiện
thuận lợi cho phát triển kinh tế, văn hoá, xã hội, an ninh - quốc phòng.
- Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của cấp trên, sự hưởng ứng, tham
mưu đắc lực của các cấp ngành trong thị trấn, sự đoàn kết thống nhất trong
Đảng, sự chỉ đạo nhạy bén kịp thời có hiệu quả của BCH Đảng bộ, nghị quyết
đề ra phù hợp tình hình thực tiễn của thị trấn, đồng thời triển khai thực hiện
nghiêm túc có hiệu quả.
- Năng lực lãnh đạo quản lý điều hành của đại bộ phận của các đồng chí
trong cấp uỷ và cán bộ các ngành khá đồng đều, đại đa số đảng viên trong Đảng
bộ đều có lập trường tư tưởng vững vàng, gương mẫu có trách nhiệm cao, hoàn
thành tốt nhiệm vụ được giao, có uy tín với nhân dân, phần lớn các đảng viên
lão thành trải qua công tác chiến đấu được nghỉ chế độ đã đóng góp nhiệt tình
về trí tuệ, kinh nghiệm cho Đảng uỷ, cho chi bộ, cho quê hương.
- …. có các ban ngành đoàn thể khá đồng đều và mạnh, hàng năm các tổ
vững mạnh, nhân dân Minh Tân có truyền thống cần cù, sáng tạo, hiếu học biết


×