Tải bản đầy đủ (.docx) (14 trang)

Phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm và tài sản bảo đảm: So sánh quy định của BLDS 2005 và 2015; phân tích, đánh giá những điểm mới trong BLDS 2015 và cho ví dụ minh họa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (179.2 KB, 14 trang )

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU
Giao dịch bảo đảm là sự thỏa thuận giữa các bên nhằm tạo ra một biện pháp tác
động và dự phòng để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ dân sự của bên có nghĩa
vụ đối với bên có quyền trong quan hệ nghĩa vụ. Đồng thời nhằm khắc phục những
hậu quả xáu do việc không thực hiện hoặc thực hiện không đúng nghĩa vụ gây ra.
Giao dịch bảo đảm là một giao dịch khá phổ biến trong đời sống thường ngày.
Trên cơ sở kế thừa và phát huy những giá trị tinh thần cũng như giá trị nội dung tốt
đẹp từ Bộ luật dân sự 2005, Ngày 24 tháng 11 năm 2015, Quốc hội đã ban hành Bộ
luật Dân sự 2015 trong đó có những điểm đổi mới đáng kể trong quy định về biện
pháp bảo đảm trong đó có những đổi mới về phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm và tài
sản bảo đảm. Trong phạm vi bài viết của mình, em xin trình bày vấn đề số 1
“Phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm và tài sản bảo đảm: So sánh quy định của
BLDS 2005 và 2015; phân tích, đánh giá những điểm mới trong BLDS 2015 và
cho ví dụ minh họa”
NỘI DUNG
I.
1.

Phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm
Định nghĩa.
Nghĩa vụ được bảo đảm là nghĩa vụ dân sự mà bên có nghĩa vụ trong quan hệ
nghĩa vụ được bảo đảm phải thực hiện trước bên có quyền, bao gồm nghĩa vụ
chuyển giao vật: chuyển giao quyền, nghĩa vụ trả tiền hoặc giấy tờ có giá, nghĩa vụ

2.

thực hiện công việc khác. Về nguyên tắc, phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm
So sánh quy định của Bộ luật dân sự 2005 và Bộ luật dân sự 2015 về phạm vi
nghĩa vụ được bảo đảm.


1


a)

Điểm giống nhau
Theo quy định tại Bộ luật dân sự 2005 và Bộ Luật dân sự 2015 thì phạm vi
nghĩa vụ được bảo đảm đều được xác định là toàn bộ nghĩa vụ kể cả tiền lãi và bồi

b)

thường thiệt hại nếu các bên không có thỏa thuận gì khác.
Một số điểm mới của Bộ luật dân sự 2015 về phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm
và ví dụ minh họa.
Về phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm, quy định tại Bộ Luật Dân sự 2015 và Bộ
luật dân sự 2005 có những nét khác biệt đáng kể. Cụ thể như sau:
Thứ nhất, Theo quy định tại Khoản 1 Điều 319 Bộ luật Dân sự 2005 thì:
“Nghĩa vụ dân sự có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thoả thuận
hoặc theo quy định của pháp luật; nếu không có thoả thuận và pháp luật không
quy định phạm vi bảo đảm thì nghĩa vụ coi như được bảo đảm toàn bộ, kể cả nghĩa
vụ trả lãi và bồi thường thiệt hại.”
Trên tinh thần kế thừa và phát huy những nội dung vốn có của Bộ luật Dân sự
2005 về vấn đề này, khoản 1 Điều 293 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: “Nghĩa vụ
có thể được bảo đảm một phần hoặc toàn bộ theo thỏa thuận hoặc theo quy định
của pháp luật; nếu không có thỏa thuận và pháp luật không quy định phạm vi bảo
đảm thì nghĩa vụ coi như được bảo đảm toàn bộ, kể cả nghĩa vụ trả lãi, tiền phạt
và bồi thường thiệt hại.”.
Như vậy, ta có thể nhận thấy rõ ràng rằng nếu theo quy định tại Bộ luật dân sự
2005 thì nếu các bên không có thỏa thuận gì khác thì phạm vi nghĩa vụ bảo đảm
được xác định là toàn bộ nghĩa vụ kể cả nghĩa vụ trả lãi và bồi thường thiệt hại thì

theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015, toàn bộ nghĩa vụ ở đây ngoài nghĩa vụ trả
lãi và bồi thường thiệt hại còn được bổ sung thêm đó là nghĩa vụ trả tiền phạt. Có
thể nói đây là một nội dung đổi mới rất tiền bộ của Bộ luật dân sự 2015 bởi nếu
như theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 thì nghĩa vụ trả tiền phạt sẽ không được
coi là thuộc phạm vi bảo đảm, như vậy sẽ rất bất lợi cho bên có quyền trong trường
hợp bên có nghĩa vụ có hành vi vi phạm nhưng nghĩa vụ trả tiền phạt lại không
nằm trong phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm. Ví dụ như sau: Sau khi giao kết hợp
2


đồng vay tài sản, các bên xác lập với nhau về biện pháp thế chấp tài sản để đảm
bảo nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng đó, nếu theo quy định của Bộ luật dân sự 2005
thì nghĩa vụ được bảo đảm bao gồm: vốn gốc, tiền lãi, tiền bồi thường thiệt hại
(nếu có) còn theo quy định tại Bộ luật dân sự 2015 thì nghĩa vụ được bảo đảm bao
gồm : vốn gốc, tiền lãi, tiền bồi thường thiệt hại (nếu có) và tiền phạt vi phạm( nếu
có). Quy định tại Bộ luật dân sự 2015 về vấn đề này thật sự đã rõ ràng hơn rất
nhiều, góp phần bảo đảm quyền lợi cho các chủ thể khi tham gia vào quan hệ bảo
đảm.
Thứ hai, Bộ luật dân sự 2015 đã bổ sung quy định về thực hiện nghĩa vụ trong
tương lai, theo đó, Khoản 3 Điều 293 bộ luật dân sự 2015 quy định : “Trường hợp
bảo đảm nghĩa vụ trong tương lai thì nghĩa vụ được hình thành trong thời hạn bảo
đảm là nghĩa vụ được bảo đảm, trừ trường hợp có thỏa thuận khác.”
Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ hình thành trong tương lai là nghĩa vụ dân sự mà
giao dịch dân sự làm phát sinh nghĩa vụ đó được xác lập sau khi giao dịch bảo đảm
được giao kết. Ví dụ như: doanh nghiệp B là khách hàng của ngân hàng A thế
chấp tài sản để bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trả nợ theo hợp đồng tín dụng đã được
giao kết nhưng trong hợp đồng thế chấp này, các bên có thỏa thuận tài sản thế chấp
còn được dùng để bảo đảm cho việc thực hiện nghĩa vụ phát sinh từ các hợp đồng
tín dụng mà doanh nghiệp B sẽ kí kết với ngân hàng A về sau này.
Bộ luật Dân sự 2005 không có quy định cụ thể về Bảo đảm thực hiện nghĩa vụ

trong tương lai mà chỉ quy định rằng các bên có quyền thỏa thuận về các biện pháp
bảo đảm thực hiện nghĩa vụ dân sự để bảo đảm thực hiện các loại nghĩa vụ, kể cả
nghĩa vụ hiện tại, nghĩa vụ trong tương lai hoặc nghĩa vụ có điều kiện.
Khác với Bộ luật Dân sự 2005, Bộ Luật dân sự 2015 quy định rất cụ thể về bảo
đảm thực hiện nghĩa vụ trong tương lai. Theo quy định tại Điều 294 Bộ luật dân sự
2015 thì :
3


“1. Trường hợp bảo đảm thực hiện nghĩa vụ trong tương lai, các bên có quyền
thỏa thuận cụ thể về phạm vi nghĩa vụ được bảo đảm và thời hạn thực hiện nghĩa
vụ được bảo đảm, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác.
2. Khi nghĩa vụ trong tương lai được hình thành, các bên không phải xác lập
lại biện pháp bảo đảm đối với nghĩa vụ đó.”

II.
1.

Tài sản bảo đảm
Định nghĩa
Tài sản bảo đảm là tài sản mà bên bảo đảm dùng nó để đảm bảo quyền thực
hiện nghĩa vụ dân sự. Tài sản bảo đảm bao gồm tất cả các loại tài sản theo quy định
của pháp luật hiện hành. Bên bảo đảm là bên dùng tài sản thuộc sở hữu của mình,
dùng quyền sử dụng đất của mình, dùng uy tín hoặc cam kết thực hiện công việc
đối với bên nhận bảo đảm để bảo đảm việc thực hiện nghĩa vụ dân sự của chính
mình hoặc của người khác, bao gồm bên cầm cố, bên thế chấp, bên đặt cọc, bên ký
cược, bên ký quỹ, bên bảo lãnh và tổ chức chính trị - xã hội tại cơ sở trong trường
hợp tín chấp.
Tài sản bảo đảm là tài sản hiện có hoặc tài sản hình thành trong tương lai mà
pháp luật không cấm giao dịch. Theo đó, tài sản hình thành trong tương lai gồm:

“ a) Tài sản được hình thành từ vốn vay;
b) Tài sản đang trong giai đoạn hình thành hoặc đang được tạo lập hợp pháp
tại thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm;
c) Tài sản đã hình thành và thuộc đối tượng phải đăng ký quyền sở hữu, nhưng
sau thời điểm giao kết giao dịch bảo đảm thì tài sản đó mới được đăng ký theo quy
định của pháp luật.”

2.

So sánh quy định của luật dân sự 2005 và Bộ luật dân sự 2015 về tài sản bảo
đảm
4


a)

Điểm giống nhau
Bộ luật Dân sự 2005 và Bộ luật dân sự 2015 đều quy định rằng tài sản bảo đảm
có thể là tất cả các loại tài sản theo quy định của pháp luật bao gồm vật, tiền, giấy
tờ có giá và quyền tài sản.
1 - Vật:
Vật chính là đối tượng của thế giới vật chất theo nghĩa rộng bao gồm cả động
vật, thực vật, vật với ý nghĩa vật lí ở mọi trạng thái (rắn, lỏng, khí).
Với ý nghĩa là một phạm trù pháp lý, vật là bộ phận của thế giới vật chất có thể
đáp ứng được một nhu cầu nào đó (vật chất) của con người. Tuy nhiên, không phải
bất kỳ bộ phận nào của thế giới vật chất cũng được coi là vật. Vật chỉ có ý nghĩa
khi nó trở thành đối tượng trong quan hệ pháp luật nên nếu bộ phận của thế giới
vật chất mà con người không thể kiểm soát được, chiếm hữu được nó thì đồng
nghĩa với việc con người không thể tác động được vào nó. Do đó, không khí, mưa,
gió… thuộc về vật chất nhưng không thể được coi là tài sản về mặt pháp lý. Như

vậy, ngoài yếu tố đáp ứng được nhu cầu của con người, vật có thực với tính cách là
tài sản phải nằm trong sự chiếm hữu của con người, có đặc trưng giá trị và trở
thành đối tượng của giao lưu dân sự. Là đối tượng trong quan hệ pháp luật nên vật
phải đáp ứng được lợi ích của các bên chủ thể trong quan hệ. Do đó, để được coi là
vật thì phải thỏa mãn những điều kiện sau:
Thứ nhất, điều kiện không thể thiếu để trở thành vật trong giao lưu dân sự là
phải là bộ phận của thế giới vật chất . Đây chính là sự khác nhau giữa “vật” và
“quyền tài sản”. Ta có thể hiểu quyền tài sản là một cái gì đó rất trừu tượng , nó
không phải là bộ phận của thế giới vật chất mà nó tồn tại phụ thuộc vào ý chí chủ
quan của con người. Ví dụ như đất đai được coi là vật trong giao lưu dân sự vì nó
là một bộ phận của thế giới vật chất, tồn tại không phụ thuộc vào ý thức chủ quan
của con người. Nhưng, quyền sử dụng mảnh đất ấy tại không tồn tại khách quan,
không phải là bộ phận của thế giới vật chất nên đương nhiên nó không phải là vật
trong giao lưu dân sự mà nó thuộc loại tài sản khác mang tên “quyền tài sản”. Vì
5


thế mà đất đai là tài sản thuộc hình thức sở hữu nhà nước, do Chính phủ thống nhất
quản lý nhưng quyền sử dụng đất lại thuộc về cá nhân, pháp nhân, hộ gia đình, chủ
thể khác được xác lập do Nhà nước giao đất, cho thuê đất hoặc công nhận quyền sử
dụng đất hoặc do được người khác chuyển quyền sử dụng đất phù hợp với quy
định của pháp luật(1). Ở đây, cả “đất đai” và “quyền sử dụng đất” đều được coi là
tài sản nhưng đất đai là vật, còn quyền sử dụng đất là quyền tài sản.
Thứ hai,con người phải chiếm hữu được. Có những bộ phận của thế giới vật
chất ở dạng này thì được coi là vật nhưng ở dạng khác lại không được coi là vật.
Chỉ khi con người chiếm hữu được nó thì nó mới được coi là vật. Ví dụ như không
khí trong tự nhiên, nước suối, nước sông, nước biển.. không được coi là vật vì chưa
thể đưa vào giao dịch dân sự nhưng nếu được đóng (hoặc nén) vào bình, được làm
nóng, làm lạnh.. thì lại được coi là vật bởi lúc này mới có thể được đưa vào giao
lưu dân sự do con người có thể nắm giữ, quản lý được.

Thứ ba, những vật được coi là tài sản không chỉ là những vật tồn tại hiện hữu
mà còn bao gồm những vật (hay tài sản) chắc chắn sẽ có. Vật có thực là vật đã,
đang tồn tại vào thời điểm hiện tại và đã được xác lập quyền sở hữu cho chủ sở
hữu của vật đó. Ví dụ như: nhà đã được xây, tủ đã được đóng…Còn vật được hình
thành trong tương lai được hiểu là vật chưa tồn tại hoặc chưa hình thành đồng bộ
vào thời điểm hiên tại nhưng chắc chắn sẽ có hoặc chắc chắn sẽ được hình thành
trong tương lai. Ví dụ như: một dự án nhà cao tầng đang chuẩn bị khởi công xây,
một cái cầu đang bắc…Cả hai cái đó đều được đưa vào giao dịch dân sự như một
vật sẽ hình thành trong tương lai.
2-Tiền.
Theo quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lê nin, tiền tệ là hàng hoá đặc biệt được
tách ra làm vật ngang giá chung thống nhất cho các hàng hoá khác, nó thể hiện lao
1

6


động xã hội và biểu hiện quan hệ giữa những người sản xuất hàng hoá.Tiền theo
kinh tế chính trị học là vật ngang giá chung được sử dụng làm thước đo giá trị của
các loại tàn sản khác. Một tài sản được coi là tiền hiện nay khi nó đang có giá trị
lưu hành trên thực tế. Tiền được coi là một dạng đặc biệt của tài sản và cũng là
thước đo để xác định toàn bộ khối tài sản của một chủ thể nào đó trong quan hệ
pháp luật dân sự. Loại tài sản này có những đặc điểm pháp lý khác với vật được thể
hiện ở những mặt sau:
Đối với vật thì ta có thể khai thác công dụng hữu ích từ chính vật đó còn tiền
không. Tiền thực hiện ba chức năng chính, đó là : công cụ thanh toán đa năng,
công cụ tích luỹ tài sản và công cụ định giá các loại tài sản khác. Các vật thông
thường có thể do rất nhiều chủ thể khác tạo ra, còn tiền thì do Nhà nước độc quyền
phát hành. Việc phát hành tiền được coi là một trong những biểu hiện chủ quyền
của mỗi quốc gia.Vật được xác định bằng những đơn vị đo lường thông dụng còn

tiền lại được xác định số lượng thông qua mệnh giá của nó.Chủ sở hữu vật được
toàn quyền tiêu huỷ vật thuộc sở hữu của mình , còn chủ sở hữu tiền thì lại không
được phép tiêu huỷ tiền (không được xé, đốt, sửa chữa, làm giả...).Dưới nhiều góc
độ khác nhau thì tiền lại có những công dụng khác nhau. Nếu dưới góc độ kinh tế
thì việc sử dụng tiền được hiểu thông qua hành vi đầu tư tiền vào các hoạt động
kinh doanh (mua bán, cho vay, góp vốn...) nhưng dưới góc độ luật dân sự thì các
hành vi đầu tư hay tiêu dùng đó lại được hiểu là hành vi thực hiện quyền định đoạt
tiền (chuyển giao quyền sở hữu tiền cho người khác) chứ không phải là thực hiện
quyền sử dụng. Dưới góc độ kinh tế thì việc gửi tiền vào các tổ chức tín dụng (gửi
tiền vào tài khoản của mình trong ngân hàng) thường được coi là hành vi cất giữ
tiền còn dưới góc độ luật dân sự thì việc gửi tiền đó phải luôn được hiểu là hợp
đồng cho vay tài sản bởi lẽ sau khi gửi tiền vào ngân hàng thì chính ngân hàng sẽ
là chủ sở hữu khoản tiền đó và phải chịu rủi ro đối với nó, người gửi khi đó chấm
dứt quyền sở hữu đối với số tiền vừa gửi, trở thành bên cho vay, có quyền yêu cầu
7


ngân hàng thanh toán khoản tiền khác tương đương theo thời hạn thoả thuận. Tuỳ
theo từng trường hợp cụ thể mà hợp đồng vay đó có thể có thời hạn hoặc không
thời hạn, có thể có lãi hoặc không có lãi. Nói tóm lại dưới góc độ kinh tế thì không
có sự khác biệt cơ bản giữa tiền mặt và tiền trong tài khoản nhưng dưới góc độ luật
dân sự thì "tiền trong tài khoản" lại được hiểu là quyền tài sản (quyền yêu cầu) một loại tài sản khác chứ không phải là tiền. Trong pháp luật dân sự, tiền có tính
năng đặc biệt là khi chuyển giao tiền thì bao giờ cũng kèm theo chuyển giao quyền
sở hữu, trừ trường hợp khi chuyển giao ta đặc định hoá gói tiền thông qua việc
niêm phong gói tiền lại.
3 – Giấy tờ có giá.
Trong Quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng để huy động vốn
trong nước (Ban hành kèm theo quyết định số 02/2005/QĐ-NHNN ngày
04/01/2005 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước), giấy tờ có giá được hiểu là
chứng nhận của tổ chức tín dụng phát hành để huy động vốn trong đó xác nhận

nghĩa vụ trả nợ một khoản tiền trong một thời hạn nhất định, điều kiện trả lãi và
các điều khoản cam kết khác giữa tổ chức tín dụng và người mua. Giấy tờ có giá
ngắn hạn được hiểu là giấy tờ có giá có thời hạn dưới một năm bao gồm kỳ phiếu,
chứng chỉ tiền gửi ngắn hạn, tín phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác. Giấy tờ
có giá dài hạn là giấy tờ có thời hạn từ một năm trở lên kể từ khi phát hành đến khi
hết hạn, bao gồm trái phiếu, chứng chỉ tiền gửi dài hạn và các giấy tờ có giá dài
hạn khác. Giấy tờ có giá ghi danh là giấy tờ có giá phát hành theo hình thức chứng
chỉ hoặc ghi sổ có ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô danh là giấy tờ có giá
phát hành theo hình thức chứng chỉ không ghi tên người sở hữu. Giấy tờ có giá vô
danh thuộc quyền sở hữu của người nắm giữ giấy tờ có giá.
Theo nghĩa rộng, giấy tờ có giá nói chung, được hiểu là chứng chỉ hoặc bút
toán ghi sổ, trong đó xác nhận quyền tài sản của một chủ thể nhất định (tổ chức, cá
nhân) xét trong mối quan hệ pháp lý với các chủ thể khác . Tuy nhiên, trong số
8


giấy tờ chứng minh cho quyền tài sản đó, có một số giấy tờ đặc biệt có thể chuyển
giao được, ai đánh mất nó là mất quyền, ai có nó thì có quyền, thì những giấy tờ
này mới được coi là giấy tờ có giá với tư cách là một loại tài sản trong quan hệ
pháp luật dân sự.
Dưới góc độ pháp lý, giấy tờ có giá với tư cách là một hình thức pháp lý của tài
sản trong quan hệ pháp luật dân sự có các đặc điểm cơ bản sau:
Thứ nhất, xét về mặt hình thức, giấy tờ có giá là một chứng chỉ được lập theo
hình thức, trình tự luật định.
Thứ hai, nội dung thể hiện trên giấy tờ có giá là thể hiện quyền tài sản, giá của
giấy tờ có giá là giá trị quyền tài sản và quyền này được pháp luật bảo vệ.
Thứ ba, giấy tờ có giá có tính thanh khoản và là công cụ có thể chuyển nhượng
với điều kiện chuyển nhượng toàn bộ một lần, việc chuyển nhượng một phần giấy
tờ có giá là vô hiệu.
Ngoài ra còn có thể kể thêm các đặc điểm khác của giấy tờ có giá như tính có

thời hạn, tính có thể đưa ra yêu cầu, tính rủi ro…
Căn cứ vào các quy định của pháp luật hiện hành thì giáy tờ có giá bao gồm:
Hối phiếu đòi nợ, hối phiếu nhận nợ, séc, công cụ chuyển nhượng khác quy định
tại Điều 1 Luật các công cụ chuyển nhượng năm 2005; Trái phiếu Chính phủ, trái
phiếu công ty, kỳ phiếu, cổ phiếu được quy định tại Điểm c Khoản 1 Điều 4 của
pháp lệnh ngoại hối năm 2005; tín phiếu, hối phiếu, trái phiếu, công trái và các
nghĩa vụ khác làm phát sinh nghĩa vụ trả nợ được quy định tại Điểm 16, Điều 3
Luật quản lý nợ công 2009; các loại chứng khoán (cổ phiếu, trái phiếu, chứng chỉ
quỹ; quyền mua cổ phần, chứng quyền, quyền chọn mua, quyền chọn bán, hợp
đồng tương lai, nhóm chứng khoán hoặc chỉ số chứng khoán; hợp đồng góp vốn
đầu tư; các loại chứng khoán khác do Bộ tài chính quy định) được quy định tại
Khoản 1 Điều 6 của Luật chứng khoán; trái phiếu doanh nghiệp được quy định tại

9


Điều 2 của Nghị Định số 52/2006/NĐ-CP của chính phủ về phát hành trái phiếu
doanh nghiệp.
Trong BLDS năm 1995, ta thấy các nhà làm luật sử dụng thuật ngữ “giấy tờ trị
giá được bằng tiền” chứ không phải là thuật ngữ “giấy tờ có giá” như BLDS năm
2005. Thực ra cách hiểu về hai thuật ngữ này cũng không có gì khác biệt, xong các
loại giấy tờ được coi là tài sản đã được chuẩn hóa về tên gọi cũng như về tính chất.
Ở đây, ta cần phân biệt giấy tờ có giá với các loại tài sản khác:
Thứ nhất, giấy tờ có giá và vật đều được xác định là tài sản trong quan hệ pháp
luật dân sự, đều là động sản trong cách phân loại tài sản thành động sản và bất
động sản và đều là tài sản hữu hình. Tuy nhiên, đối với vật, ta có thể khai thác
công dụng hữu hình từ chính vật đó (nhà dùng để ở, làm việc…; vô tuyến để xem,
các nguyên liệu dùng vào sản xuất, chế biến…). Còn đối với giấy tờ có giá thì
không thể khai thác công dụng hữu ích từ chính loại giấy tờ có giá đó. Quyền sử
dụng chỉ được áp dụng một cách trọn vẹn cho vật chứ không áp dụng được cho

giấy tờ có giá. Vật thông thường có thể do rất nhiều chủ thể khác nhau tạo ra còn
giấy tờ giấy tờ có giá thì chỉ một số chủ thể được quyền phát hành do luật định.
Vật được xác định số lượng bằng những đơn vị đo lường thông dụng còn giấy tờ
có giá lại không thể xác định như vậy được. Các loại giấy tờ có giá được xác định
giá trị thông qua giá trị ghi trên loại giấy tờ có giá đó (hối phiếu nhận nợ, hối
phiếu đòi nợ, séc), nhưng có loại giá trị của nó có thể cao hơn hoặc thấp hơn giá trị
bề mặt của nó (cổ phiếu)…Chủ sở hữu vật được toàn quyền quyết định đối với vật
thuộc sở hữu của mình còn chủ sở hữu giấy tờ có giá không được quyền sửa chữa,
tẩy xóa, thay đổi hình dạng, kích thước, làm giả…
Thứ hai, Pháp luật Việt Nam coi tiền là một loại tài sản riêng biệt, loại tài sản
này có những đặc điểm pháp lý khác với những tài sản khác, khác với giấy tờ có
giá. Nếu như việc phát hành giấy tờ có giá được tiến hành bởi một số chủ thể có
thể là Nhà nước, có thể là chủ thể khác do pháp luật quy định, thì tiền lại do Nhà
10


nước độc quyền phát hành. Việc phát hành tiền được coi là một trong những biểu
hiện của chủ quyền quốc gia, còn việc phát hành giấy tờ có giá lại là biểu hiện của
quan hệ tín dụng thương mại hoặc là biểu hiện của thị trường vốn…
Thứ ba, giữa quyền tài sản và giấy tờ có giá có giống nhau ở chỗ đều trị giá
được bằng tiền (giá của giấy tờ có giá là giá trị của quyền tài sản) và đều chuyển
giao được, sự khác nhau giữa hai loại tài sản này là ở chỗ: giấy tờ có giá là tài sản
hữu hình còn quyền tài sản là tài sản vô hình. Đối với giấy tờ có giá thì ta có thể
thực hiện được quyền chiếm hữu và quyền định đoạt, còn đối với quyền tài sản ta
không thực hiện được chức năng này. Giấy tờ có giá với tư cách là một loại tài sản
trong giao lưu dân sự chính là giấy tờ minh chứng cho quyền tài sản vô danh, giá
trị của giấy tờ có giá bằng với giá trị của quyền tài sản đó.
4- Quyền tài sản.
Quyền tài sản theo định nghĩa tại Điều 181 BLDS năm 2005 là quyền trị giá
được bằng tiền và có thể chuyển giao trong giao dịch dân sự, kể cả quyền sở hữu

trí tuệ. Theo đó thì quyền tài sản trước tiên phải được hiểu là xử sự được phép của
chủ thể mang quyền. Quyền ở đây chính là một quyền năng dân sự chủ quan của
chủ thể được pháp luật ghi nhận và bảo vệ. Quyền này phải trị giá được bằng tiền
hay nói cách khác là phải tương đương với một đại lượng vật chất nhất định.
Quyền tài sản thì có rất nhiều nhưng chỉ có những quyền tài sản nào có thể trở
thành đối tượng trong các giao dịch dân sự thì mới được coi là tài sản theo Điều
163 BLDS năm 2005. Hiện nay pháp luật Việt Nam công nhận một số quyền tài
sản là tài sản như: quyền sử dụng đất, quyền khai thác tài nguyên thiện nhiên,
quyền tác giả, quyền sở hữu công nghiệp, quyền đối với giống cây trồng, quyền đòi
nợ, quyền nhận được số tiền bảo hiểm đối với vật bảo đảm, quyền tài sản đối với
phần vốn góp trong doanh nghiệp, quyền tài sản phát sinh từ hợp đồng, quyền yêu
cầu bồi thường thiệt hại đối với tài sản bị xâm phạm (Điều 332 BLDS năm 2005).

11


b)

Một số điểm mới của Bộ luật dân sự 2015 về tài sản bảo đảm và ví dụ minh
họa.
Thứ nhất, Bộ luật dân sự 2015 có quy định rõ ràng rằng tài sản bảo đảm phải
thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm (Khoản 1 Điều 295 BLDS 2015) trong khi
BLDS 2005 lại không quy định cụ thể về vấn đề này, dẫn đến khó khăn trong việc
áp dụng quy định của pháp luật vào trong đời sống thực tiễn.
Khoản 1 ĐIều 320 Bộ luật dân sự 2005 quy định : “vật bảo đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự phải thuộc quyền sở hữu của bên bảo đảm và được phép giao
dịch”. Như vậy, theo quy định tại Bộ luật dân sự 2005 thì vật bỏa đảm thực hiện
nghĩa vụ dân sự phải thuộc sở hữu của bên bảo đảm và được phép giao dịch. Trong
khi đó, theo quy định của Bộ luật dân sự 2015 thì tài sản bảo đảm chỉ cần đáp ứng
điều kiện thuộc sở hữu của bên bảo đảm và không thuộc trường hợp bị cấm giao

dịch là được. Quy định tại Bộ luật dân sự 2015 về vấn đề này vừa cụ thể hơn, vừa
khái quát hơn lại vừa thông thoáng hơn so với quy định tại Bộ luật Dân sự 2005.
Thứ hai, Bộ luật dân sự 2015 Bổ sung quy định: tài sản bảo đảm có thể mô tả
chung nhưng phải xác định được (khoản 2 Điều 295 BLDS 2015). Nếu như trước
đây theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 thì việc mô tả tài sản bảo đảm một cách
chi tiết cụ thể, đúng như chỉ dẫn là cần thiết thì theo quy định mới này tại Bộ luật
dân sự 2015, việc mô tả tài sản không cần phải chi tiết, cụ thể, có thể mô tả chung
nhưng phải xác định được tài sản đó. Quy định này được đặt ra đã tạo điều kiện
thông thoáng hơn cho việc mô tả tài sản bỏa đảm, giúp các bên có thể tiết kiệm
được thời gian khi tiến hành các thủ tục cần thiết để xác lập giao dịch bảo đảm.
Đồng thời, quy định này không đặt nặng vấn đề mô tả tài sản bảo đảm mà chỉ chú
trọng vào vấn đề tài sản đó có thực sự tồn tại hay là không.
Thứ ba, Bộ luật dân sự 2015 quy định cụ thể về giá trị của tài sản bảo đảm.
Khoản 2 Điều 295 BLDS 2015 quy định : “giá trị của tài sản bảo đảm có thể lớn
hơn, bằng hoặc nhỏ hơn giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm”. Khác với quy định
tại Bộ luật dan sự 2005, theo đó giá trị tài sản bảo đảm phải lớn hơn hoặc bằng giá
12


tị nghĩa vụ bao đảm trừ trường hợp các bên có thỏa thuận khác, Như vậy, Bộ luật
đan sự 2015 đã quy định cụ thể hơn về giá trị của tài sản bảo đảm. Tài sản bảo đảm
có thể lớn hơn, nhỏ hơn hoặc bằng giá trị của nghĩa vụ được bảo đảm tùy thuộc
vào thỏa thuân jcaur các bên khi tham gia vào quan hệ này. Ví dụ minh họa: Anh
A quyết địn thế chấp căn nhà anh đang ở để vay ngân hàng số tiền 2 tỷ đồng. Như
vậy nếu như theo quy định của Bộ luật dân sự 2005 thì để vay số tiền 2 tỷ đồng từ
ngân hàng, căn nhà mà anh A đem đi thế chấp phải có giá trị ít nhất là từ 2 tỷ đồng
trở lên. Tuy nhiên, nếu hư theo Luật năm 2015 thì kể cả trong trường hợp căn nhà
này có giá trị nhỏ hơn 2 tỷ đồng thì anh A vẫn có thể đêm đi thế chấp để vay 2 tỷ
đồng đó. Rõ ràng quy định theo Bộ luật dân sự 2015 có phần thoáng hơn đối với
bên đảm bảo tuy nhiên quy định này lại có phần bất lợi đối với bên nhận bảo đảm

trong trường hợp xử lý tài sản bảo đảm mà vẫn không đủ tài sản để thanh toán
khoản nghĩa vụ của bên bảo đảm.
KẾT LUẬN
Những đổi mới trong bộ luật Dân sự 2015 cụ thể là trong quy định về phạm vi
nghĩa vụ được bảo đảm và tài sản bảo đảm được đánh giá là một bước tiến trong
kỹ thuật lập pháp của các nhà làm luật hiện nay. Khắc phục được những hạn chế
trước đây cũng như tạo ra một hành lang pháp lý mới cho các hoạt động về giao
dịch bảo đảm.
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.

Giáo trình Luật dân sự Việt Nam- tập II, Đại học Luật Hà Nội, Nhà xuất bản công

2.

an nhân dân.
Giáo trình Luật Dân sự Việt Nam- TS Lê Đình Nghị (chủ biên)- Nxb Giáo dục

3.

Việt Nam.
/>13


4.

Hoàn thiện pháp luật về biện pháp bảo đảm nhìn từ quyền tự do hợp đồng ,

5.


Nguyễn Am Hiểu, Dân chủ và Pháp luật. Bộ Tư pháp, Số 7/2004
“Bình luận chế định giao dịch bảo đảm trong Bộ luật Dân sự 2005”, Ls.Trương

6.

Thanh Đức – Phó Tổng giám đốc Maritime Bank.
/>
7.

aspx?ItemID=588&TabIndex=2&TaiLieuID=1618
/>
8.

phap-bao-dam-thuc-hien-nghia-vu-trong-Du-thao-BLDS-VCCI.aspx
/>
9.

ItemID=16
/>
dam-tien-vay-hien-nay/
10. />
14



×