Tải bản đầy đủ (.docx) (33 trang)

giá trị nôi dung và nghệ thuật của tác phẩm hạnh thục ca

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (286.53 KB, 33 trang )

1

LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành bài niên luận này, tôi xin gửi lời cảm ơn sâu sắc đến thầy hướng
dẫn niên luận – Ths. Lê Văn Thi đã tận tình chỉ bảo, giúp đỡ. Mặc dù rất bận rộn, song
thầy vẫn nhiệt tình truyền đạt, sửa bài, cung cấp cho tôi nhiều kiến thức giúp tôi học hỏi
được nhiều kinh nghiệm và hoàn thành trọn vẹn bài niên luận này.


2

MỤC LỤC
Trang
A. PHẦN MỞ ĐẦU…………………………………………..………...……………........3
1. Lý do chọn đề tài……………………………………………..…………….……3
2. Lịch sử nghiên cứu……………………………………………..………….…….3
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu……………………………..…….…………..4
4. Phương pháp nghiên cứu………………………………………..….……………4
5. Kết cấu của niên luận…………………………………………..………………..4
B. PHẦN NỘI DUNG……………………………………….……………………….....…5
CHƯƠNG 1 : NGUYỄN THỊ BÍCH VÀ TÁC PHẨM HẠNH THỤC CA
1.1. Cuộc đời…………………………………………………………...….….……5
1.2. Tác phẩm Hạnh Thục ca…………………………………………………...…..6
CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA TÁC PHẨM HẠNH THỤC CA
2.1. Giá trị hiện thực……………………………………………….…..…….….....9
2.1.1 Diện mạo của tầng lớp quý tộc trong thời kì loạn lạc……………….…….....9
2.1.2 Dấu ấn văn hóa, nghi lễ cung đình thời bấy giờ……………………….…...14
2.2. Giá trị lịch sử ……………………………………………………..……...…..15
2.2.1 Những biến cố lịch sử trong triều đại cuối cùng ………………..…..……..15
2.2.1.1 Pháp lần đầu tấn công nước ta…………………………………………….16
2.2.1.2 Tứ nguyệt tam vương……………………………………………………..16


2.2.1.3 Sự kiện thất thủ kinh đô và phong trào Cần Vương……………………..18
2.2.1.4 Các sự kiện khác…………………………………………………………..19
2.2.2. Thái độ của tác giả trước những biến loạn của thời cuộc…………….…...20
2.2.3 Giá trị sử liệu…………………………………………………………...…...22
CHƯƠNG 3: GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TÁC PHẨM HẠNH THỤC CA
3.1 Thể thơ ……………………………………………………..……………...…22
3.2 Ngôn ngữ ………………………………………………..………….…….....24
3.3 Không gian và thời gian nghệ thuật……………………..………...………….25
3.3.1 Không gian nghệ thuật……………………………….…..…………………25
3.3.2 Thời gian nghệ thuật…………………………………..……….….………..29
C. PHẦN KẾT LUẬN……………………………………..…..………….….……….....31
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO………………………………...……………………..……32


3

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài

Xét trong tiến trình phát triển của văn học dân tộc Việt Nam, văn học trung đại có
một vị trí đặc biệt quan trọng, bởi trong suốt hàng nghìn năm phát triển, văn học trung đại
đã phản ánh rõ nét về đất nước, con người Việt. Nền văn học ấy đã nảy sinh từ chính quá
trình đấu tranh dựng nước và giữ nước, đồng thời văn học còn tham gia vào quá trình đấu
tranh này. Qua đó, những truyền thống lớn trong văn học dân tộc đã hình thành, phát triển
và ảnh hưởng rõ nét đến sự vận động của văn học hiện đại. Cho nên, việc nghiên cứu văn
học trung đại chính là tìm về với quá khứ hào hùng của dân tộc, bên cạnh đó còn giúp
chúng ta hiểu thêm về những nét đặc sắc trong đời sống vật chất và tinh thần của người
xưa, góp phần lý giải các quy luật phát triển của văn học dân tộc.
Chính điều đó, chúng tôi đã chọn tác giả Nguyễn Thị Bích với tác phẩm Hạnh Thục
ca, đây là một thiên hồi kí lịch sử bằng thơ, dài hơn 1000 câu, là một áng văn chương

viết về một giai đoạn lịch sử nước nhà..
Là một người vốn yêu thích văn học, nhất là văn học Việt Nam, tôi hi vọng rằng niên
luận này sẽ phần nào giúp người đọc hiểu hơn về tác giả và tác phẩm Hạnh Thục ca, cũng
như tình hình xã hội Việt Nam trong giai đoạn lịch sử từ năm 1885 đến 1900.
2. Lịch sử nghiên cứu đề tài
Nền văn học Việt Nam là một trong những nền văn học có nhiều đóng góp cho kho
tàng văn học nhân loại. Văn học trung đại mang trên mình sứ mệnh cao cả, phản ánh một
cách đầy đủ mọi bước đi của dân tộc. Chính vì thế khi nghiên cứu văn học Việt Nam nói
chung và văn học trung đại nói riêng, người nghiên cứu phải có những hiểu biết về lịch sử
và văn chương, phải đặt văn học trung đại trong mối quan hệ với văn học dân gian và văn
học hiện đại để tìm ra sự kế thừa, phát triển.
Mặt khác kho tàng văn học trung đại đã mất mát khá nhiều theo thời gian do nhiều
nguyên nhân khách quan và chủ quan như do chiến tranh, loạn lạc, sách vở bị thiêu hủy,
hay do công tác bảo tồn, sưu tầm tư liệu chưa được quan tâm đúng mức. Vì thế việc tiếp
cận, đánh giá tác phẩm khó tránh khỏi suy diễn, áp đặt do thiếu tư liệu để kiểm chứng.
Về tác phẩm Hạnh Thục ca đã có không ít nhà nghiên cứu, bạn đọc sử dụng làm sử
liệu, nghiên cứu và nhận xét…Tuy nhiên trên thực tế đây là cái tên khá mới mẻ với đa số
độc giả. Những công trình nghiên cứu tác phẩm này vẫn còn hết sức khiêm tốn. Có những


4

lời nhận xét, đánh giá về tác phẩm của bà như: Việt Nam văn học sử yếu (Dương Quảng
Hàm), Việt Nam văn học sử giản ước tân biên (Phạm Thế Ngũ),…
Ngoài ra, kể từ khi hoàn thành, mãi cho đến năm 1950, Hạnh Thục ca mới được nhà
xuất bản Tân Việt cho ấn hành tại Sài Gòn. Người có công phát hiện, biên dịch và chú
thích tác phẩm là Trần Trọng Kim. Kể lại điều này, ông viết:
...Tôi tìm được quyển sách này ở Huế, tôi liền đưa cho trường Bác cổ sao lấy một
bản, tôi lại cho ban văn học ở Khai trí tiến đức sao lấy một bản. Còn bản của tôi giữ, thì
đem dịch ra làm mấy bản bằng quốc ngữ, phòng khi ở chỗ này mất, thì ở chỗ khác hãy

còn. Ấy cũng nhờ vậy mà sau cuộc binh lửa cuối năm Bính Tuất (1946) bao nhiêu sách vở
của tôi bị đốt cháy, mà còn có người giữ được một bản... Nay tôi đem chú thích những
tiếng khó bằng chữ nho và những tiếng tối nghĩa, rồi chia nguyên văn ra từng đoạn, có đề
mục nhỏ ở cạnh rìa, để người ta xem cho dễ hiểu.. [2]
Theo các nhà nghiên cứu, đây là một tác phẩm có giá trị về mặt sử liệu. Chính vì
vậy tôi muốn nghiên cứu những nét độc đáo riêng biệt, những giá trị về nội dung và nghệ
thuật tác phẩm Hạnh Thục ca của bà cũng như mong muốn hiểu rõ hơn về nữ tác giả này.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

- Đối tượng nghiên cứu của đề tài là tác phẩm Hạnh Thục ca của Nguyễn Thị Bích.
- Phạm vi nghiên cứu của đề tài là tìm hiểu nội dung và nghệ thuật trong tác phẩm
Hạnh Thục ca của Nguyễn Thị Bích.
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
Về phương pháp nghiên cứu, người viết sử dụng phương pháp phân tích, tổng hợp, so
sánh, quy nạp, diễn dịch để trình bày một cách có hệ thống vấn đề mà niên luận đã đặt ra.
Phương pháp được người viết chú ý là phương pháp phân tích .
Người viết sẽ sử dụng nhiều nguồn tư liệu khác nhau. Đó là các nguồn tư liệu từ
sách báo, các tạp chí nghiên cứu khoa học, tác phẩm Hạnh Thục ca cũng như những tư
liệu trên internet để tiến hành việc nghiên cứu.
5. Kết cấu của đề tài
Ngoài phần mở đầu và kết luận, niên luận gồm có 3 chương:
Chương 1: Nguyễn Thị Bích và tác phẩm Hạnh Thục ca
Chương 2: Giá trị nội dung của tác phẩm Hạnh Thục ca
Chương 3: Giá trị nghệ thuật của tác phẩm Hạnh Thục ca


5

PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: NGUYỄN THỊ BÍCH VÀ TÁC PHẨM HẠNH THỤC CA

1.1. Cuộc đời
Nguyễn Thị Bích (1830-1909), tự là Lang Hoàn; là tác giả bài Hạnh Thục
ca trong văn học Việt Nam. Bà là một phi tần của hoàng đế Tự Đức nhà Nguyễn, là một
cung phi có tài danh, đức độ.
Nguyễn Thị Bích sinh tại làng Đông Giang, huyện An Phước, đạo Ninh Thuận (nay
thuộc tỉnh Ninh Thuận), là con gái thứ 4 của Nguyễn Nhược Sơn (nguyên là Bố chính
tỉnh Thanh Hóa) và bà Thục nhân họ Nguyễn.
Nguyễn Nhược Sơn là một nhân tài hiếm hoi của vùng Chiêm Thành, Ninh Thuận.
Ông có tính tình khẳng khái, không chịu ràng buộc trong khuôn phép, gặp việc gì đáng
làm là làm không cần suy nghĩ và cũng không sợ hậu quả xấu đến với mình. Bởi thế,
trong quãng đời làm quan, ông không ít lần bị bãi chức. Cũng nhờ tài trí thông minh và sự
phóng khoáng của người cha mà bà Nguyễn Thị Bích đã được ăn học và bộc lộ tài năng
của mình. Bà đi theo cha nhiều nơi nhưng bất cứ ở nơi nào bà cũng được mọi người ca
ngợi.
Nhờ được học hành tử tế cùng với tư chất thông minh, ngay từ nhỏ bà đã sớm nổi
tiếng về tài văn chương. Vừa có tài sắc, lại được Phụ chính đại thần Lâm Duy Nghĩa tiến
cử, năm 18 tuổi (Tự Đức nguyên niên, 1848), Nguyễn Thị Bích được tuyển vào cung.
Trong một buổi ngâm vịnh, Vua Tự Đức xướng đề thơ Tào Mai (Hoa mai sớm nở) và bài
họa của bà được nhà vua khen tặng 20 nén bạc, đồng thời cho sung chức Thượng Nghi
Viên Sư, để dạy học trong nội cung. Lịch sử đã ghi chép, các bà vợ chính của Vua Tự
Đức phần lớn là con gái các đại thần có thế lực nhất trong triều. Nhiều bà Nhất nhị giai
phi được phong chức là nhờ chức tước của các vị thân sinh chứ không phải do tài sắc mà
có. Có thể tìm được cung tần mỹ nữ đẹp nhưng tìm được người tài trí thông minh thì
không phải chuyện dễ. Nguyễn Thị Bích là một trường hợp đặc biệt như vậy.[8]
Sau đó, bà lần lượt được phong: Tài nhân (1850), Mỹ nhân (1860), rồi Quý nhân.
Năm 1868, bà được tấn phong là Lục giai Tiệp dư. Theo sử nhà Nguyễn, thì trong khoảng
thời gian bà được cử làm thầy dạy "kinh điển và dạy tập nội đình" cho Đồng Khánh khi
ông chưa lên ngôi. Vì thế, trong cung người ta còn gọi bà là Tiệp Dư Phu Tử. Chính bởi



6

vậy bà Tiệp dư được Tự Đức tin cậy, yêu mến, thường cho cùng đi trong những buổi vua
đến vấn an mẹ và những cuộc trao đổi riêng với Hoàng thái hậu Từ Dụ về công việc trong
triều, trong hoàng tộc, những diễn biến của đất nước. Một thời gian sau, Tiệp dư Nguyễn
Thị Bích trở thành Bí thư cho Thái hậu Từ Dụ, nhờ vậy mà bà nghe được nhiều điều trao
đổi giữa thái hậu và vua, bởi những lúc đó chỉ mình bà được ở gần hầu hạ.[8]
Sau khi vua Tự Đức qua đời (1883), mọi ý chỉ sắc dụ của Lưỡng Tôn cung (chỉ
Hoàng thái hậu Từ Dụ và Chính phi Trang Ý) đều do một tay bà soạn thảo.
Trong thời kỳ "tứ nguyệt tam vương" (bốn tháng ba vua), cũng như những người ở
nội cung, Tiệp dư Nguyễn Thị Bích phải chịu sự chuyên chế của hai phụ chính đại thần
là Tôn Thất Thuyết và Nguyễn Văn Tường trong việc phế lập các vua Dục Đức,Hiệp Hòa,
Kiến Phúc.
Tháng 5 năm Ất Dậu (tức tháng 7 năm 1885), cuộc phản công của phe chủ chiến
ở Kinh thành Huế thất bại. Phụ chính Tôn Thất Thuyết phải phò vua Hàm Nghi chạy
ra Quảng Trị, bà hộ giá Tam cung chạy ra Quảng Trị (đoàn chỉ đến đây rồi trở lại Khiêm
Lăng Huế). Nhưng không lâu sau, vì hoàn cảnh quá khó khăn nên bà rước Tam cung trở
lại Huế, đến lánh ở Khiêm Lăng (Lăng vua Tự Đức) rồi trở về hoàng cung, chịu sự quản
chế của Pháp. Nhân sự kiện này, bà sáng tác bài Hạnh Thục ca (còn có tên Loan dư Hạnh
thục quốc âm ca) bằng chữ Nôm kể lại sự kiện lịch sử ấy, mượn tích truyện vua Đường
Huyền Tông ở Trung Quốc bỏ kinh đô, chạy vào đất Thục để tránh loạn An Lộc Sơn mà
qua đó nói về tình hình đất nước với những biến cố từ khi quân Pháp xâm lược.[8]
Khi Nguyễn Thị Bích theo Tam cung (Lê Ngọc Bình) hồi loan về Huế, lúc này người
con nuôi và cũng là học trò của bà, hoàng tử Ưng Kỷ, đã lên ngôi, lấy hiệu là Đồng
Khánh. Cũng trong khoảng thời gian đó, bà hết lòng hầu hạ, làm mọi việc do Thái Hoàng
Thái hậu Từ Dụ giao cho, những lúc rảnh rỗi bà vẫn sáng tác văn thơ. Năm Thành
Thái thứ 4 (1892), bà được Thái hoàng thái hậu Từ Dụ tấn phong làm Tam giai Lễ tần.
Tháng 11 (âm lịch) năm Duy Tân thứ 3 (1909), Nguyễn Thị Bích qua đời tại Huế,
thọ79 tuổi. Lăng mộ bà hiện ở làng Dương Xuân Thượng, thành phố Huế, tỉnh Thừa
Thiên Huế.

1.2. Tác phẩm Hạnh Thục ca
Tác phẩm của Nguyễn Thị Bích có một số bài thơ chữ Hán và một tác phẩm có tên là
Loan dư Hạnh thục quốc âm ca (còn gọi là Hạnh thục ca) bằng chữ Nôm, dài 1016 câu
theo thể thơ lục bát, phần lớn kể lại mọi biến cố xảy ra từ khi quân Pháp sang đánh chiếm
Việt Nam cho đến khi Thành Thái lên nối ngôi vua.


7

Theo các nhà nghiên cứu, thì đây là một tác phẩm rất có giá trị về mặt sử liệu.Tuy
nhiên, qua nó cũng đã cho thấy tác giả là một người quen sống trong cung cấm, có tầm
nhìn hẹp, có tâm lý sợ khổ và nặng tư tưởng cầu an. Lời thơ trong Hạnh Thục ca có một
âm điệu nhẹ nhàng, phảng phất một nỗi buồn man mác. Mặc dù nhìn nhận sự việc trong
triều đình với nhãn quan của một bà hoàng trong cung cấm nhưng Hạnh Thục ca vẫn
được lịch sử Việt Nam đánh giá là nguồn sử liệu có ý nghĩa lịch sử và văn học quý giá.
Không phải là một người thông minh, có tài thơ văn, có lòng yêu nước thì không ai có thể
viết được tác phẩm ấy.
Hạnh Thục ca được Nguyễn Thị Bích khởi sự viết sau khi Kinh thành Huế thất
thủ vào tháng 7 năm 1885, và hoàn thành sau năm 1900, tức sau lễ bát tuần của Thái
hậu Từ Dụ (1810-1892). Đây là áng văn chương thời thế, kể lại một giai đoạn lịch
sử nhiều biến động của nước Việt.
Sở dĩ bà Nguyễn Thị Bích lại đề nhan sách của mình với tên Hạnh Thục ca là vì bà
thấy triều Nguyễn lúc ấy phải bỏ kinh thành chạy ra Quảng Trị, giống như cái hoàn cảnh
triều đình nhà Đường bên Tàu ngày xưa. Vua Minh Hoàng bị giặc An Lộc Sơn đánh phải
bỏ kinh thành Trường An chạy vào đất Thục để lánh nạn.[7]
Bên cạnh đó theo nghĩa chữ Nho, khi vua đi đến đâu gọi là hạnh. Hạnh Thục là vì vua
đi đến đất Thục. Vì có cái hoàn cảnh hơi giống nhau như thế nên bà đã lấy hai chữ ấy mà
đặt tên cho cuốn sách của mình.
Nguyên tác là bài thơ lục bát không phân đoạn nhưng Trần Trọng Kim đã
phân chia và đặt tên từng phần như sau:

1. Lời mở đầu nói sự kế truyền ở nước Việt Nam
2. Vua Gia Long ra đời
3. Pháp sang lấy Nam Việt
4. Giặc ở Bắc Việt
5. Pháp đánh Bắc Việt lần thứ nhất
6. Pháp đánh Bắc Việt lần thứ hai
7. Vua Dực Tông mất
8. Từ Dụ Thái hậu thương con
9. Đức độ của vua Dực Tông
10. Không có con nuôi cháu làm con
11. Tường và Thuyết bỏ tự quân


8
12. Tường, Thuyết xin lập vua Hiệp Hòa
13. Phan Đình Phùng can, bị giam
14. Vua Hiệp Hòa lên ngôi
15. Quân Pháp vào đánh Thuận An
16. Thái độ vua Hiệp Hòa đối với vua Dực Tông
17. Tường và Thuyết tâu bà Thái Hậu bỏ vua Hiệp Hòa
18. Giết vua Hiệp Hòa đã thoái vị và ông Trần Tiễn Thành
19. Lập vua Kiến Phúc
20. Làm lễ Ninh Lăng cho vua Dực Tông
21. Pháp sách nhiễu mọi điều ở Huế
22. Quyền thần hoành hành trong Kinh
23. Vua Kiến Phúc mất
24.
25.
26.
27.

28.
29.
30.
31.
32.
33.
34.
35.
36.
37.
38.
39.
40.
41.
42.
43.
44.
45.

Tường và Thuyết nói có di chiếu lập ông Ưng Lịch
Vua Hàm Nghi lên ngôi
Giết ông Dục Đức và các hoàng thân
Làm lễ tấn tôn bà Từ Dụ Thái hậu
Pháp lại uy hiếp, Tôn Thất Thuyết định chống lại
Lập đồn Tân Sở
Thống tướng De Courcy vào Huế
Tôn Thất Thuyết đánh quân Pháp
Xa giá xuất ngoại
Xa giá đến Quảng Trị
Tôn Thất Thuyết để các bà ở lại và đem vua Hàm Nghi đi

Được tin Nguyễn Văn Tường
Xa giá tam cung trở về Khiêm lăng
Nguyễn Văn Tường xin Thái hậu hãy tạm thính chính
Quân Cần Vương nổi lên ở mọi nơi
Sai người đi tìm vua Hàm Nghi
Nguyễn Hữu Độ ở Bắc vào Huế bất hòa với Nguyễn Văn Tường
Định lập vua khác
Nguyễn Văn Tường bị bắt đi đầy
Nguyễn Hữu Độ và Phan Đình Bình vào Huế giữ triều chính
Khâm sứ Pháp vào yết kiến bà Thái hậu
Vua Đồng Khánh lên ngôi


9
46. Gia tôn bà Thái hậu
47. Vua Đồng Khánh ra Quảng Trị
48. Vua Đồng Khánh mất
49. Vua Thành Thái lên ngôi
50. Lễ bát tuần bà Thái hậu

CHƯƠNG 2: GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA TÁC PHẨM HẠNH THỤC CA
2.1. Giá trị hiện thực
Văn học là một hình thái ý thức xã hội đặc thù. Nó cùng với các bộ môn nghệ thuật
khác tạo nên diện mạo tinh thần của một dân tộc. Nếu như phương thức phản ánh của hội
họa là màu sắc, của âm nhạc là giai điệu, của kiến trúc là hình khối,…thì của văn học
chính là ngôn từ nghệ thuật. Vì thế cho nên, bản thân văn học gắn bó chặt chẽ với ngôn
ngữ dân tộc và là một trong những kênh quan trọng để nuôi dưỡng và phát triển hệ thống
vốn từ tiếng Việt cùng với các quy tắc sử dụng nó. Mặt khác, văn chương cũng như tất cả
các loại hình nghệ thuật khác đều hướng tới việc phản ánh hiện thực, tái tạo hiện thực
hoặc xây dựng một hiện thực viễn tưởng. Như thế, đối tượng phản ánh của nó chính là

con người, cuộc đời và mục đích hướng tới cũng chính là cải tạo xã hội, hướng con người
đến những giá trị tốt đẹp của cuộc sống. Nhiều tác phẩm văn học mang giá trị hiện thực
và giá trị lịch sử sâu sắc, tiêu biểu như Hạnh Thục ca của Nguyễn Thị Bích. Trước hết là
giá trị hiện thực, vậy giá trị hiện thực là gì? Có thể hiểu là giá trị nói lên những bộ mặt
hiện thực của cuộc sống mà từ đó khi nhìn vào đấy người ta biết rằng hiện thực nước ta
lúc bấy giờ phải sống như thế nào.
2.1.1. Diện mạo của tầng lớp quý tộc trong thời kì loạn lạc
Khi vận mệnh đất nước gặp nguy nan thì cảm hứng chủ đạo của văn học là cảm
hứng yêu nước và văn học trung đại luôn bám sát lịch sử dân tộc, phản ánh những sự kiện
trọng đại liên quan đến vận mệnh đất nước. Cảm hứng yêu nước luôn gắn liền với tư
tưởng trung quân như là một tất yếu trong lịch sử xã hội phong kiến, bởi xã hội phong
kiến quan niệm nước là vua, vua là nước. Do đó văn học thời phong kiến quan niệm: yêu
nước là phải trung với vua và trung với vua tức yêu nước. Cảm hứng yêu nước được thể
hiện phong phú, đa dạng qua mọi thời kì lịch sử, khi đất nước có giặc ngoại xâm.
Bàn về tác phẩm Hạnh Thục ca, nhà nghiên cứu Nguyễn Tường Phượng có phê
bình quan niệm lịch sử "trị loạn xoay dần" của tác giả, vì quan niệm ấy thần bí và lạc hậu.
Ông lại công kích thái độ thiên vị chủ quan của tác giả, như quan niệm hẹp hòi của nhà
Nguyễn về nhà Tây Sơn, mạt sát nhà Tây Sơn:


10

Đến sau chính sự đãi hoang
Ngụy Tây thiết cứ bạo cuồng ngược dân. (21 -22)
hay quá đề cao vua Tự Đức:
Trị vì sáu sáu năm chầy
Lòng nhân tính hiếu đức tày Thuấn Nghiêu.(127-128)
có ác cảm với phong trào Cần Vương :
Thừa cơ phá huyện cướp châu
Làm cho lê thứ lo âu nghiêng nghèo.(821-822)

Và ông Nguyễn Tường Phượng kết luận rằng đây là một tác phẩm ghi đúng tâm
trạng của lớp quý tộc trên bước đường cùng, đi tìm an ủi trong cái triết lý thần bí và lạc
hậu của họ... Tuy nhiên, theo giáo sư Phạm Thế Ngũ thì:
Công bình hơn, có lẽ ta nên nói rằng tư tưởng của tác giả chỉ nằm trong hệ thống
ý thức cổ truyền của lớp Nho gia làm quan khi ấy. Thêm vào đó là quan điểm của một
phụ nữ có tầm nhìn hẹp, suy xét bằng thiên vị và tình cảm...Lại từ nhỏ, tác giả sống nơi
khuê các, chân yếu tay mền, bỗng dưng bị đẩy vào cơn phong trần, nên có tâm lý sợ khổ,
ghét loạn và cầu an. Với con người như vậy, dĩ nhiên không thể đòi hỏi một thái độ tranh
đấu tích cực, một quan niệm ái quốc sáng suốt, một áng văn truyên truyền cho chủ nghĩa
quốc gia...[7]
Đúng vậy, Hạnh Thục ca phản ánh rất thực xã hội lúc bấy giờ. Tác phẩm được viết
theo khuynh hướng về chủ nghĩa quốc gia. Theo sự phân chia của Trần Trọng Kim, sáu
phần đầu tác giả kể về tình hình đất nước lúc bấy giờ rơi vào tay thực dân Pháp. Trong
khoảng hai mươi lăm năm trời, từ năm 1778 là năm Nguyễn Nhạc xưng vương đến năm
1802 là năm vua Gia Long lên ngôi mà trong nước thay ngôi đổi chủ đến mấy lần, vì thế
lòng người cũng phân vân. Sau khi Tây Sơn dứt họ Trịnh, cựu thần nhà Lê và các sĩ phu
ngoài Bắc kẻ thì ra phò tân triều người thì đi ẩn lánh các nơi, trong Nam cũng có nhiều
người không chịu ra làm quan với nhà Tây Sơn. Ngay sau khi vua Gia Long đã thống nhất
thiên hạ mà ngoài Bắc cũng còn nhiều người tưởng nhớ nhà Lê không chịu ra thờ triều
Nguyễn hoặc miễn cưỡng phải ra làm quan.
Vua Gia Long là hoàng đế thành lập nhà Nguyễn, đề cao Nho học, cho lập Văn
Miếu ở các doanh, các trấn thờ đức Khổng Tử và lập Quốc Tử Giám năm 1803 ở Kinh
thành Huế để dạy cho các quan và các sĩ tử, mở khoa thi Hương lấy những người có học,
có hạnh ra làm quan cho nên được nhân dân xem là “thánh nhân”:
Cứu đời mừng có thánh nhân
Hoàng triều khải vận dẹp quân hung tàn


11


Mở mang bờ cõi phong cương
Thay Lê diệt Trịnh sửa sang mối giường. (12-15)
Vua Gia Long làm vua được 18 năm thì qua đời. Đến đời thứ tư thì vua Tự Đức
lên nối ngôi. Ông là con thứ 2 của vua Thiệu Trị và bà Phạm Thị Hằng, Vua Tự Đức lên
ngôi tháng 10 năm Đinh Mùi (1847), làm vua được 36 năm (1847-1883). Cuối thế kỷ
XIX đầu thế kỉ XX là khoảng thời gian chủ nghĩa thực dân ở Âu Tây đang lên mạnh.
Những nước Châu Á như Trung Hoa, Nhật Bản, Việt Nam và Xiêm đều là những nước có
văn hóa tối cổ, có nền chính trị phân minh, có kỷ cương, có chế độ rõ ràng, nhưng vì kém
hèn về đường vũ bị, cho nên đều thành ra những miếng mồi của những nước thực dân như
nước Anh, Pháp, Đức, Nga,…
Song mỗi một nước trong những nước suy nhược ấy có một hoàn cảnh, một tình
thế đặc biệt, cho nên có nước như Nhật Bản, chóng thoát khỏi sự uy hiếp của các nước
thực dân. Có nước như Trung Hoa và Xiêm tuy không đến nỗi mất nước, nhưng cũng bị
uy hiếp khá nặng. Còn nước như Việt Nam ta thì không những mất cả quyền tự chủ mà
còn bị người ta làm tiêu ma mất cả tinh thần quốc gia. Số phận nước Việt Nam tuy đến
năm Nhâm Ngọ (1882) mới thật quyết liệt, nhưng cái dự án của người Pháp định lấy nước
Việt Nam làm thuộc địa đã có từ lâu, mãi tới cuối đời Thiệu Trị, tức vào khoảng 1847
mới thực hiện ra một cách rõ ràng hơn trước.[2, tr5]
Lạ thay cái nước Pháp lan
Băng ngàn vượt biển lướt sang giòm hành
Thẳng vào Gia Định tung hoành
Cậy nghê tàu súng phá thành như chơi. (35-38)
Trong giai đoạn này đất nước chúng ta đang phải đối mặt với cuộc xâm lược từ
quân Pháp và nhiều cuộc nổi loạn ở phía Bắc cùng với đó là triều đình rối ren xảy nhiều
sự thay đổi lớn. Việc triều đình không có sự ổn định là một vấn đề hết sức nghiêm trọng,
trong khi giặc ngoài lăm le xâm phạm, những tầng lớp quan lại quý tộc lại không có được
sự đoàn kết mà luôn đấu đá, hãm hại lẫn nhau làm cho tình hình đất nước ngày càng nguy
cấp. Từ đó về sau nước Pháp chỉ chờ có cơ hội thuận tiện là vào đánh lấy đất đai và uy
hiếp đủ mọi đường. Cái phương sách của người Pháp là đi từ từ từng bước một, trước lấy
một nửa Nam Việt, sau lấy cả Nam Việt. Trong khi đó triều đình không kiên quyết chống

giặc, cầm chừng, mà chủ yếu thiên về thương thuyết, nghị hòa. Triều đình bỏ dân, quan
lại hèn nhát kháng chiến của nhân dân mang tính tự phát. Triều đình nhu nhược, đường
lối kháng chiến không đúng đắn, không đoàn kết với nhân dân:
Cầu hòa ba tỉnh cắt giao,


12

Hãy còn ba tỉnh lẻn vào cướp không.(45-46)
Khi công cuộc ở Nam Việt đã xếp đặt đâu ra đấy rồi, bấy giờ mới tìm cách ra lấy Bắc
Việt:
Tây, Tàu ỷ thế dọc ngang
Thêm đoàn Bắc Khấu quân ngoan cùng dòng.(55-56)
Lần đầu vào năm Quí Dậu (1873) quân Pháp ra lấy thành Hà Nội rồi lại trả lại, để
mười năm sau là năm Nhâm Ngọ (1882) lại đánh lấy lần nữa. Qua năm Quí Tị (1883)
quân Pháp xuống lấy thành Nam Định, rồi tháng tư năm ấy, người thống suất quân Pháp
là đại tá Henri Rivière bị quân cờ đen giết ở gần Ô Cầu Giấy:
Bắc Kỳ gắm ghé bấy nay
Quyết lòng trở mặt ra tay cướp vầy (65-66)
...
Dâng công An nghiệp tài hèn
Bị Lưu Vĩnh Phúc giết liền, rất ưng.(73-74)
Các phần về sau tác giả chủ yếu kể về những việc xảy ra trong triều đình, người
ngoài khó lòng biết được hoặc nếu có biết cũng không thể hơn người trong cuộc. Trong
buổi đầu pháp xâm lược nước ta triều đình cũng có quyết tâm trong việc chống giặc, cử
Nguyễn Tri Phương ra đốc quân chống giặc, cử Hoàng Diệu làm tổng đốc Hà nội để giữ
lấy Bắc Kì. Nhưng rồi hai vị tướng này đều lần lượt hi sinh. Nguyễn Tri Phương thất thủ
ở Gia Định, còn Hoàng Diệu cũng quyên sinh ở Long Thành:
Long Thành pháo lửa đùng đùng,
Một gươm Hoàng Diệu gan trung ai bì.(85-86)

Trong khi quân Pháp vào đánh phá, việc nước rối loạn, thì vua Dực Tông băng hà
ở Huế. Từ đó về sau, trong khoảng năm sáu năm, biết bao nhiêu đau buồn xảy ra ở đất
Việt Nam:
Tôi con đều dạ âu lo
Hết lần cầu khấn xin cho thọ trường
Trời kia sao nỡ chẳng thương
Xe rồng vội giục vân hương tếch vời.(103-106)
Pháp đã định đánh lấy nước ta, thì lẽ tất nhiên là ta phải đánh lại, song vì sức
không đủ, phải nhờ quân Tàu sang cứu viện, thành ra trong khoảng từ năm Quí Tị (1883)
đến năm Ất Dậu (1885) đất Bắc Việt khắp nơi bị tàn phá. Quân Pháp thấy tình thế khó
khăn, bèn sai Hải quân thiếu tướng Courbet sang đánh thành Phúc Châu và vây đảo Đài
Loan. Thế bất đắc dĩ, triều đình nhà Thanh phải ký hòa ước ngày 27 tháng 04 năm Ất Dậu


13

(1885) ở Thiên Tân, cam đoan rút quân Tàu ở Bắc Việt về và nhận để nước Pháp được
quyền tổ chức cuộc bảo hộ ở Việt Nam. Bảo hộ là một chính sách rất khôn khéo. Khi
quân Pháp đã chinh phục được cả nước rồi, cứ để nguyên chế độ và các danh vị cũ, chỉ
cốt đem những người thân tín hay tôi tớ của mình vào giữ các chức vị quan trọng để dễ bề
sai khiến. Dần dần người Pháp thu hết cả thực quyền vào tay mình. Những việc như binh
bị, tài chính, cai trị và giáo dục v.v...đều do người Pháp chủ trương và điều khiển. Người
bản xứ từ vua quan trở xuống hoặc chỉ được giữ cái hư vị, hoặc chỉ được làm những chức
vụ thừa hành ở dưới quyền chỉ huy của người Pháp. Theo cái chính sách ấy thì dân khí
trong những xứ bảo hộ mỗi ngày một suy nhược đi, lâu dần thành ra một hạng người làm
tôi tớ rất giỏi, mà không có cái tư cách làm người tự chủ nữa.Việc triều chính lúc ấy rối
loạn do hai người quyền thần muốn thừa cơ mà chuyên quyền lộng hành là Nguyễn Văn
Tường và Tôn Thất Thuyết, một người coi tiền tài và quan lại, một người giữ hết cả binh
quyền ở trong tay. Hai người thoạt đầu tiên đổi di chiếu của vua Dực Tông, phế bỏ Dục
Đức:

Văn Tường, Tôn Thuyết chẳng lơ
Bắt chưng lỗi ấy phiến từ dâng tâu.(163-164)
Và cách chức quan ngự sử Phan Đình Phùng:
Dẫn ra ngục thất giam vây
Uy dường sấm sét, ai rày dám phân.(205-206)
Sau khi lập vua Hiệp Hòa được hơn bốn tháng, hai người lại bỏ vua Hiệp Hòa rồi
đem giết đi, giết cả quan nguyên Phụ chính Trần Tiễn Thành và lập vua Kiến Phúc. Lúc
bấy giờ TônThất Thuyết mộ quân Phấn nghĩa để giữ mình và thường hay tiếm dùng nghi
vệ của vua; Nguyễn Văn Tường thì lấy tiền hối lộ của lũ khách buôn, cho chúng đem một
thứ tiền đúc ở bên Tàu, theo niên hiệu Tự Đức, gọi là tiền sềnh, tiền rất xấu và rất mỏng,
bắt dân ở kinh kỳ phải tiêu.Vua Kiến Phúc lên làm vua được sáu tháng thì mắc bệnh, mất
một cách khả ngờ.[2, tr5]
Nương mây phút sớm tếch vời
Năm thân tháng sáu rụng rời cành xuân.(403-404)
Tường và Thuyết lập ông Ưng Lịch mới 12 tuổi lên làm vua, tức là vua Hàm Nghi.
Triều đình lúc ấy việc gì cũng do hai người quyền thần ấy quyết định tất cả. Bọn quyền
thần lúc này đắc ý, lập thiếu chúa để được giữ quyền bính. Ông Dục Đức đã bị truất,
không được làm vua, đến bấy giờ cũng bị giết. Hoàng thân quốc thích ai làm điều gì trái ý
hai người ấy đều bị giết hay bị đày.Những việc ấy đều là việc bí mật ở trong triều, người


14

ngoài khó mà biết được rõ ràng. May nhờ lúc ấy có bà Lễ tần Nguyễn Nhược Thị đem
những sự bà đã tai nghe mắt thấy mà kể ra:
Mừng đà quốc bính quyền đương
Lăm phò thiếu chúa chi màng trường quân.(426-427)
Toàn bộ giới quan lại quý tộc bấy giờ trong hết sức nháo nhác, triều đình chia ba
xẻ bảy, để mặc sự lộng hành của quyền thần và bọn nịnh thần:
Chẳng qua gặp buổi suy vi,

Hoàng thân quốc thích gian nguy khôn cùng.
Ở đời chẳng giữ đạo trung,
Xu viêm phụ nhiệt những mong sang quyền. (343-346)
Vua trẻ thì bất lực, quan lại thì bất tài, vô dụng lại còn đưa ra kế tìm Pháp cầu an
để chống lại quyền thần để dẫn đến họa sát thân: Ngạnh cường chẳng khứng phục tòng,
Kỳ anh Công cũng theo vòng chết oan. Thương thay lá ngọc cành vàng, Vì sao nên nỗi
lạc ràng khổ thay? Quý tộc quan lại bất tài vô dụng đã đành lại còn thêm cái bệnh nhà
quan tham nhũng, hối lộ làm cho cái sự rối càng thêm rối, dân khổ càng thêm khổ:
Gẫm xem việc nước suy vi,
Cũng vì hối hóa tiền kia thông đồng.
Làm tôi chẳng giữ sạch trong,
Phì gia ích kỷ thửa lòng làm sao,
Vả rằng nhà nước tổn hao,
Chưng nay tế tự thể nào cũng nên. (385-390)
Là phận quần thần trụ cột của đất nước nhưng khi gặp phải cơ sự bất lợi ,nguy cấp
thì chỉ biết run rẩy trông chờ vào người khác: Cả triều kinh hãi lo ba, Nay mà chẳng
thuận ắt ra sự rầy. Trong lúc việc nước nguy nan, triều thần chủ chốt lại bất đồng trách
móc lẫn nhau, mà không biết cùng nhau nghĩ kế, tìm cách cứu nguy xã tắc. Có quan Tổng
đốc Bắc Kỳ, Tên là Trần Hữu Độ, bôn trì vào kinh. Trách rằng: "Đến nỗi mất thành, Làm
tôi như vậy nghĩ mình phải chưa”. Thông qua sự quan sát và ghi chép của tác giả mà ta có
thể tường tận về bộ mặt của quan lại quý tộc trong những năm tháng mạt vận của chế độ
phong kiến. Quý tộc đủ các thói xấu, tham ô, xu nịnh, hạch sách với dân chúng, nhu
nhược, hèn yếu, sợ hãi mang tâm lí cầu hòa trước kẻ thù.
2.1.2. Dấu ấn văn hóa, nghi lễ cung đình thời bấy giờ
Văn hóa vốn là khái niệm mang nội hàm rộng với rất nhiều cách hiểu khác nhau,
liên quan đến mọi mặt đời sống vật chất và tinh thần của con người. Nhưng ở đây ta chỉ
xét khái niệm văn hóa ở một nghĩa hẹp. Văn hóa là sản phẩm của loài người, văn hóa


15


được tạo ra và phát triển trong quan hệ qua lại giữa con người và xã hội. Song, chính văn
hóa lại tham gia vào việc tạo nên con người, và duy trì sự bền vững và trật tự xã hội. Văn
hóa được truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác thông qua quá trình xã hội hóa.
Văn hóa được tái tạo và phát triển trong quá trình hành động và tương tác xã hội
của con người. Văn hóa là trình độ phát triển của con người và của xã hội được biểu hiện
trong các kiểu và hình thức tổ chức đời sống và hành động của con người cũng như trong
giá trị vật chất và tinh thần mà do con người tạo ra.
Trong tác phẩm Hạnh Thục ca này dấu ấn để lại không chỉ là những sự kiện lịch sử
được ghi lại một cách đầy đủ và chân thực nhất mà đó còn là những dấu ấn về văn hóa.
Tác phẩm lưu giữ được phần nào những đặc trưng văn hóa triều Nguyễn trong thời buổi
loạn lạc và cho ta thấy từ những lễ nghi cung đình đến những tính ngưỡng và lối sống
thường ngày. Dưới cái nhìn của tác giả từ những sự kiện lớn lao đến những câu chuyện
hàng ngày trong cung cấm đều được ghi lại một cách khách quan. Qua đó chúng ta có thể
khái quát được một số đặc sắc về tư tưởng văn hóa, tập tục sinh hoạt, tín người, và đặc
biệt là lễ nghi cung đình. Thời đại phong kiến là nơi hệ tư tưởng Nho giáo đặc biệt phát
triển nên ý thức suy tôn và sung bái đức Vua và triều đại là rất phổ biến điều đố có thể dễ
dàng nhận ra. Bài Hạnh Thục ca có kể lại một số lễ nghi như: Làm lễ ninh lăng cho vua
Dực Tông Âu lo việc nước hãy nhiều, Ninh lăng đại lễ phải điều trước toan. Đến tuần
tháng chạp công thoan, Mồng hai hiệp cát nghinh sang bảo thành; Làm lễ Tấn tôn bà Từ
Dụ Thái hậu: Dụ rằng: Bày việc thêm buồn, Rằng noi lề trước nhìn tuồng đa nghi. Các
nơi lễ phẩm tha đi, Lễ lòng cũng chẳng chút gì dụng đâu. Hay lễ bát tuần bà Thái Hậu:
Kính dâng lễ lớn cử hành, Doãn cho cháu chắt tấc thành chút thân. Vừa đương thánh thọ
bát tuần, Tôn dâng khang thọ, chúc mừng muôn xuân.
Các nghi lễ, lễ hội là sinh hoạt văn hóa tinh thần của một cộng đồng người. Nó đã
được hình thành và phát triển từ lâu trong lịch sử nhân loại. Nghi lễ, lễ hội phản ánh một
cách rõ nét những đặc trưng về lịch sử và văn hóa của mỗi địa phương và của từng quốc
gia. Tác phẩm Hạnh Thục ca đã đưa bạn đọc quay về với quá khứ, tìm về lịch sử về cội
nguồn của dân tộc Việt. Qua những dòng thơ lục bát giản dị Nguyễn Thị Bích đã khắc
họa một cách chân thực những dấu ấn văn hóa, nghi lễ cung đình nói chung và triều đình

nhà Nguyễn nói riêng.
2.2. Giá trị lịch sử
2.2.1. Những biến cố lịch sử trong triều đại cuối cùng của chế độ phong kiến
nước ta


16

Triều Nguyễn - triều đại phong kiến cuối cùng ở Việt Nam, đã tồn tại trong suốt
hơn 143 năm (1802-1845) với 13 đời vua Nguyễn. Thông thường các vua Nguyễn sau khi
mất, bài vị được đưa vào thờ tại Thế Miếu, có Miếu hiệu ứng với tên của các đỉnh đồng
đúc dưới thời Minh Mạng (1835), trừ các vua bị phế truất và các vua bị Pháp đày ra khỏi
nước. Riêng vua Dục Đức (phế đế) có Miếu hiệu Cung Tôn Huệ Hoàng đế là do con trai
là vua Thành Thái truy phong, nhưng bài vị không được đưa vào thờ tại Thế Miếu. Các vị
vua yêu nước Hàm Nghi, Thành Thái, Duy Tân vào năm 1959 đã được Hội Đồng Nguyễn
Phước Tộc làm lễ và đưa bài vị vào thờ tại Thế Miếu.
Tác phẩm này được đánh giá cao bởi giá trị lịch sử của nó, là chuổi các sự kiện lịch
sử của nhà Nguyễn trong khoảng thời gian từ khi Pháp sang xâm chiếm nước ta cho đến
lúc làm “Lễ bát tuần bà Thái Hậu” Theo Lệ Thần Trần Trọng Kim thì đây là áng văn
chương thời thế, kể lại một giai đoạn lịch sử nhiều biến động của nước Việt. Thông qua
tác phẩm này chúng ta có thể khái quát được những biết cố lịch sử trong triều đại phong
kiến cuối cùng của nước ta.
2.2.1.1. Pháp lần đầu tấn công nước ta
Biến cố đầu tiên được ghi nhận đó cũng là biết cố lớn nhất trong lịch sử dân tộc
giai đoạn này, là sự kiện Pháp nổ súng xâm lược nước ta vào năm 1858 tương ứng với sự
kiện này trong tác phẩm có phân đoạn “ Pháp sang lấy Việt Nam”:
Lạ thay cái nước Pháp lan,
Băng ngàn vượt biển lướt sang giòm hành.
Thẳng vào Gia định tung hoành,
Cậy nghê tàu súng phá thành như chơi.

Ngăn ngừa không mặt hùng tài,
Cát lầm, thương bấy dân trời một phương.(35 -40)
Sau đó lần lượt các sự kiện xâm chiếm đất Bắc của Pháp cũng được tác phẩm diễn tả cụ
thể trong các phân đoạn : “Pháp đánh Bắc Việt lần thứ nhất”, “Pháp đánh Bắc Việt lần thứ
hai” nó tương ứng với hai cuộc tiến đánh Bắc Kì lần thứ nhất năm 1873 và lần thứ hai
1882 của thực dân Pháp được ghi lại trong lịch sử.
2.2.1.2. Tứ nguyệt tam vương
Sau khi vua Tự Đức băng hà (19.7.1883), triều đình Nguyễn lâm vào thế rối ren.
Chỉ trong bốn tháng (từ tháng 7 đến tháng 11.1883), ngai vàng triều Nguyễn đã ba lần đổi
chủ: Dục Đức - Hiệp Hòa - Kiến Phúc. Lợi dụng tình hình này, thực dân Pháp mở cuộc
tấn công vào cửa biển Thuận An (do thiếu tướng Courbet chỉ huy). Quan quân triều


17

Nguyễn anh dũng chống trả nhưng do chênh lệch lực lượng nên bị thất bại. Triều đình
buộc phải nghị hòa với Pháp. Sau cùng, thực dân Pháp ép triều Nguyễn ký hòa ước Quý
mùi (Hoà ước Harment) với những điều khoản rất bất lợi cho triều Nguyễn và gia tăng
quyền lực cho Tòa Khâm sứ ở Huế, cho phép Khâm sứ Trung Kỳ trực tiếp can dự vào
chính sự nước ta. Tác phẩm phác họa một cách chân thực bức tranh của thời kỳ này và
đặc biệt là sự kiện trong bốn tháng, ngai vàng triều Nguyễn đã ba lần đổi chủ mà các sử
gia gọi là “Tứ nguyệt tam vương” bi thảm này.
Từ sự kiện vua Dục Tông qua đời năm 1883 triều đình nhà Nguyễn ngày càng rối
loạn và tác phẩm cũng ghi chép đầy đủ giai đoạn nhiều biến động này với các phân đoạn:
“Vua Dực Tông mất” nói về sự kiện nhà vua băng hà 1883; và sau đó một trong những sự
kiện phức tạp nhất trong triều đại nhà Nguyễn là sự kiện “tứ nguyệt tam vương” cũng
được ghi chép đầy đủ qua các phân đoạn trong tác phẩm: từ phân đoạn “Tường và Thuyết
bỏ tự quân” nói về sự kiện lên ngôi bất thành của hoàng tử Ưng Chấn vì sự kiện đọc chiếu
không rõ ràng của Quan Phụ chính Trần Tiễn Thành, sự kiện này được lịch sử ghi nhận
khá giống với những gì tác phẩm ghi nhận. Sự kiện này được lịch sử ghi nhận: “Ngày 177-1883 Dương lịch, vua Tự Ðức băng hà tại điện Càn Thành. Theo di chiếu Hoàng tử

Ưng Chân vào chịu tang và coi như là vua kế vị, niên hiệu là Dục Ðức. Ba ngày sau (207-1883) là lễ đăng quang của vua Dục Ðức tại điện Thái Hoà. Quan Phụ chính Trần Tiễn
Thành đứng ra đọc Di chiếu, tới đoạn nói về tật xấu của vua, ông hạ giọng đọc rất thấp
(có sách nói là không đọc) thì lúc bấy giờ quan Phụ chính Nguyễn Văn Tường nhảy ra
nắm áo ông và nói lớn: Tại sao ông không đọc đoạn tiên đế nói đến những gì Ngài nghĩ
về Ưng Chân? Xong ông Tường cho người khác ra đọc lại di chiếu, đọc vừa xong cái
đoạn nói về thói hư tật xấu của vua Dục Ðức thì ông Tôn Thất Thuyết cắt ngang lời người
đọc và nói: Ðây là đoạn mà ông Thành đã không chịu đọc, phải xin ngưng buổi lễ để xin
ý kiến của Thái Hậu và đình thần xem thử phải làm gì ! Sở dĩ hai ông Nguyễn Văn Tường
và Tôn Thất Thuyết dám làm vậy vì trước đó hai ngày họ đã dâng lên Hoàng Thái Hậu Từ
Dụ tờ hạch tội buộc cho vua Dục Ðức ba tội lớn: Muốn sửa di chiếu; Có đại tang mà mặc
áo màu; Hư hỏng, ăn chơi. Ðược bà Hoàng Thái Hậu Từ Dụ bật đèn xanh, hai ông Phụ
chính Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết liền truất ngôi của vua Dục Ðức và quản
thúc ông ngay tại Dục Ðức đường. Nhà học của ông bỗng trở thành nhà tù giam. Ông Dục
Ðức làm vua chỉ vỏn vẹn có 3 ngày. Sau đó ông bị chuyển qua giam tại Thái Y Viện và
cuối cùng chết vì đói và khát tại Ngục Thất Thừa Thiên để lại 8 bà vợ, 11 người con trai
và 8 người con gái. (Vua Dục Ðức là cha của vua Thành Thái và là ông nội của Vua Duy
Tân)” [10].


18

Quan Ngự Sử Phan Ðình Phùng có lên tiếng can ngăn liền bị bắt giam rồi bị cách
chức đuổi về quê. Sự kiện này ứng với phân đoạn “Phan Đình Phùng can, bị giam”. Tiếp
sau đó là phân đoạn “Tường, Thuyết xin lập vua Hiệp Hòa”, “Vua Hiệp Hòa lên ngôi”
ứng với sự kiện ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết tôn em của vua Tự Ðức là
Lạng Quốc Công, tên là Hường Dật, lên làm vua, đặt niên hiệu là Hiệp Hoà. Vua Hiệp
Hòa sinh ngày 24 tháng 9 năm Đinh Mùi, lúc nhỏ có tên là Nguyễn Phúc Hồng Dật. Năm
Ất Sửu (1865) ông được phong là Văn Lãng Quận công. Đến năm Mậu Dần (1878) được
phong là Lãng Quốc công, nên đương thời thường gọi ông là Lãng Quốc công Hồng Dật
là vị vua thứ hai trong thời kỳ “tứ nguyệt tam vương”. Giai đoạn này do sự rối ren của

triều đình thực dân Pháp tận dụng thời cơ tấn công vào Thuận An được ghi chép qua phân
khúc “Quân Pháp vào đánh Thuận An” tương ứng với sự kiện 18/8/1883 thực dân Pháp
nổ súng đánh Huế và Hiệp ước Hác Măng được kí kết.
Sự kiên “tứ nguyệt tam vương” tiếp tục diễn ra với các phân đoạn tiếp theo “Tường
và Thuyết tâu bà Thái hậu bỏ vua Hiệp Hòa”, “Giết vua Hiệp Hòa đã thoái vị và ông Trần
Tiễn Thành”, “ Lập vua Kiến Phúc” tương ứng với chuỗi sự kiện: Vua Hiệp Hoà thấy hai
ông đại thần Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết lộng hành quá bèn tìm cách loại trừ
bằng cách thay đổi chức tước của hai ông cho bớt binh quyền. Hai ông Nguyễn Văn
Tường và Tôn Thất Thuyết biết là vua không tin dùng mình nên liền âm mưu lập ông
Dưỡng Thiện là con nuôi thứ ba của vua Tự Ðức lên làm vua rồi bắt ép vua Hiệp Hoà
uống thuốc độc chết. Vua Hiệp Hoà chỉ làm vua được hơn 4 tháng. Ông phụ chính Trần
Tiễn Thành ra tiếng phản đối nên bị hai ông Nguyễn Văn Tường và Tôn Thất Thuyết ra
lệnh giết luôn.Sau đó ông Tưởng và ông Thuyết lập vua Kiến Phúc. Ông Dưỡng Thiện,
tên là Ưng Ðăng là con nuôi thứ ba của vua Tự Ðức lên ngôi vua lấy niên hiệu là Kiến
Phúc là ông vua thứ ba của bốn tháng trời đầy biến động này. Vua chỉ có 15 tuổi, mọi
việc đều do ông Tường và ông Thuyết quyết định cả. Lại một lần nữa, việc đưa Ưng Đăng
hoàng tử lên ngôi vua là “cưỡng bức” lên ngôi. Tương truyền, giữa đêm khuya khoắt, vị
hoàng tử nhỏ tuổi này bị ép lên kiệu khiên vào cung sắc phong, vẫn còn run rẩy sợ hãi bảo
rằng: ta còn bé, sợ làm không nổi.Và, cái gì đến cũng phải đến. Sau 8 tháng tại vì, Ưng
Đăng, niên hiệu là vua Kiến Phúc, bạo bệnh mà qua đời. Có thể tạm kết phần này lại bằng
một câu: triều đình nhà Nguyễn lúc này thực sự loạn lạc và suy yếu. Quyền hành của vua
chúa bị phân tán cho nhiều người, Vua không còn là đấng toàn quyền, cửu ngũ chí tôn,
hoặc nói khó nghe một chút, vua chỉ là một cái mác dán vào một người. Và thừa kế vương
vị, trớ trêu thay, lúc này lại là một việc cực kỳ xui xẻo.
2.2.1.3. Sự kiện thất thủ kinh đô và phong trào Cần Vương


19

Sau đó vài tháng vua Kiến Phúc mất đáng lẽ con nuôi thứ hai của vua Tự Ðức là

ông Chánh Mông lên ngôi mới phải. Nhưng hai ông Tường và ông Thuyết sợ lập vua lớn
tuổi thì các ông ấy mất quyền hành nên chọn ông Ưng Lịch là em ruột ông Chánh Mông
mới 12 tuổi, tôn lên làm vua, đặt niên hiệu là Hàm Nghi. Nó được tác giả phản ánh trong
các phân đoạn, “Vua Kiến Phúc mất”, Tường và Thuyết nói có di chiếu lập ông Ưng Lịch,
“Vua Hàm Nghi lên ngôi”. Ưng Lịch lên ngôi lấy hiệu Hàm Nghi, là vị vua thứ 8 của
vương triều nhà Nguyễn . Chính thức lên ngôi ngày 1/8/1884 một năm sau đó diễn ra trận
kinh thành Huế thất thủ (23/5/1885 Âm lịch), vua cùng với triều đình đã phải xuất bôn
khỏi kinh thành. Cũng từ đây bắt đầu một trang mới cho cuộc đời của vua Hàm Nghi và
một vận mệnh mới cho dân tộc.
Năm (1885), Thống Tướng De Courcy được chánh phủ Pháp cử sang Việt Nam để
phụ lực vào việc đặt nền bảo hộ ở Việt Nam. Tướng De Courcy muốn vào yết kiến vua
Hàm Nghi nhưng lại muốn là toàn thể binh lính của ông, 500 người, đi vào cửa chánh là
cửa dành riêng cho đại khách. Triều đình Huế xin để quân lính đi cửa hai bên, chỉ có các
bậc tướng là đi cửa chính thôi cho đúng với nghi thức triều đình, nhưng tướng De Courcy
nhất định không chịu.Ông Nguyễn Văn Tường và ông Tôn Thất Thuyết thấy Pháp khinh
mạn Vua mình như thế đều giận lắm bèn nhất định tấn công trại binh của Pháp ở đồn
Mang Cá vào đêm 22 rạng 23/4 âm lịch, đến sáng thì quân Pháp phản công, quân ta thua
chạy. Sự kiện này cũng được diễn tả trong phân đoạn “Thống tướng De Courcy vào Huế”
và “Tôn Thất Thuyết đánh quân Pháp”. Sau sự kiện này là chuỗi những ngày phong trào
chống pháp phát triển mạnh mẽ và được sự ủng hộ của nhân dân nhiều nơi, nhưng cũng
chính sau sự kiện này vua Hàm Nghi phải rời bỏ kinh thành đi lánh nạn. Ông Nguyễn Văn
Tưởng lâm nạn và sự phát triển mạnh mẽ của phong trào Cần Vương của được tác phẩm
nhắc đến đầy đủ qua các phần: “ Xa giá xuất ngoại”, “Xa giá đến Quảng Trị”, “Quân Cần
Vương nổi lên ở mọi nơi”. Hưởng ứng chiếu Cần Vương, nhân dân khắp nơi dưới sự lãnh
đạo của các văn thân sĩ phu yêu nước đã sôi nổi đứng lên chống Pháp. Sự phát triển mạnh
mẽ của phong trào Cần Vương đã gây ra rất nhiều khó khăn cho Pháp, do đó lãnh tụ của
phong trào cũng bị Pháp truy đuổi gắt gao đặc biệt là vua Hàm Nghi, Lê Trực, Tôn Thất
Đạm tuy nhiên đều không có kết quả. Phong trào Cần Vương dần suy yếu khi vua Hàm
Nghi bị bắt vào năm 1888 đến cuối năm 1895 đầu 1896, khi tiếng súng cuộc khởi nghĩa
Hương Khê của Phan Đình Phùng thất bại, phong trào Cần Vương coi như chấm dứt. [11]

2.2.1.4. Các sự kiện khác


20

Có những sự kiện không được lịch sử ghi chép nhưng vẫn được tác giả diễn tả một
các đầy đủ vì như sự kiện giết vua Dục Đức và các hoàng thân trong phân đoạn “Giết ông
Dục Đức và các hoàng thân”:
Đã yên việc nỗi Tây kia,
Bấy giờ mấy kẻ hiềm nghi lo trừ.
Thương ông Dục Đức Hoàng trừ,
Dã yên thân phận chẳng nhờ khoan ân.
Vu cho bè đảng phỉ nhân,
U giam cấm cố, nghiêm răn canh giờ.
Nước cơm cấm chẳng cho đưa,
Làm cho sấu tử chẳng chờ sắc ban.
Xót thầm quân lính thở than,
Giấu đem ăn uống đỡ đường khát khao.(456-465)
Ngoài ra các sự kiện khác trong đời sống biến loạn của triều Nguyễn cũng được
phản ánh như: “Làm lễ Ninh lăng cho vua Dực Tông”, “Quyền thần hoành hành trong
kinh”, “Làm lễ Tấn tôn bà Từ Dụ Thái hậu”, “ Nguyễn văn Tường bị bắt đi đầy”. Các
phần “Khâm sứ Pháp vào yết kiến bà Thái hậu” và “Vua Đồng Khánh lên ngôi” đã diễn
tả lại sự kiện: Khi thấy vua Hàm Nghi đã thoát ly triều đình kéo cờ khởi nghĩa chống
Pháp, Thống tướng De Courcy sai ông De Champeaux lên yết kiến bà Từ Dũ là mẹ đẻ của
Vua Tự Ðức để xin lập ông Chánh Mông lên làm Vua. Ngày 6/8 năm Ất Dậu (1885), con
nuôi thứ hai của Vua Tự Ðức, tên là Chánh Mông phải thân hành sang bên Khâm sứ Pháp
làm lễ thụ phong, được tôn làm Vua, lấy niên hiệu là Ðồng Khánh. Ba năm sau vua Đồng
Khánh bệnh và mất vào ngày 27/12 năm Mậu Tí lúc được 25 tuổi. Vua Đồng Khánh mất,
triều đình Huế được sự đồng ý của Pháp đã đưa Bửu Lân lên ngôi vào ngày 1 tháng 2 năm
1889 với niên hiệu là Thành Thái, lúc mới 10 tuổi. Những sự kiện này cũng được ghi

chép đầy đủ trong Hạnh Thục ca ở phần “Vua Đồng Khánh mất” và “Vua Thành Thái lên
ngôi”. Tóm lại trong 50 phân đoạn của tác phẩm một thời kì lịch sử đầy biến động của
dân tộc ta đã được ghi chép một cách đầy đủ và rất chinh xác. Thời đại nhà Nguyễn một
thời đại phức tạp đất nước loạn lạc dọ ngoại xâm, do sự lạc hậu của chế độ, do quyền
thần, khiến cho giai đoạn này có nhiều sự kiến lịch sử bất thường. Trong tác phẩm này
bên cạnh ghi nhận đầy đủ sự kiện lịch sử vốn được ghi trong sử sách, bẳng cái nhìn của
người trong cuộc tác giả đã cho ta thấy những góc khuất mà lịch sử chưa ghi nhân được.
2.2.2 Thái độ của tác giả trước những biến loạn của thời cuộc


21

Các biến cố ở nước ta vào thế kỷ thứ XIX, nhất là việc can thiệp của nước Pháp đã
kích thích các sĩ phu lúc bấy giờ, nhân đó các nhà văn ấy viết ra nhiều thơ văn để thuật lại
các việc đã xảy ra hoặc phẩm bình các nhân vật đương thời hay biểu lộ cái cảm tưởng đối
với thời cuộc. Bà Nguyễn Thị Bích là một người có học lại ở trong hoàng cung, được mục
kích việc Kinh thành thất thủ năm Ất Dậu (1885) nhân đó vua Hàm Nghi phải chạy trốn
bèn soạn ra bài Hạnh Thục ca kể rõ công việc đã xảy ra cùng nỗi khốn khổ của dân sự lúc
bấy giờ. Đồng thời chỉ trích thái độ của bọn quyền thần đã gây nên việc ấy. Thông qua tác
phẩm tác giả thể hiện thái độ chủ quan của mình đối với thời cuộc bà thể hiện thái độ phê
phán, mạt sát nhà Tây Sơn: Ngụy Tây thiết cứ bạo cuồng ngược dân. Hay là vì vốn quý
tộc cung đình, là người chịu ân đức của vua Tự Đức nên bà quá đề cao vua Tự Đức:
Trị vì băm sáu năm chày
Lòng nhân tính hiếu đức tày Thuấn Nghiêu
Vạn cơ dư hạ chăm điều bút nghiên.
Muốn cho ai cũng đều nên,
Đặt làm sách vở để khuyên dạy người.(127-131)
Đặc biệt thái độ chủ quan của bà được thể hiện khi bà không ủng hộ và có ác cảm
với phong trào Cần Vương một phong trào yêu nước chống Pháp được nhân dân khắp nơi
ủng hộ:

Giận Tây dân chẳng phục tình,
Văn thân mấy đạo tranh hành giết nhau.
Thừa cơ phá huyện cướp châu,
Làm cho lê thứ lo âu nghiêng nghèo.
Vu cho Phò Cát đảng nhiều,
Lâm nghề uổng sát mang điều bất công. (819-824)
Sở dĩ bà có thái độ phản đối phong trào Cần Vương là vì bản thân là một người
phụ nữ nơi khuê các bỗng dưng gặp cơn biến loạn nên họ có tâm lý cầu an, họ muốn lánh
xa chiến tranh và muốn một cuộc sống bình an. Mặc dù vậy trong tác phẩm bà không
hoàn toàn thể hiện một thái độ chủ quan tiêu cực mà bên cạnh đó bà còn thể hiện một thái
độ căm ghét rạnh ròi trước sự xâm chiếm của thực dân Pháp.
Thẳng vào Gia Định tung hoành,
Cậy nghê tàu súng phá thành như chơi.
Ngănc ngừa không mặt hùng tài,
Cát lầm, thương bấy dân trời một phương. (37-40)
Và bên cạnh đó còn thể hiện thái độ oán trách cẳm hờn với bọn quyền thần lộng hành:


22

Kêu rêu nào dễ thấu trời,
Đã đành chậu úp khôn soi chốn mờ.
Vua thời còn hãy ấu thơ,
Mặc lòng sinh sát bắt tha uy quyền.
Tiếm dùng nghi vệ chẳng kiêng,
Lung lăng ngấp nghé ý riêng đã bày.
Binh quyền trao kẻ chân tay,
Mộ quân Phấn nghĩa để nay hộ mình.(367-374)
2.2.3 Giá trị sử liệu
Giá trị sử liệu là một giá trị đặc thù tồn tại song song với các giá trị khác như giá

trị thực dụng, giá trị dạo đức, giá trị thẩm mĩ… Giá trị sử liệu mang bản chất giá trị sử
học: dạng giá trị sử liệu biểu đạt giá trị của khách thể có được do vai trò về mặt tư liệu
lịch sử của nó đối với hoạt động sống của một xã hội, một giai cấp, một tầng lớp xã hội
hoặc mỗi cá nhân. Lịch sử Việt Nam từ năm 1858 đến năm đến năm 1900 có nhiều biến
động lớn, bị ảnh hưởng bởi quá trình xâm lược của thực dân Pháp cũng như sự lộng
quyền, tranh đấu của các quan đại thần trong triều. Triều đình nhà Nguyễn lúc bấy giờ
xảy ra nhiều sự kiện chính trị lớn nhỏ khác nhau để lại không ít hậu quả cho dân tộc ta.
Hạnh Thục ca là một tác phẩm ra đời vào lúc bấy giờ ngay chính trong không gian
cung đình Huế nên có những ghi chép rất thực, tác phẩm này đã góp phần vào nhận thức
lịch sử về những biến động chính trị trong triều Nguyễn ở những năm đầu Pháp xâm lược
nước ta. Hạnh Thục ca hoàn toàn có thể được xem như một tài liệu lịch sử chỉ có điều nó
không được ghi chép một cánh khoa học bởi các sử gia mà nó được thể hiện dưới ngòi bút
của một nữ nhà thơ bằng thể loại lục bát trữ tình. Với hình thức diễn đạt của một áng văn
chương, các sự kiện lịch sử đều được ghi chép rạch ròi và cụ thể đem đến một góc nhìn
khác cho việc nghiên cứu lịch sử trong giai đoạn này. Và điểm đặc biệt nâng tầm giá trị
lịch sử cho tác phẩm này chính là việc những sự kiện lịch sử khuất ẩn không được các sử
gia ghi chép nhưng trong tác phẩm này lại được ghi chép một cách rõ ràng. Góp phần bổ
sung một nguồn tài liệu lịch sử quý giá trong việc nhìn nhận những biến động chính trị
giai đoạn này.
Trong tác phẩm này có nhiều sự kiện được ghi chép khác với sách sử, nhưng nổi
bật trong đó là sự việc nói về cái chết vua Dục Đức. Trong lịch sử người ta nói về cái chết
vua Dục Đức rằng: Làm vua được 3 ngày chưa kịp đặt niên hiệu (Dục Đức chỉ là tên gọi
nơi ở) thì Ưng Chân đã bị phế bỏ và giam vào ngục cho đến khi mất. Ông mất ngày 6


23

tháng 9 năm Giáp Thân (24-10-1884), thọ 32 tuổi. Những trong tác phẩm ở phần Giết
ông Dục Đức và các hoàng thân tác giả đã kể rằng:
Đã yên việc nỗi Tây kia,

Bấy giờ mấy kẻ hiềm nghi lo trừ.
Thương ông Dục Đức Hoàng trừ,
Dã yên thân phận chẳng nhờ khoan ân.
Vu cho bè đảng phỉ nhân,
U giam cấm cố, nghiêm răn canh giờ.
Nước cơm cấm chẳng cho đưa,
Làm cho sấu tử chẳng chờ sắc ban.
Xót thầm quân lính thở than,
Giấu đem ăn uống đỡ đường khát khao. (456-465)
Nếu như theo lời của tác giả ở đây vua Dục Đức chết là do bị hãm hại bằng thuốc
độc. Điều này cho ta thấy đối với những sử gia có thể do nhiều yếu tố khiến cho những
ghi chép của họ không thể hoàn đúng với sự thật lịch sử. Vì lẽ đó nhờ vào những tác
phẩm như Hạnh Thục ca phần nào ta có thể nhìn sâu hơn vào những góc khuất của lịch
sử. Trong tác phẩm này với việc đưa ra nhiều mốc thời gian cụ thể cũng đã góp phần giúp
cho áng văn chương này trở thành nguồn sử liệu chứa đựng nhiều tiềm năng về các thông
tin lịch sử mà các nhà nghiên cứu có thể khai thác theo nhiều khía cạnh cho các công trình
nghiên cứu của mình. Và để khẳng định cho giá trị sử liệu của tác phẩm này Lệ thần Trần
Trọng Kim từng nói: Vả cái giá trị quyển sách của bà Nguyễn Thị Bích là không phải ở
câu văn, mà ở những tài liệu của bà đã nhặt được để giúp nhà làm sử sau này. Chính vì
vậy có thể nói, Hạnh Thục ca hơn bao giờ hết là phương tiện quan trọng giúp ta mở rộng
tầm hiểu biết và nhìn nhận về lịch sử dân tộc.


24

CHƯƠNG 3: GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TÁC PHẨM HẠNH THỤC CA
3.1 Thể thơ lục bát trong tác phẩm Hạnh Thục ca
Thơ là một loại hình văn học sớm nhất của nhân loại. Thơ ra đời hầu như cùng lúc
với nhạc, họa, múa nhảy trong các cuộc tế lễ thần linh, ma thuật thời nguyên thủy. Thơ là
dạng thức ban đầu của văn học, ngoài trừ thần thoại thời nguyên thủy tồn tại chủ yếu dưới

các hình thức cúng tế, lễ hội. Các hình thức văn học ban đầu như sử thi, kịch, thơ trữ tình
đều là thơ ca, tức là ngôn từ có nhịp điệu. Thơ là hình thức nghệ thuật cổ xưa hơn văn
xuôi rất nhiều. Trong nhiều nền văn học thơ ca ra đời rất lâu thì văn xuôi mới xuất hiện.
Văn học Việt Nam cũng như vậy.
Thơ đã trải qua thời kì dân gian truyền miệng rất lâu rồi mới đến thời kì có tác giả
và viết dưới hình thức văn tự. Lục bát là thể thơ lâu đời của dân tộc, vốn là hình thức thơ
ca truyền miệng dân gian. Lục bát có thể dùng để trữ tình hoặc tự sự. Tác phẩm lục bát có
thể dài đến hàng ngàn câu với các sự kiện cốt truyện, nhân vật triển khai trong mọi tầng
bậc không gian, thời gian như: Truyện Kiều, Nhị độ mai, Phan Trần, Hạnh Thục ca,…
Tác phẩm tự sự lục bát có khả năng chứa đựng không giới hạn mọi phương tiện thể hiện
về ngôn ngữ như lời kể, lời than, lời bình , thoại, miêu tả tâm lý để có thể vừa miêu tả
được sự kiện vừa khắc họa được tính cách, tâm lý, ý nghĩa, lời nói.
Lục bát là một trong hai thể thơ chính của Việt Nam. Thơ lục bát ở Việt Nam được
truyền bá và phát triển hàng trăm năm nay. Thơ lục bát đã thấm đẫm tâm hồn người Việt
chúng ta vì đó là thể thơ trong ca dao, đồng dao và các bài ru con. Ở nền văn học trung
đại thơ lục bát rất được các nhà thơ tiếp thu, hoàn chỉnh và giữ một vị trí quan trọng. Thơ
lục bát giản dị về quy luật, dễ làm, thường dùng để diễn tả những cung bậc cảm xúc khác
nhau trong tâm hồn con người. Thơ lục bát bao gồm hai câu trở lên. Trong đó, cứ hai câu
ghép lại thành một cặp câu. Các cặp câu gồm có một câu lục và một câu bát, thông
thường bắt đầu là câu lục và kết thúc là câu bát. Thơ lục bát cũng có những quy luật về
thanh và vần, vì vậy tìm hiểu thơ lục bát là tìm hiểu về luật và vần của nó. Luật về thanh
giúp cho câu trở nên hài hòa. Các vần chính là hình thức kết dính các câu thơ lại với nhau.
Từ những đặc trưng cấu trúc ngữ nghĩa trên có thể thấy về cơ bản thể thơ lục bát là
một thể thơ chỉnh chu với những quy định rõ ràng về vần nhịp, về số tiếng mỗi dòng thơ,
về chức năng đảm trách của mỗi câu trong thể. Chính vậy việc tác giả chọn thể thơ lục bát
cho việc sáng tác Hạnh Thục ca đã đem đến những hiệu quả rất cao. Đọc tác phẩm ta có
thể thấy thông qua những câu lục bát gieo vần chỉnh chu, phối thanh và ngắt nhịp hài hòa
đã bộc lộ được những cái nhìn thấu đáo về mọi chuyện chính sự biến động lúc bấy giờ.



25

Mặc dù là một tác phẩm mang chất sử nhiều hơn chất văn nhưng với việc lựa chọn
thể loại lục bát làm cho tác phẩm trở nên mền mại, thanh thoát, duyên dáng, kín đáo,
không ồn ào phù hợp với cốt cách cung đình và lối nghĩ của người phương Đông:
Tư trời học ít hay nhiều,
Vạn cơ dư hạ chăm điều bút nghiên.
Muốn cho ai cũng đều nên,
Đặt làm sách vở để khuyên dạy người.
Chỉn là ngâm vịnh đủ tài,
Lời châu tiếng ngọc trong đời ngợi khen. (129-134)
Với việc sử dụng một thể loại vốn được sử dụng nhiều trong dân gian bình dân,
nhưng dưới ngòi bút của tác giả những câu thơ tao nhã quý phải vẫn dần hiện ra và diễn tả
lại cho chúng ta cả một trường kì lịch sử. Đồng thời bày tỏ nổi lòng, tâm trạng của một
tác giả - một thi nhân chứng kiến những ngày tháng ảm đạm của đất nước.
3.2.Ngôn ngữ mang đặc trưng vùng miền
Ngôn ngữ hình thành từ cuộc sống và phản ánh cuộc sống của từng địa
phương khác nhau. Ở Việt Nam chủ yếu có ba vùng phương ngữ chính: phương ngữ bắc
(Bắc Bộ), phương ngữ trung (Bắc Trung Bộ), phương ngữ nam (Nam Trung Bộ và Nam
Bộ).Văn cuả bà Nguyễn Thị Bích viết bằng chữ Nôm, là thứ chữ được cấu tạo trên chất
liệu chữ Hán, là thứ chữ thuần Việt do tầng lớp trí thức yêu nước sáng tạo ra. Nhưng đến
nay người ta vẫn chưa biết chính xác chữ Nôm có từ khi nào. Các nhà ngôn ngữ học chỉ
nói rằng chữ Nôm có từ rất sớm. Về thể tài, thể loại chữ Nôm chịu ảnh hưởng bởi văn học
Trung Quốc và văn học dân gian Việt Nam: lục bát và song thất lục bát.
Văn từ trong tác phẩm Hạnh Thục ca lưu loát, nhưng có nhiều tiếng đọc theo giọng
nói ở vùng Nam Trung thì đúng vần, mà đọc đúng vần quốc ngữ thì sai. Bởì những tiếng
có chữ “n” đứng cuối cùng thường được đọc như tiếng có chữ “ng”.
Ví dụ: an đọc ra ang,
ăn đọc ra ăng,
xuân đọc ra xuâng,

khoan đọc ra khoang,
hờn đọc ra hờng,
thần đọc ra thầng,
đèn đọc ra thầng,
đèn đọc ra đèng,
quyền đọc ra quyềng v.v...


×