Tải bản đầy đủ (.doc) (29 trang)

Lịch sử xứ thanh Thanh Hóa, em yêu lịch lịch sử thanh hóa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (292.33 KB, 29 trang )

Các câu hỏi về lịch sử thanh hóa, và đáp án chi tiết
Câu 1: Học giả người Pháp L.Bơdatxie nhận xét: “Công trình này là một
trong những tác phẩm đẹp nhất của nền kiến trúc Việt Nam” (Phan Đại Doãn:
Những bàn tay tài hoa của cha ông - NXB Giáo dục 1988). Ngày 27 - 06 - 2011,
Tổ chức UNESCO đã chính thức công nhận công trình này là Di sản văn hóa
thế giới. Đó là công trình nào? Em hãy đóng vai một hướng dẫn viên du lịch để
giúp cộng đồng hiểu biết về công trình này.
Câu 2: Triệu Thị Trinh có một câu nói nổi tiếng: “Tôi muốn cưỡi cơn gió
mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá Kình ở Biển Đông, đánh đuổi quân Ngô,
giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp người
ta”. Bằng kiến thức lịch sử đã học, em hãy làm rõ truyền thống anh hùng bất
khuất chống giặc ngoại xâm của con người xứ Thanh.
Câu 3: Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được thành lập như thế nào? Hãy nêu
những hiểu biết của em về một người Cộng sản Thanh Hóa mà em ấn tượng
nhất?
Câu 4: Ngày 20/2/1947, Bác Hồ vào thăm Thanh Hóa đã căn dặn:
“Thanh Hóa phải trở nên một tỉnh kiểu mẫu... phải làm sao cho mọi mặt chính
trị, kinh tế, quân sự phải là là tỉnh kiểu mẫu , làm hậu phương vững chắc cho
cuộc kháng chiến”. Thực hiện lời căn dặn của Bác, sau 30 năm đổi mới (19862016) Đảng bộ, quân và dân Thanh Hóa đã phấn đấu đạt được nhiều thành tựu
quan trọng trên các lĩnh vực kinh tế- xã hội. Em hãy nêu một thành tựu nổi bật
nhất góp phần đưa Thanh Hóa từng bước trở thành tỉnh kiểu mẫu. Liên hệ trách
nhiệm bản thân?
Câu 5: Người xưa có câu: “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”. Vùng Ái Châu
(tức Thanh Hóa ngày nay) được xem là cái nôi sản sinh ra vua chúa Việt. Bằng
những kiến thức lịch sử đã học, em hãy trình bày hiểu biết của mình về một
trongcác vị vua, chúa xứ Thanh mà em yêu thích nhất.
( Đáp án ở phía cuối trang 15)
LỊCH SỬ THANH HÓA

100%


1


I. LỊCH SỬ HÌNH THÀNH
1. Thanh Hóa trong thời kỳ các vua Hùng dựng nước.
Vào đầu thời đại đồng thau, ở đồng bằng Bắc Bộ, văn hoá Phùng Nguyên đã phân bố trên
một vùng rộng lớn từ các tỉnh Vĩnh Yên, Phú Thọ, Hà Tây, Hải Phòng, Hà Giang, Bắc Ninh, Hà Nội.
Ở Thanh Hoá, các bộ lạc nguyên thuỷ cũng có mặt trên địa bàn rất rộng: từ miền núi đến đồng bằng,
ven biển.
Ở miền núi: Người thời đại đồng thau đã để lại dấu vết trong các hang động Thẩm Hai và
Thẩm Tiên (thuộc huyện Thường Xuân). Trong tầng văn hoá dày từ 20 - 30cm, các nhà khảo cổ học
đã tìm thấy nhiều rìu, đục bằng đá được mài nhẵn. Đồ gốm thu được ở đây không nhiều nhưng đã
thể hiện trình độ chế tác rất độc đáo: gốm thường có miệng loe dày, vai xuôi, có loại có chân đế. Hoa
văn trang trí rất đa dạng nhưng chủ yếu bằng kĩ thuật khắc vạch với những đường song song hoặc
cắt nhau chạy thành từng băng quanh thân. Trong tầng văn hoá cũng tìm thấy cả vỏ ốc suối. Với sự
phát triển của kĩ thuật chế tác đồ gốm, lại cư trú trên địa bàn xung quanh các thung lũng bằng phẳng,
những cư dân thuộc nhóm di tích Thường Xuân đã là những người làm nông nghiệp.
Ở miền biển: Trong khi các bộ lạc miền núi Thường Xuân sản xuất nông nghiệp và phát triển
nghề làm gốm, thì ở vùng biển, một nhóm các bộ lạc khác đã biết đến kim loại. Di chỉ tiêu biểu là Hoa
Lộc (xã Hoa Lộc, huyện Hậu Lộc) đã được khai quật lớn vào năm 1974 và 1975. Vì vậy nền văn hoá
khảo cổ ở đây được đặt tên là văn hoá Hoa Lộc. Cư dân văn hoá Hoa Lộc sống gần bờ biển. Tại các
di chỉ thuộc văn hoá này đã phát hiện được nhiều chì lưới bên cạnh xương răng các loài cá biển, cá
nước ngọt, chứng tỏ đánh cá là một nghề quan trọng của họ. Cũng tìm thấy ở đây xương răng các
loài động vật đã được thuần dưỡng như trâu, bò, chó, lợn, và thú rừng như hươu, nai, hoẵng, lợn
rừng, tê giác v.v... Rõ ràng chủ nhân văn hoá Hoa Lộc còn là những người chăn nuôi và săn bắn giỏi.
Nhưng không nghi ngờ gì nữa, các bộ lạc văn hoá Hoa Lộc đã có một nền nông nghiệp dùng cuốc
phát triển.
Tại di chỉ Hoa Lộc (hay còn gọi là Cồn sau chợ), đã tìm thấy số lượng rất lớn cuốc đá có vai
hoặc hình tứ giác (61 chiếc). Ở di chỉ Phú Lộc (còn có tên là Cồn Nghè) tìm thấy tới 80 cái. Rìu và
bôn có vai được mài nhẵn toàn thân, có hình dáng cân đối, cũng là loại nông cụ được tìm thấy khá

nhiều ở văn hoá Hoa Lộc. Nhưng rõ ràng nhất là tại di tích Bái Cù, các nhà khảo cổ học đã tìm thấy
nhiều vết tích của vỏ trấu. Đây là trấu của giống lúa nước.
Chủ nhân văn hoá Hoa Lộc là những người làm gốm giỏi, đồ gốm của họ rất độc đáo cả về
hình dáng lẫn hoa văn trang trí. Họ đã tạo được những cái bình có vai gãy, miệng gâp vào trong. Có
cả loại có miệng hình nhiều cạnh mà các nơi khác rất hiếm gặp. Hoa văn trên đồ gốm Hoa Lộc cũng
rất đẹp và phong phú: người ta đã thống kê được 18 đồ án hoa văn khác nhau trên đồ gốm Hoa Lộc,
trong đó, đặc trưng và độc đáo nhất là hoa văn hình bọ gậy được tạo bằng cách ẩn miệng vỏ sò biển
lên thân gốm khi còn ướt.

2


Một đặc điểm quan trọng khác của văn hoá Hoa Lộc là sự xuất hiện rất nhiều những con dấu
bằng đất nung. Các con dấu này có hình chữ nhật hoặc gần tròn, thường được người thợ gốm khắc
những chữ “S” hoặc những hoa văn nối tiếp nhau với nét khắc rất sâu. Các nhà nghiên cứu cho rằng,
công dụng của những con dấu này có lẽ được dùng để in hoa văn lên vải hơn là để tạo hoa văn trên
đồ gốm. Cũng tại Hoa Lộc, còn tìm thấy những hộp đất nung hình chữ nhật, có hai ngăn, mà công
dụng cho đến ngày nay vẫn còn tranh cãi. Điều quan trọng là đã phát hiện được dấu vết của đồng
trong văn hoá Hoa Lộc, đó có thể là những mẩu dây hoặc dùi đồng đã bị rỉ nát. Trong tương quan với
các nền văn hoá cùng thời, các nhà nghiên cứu nhận thấy đã xuất hiện sự giao lưu giữa các bộ lạc
văn hoá Hoa Lộc với chủ nhân các nền văn hoá khác. Ở phía Bắc, hoa văn in mép vỏ sò đặc trưng
của văn hoá Hoa Lộc đã tìm thấy ở Sập Việt, Bản Gièm (Sơn La). Nhiều mảnh gốm kiểu Hoa Lộc
được tìm thấy ở Gò Mả Đống (Ba Vì - Hà Nội), núi Lê (Ninh Bình), đồi Ghệ, đồi Giạ (Vĩnh Phú cũ). Ở
phía Nam, phong cách trang trí và đồ án hoa văn hình chữ S in bằng miệng vỏ sò đã thấy xuất hiện ở
Pò Cung (Quỳ Hợp - Nghệ An).
Căn cứ vào những thành tựu trong kĩ thuật chế tác các loại công cụ, trong các ngành kinh tế
sản xuất và sự phân bố các di chỉ trên một vùng rộng lớn, có thể nhận thấy rằng mật độ cư dân trong
văn hoá Hoa Lộc đã khá cao. Chủ nhân văn hoá Hoa Lộc hẳn đã có cuộc sống tinh thần khá phong
phú: chỉ có những bộ óc phóng khoáng với những bàn tay khéo léo mới có thể tạo nên những kiểu
dáng và hoa văn trên đồ gốm phong phú đến vậy. Sự phát triển mạnh mẽ của nghề đánh cá biển và

kĩ thuật chế tác kim loại ra đời có thể đã góp phần quan trọng xác lập chế độ công xã thị tộc phụ
quyền trong đời sống xã hội văn hoá Hoa Lộc.
Ở vùng đồng bằng sông Mã: Khi các bộ lạc ở miền núi, miền biển Thanh Hoá bước vào thời
đại đồng thau cách đây khoảng 4.000 năm thì vùng đồng bằng ven đôi bờ sông Mã, cư dân các bộ
lạc ở di chỉ Cồn Chân Tiên cũng bước vào sơ kì thời đại đồng thau. Cùng thời với di chỉ này, ven đôi
bờ sông Mã còn phát hiện được các di chỉ núi Chàn (ở sườn tây núi Đọ), khe Tiên Nông (sườn Tây
Bắc núi Nuông). Kết quả khai quật và nghiên cứu các di chỉ này đã được nhiều nhà nghiên cứu xác
định là giai đoạn sớm nhất của thời đại đồng thau ven sông Mã, là cốt lõi mở đầu trong quá trình hình
thành bộ Cửu Chân trong nước Văn Lang.
Những công cụ bằng đá ở Cồn Chân Tiên cho thấy cư dân giai đoạn này đã đạt tới trình độ kĩ
thuật chế tác đá rất cao. Họ sử dụng đá bazan khai thác ở núi Đọ. Họ sử dụng kĩ thuật ghè để tạo
phác vật, sau đó ghè tu chỉnh và tiến hành mài đá. Họ đã dùng hai loại bàn mài để mài phá và mài
trau (loại đá có kết cấu hạt to dùng mài phá, loại mài trau có kết cấu hạt mịn). Bàn mài của họ đôi khi
được dùng cả bốn mặt, có loại có rãnh chắc được dùng để mài đồ trang sức. Rìu đá ở Cồn Chân
Tiên chủ yếu là rìu lưỡi cân, cạnh đó còn có loại lưỡi mài vát một bên có tiết diện hình chữ V lệch
(thường được gọi là bôn). Đặc biệt ở đây đã tìm thấy những chiếc rìu và bôn có hình dáng nhỏ nhắn
và rất xinh bằng đá ngọc, lưỡi rất sắc bén. Cũng tìm thấy nhiều vòng trang sức bằng đá, cư dân Cồn
Chân Tiên chế tác công cụ ngay tại nơi cư trú.

3


Di chỉ Cồn Chân Tiên có tầng văn hoá tương đối dày, chứng tỏ con người đã định cư ở đây
khá lâu dài. Đồng bằng ven sông Mã là địa bàn khai thác nghề trồng lúa nước của họ. Địa bàn cư trú
ấy với điều kiện trình độ chế tác công cụ phát triển đã đưa sản xuất nông nghiệp lên vị trí hàng đầu
trong nền kinh tế của cư dân Cồn Chân Tiên. Cũng như cư dân văn hoá Phùng Nguyên, Hoa Lộc,
các bộ lạc nguyên thuỷ đôi bờ sông Mã đang dần dần chuyển sang chế độ công xã thị tộc phụ quyền
và điều quan trọng hơn cả, khi đối chiếu, so sánh với kết quả nghiên cứu các giai đoạn phát triển sau
này ở các di chỉ khảo cổ học khu vực đồng bằng sông Mã, sông Chu, nhiều nhà nghiên cứu đã cho
rằng cư dân các bộ lạc Cồn Chân Tiên là nhóm đóng vai trò chủ đạo trong quá trình hình thành bộ

Cửu Chân trong nước Văn Lang của các vua Hùng.
2. Thanh Hóa trong trung kì thời đại đồng thau: Giai đoạn Đông Khối
Di chỉ khảo cổ học Đông Khối thuộc làng Đông Khối, xã Đông Cương (Đông Sơn), được khai
quật năm 1960. Gần đây, nhờ kết quả khai quật và nghiên cứu các di chỉ khảo cổ thời đại đồng thau
ven đôi bờ sông Mã, các nhà nghiên cứu đã xác định Đông Khối là di chỉ tiêu biểu cho giai đoạn phát
triển tiếp theo giai đoạn Cồn Chân Tiên ở lưu vực sông Mã, có niên đại trung kì thời đại đồng thau
tương đương với giai đoạn Đồng Đậu ở đồng bằng Bắc Bộ. Thuộc giai đoạn này còn có di chỉ Bái
Man, lớp dưới di chỉ Cồn Cấu (xã Đông Lĩnh) và lớp dưới di chỉ Đồng Ngầm (xã Đông Tiến) huyện
Đông Sơn.
Điểm đáng chú ý đầu tiên là kĩ thuật chế tác công cụ đá của cư dân các bộ lạc giai đoạn này
đã không chỉ kế thừa trực tiếp kĩ thuật của cư dân Cồn Chân Tiên, mà họ còn đưa nghề chế tác đá
phát triển thành kĩ nghệ, đạt tới đỉnh điểm trong thời tiền sử và sơ sử xứ Thanh. Tại di chỉ Đông Khối,
ngày nay vẫn còn rất nhiều những phác vật, phế vật, mảnh tước v.v..., có chỗ chất đầy, ken dày trên
những bờ ruộng, cánh đồng sát chân núi Voi, rộng hàng chục héc ta. Điều này cho thấy hẳn xưa kia,
khoảng 3.000 năm trước đây, Đông Khối là một trung tâm chế tác công cụ đá rất phong phú và nhộn
nhịp. Trong bộ sưu tập công cụ bằng đá ở Đông Khối, rìu và bôn tứ giác có tiết diện hình chữ nhật
hoặc vuông chiếm ưu thế tuyệt đối. Hình dáng của chúng khá phong phú: rìu có loại hình thang
vuông, hình chữ nhật; bôn cũng có hai loại: loại lưỡi mỏng (chỉ độ 1 cm) và loại lưỡi rất dày, có mặt
cắt hình gần vuông, vì vậy có người gọi là búa rìu (loại này chiếm tỉ lệ 22 - 33% ở các di chỉ).
Nghiên cứu những dấu vết vật chất và bộ di vật, các nhà khảo cổ học cho rằng cư dân các bộ
lạc thuộc giai đoạn Đông Khối có trình độ phát triển tương đương giai đoạn Đồng Đậu ở lưu vực
sông Hồng. Nền kinh tế sản xuất nông nghiệp của người Đông Khối đã có bước phát triển mới: bên
cạnh việc trồng trọt các loại cây cho củ, quả, lúa đã được trồng nhiều hơn, đặc biệt là lúa nếp. Tại
Đồng Ngầm, Bái Man đã phát hiện được nhiều mẫu trấu của lúa dạng hạt tròn. Sự phát triển mạnh
mẽ của các nghề thủ công làm gốm, chế tác công cụ đá, những dấu tích của lúa, gạo v.v... cho thấy
người Đông Khối đã đạt tới trình độ khá cao trong đời sống kinh tế, xã hội.
3. Thanh Hóa thời Bắc thuộc

4



Năm 179 TCN, nước Âu Lạc của vua Thục bị một viên quan lại của nhà Tần là Triệu Đà xâm
lược. Lãnh thổ và cư dân quốc gia Văn Lang - Âu Lạc thời các vua Hùng, vua Thục trong đó có Cửu
Chân bị thôn tính, sát nhập vào nước Nam Việt.
Năm 111 TCN, nhà Hán chinh phục Nam Việt và chia thành 9 quận, trong đó nước Âu Lạc cũ
trở thành 2 quận là Giao Chỉ và Cửu Chân, vùng đất Thanh Hóa nằm gọn trong quận Cửu Chân.
Trải qua hơn 10 thế kỷ Bắc thuộc, qua các triều đại Hán - Tam Quốc, Lưỡng Tấn - Tiền Tống
- Tề - Lương - Tùy - Đường, địa danh của miền đất này cũng bao lần thay đổi theo sự thăng trầm của
lịch sử. Cùng với số phận chung của cả nước, nhân dân Cửu Chân chịu cảnh sống lầm than cơ cực
dưới ách đô hộ của ngoại bang.

II. LỊCH SỬ CON NGƯỜI
1. Thời đồ đá cũ
Các dấu vết của người nguyên thuỷ - người vượn sớm nhất ở Việt Nam, lần đầu tiên được
phát hiện vào năm 1960 tại núi Ðọ, Thanh Hoá. Do đặc trưng điển hình của hệ thống di tích này, các
nhà khảo cổ học cho rằng đã tồn tại một nền văn hoá sơ kì thời đại đồ đá cũ: Văn hoá núi Ðọ. Văn
hoá núi Ðọ bao gồm một hệ thống các di tích sơ kì thời đại đồ đá cũ được phát hiện ở Thanh Hoá:
Núi Ðọ, núi Nuông, Quan Yên I, núi Nổ.
1.1. Văn hoá núi Đọ
Nằm trong địa phận hai xã Thiệu Tân và Thiệu Khánh huyện Thiệu Hoá (nay thuộc thành
phố Thanh Hóa). Ðây là một hòn núi cao 160m, nằm bên hữu ngạn sông Chu. Người vượn nguyên
thuỷ đã sinh sống ở đây, ghè vỡ đá núi để chế tác công cụ. Những công cụ bằng đá mang dấu ấn
chế tác bởi bàn tay của họ như mảnh tước, hạch đá, rìu tay... đã được phát hiện ở núi Ðọ khá nhiều.
Ngày nay, trên sườn núi Ðọ, hàng vạn mảnh tước (mảnh ghè khi người nguyên thuỷ chế tác công cụ)
vẫn còn nằm rải rác, nhất là sườn phía Ðông và phía Tây Nam.
1.2. Núi Quan Yên
Trên núi Quan Yên, tại địa điểm Quan Yên I (bên sườn Ðông - Ðông Nam), thuộc xã Ðịnh
Công, huyện Yên Ðịnh, năm 1978 các nhà khảo cổ cũng đã phát hiện được những vết tích của con
người sơ kì thời đại đồ đá cũ. So với núi Ðọ, núi Nuông, mật độ và số lượng hiện vật thu được có ít
hơn, nhưng kĩ thuật chế tác các loại hình công cụ ở đây cao hơn, gọi là kĩ thuật của loài vượn sơ kì

thời đại đồ đá cũ, đồng thời đây cũng là một loại hình di chỉ - xưởng. Căn cứ vào trình độ kĩ thuật chế
tác công cụ, địa hình cư trú và dựa vào những thành tựu mới nhất của các ngành khoa học, các nhà
khoa học cho rằng, người vượn nguyên thuỷ văn hoá núi Ðọ là những người vượn đứng thẳng phát
triển. Họ sống thành từng bầy, có thủ lĩnh bầy, mỗi bầy bao gồm từ 5-7 gia đình, có khoảng 20 - 30

5


người. Họ kiếm thức ăn chủ yếu bằng phương thức săn bắn và hái lượm theo bầy đàn người vượn
và phân phối sản phẩm công bằng. Ðời sống tinh thần của họ đã khá phong phú: ngoài thì giờ kiếm
ăn, có thể họ đã có những trò giải trí trong lúc rỗi rãi.
1.3. Hậu kì thời đại đồ đá cũ - Văn hoá Sơn Vi
Tại Thanh Hoá, các bộ lạc chủ nhân văn hoá Sơn Vi, theo tình hình hiểu biết hiện nay đã
sinh sống trên địa bàn rộng lớn ở vùng núi phía Tây và Tây Bắc của tỉnh. Dấu vết của họ đã được tìm
thấy ở các huyện Cẩm Thuỷ, Thạch Thành, Hà Trung, Bá Thước và nhất là cụm di tích ở xã Hạ
Trung (Bá Thước).
- Mái đá Ðiều: Ðây là một di tích được phát hiện năm 1984 (thuộc xã Hạ Trung, huyện Bá
Thước), chỉ trong 4m2 hố thám sát đã thu được hơn 300 hiện vật thuộc thời đại đồ đá cũ. Trong các
năm 1986 - 1989, do tầm quan trọng của di tích này, các nhà khảo cổ học Việt Nam đã hợp tác với
các nhà khảo cổ học Bulgaria tiến hành khai quật 3 lần. Kết quả thu được hàng ngàn hiện vật đá gồm
công cụ kiểu văn hoá Sơn Vi, bàn nghiền... và nhiều nhất là mảnh tước, với bốn công cụ bằng xương
thú. Ðặc biệt, tại đây đã tìm thấy 10 mộ cổ, trong đó có một mộ song táng, có hai bộ xương chớm
hoá thạch còn tương đối nguyên vẹn mà chưa nơi nào ở Việt Nam phát hiện được di cốt nguyên vẹn
như thế trong văn hoá Sơn Vi. Người vượn đã sinh sống ở hang mái đá Ðiều, các cư dân nguyên
thuỷ sống trong các hang: Thung Khú (thuộc làng Man) hang Ma Xá, mái đá nước hang Anh Rồ, đã
tạo thành một cụm di tích có niên đại từ hậu kì đá cũ đến văn hoá Hoà Bình, thuộc xã Hạ Trung
huyện Bá Thước. Năm 1989, các hang Lang Chánh I, II, III, (thuộc xã Lâm Sa, huyện Bá Thước),
được các nhà khảo cổ học Việt Nam hợp tác với các nhà khoa học Mỹ tiến hành khai quật và nghiên
cứu. Hiện vật phát hiện ở các di chỉ này chủ yếu là công cụ bằng đá gồm các loại: mảnh tước đã tu
chỉnh, rìu ngắn, công cụ 1/4 viên cuội, công cụ có rìa lưỡi ngang... được xác định là công cụ của chủ

nhân văn hoá Sơn Vi muộn, kéo dài đến văn hoá Hoà Bình.
- Hang Con Moong: Ðáng chú ý nhất là hang Con Moong - một di tích nằm trong khu vực
Vườn Quốc gia Cúc Phương - thuộc xã Thành Yên, huyện Thạch Thành. Di tích này được khai quật
năm 1976. Tại đây, người vượn nguyên thuỷ Thanh Hoá đã sinh sống từ hậu kì thời đại đồ đá cũ đến
thời đại đồ đá mới. Tầng văn hoá ở Con Moong dầy tới 3,5m với sự tiếp diễn liên tục, không hề có sự
ngắt quãng. Tại lớp văn hoá sớm nhất (dưới cùng) ở Con Moong (đã được xác định niên đại bằng
phương pháp cacbon phóng xạ C14 cách ngày nay hơn 12.000 năm) các nhà khảo cổ học đã thu
được nhiều hiện vật. Ðó là những công cụ bằng đá có hình múi cam, công cụ có rìa lưỡi một đầu,
công cụ 1/4 viên cuội, được tạo bằng thủ pháp đập vỡ cuội. Ðó là những chày nghiền, bàn nghiền những hòn đá không có dấu vết chế tác, chỉ có dấu vết sử dụng bởi một mặt lõm xuống hình lòng
máng, được dùng để chà vỏ, nghiền thức ăn thực vật; là những công cụ bằng xương có hình mũi
nhọn được chế tạo từ những đoạn xương ống của các loài thú lớn. Xương, răng động vật cũng phát
hiện được khá nhiều, gồm xương cốt các loài lửng, tê giác, voi, hươu, nai, hoẵng, baba, rùa vàng...
Cũng giống như ở mái đá Ðiều, tầng văn hoá ở Con Moong chứa khá nhiều vỏ trai, ốc núi, ốc suối.

6


Trong lớp văn hoá Sơn Vi ở Con Moong, đã tìm thấy dấu vết của bếp lửa có hình gần tròn, đường
kính tới 4m, bên cạnh mùn thực vật và hạt trám. Trong lớp văn hoá Sơn Vi ở Con Moong, đã phát
hiện được 3 mộ táng gồm 5 cá thể (có 2 mộ song táng) đã xác định được 1 nam, 1 nữ (khoảng 50 60 tuổi), hai trẻ em và 1 người không xác định được giới tính. Tất cả các hài cốt được chôn theo tư
thế nằm nghiêng co bó gối, được bôi thổ hoàng, có một mộ chôn theo công cụ nạo. Như vậy, vào
hậu kỳ thời đại đồ đá cũ, cùng với văn hoá Sơn Vi ở phía Bắc, chủ nhân của văn hoá Sơn Vi Thanh
Hoá đã cư trú trên một vùng rộng lớn phía Bắc, Tây bắc của tỉnh và tương đối tập trung. Theo những
phát hiện mới nhất của khảo cổ học, vùng Bá Thước, Cẩm Thuỷ, Thạch Thành trong hậu kì thời đại
đồ đá cũ có thể được coi là trung tâm của xứ Thanh ngày nay. Trong thời đại đồ đá cũ, cư dân
nguyên thuỷ đã sinh sống trên địa bàn Thanh Hoá. Trong hàng chục vạn năm ấy, do điều kiện địa lí,
do quá trình kiến tạo địa chất, nhiều đợt biển tiến, biển lùi đã đẩy người vượn nguyên thuỷ văn hoá
núi Ðọ tiến lên chiếm lĩnh vùng phía Tây - Tây bắc, những chủ nhân văn hoá Sơn Vi ở Thanh Hoá đã
cùng các bộ lạc khác trên đất nước Việt Nam, trong quá trình đấu tranh quyết liệt với thiên nhiên để
sinh tồn, đã tạo nên một nền văn hoá mới, làm phong phú thêm thời đại đồ đá mới ở Việt Nam. Ðó là

quá trình phát triển của xã hội người nguyên thuỷ trên đất Thanh Hoá.
2. Thời đại đồ đá mới
Nối tiếp văn hoá Sơn Vi là văn hoá Hoà Bình (lấy tên tỉnh Hoà Bình - nơi phát hiện những di
tích đầu tiên của nền văn hoá này). Về niên đại, văn hoá Hoà Bình cách ngày nay 11.000 năm; trên
đất Thanh Hoá, trung tâm dân cư lúc này vẫn tập trung ở địa bàn vùng núi phía Tây, thuộc các huyện
Cẩm Thuỷ, Bá Thước, Thạch Thành, Ngọc Lặc... Họ thường sống trong các hang động, các núi đá
vôi rộng, thoáng đãng và gần sông, suối lớn. Các nhà khảo cổ học đã xác định họ chính là hậu duệ
trực tiếp của chủ nhân văn hoá Sơn Vi ở Thanh Hoá và chính họ - cư dân văn hoá Hoà Bình ở Thanh
Hoá, đã tiếp tục phát triển, làm nên văn hoá Bắc Sơn sau này.
2.1. Những vết tích của văn hoá Hoà Bình.
- Hang Con Moong (xã Thành Yên - huyện Thạch Thành): Ðây là một hang rộng, nền hang
cao hơn 40m so với chân núi hiện tại và rộng hơn 300 m2. Người nguyên thuỷ cư trú trên khoảng
diện tích 100 m2 tại cửa hướng Tây Nam, liên tục từ thời văn hoá Sơn Vi đến văn hoá Hoà Bình, Bắc
Sơn. Các nhà khảo cổ đã thu được rất nhiều hiện vật nằm lẫn trong đống vỏ nhuyễn thể và mùn thực
vật mà người nguyên thuỷ đã thải ra trong quá trình sinh hoạt. Về công cụ bằng đá: cư dân văn hoá
Hoà Bình ở Con Moong vẫn giữ truyền thống văn hoá Sơn Vi: dùng đá cuội để chế tác công cụ,
nhưng kỹ thuật chế tác công cụ của họ rất phát triển, kể cả loại hình lẫn phương pháp chế tác. Công
cụ kiểu Xumatơra(3) (Sumatralithe) có hình bầu dục hay hình hạnh nhân, lưỡi được tạo xung quanh
rìa hòn cuội bằng cả thủ pháp ghè tỉa, để có độ sắc bén hơn; có chức năng sử dụng rất đa dạng: có
thể dùng cắt, chặt, nạo....từ thịt, xương thú đến tre, nứa, gỗ. Rìu ngắn chiếm tỉ lệ rất lớn trong bộ sưu
tập công cụ của họ ở Thanh Hoá; người ta thường chặt cuội hoặc chặt đôi những công cụ hình bầu
dục để tạo rìu ngắn; chức năng của rìu ngắn cũng rất đa dạng. Rìu dài hình hạnh nhân hay hình bầu

7


dục của cư dân văn hoá Hoà Bình có nhiều khả năng được sử dụng như những chiếc cuốc đá. Mảnh
tước ở Con Moong có số lượng không nhiều, nhưng phần lớn đã được gia công để tạo thành công
cụ nạo, dao đá, với rìa đá rất sắc. Chày nghiền, bàn nghiền cũng là những công cụ được tìm thấy
khá nhiều. Chủ nhân Con Moong cũng chế tác và sử dụng công cụ bằng xương thú với kỹ thuật chọn

nguyên liệu và chế tác phát triển khá cao: người ta chỉ lựa chọn xương ống của động vật có vú - loại
xương có cấu tạo sợi nhiều hơn cấu tạo xốp - để chế tác công cụ và đã mài nhẵn đầu. Thức ăn rất
phong phú, đa dạng: trong tầng văn hoá, các nhà khảo cổ học đã thu được 83 2 vỏ nhuyễn thể như
trùng trục, trai, ốc... và các loại xương thú rất phong phú. Chôn người chết theo tư thế nằm nghiêng
chân co như cư dân văn hoá Sơn Vi giai đoạn trước, nhưng họ đã chèn đá hộc, rải đá dăm quanh
mộ để bảo vệ và đều chôn theo công cụ.
- Di chỉ mái đá Ðiều và các di chỉ khác: Cũng như ở Con Moong, mái đá Ðiều là một di chỉ
chứa đựng nhiều lớp văn hoá thuộc các thời đại đồ đá khác nhau. Niên đại lớp văn hóa Hoà Bình
của Mái đá Ðiều là 8.200 ± 70 năm, cách ngày nay. Các nhà khảo cổ học đã thu được rất nhiều công
cụ bằng đá đặc trưng kiểu Hoà Bình. Ðáng chú ý là rìu ngắn chiếm tỉ lệ rất lớn. Chày nghiền, bàn
nghiền cũng chiếm tỉ lệ đáng kể. Riêng công cụ bằng mảnh tước, ở một số địa điểm đã xuất hiện kĩ
thuật mài đá. Ở các di chỉ mái đá Bát Mọt, hang Mộc Trạch, hang To đã tìm được nhiều mảnh vỏ trai
xà cừ lớn mà công dụng có thể được chủ nhân văn hoá Hoà Bình sử dụng như những lưỡi dao, nạo
để vót tre nứa và nạo thịt thú. Một đặc điểm chung nữa là tại các di chỉ văn hoá này, tầng văn hoá
đều rất dày, chứng tỏ sự cư trú lâu dài của con người như Con Moong: 3,5m, mái đá Ðiều: gần 4m,
mái đá Làng Bon: 3,7m, hang Ðiền Hạ III: 3,8m, mái đá chòm Ðồng Ðông: 3,5m; chứa đựng một khối
lượng vỏ nhuyễn thể rất lớn lẫn trong lớp đất màu nâu hoặc đen chứa mùn thực vật. Cư trú trong các
hang động, mái đá tương đối cao, có nơi rất cao (như Con Moong), cư dân Hoà Bình ở Thanh Hoá
chắc rằng, ngoài những công cụ bằng đá, đã sử dụng một số lượng không ít các công cụ và đồ dùng
được chế tác từ các loại cây cối, nhất là tre, nứa, song, mây... Ðể đựng các loại nhuyễn thể lượm
nhặt từ sông, suối đem về nơi cư trú. Các nhà khảo học đã phát hiện được nhiều mộ táng của người
Hoà Bình ở Thanh Hoá. Ðã tìm thấy ở hang Lộc Thịnh, mái đá Làng Bon, mái đá làng chòm Ðồng
Ðông... các di cốt, xương, răng bị vỡ, mủn. Ðáng chú ý nhất là các di tích Con Moong (2 mộ), mái đá
Ðiều (13 mộ), mái đá Mộc Long (5 mộ), hang Chùa (3 mộ). Phần lớn những mộ này còn nguyên vẹn
và cho thấy tư thế chôn nằm nghiêng co bó gối, bôi thổ hoàng, kè đá giữa mộ và chôn theo hiện vật
làm đồ tuỳ táng, là cách thức mai táng phổ biến trong tập tục của người Hoà Bình. Chủ nhân của văn
hoá Hoà Bình ở Thanh Hoá đã tiến tới tổ chức công xã thị tộc mẫu hệ. Các công xã thị tộc thường cư
trú trong một vùng đất nhất định. Trong mỗi hang động là một thị tộc cư trú bao gồm nhiều gia đình
nhỏ với vợ chồng, con cái. Dấu tích bếp lửa ở giai đoạn được tìm thấy có quy mô nhỏ hơn giai đoạn
trước và số lượng cũng tăng hơn. Kinh tế hái lượm ngày càng chiếm vai trò quan trọng trong đời

sống, bởi vậy, vai trò và vị trí của người phụ nữ ngày càng được nâng cao. Với môi trường sinh sống
gần sông, suối, khai thác thức ăn đa nguồn, định cư lâu dài, cư dân văn hoá Hoà Bình ở Thanh Hoá
đã chuyển từ cuộc sống hái lượm - săn bắt sang thu hoạch định kỳ theo mùa. Ðó là mầm mống sơ
khai của nền kinh tế sản xuất nông nghiệp: người ta bắt đầu chăm sóc và trồng trọt một số loài cây

8


có củ, quả như rau, đậu, bầu bí... và thuần dưỡng chó. Những quan niệm tôn giáo sơ khai, mầm
nghệ thuật - sự tìm kiếm cái đẹp cũng nảy sinh trong quá trình lao động kiếm sống và vui chơi giải trí.
Ðó là những thành quả sáng tạo trong đời sống kinh tế, xã hội của cư dân văn hoá Hoà Bình xứ
Thanh và với thành quả ấy, họ đã thực sự góp phần vào cách mạng đá mới. Sau hơn 70 năm phát
hiện và nghiên cứu văn hoá Hoà Bình ở Việt Nam cũng như ở Thanh Hoá đã cho thấy một cái nhìn
tổng quan về lịch sử Thanh Hoá thời đại đồ đá mới: đó là sự phát triển liên tục, nội tại từ cư dân văn
hoá núi Ðọ đến Sơn Vi và văn hoá Hoà Bình.
2.2. Đồ gốm xuất hiện và cư dân văn hoá Bắc Sơn ở Thanh hoá:
Tại Thanh Hoá, dấu vết văn hoá Bắc Sơn đã được phát hiện trong các lớp văn hoá muộn của
các di chỉ mái đá Thạch Sơn, mái đá chòm Ðồng Ðông, hang Lộc Thịnh, mái đá Ðiều, hang Mỹ Tế,
mái đá làng Bon, làng Ðiền Hạ III... và đặc biệt rõ ở hang Con Moong- thuộc lớp trên cùng, có niên
đại khoảng 7.000 năm cách ngày nay. Chủ nhân văn hoá Bắc Sơn ở Thanh Hoá cũng như ở nơi
khác, đã đưa kỹ thuật chế tác công cụ bằng đá đến trình độ cao: họ đã biết và phổ biến kỹ thuật mài
đá. Ðã tìm thấy trong các di chỉ Bắc Sơn ở Thanh Hoá những bàn mài bằng sa thạch bên cạnh rất
nhiều chày nghiền, bàn nghiền. Những chiếc rìu mài lưỡi Bắc Sơn ra đời đã góp phần thúc đẩy sự
phát triển của nghề nông đã thai nghén từ văn hoá Hoà Bình. Nhưng thành tựu kĩ thuật lớn nhất của
cư dân văn hoá Bắc Sơn là phát minh ra đồ gốm. Mặc dù còn rất thô sơ về chất liệu, hình dáng, hoa
văn, độ nung còn thấp, nhưng cũng đã tạo cho nền kinh tế sản xuất sơ khai của chủ nhân văn hoá
Bắc Sơn ở Thanh Hoá phát triển hơn hẳn nền kinh tế sản xuất nông nghiệp của văn hoá Hòa Bình.
Tuy nhiên kinh tế sản xuất chưa thể chiếm vai trò chủ đạo trong đời sống của người Bắc Sơn. Hái
lượm và săn bắn vẫn đóng vai trò chính trong đời sống của họ: trong các hang động nơi họ cư trú,
tầng văn hoá vẫn chất đầy vỏ nhuyễn thể và xương cốt động vật (lớp văn hoá Bắc Sơn ở Con Moong

- lớp trên cùng- có độ dày từ mặt đất từ 0,2m - 1,2m, đã thu được tới 60m 3 vỏ nhuyễn thể). Xã hội
người nguyên thuỷ văn hoá Bắc Sơn ở Thanh Hoá đã phát triển chế độ thị tộc mẫu hệ.
Cùng với sự phát triển của nền kinh tế sản xuất, người nguyên thuỷ văn hoá Bắc Sơn ngày
càng lệ thuộc vào thành quả của hoạt động hái lượm và chăm sóc cây trồng. Ðó là những công việc
chủ yếu do phụ nữ đảm nhận và ngày càng nắm vị trí chủ đạo trong kinh tế; vai trò người phụ nữ
trong gia đình và xã hội ngày càng được đề cao.
2.3. Cư dân văn hoá Đa Bút chiếm lĩnh đồng bằng và phát triển nông nghiệp trồng lúa nước.
Vào hậu kì thời đại đồ đá mới, cách ngày nay khoảng 6.000 - 7.000 năm, sau nhiều đợt biển
tiến, biển lùi, sang kỷ Hôlôxen, đồng bằng sông Mã đã hình thành tương đối ổn định với tài nguyên
phong phú, đầy hấp dẫn, đã lôi cuốn chủ nhân văn hoá Hoà Bình - Bắc Sơn ở vùng núi rời khỏi các
hang động - nơi cư trú hàng ngàn năm, tiến xuống khai phá miền đồng bằng trước chân núi. Nền
nông nghiệp trồng lúa nước ra đời. Cùng với dân cư văn hoá Hạ Long ở phía Bắc, văn hoá Quỳnh
Văn ở phía Nam, người nguyên thuỷ ở Thanh Hoá làm nên một nền văn hoá Ða Bút độc đáo, làm
phong phú thêm diện mạo văn hoá của các bộ lạc nguyên thuỷ sinh sống trên toàn cõi Bắc Việt Nam.

9


Văn hoá Ða Bút: Theo hiểu biết hiện nay, văn hoá Ða Bút gồm hệ thống các di chỉ Ða Bút (xã
Vĩnh Tân), Bản Thuỷ (xã Vĩnh Thịnh), làng Còng (xã Vĩnh Hưng) thuộc huyện Vĩnh Lộc, cồn Cổ Ngựa
(xã Hà Lĩnh, huyện Hà Trung) và gò Trũng (xã Phú Lộc, huyện Hậu Lộc). Khai quật và nghiên cứu hệ
thống di chỉ này, các nhà khảo cổ học đã chứng minh rằng chủ nhân của văn hoá Ða Bút theo quá
trình lùi dần của biển, ngày càng chiếm lĩnh vùng đồng bằng ven biển Thanh Hoá. Kết quả khai quật
và nghiên cứu các di chỉ văn hoá Ða Bút cho thấy cư dân nguyên thuỷ giai đoạn này đã bước vào
thời kỳ công xã thị tộc mẫu hệ phát triển. Nhờ nông nghiệp lúa nước được đẩy mạnh, đời sống đã ổn
định, dân số tăng nhanh, đồng thời các nghề thủ công phục vụ sản xuất nông nghiệp và đánh cá
được mở rộng.
III. LỊCH SỬ DỰNG NƯỚC VÀ GIỮ NƯỚC
1. Cuộc khởi nghĩa của Chu Ðạt (156 - 160)
Năm 156, Chu Ðạt, người huyện Cự Phong (nay là thôn Phú Hào, xã Thọ Phú, huyện Triệu

Sơn) chiêu mộ dân binh vây đánh huyện sở Cự Phong (vùng đất các huyện Nông Cống, Quảng
Xương, Tĩnh Gia và Như Xuân, Như Thanh ngày nay) giết chết huyện lệnh rồi tiến công Tư Phố, giết
chết thái thú nhà Ðông Hán, lực lượng có đến 5.000 người, quản trị Cửu Chân được 4 năm từ năm
156 đến năm 160.
2. Cuộc khởi nghĩa bà Triệu (Triệu Thị Trinh) năm 248
Từ năm 220, Cửu Chân thuộc quyền cai trị của Ðông Ngô (một trong 3 nước thời Tam Quốc),
trong xứ không kể Nghệ An, Hà Tĩnh, có chừng 3 vạn hộ. Bà Triệu tức Triệu Thị Trinh, người Quân
Yên (huyện Yên Ðịnh), 20 tuổi; lập căn cứ ở Núi Nưa (Triệu Sơn), hội quân với 3 anh em họ Lý ở Bồ
Ðiền (tức Phú Ðiền, huyện Hậu Lộc) cùng tiến đánh quận sở Tư Phố đại thắng. Hầu hết các huyện lỵ,
thành ấp ở Cửu Chân, Cửu Ðức, Nhật Nam (2 quận nay là vùng Nghệ Tĩnh - Quảng Bình) bị nghĩa
quân đánh hạ, các thái thú, huyện lệnh và huyện trưởng bị giết... nền đô hộ của nhà Hán ở Giao
Châu hơn 330 năm bị lật đổ.
3. Thời nước Vạn Xuân, Lý Nam Ðế (542 - 556)
Mùa xuân 542, Lý Bí - mẹ đẻ là người Cửu Chân, khởi nghĩa thắng lợi, lập ra nước Vạn Xuân
xưng là Lý Nam Ðế. Nhà Lương đàn áp, Lý Thiên Bảo là anh ruột Lý Bí rút về Dã Năng (huyện Bá
Thước ngày nay) xưng là Ðào Lang Vương tiếp tục kháng chiến. Sau đó Thiên Bảo mất, Lý Phật Tử
lên thay tức là Hậu Lý Nam Ðế. Năm 556, Lý Phật Tử đánh nhau với Triệu Việt Vương - Triệu Quang
Phục - người tiếm ngôi của Lý Bí và là người đánh bại quân đội nhà Lương ở đầm Dạ Trạch (tỉnh
Hưng Yên ngày nay).
4. Cuộc khởi nghĩa của Lê Ngọc (đầu thế kỷ VII)
Lê Ngọc (còn gọi là Lê Cốc) cùng với 4 người con lật đổ quan cai trị của nhà Tuỳ (Trung
Quốc) đóng ở Ðông Phố (tức Ðồng Pho, xã Ðông Hoà, huyện Ðông Sơn ngày nay), gọi là kinh đô

10


Trường Xuân, tự quản Cửu Chân chống lại nhà Ðường cho đến đầu thế kỷ VI. Ðến thế kỷ VII, Cửu
Chân gồm 6 huyện có 16.100 hộ (quận Giao Chỉ có 30.000 hộ) khoảng 84.000 nhân khẩu, thuộc xứ
An Nam (tên An Nam thay cho Giao Châu bắt đầu từ đây). Quận sở là Ðông Phố (tức là Ðồng Pho).
Năm 759, quân Mã Lai cướp phá Châu Ái (tên gọi Cửu Chân từ năm 523) bị quan cai trị là Trương

Bá Nghi tiêu diệt. Năm 797, quân Mã Lai lại cướp phá Châu Ái nữa, xây cả thành, lập nước, nhưng bị
quan cai trị là Trương Châu đánh đuổi, san phẳng thành trì thu hồi mọi của cải. Thế kỷ IX, Nho giáo,
Lão giáo và Phật giáo đã rất phát đạt ở Châu Ái. Ðạo Nho có anh em Khương Công Phụ, đỗ Tiến sỹ
làm quan đến Tể tướng triều đình nhà Ðường, đạo Lão biến các hang động đẹp nhất ở khắp Vĩnh
Lộc, Hà Trung, Nga Sơn làm nơi tu tiên và đạo Phật có các Ðại hoà thượng như Trí Hành và Ðại
Thăng Ðăng sang tận Trung Quốc để hành đạo.
5. Thời Dương Ðình Nghệ (? - 937)
Dương Ðình Nghệ, chính khách quan trọng nhất thế kỷ X của lịch sử Việt Nam, thu hút hơn
3.000 người làm vây cánh ở làng Giàng, Tư Phố (nay là đất các xã Thiệu Dương, Thiệu Khánh,
thành phố Thanh Hóa), trong đó có Ngô Quyền, Ðinh Bộ Lĩnh, Lê Hoàn, Phạm Cự Lạng... Tháng 3
năm 931, Dương Ðình Nghệ đánh đuổi thứ sử Lý Tiến của nhà Nam Hán (Trung Quốc), tiêu diệt viện
binh Nam Hán, tự lập làm tiết độ sứ, chấm dứt vĩnh viễn nền đô hộ hơn 1.000 năm của người Trung
Quốc ở Việt Nam. Từ Dương Ðình Nghệ, Việt Nam xác định lại được quốc thống của một đất nước
độc lập hoàn toàn.
6. Thời Ngô Quyền (938 - 968)
Mùa đông năm 938, Ngô Quyền đem quân đội Cửu Chân tiến ra Bắc tiêu diệt Kiều Công Tiễn
- kẻ phản bội họ Dương ở Ðại La (Hà Nội ngày nay), rồi cản phá quân Nam Hán là Lưu Hoàng Thao
trên sông Bạch Ðằng, lên ngôi vua tức Ngô Vương Quyền. Thời 12 sứ quân, Cửu Chân nằm trong
vòng kiểm soát của Ðinh Bộ Lĩnh ở miền Ðông và của Ngô Xương Xí - cháu nội Ngô Quyền, ở Bình
Kiều (đất vùng Triệu Sơn ngày nay) tức miền Tây lãnh thổ.
7. Thời Ðại Cồ Việt - Tiền Lê (968 - 1009)
Năm 979 - 980, Lê Hoàn trấn áp xong quân chống đối của Nguyễn Bặc và Ðinh Ðiền ở vùng
sông Tống (vùng đất huyện Hà Trung ngày nay) lên ngôi vua. Năm 981, ông đánh tan quân xâm lược
nhà Tống, và năm 982 đánh thắng quân Chiêm Thành. Năm 982, nhà vua cho nạo vét các sông ngòi,
đào kênh nối liền hệ thống sông Mã, sông Chu, sông Yên, sông Bạng cho đến vùng đất tỉnh Nghệ An
ngày nay, thành một đường giao thông thuận tiện đầu tiên ở Cửu Chân và ở cả đất nước Ðại Cồ
Việt. Người chỉ huy đào các kênh này là Ðào Lang, làng Bùi Ðỉnh (xã Yên Trung huyện Yên Ðịnh
ngày nay). Từ năm 999 đến năm 1005, các vua thời Tiền Lê phải trực tiếp điều quân bình định miền
viễn Tây Thanh Hoá nhưng chưa ổn.
8. Thời Nhà Lý (1010 - 1225)


11


Năm 1111, Cửu Chân đổi làm phủ Thanh Hoá. Tên Thanh Hoá bắt đầu có từ đây (Thanh:
trong sạch; Hoá: biến hoá), dời lỵ sở từ Ðông Phố đến Duy Tinh (vùng đất các xã Văn Lộc, Mỹ Lộc,
Thuần Lộc huyện Hậu Lộc ngày nay). Ruộng đất Thanh Hoá bắt đầu bị nhà vua lấy ban cho các đại
thần dưới dạng phong ấp. Ðó chính là chế độ phong kiến hình thành ở nước ta.
9. Thời nhà Trần (1226 - 1400)
Tháng giêng năm Thiệu Long thứ 15 nhà Trần (năm 1272), Lê Văn Hưu, người làng Bồi Lý
(xã Thiệu Trung, Thiệu Hoá ngày nay) dòng dõi Lê Lương, soạn xong Ðại Việt sử ký toàn thư - bộ sử
hoàn chỉnh đầu tiên của nước ta.
Lê Văn Hưu được tôn là ông tổ ngành sử học của Việt Nam. Ðầu năm 1285, kháng chiến
chống Nguyên Mông lần thứ 2, ở Thanh Hoá, quân đội nhà Trần do Trần Kiên, Trần Nhật Duật, Trần
Quang Khải chỉ huy chống giữ cầm chân giặc, ở các điểm Yên Duyên (xã Quảng Hùng), núi Ðá Chẹt
(Quảng Lĩnh), Văn Trinh (Quảng Hợp), Bố Vệ (thành phố Thanh Hoá), Phú Tân (Hà Toại), Nga Lĩnh,
Quang Lộc, Liên Lộc, chiến sự rất dữ dội. Sau khi tướng Nguyên: Toa Ðô tiến được ra sông Hồng thì
Hưng Ðạo Vương lại đem 2 vua Trần rút vào Thanh Hoá (ở các vùng Nga Sơn, Hà Trung, Thạch
Thành ngày nay) để bảo toàn đầu não. Ðến tháng 5 năm 1285, từ Thanh Hoá, Hưng Ðạo Vương tiến
quân ra Bắc quét sạch quân Nguyên Mông khỏi bờ cõi Ðại Việt. Năm 1370, dòng họ Lê ở Ðại Lại (Ðò
Lèn, Hà Ngọc huyện Hà Trung) do Lê Liêm dẫn đầu hội quân Thanh Hoá tiến ra Thăng Long phế bỏ
người tiếm ngôi Dương Nhật Lễ, lập lại nhà Trần bằng vua Trần Phủ - tức Trần Nghệ Tôn - nhà Trần
từ đây thiên vào Thanh Hoá. Năm 1378, quân Chiêm Thành vào cướp Thanh Hoá bị quan quân nhà
Trần trấn giữ đánh bại. Năm 1380, quân Chiêm Thành do đích thân vua Chế Bồng Nga chỉ huy lại
vào cướp Thanh Hoá bị Hồ Quý Ly đánh bại ở cửa sông Ngu (tức Lạch Trường, Hoằng Trường ngày
nay). Năm 1382, quân Chiêm Thành lại vào cướp phá Thanh Hoá, bị Nguyễn Ða Phương đánh bại ở
cửa Thần Ðầu (tức Thần Phù, huyện Nga Sơn ngày nay). Năm 1389, quân Chiêm Thành lại vào
cướp phá Thanh Hoá, Hồ Quý Ly chống không nổi phải bỏ chạy. Quân Chiêm Thành tiến ra Bắc.
Năm 1390, tướng chỉ huy nhà Trần ở Thanh Hoá là Trần Khát Chân cản phá được quân Chiêm
Thành, giết chết Chế Bồng Nga, chấm dứt vĩnh viễn sự quấy rối của các vua Chiêm Thành.

10. Thời nhà Hồ (1400 - 1407)
Mùa xuân năm 1397, xây dựng xong thành đá Tây Giai ở động Thiên Tôn (nay là đất xã Vĩnh
Long, Vĩnh Tiến, huyện Vĩnh Lộc). Tháng 2 năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly lên ngôi vua ở thành
này, thay nhà Trần, đổi tên nước là Ðại Ngu (nghĩa là rất an vui và cùng lo việc nước), bỏ kinh đô
Thăng Long, lấy thành đá mới làm quốc đô gọi là Tây Ðô. Nhà Hồ phát hành tiền giấy thay cho tiền
đồng đúc từ năm 1396, đến năm 1400 định lại giá kim ngạch cho thêm chặt chẽ. Năm 1402, nhà Hồ
hoàn thành việc xây dựng con đường Thiên Lý từ Tây Ðô ra Ðông Quan (tức Thăng Long cũ) và từ
Tây Ðô vào Hoá Châu (vùng Quảng Bình ngày nay) dọc đường đặt nhà trạm, phố xá và bưu dịch có
hệ thống. Sau một năm chiến đấu ngoan cường nhưng thất bại, năm 1407, nhà Hồ và nước Ðại Ngu
mất vào tay quân xâm lược nhà Minh.

12


11. Cuộc kháng chiến 10 năm chống nhà Minh(1418 - 1428)
Mùa xuân, tháng Giêng ngày mồng 2 năm Mậu Tuất (1418), Lê Lợi cùng với những người tài
giỏi trong cả nước khởi nghĩa ở Mường Chính (nay là huyện lỵ Lang Chánh) tiến về Khả Lam (tức
Lam Sơn) bắt đầu cuộc kháng chiến chống quân xâm lược nhà Minh (Trung Quốc) giải phóng đất
nước. Lê Lợi xưng là Bình Ðịnh Vương, người hương Lam Sơn, huyện Lương Giang (nay là xã Xuân
Lam, huyện Thọ Xuân). Bình Ðịnh Vương chiến đấu ở Thanh Hoá 6 năm, các trận đánh lớn diễn ra ở
Lam Sơn, Mường Một (vùng Bát Mọt, huyện Thường Xuân ngày nay), Mường Chính, Bến Bổng
(vùng thượng du sông Âm), Ba Lẫm (vùng Chiềng Lẫm, huyện Bá Thước ngày nay), Kình Lộng (vùng
Cổ Lũng, huyện Bá Thước), Úng Ải (vùng đèo Thiết Ống, huyện Bá Thước), Sách Khôi (ở khoảng
giữa huyện Bá Thước và huyện Hoàng Long - Ninh Bình và huyện Thạch Thành - Thanh Hoá), Ða
Căng (vùng Thọ Nguyên, Thọ Xuân), có trận phía địch có tới 10 vạn quân như ở Kình Lộng. Mùa
đông năm 1424, Bình Ðịnh Vương tiến quân vào Nghệ An theo kế sách của Nguyễn Chích. Mùa thu
năm 1426, quân khởi nghĩa tiến ra Bắc bao vây Ðông Quan. Ngày 17 tháng 9 năm Bính Ngọ (1426),
Bình Ðịnh Vương đến Lỗi Giang (vùng đất các huyện Thạch Thành, Vĩnh Lộc ngày nay) chỉ huy bao
vây Tây Ðô. Cuối năm 1426, Bình Ðịnh Vương ra Bắc chỉ huy giải phóng các miền đất Giao Chỉ (Bắc
Bộ ngày nay), và vây hãm thành Ðông Quan. Ngày 22 tháng 01 năm Ðinh Mùi (1427), giặc Minh đầu

hàng. Mùa xuân năm sau - giặc rút về, đất nước sạch bóng quân thù, thành Tây Ðô lại về Ðại Việt.
Ngày 15 tháng giêng năm Mậu Thân (1428), Bình Ðịnh Vương lên ngôi hoàng đế nước Ðại Việt, thủ
đô là Ðông Kinh (tức Ðông Quan, thủ đô Hà Nội ngày nay). Cả nước chia làm 3 đạo hành chính lớn,
Thanh Hoá thuộc đạo Hải Tây trong số các trấn ven biển Tây Ðô.
12. Thời Lê sơ (1428 - 1516)
Tháng 11 - Kỷ Dậu (1429), vua Lê Thái Tổ về bái yết Sơn Lăng, Lam Sơn, sau 10 năm chiến
đấu giành độc lập cho đất nước thắng lợi. Mùa Hè năm Canh Tuất (1430) đổi Tây Ðô làm Tây Kinh
và Ðông Ðô (Hà Nội) làm Ðông Kinh. Ngày 22 tháng 8 năm Quý Sửu (1433), Lê Thái Tổ mất, một
tháng sau đem về an táng ở Lam Sơn, gọi nơi an táng là Vĩnh Lăng. Tháng 12 năm Quí Sửu (1433)
xây dựng điện Lam Sơn (gọi là Lam Kinh). Ngày 7 tháng 01 Giáp Dần (1434), điện Lam Kinh bị cháy
(cháy lần thứ nhất). Tháng 9 Mậu Thìn (1448): xây dựng lại Lam Kinh do Thái uý Trịnh Khả chỉ huy.
Từ Mậu Ngọ (1438) đến Mậu Tý (1468), 3 lần khơi đào các kênh trong xứ Thanh Hoá. Năm Bính Tý,
tháng 4 (1516), Trịnh Duy Sản giết vua Lê Tương Dực, lập vua Lê Chiêu Tông rước về Tây Kinh.
13. Thời Lê Mạc (1516 - 1788)
Họ Mạc cướp ngôi vua Lê ở Thăng Long. Quan Ðiện tiền tướng quân là Nguyễn Kim - người
Hà Trung lập căn cứ ở Thanh Hoá chống lại họ Mạc. Năm 1533 (Quí Tỵ), ông này đưa được Lê Ninh
(con vua Chiêu Tông) lên ngôi tức Lê Trang Tông đánh chiếm Tây Kinh (1545) thắng lợi. Ðến năm
1545 (Ất Tỵ), Nguyễn Kim mất, con rể là Trịnh Kiểm lên thay, đánh nhau nhiều trận lớn với họ Mạc ở
Thanh Hoá, 17 lần quân Mạc đều thua.

13


Từ năm 1533 đến 1592, triều đình nhà Lê ở Thanh Hoá, quản lý đất nước từ Thanh Hoá trở
vào, đóng đô ở Yên Trường (nay thuộc Yên Ðịnh) mở nhiều khoa thi, chọn người hiền tài tham gia
chính quyền. Năm 1593, Trịnh Tùng - con trai Trịnh Kiểm, kế tục cha tiêu diệt họ Mạc, đưa vua Lê
Thế Tông trở lại Thăng Long, lập phủ chúa, Ðàng Ngoài do vua Lê - Chúa Trịnh trị vì từ năm 1599.
Trong thời đó, năm 1588, Nguyễn Hoàng (con trai của Nguyễn Kim) vào trấn thủ xứ Thuận Hoá, mở
đầu sự nghiệp các Chúa Nguyễn ở Ðàng trong. Năm 1738, Lê Duy Mật (con vua Lê Dụ Tông Duy
Ðường) khởi nghĩa chống Chúa Trịnh, địa bàn hoạt động rộng khắp Tây Nam, Tây, Tây Bắc Thanh

Hoá và vùng Tây Bắc lẫn Tây Bắc Bộ. Năm 1770, Duy Mật bị con rể phản bội phải thua và tự sát với
vợ con, chấm dứt 32 năm chiến đấu. Từ năm 1557 đến 1786, Thanh Hoá bị 10 trận bão lụt lớn xen
đại hạn, 15 lần đói to chết nhiều người và 16 cuộc chiến giữa quân Trịnh - Mạc, những tai hoạ ấy
không hề có ở thời Lê sơ.
14. Thời Tây Sơn
Những năm quân Tây Sơn tiến công ra Bắc, quân dân Thanh Hoá do Lê Trung Nghĩa (tức
Quận Mãn) chỉ huy chống lại rất dữ dội, Lê Trung Nghĩa tử trận ở Tĩnh Gia.
Quân đội Tây Sơn phá huỷ hoàn toàn Lam Kinh và kinh đô An Trường biểu tượng của các
vua Lê và còn phá huỷ nhiều chùa chiền miếu mạo khác. Năm 1790, con vua Quang Trung là Quang
Bàn được cử ra trấn thủ Thanh Hoá. Năm 1792, ông tách ra 2 phủ Trường An và Thiên Quan của
Thanh Hoa ngoại thành trấn Thanh Bình (tức Ninh Bình ngày nay).
15. Thời nhà Nguyễn (1802 - 1945)
Thanh Hoá là đất tổ của nhà Nguyễn, cho nên sau kinh thành Huế, Thanh Hoá đặc biệt được
chú trọng. Nhà Nguyễn coi viên quan tổng đốc quản trị Thanh Hoá ngang với chức thượng thư trong
triều đình và phải là một vị hoàng thân mới được làm tổng đốc tỉnh Thanh Hoá.
Ðặc biệt, triều đình ra lệnh không được đào bới khai mỏ gì ở Thanh Hoá sợ rằng xúc phạm
đến oai linh của xứ sở. Nhà Nguyễn xây lăng tổ khai sáng ở Triệu Tường (Hà Trung), thành Triệu
Tường lớn thứ 2 sau thành Thanh Hoá, chu vi 182 trượng (1 trượng = 4m), xây dựng lại Lam Kinh để
tỏ lòng kính ngưỡng nhà Lê, dựng đền thờ các vua Lê ở Kiều Ðại (TP Thanh Hoá), hằng năm cắt cử
các quan lại thay mặt nhà vua cúng tế và tổ chức phòng thủ ở Thanh Hoá rất hùng mạnh gồm một hệ
thống 11 đồn binh có quân chính qui trấn giữ 7 bảo súng (pháo đài), 1 đồn thuỷ với 44 khẩu đại bác
(súng thần công) mỗi đợt tuyển quân lấy của Thanh Hoá hơn 7.000 người. Ngày 25/11/1885, quân
xâm lược Pháp lần đầu tiên tiến công Thanh Hoá. Trước đó, ngày 5 tháng 7, Tôn Thất Thuyết cùng
vua Hàm Nghi tuyên bố chọn Thanh Hoá làm thủ phủ kháng chiến, nên tinh thần Cần Vương của
quân dân Thanh Hoá rất sôi sục. Vùng rừng núi Thanh Hoá được xây dựng những sơn phòng tích
trữ tiền của, lương thảo để chuẩn bị đánh giặc. Ba tháng sau (12/3/1886), nghĩa quân Cần Vương đã
tiến đánh quân Pháp đóng ở thành Thanh Hoá. Mùa hè năm 1886, nghĩa quân lập bộ chỉ huy kháng
chiến toàn Thanh Hoá do Tống Duy Tân đứng đầu và lập chiến khu ở Ba Ðình (Nga Sơn). Từ

14



18/12/1887, chiến sự dữ dội nhất giữa quân Việt Nam và Pháp đã nổ ra ở Ba Ðình. Quân Pháp phải
tập trung trên địa bàn một số xã ở đây lượng binh lính lớn nhất so với toàn quốc (6.000 người trong
một trận) để chiến đấu và bị thiệt hại nặng nề. Cuối cùng vì không được tiếp ứng như kế hoạch dự
kiến, nghĩa quân do Ðinh Công Tráng chỉ huy đã rút lui an toàn khỏi các chiến luỹ. Ngày nay quảng
trường trọng đại nhất của đất nước mang tên chiến khu này, đó là quảng trường Ba Ðình lịch sử ở
thủ đô Hà Nội. Các cuộc chiến đấu chống quân đội Pháp ở Thanh Hoá đến giữa năm 1895 mới chấm
dứt cùng với hàng ước của nhà Nguyễn. Thanh Hoá và các tỉnh miền Trung Việt Nam vẫn nằm trong
nền độc lập hạn chế của nhà Nguyễn không bị Pháp cai trị trực tiếp. Thực tế chính quyền thuộc địa
Pháp chỉ cai quản địa phận thị xã Thanh Hoá được thành lập ngày 12/7/1899 ở khu đất phía Ðông
thành Thanh Hoá mà thôi. Năm 1918, chế độ thi cử tuyển hiền tài, kiểu Nho giáo ở Thanh Hoá mới
bãi bỏ. Thanh Hoá bắt đầu hình thành xã hội phong kiến nửa thuộc địa hiện đại hoá.
16. Thời hiện đại
Các năm 1926 - 1927, các tổ chức cách mạng đầu tiên ở Thanh Hoá ra đời. Ngày 25/6/1930,
chi bộ Ðảng Cộng sản đầu tiên thành lập ở làng Hàm Hạ (thuộc xã Ðông Tiến, huyện Ðông Sơn), và
ngày 29/7/1930, đã thành lập Ðảng bộ tỉnh, Bí thư Tỉnh uỷ đầu tiên là đồng chí Lê Thế Long.
Tháng 9/1942, Tỉnh bộ Việt Minh Thanh Hoá thành lập. Ngày 24/7/1945, nhân dân huyện Hoằng Hoá
giành chính quyền huyện thắng lợi. Ngày 19/8/1945, nhân dân thành phố Thanh Hoá và một số
huyện tiến hành tổng khởi nghĩa thắng lợi. 4 ngày sau, cách mạng thành công trên toàn tỉnh. Ngày
23/8/1945, chính quyền cách mạng tỉnh Thanh Hoá ra mắt đồng bào ở thị xã Thanh Hoá. Ngày
2/9/1945, Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra đời. Cùng với cả nước, lịch sử Thanh Hoá bước vào
thời kỳ phát triển mới. Trong thời đại phong kiến, người dân Thanh Hoá đã ghi lại những mốc son
chói lọi trong lịch sử dựng nước, mở nước và giữ nước của cả dân tộc Việt Nam. Thanh Hoá là nơi
phát tích của các vương triều: Tiền Lê, Hậu Lê, chúa Trịnh, chúa Nguyễn, triều Nguyễn. Trong sự
nghiệp cách mạng ngày nay, người dân xứ Thanh cũng góp phần xứng đáng đối với cả nước để xây
dựng quê hương mình nhanh chóng trở thành tỉnh giàu đẹp, văn minh./.

(Ban


Biên tập - Sưu tầm và biên soạn)

Câu 1: Người xưa có câu: “Vua xứ Thanh, thần xứ Nghệ”. Vùng Ái Châu
(tức Thanh Hóa ngày nay) được xem là cái nôi sản sinh ra vua chúa Việt. Bằng
những kiến thức lịch sử đã học, em hãy trình bày hiểu biết của mình về một
trongcác vị vua, chúa xứ Thanh mà em yêu thích nhất.
Trả lời:
Hồ Quý Ly (1400)
Niên hiệu - Thánh Nguyên
Vào cuối thế kỷ XIV, đất nước ở trong tình trạng rối ren. Triều Trần đã trở nên
15


ruỗng nát, bị lung lay tận gốc. Nhân hoàn cảnh đó, Hồ Quý Ly, một quý tộc có
vây cánh và thanh thế trong triều, đã lấn át dần quyền lực nhà Trần rồi đến nǎm
1400, phế truất hẳn vua Trần lập ra một vương triều mới: Triều Hồ.
Hồ Quý Ly dòng dõi người ở Chiết Giang, Trung Quốc Từ đời Ngũ Quý sang
Việt Nam sống ở Quỳnh Lưu, (Nghệ An) sau chuyển ra Thanh Hóa. Hồ Quý Ly
tham dự vào chính sự nhà Trần khoảng 28 nǎm. Sau khi bức vua Trần rời đô từ
Thǎng Long vào Thanh Hóa và giết hàng loạt quần thần trung thành với nhà
Trần, tháng 2 nǎm Canh Thìn (1400) Quý Ly truất ngôi của Trần Thiếu Đế, tự
lên làm vua lấy quốc hiệu là Đại Ngu (Nguyên họ Hồ là dòng dõi nhà Ngu bên
Trung Quốc, nên Quý Ly đặt niên hiệu là Đại Ngu.). Quý Ly làm vua chưa
dược một nǎm, bắt chước tục nhà Trần, nhường ngôi cho con thứ Hồ Hán
Thương rồi làm Thái Thượng hoàng cùng coi việc nước.
Trong khoảng 35 nǎm nắm quyền chính ở triều Trần và triều Hồ, Quý Ly đã
từng bước tiến hành một cuộc cải cách rộng lớn về mọi mặt. Về mặt hành chính
Quý Ly đổi các lộ xa làm trấn, đặt thêm các chức An Phủ phó sứ, Trấn thủ phó
sứ cùng các chức phó khác ở các châu huyện, ở các lộ thì đặt những chức quan
lớn như: Đô hộ, Đô thống, Thái thú quản cả việc quân sự và dân sự. Quý Ly còn

đặt chức Liêm phóng sứ tại mỗi lộ để dò xét tình hình quân dân.
Về mặt kinh tế, cải cách quan trọng nhất của Hồ Quý Ly là phép hạn điền, hạn
nô, phát hành tiền giấy và đổi mới chế độ thuế khóa. Đó là những cải cách tiến
bộ nhằm tước giảm thế lực của bọn quý tộc Trần, giải quyết tình trạng kiệt quệ
tài chính của triều đình. Theo phép hạn điền, trừ đại vương và trưởng công
chúa, mỗi chủ đất chỉ được giữ 10 nǎm trở xuống, sổ sách phải sung công,
nghĩa là khôi phục chế độ sở hữu nhà nước về ruộng đất. Ai có tội được phép
lấy ruộng mà chuộc tội.
Về vǎn hóa xã hội, Hồ Quý Ly phản đối lối học sáo rỗng, nhắm mắt học vẹt lời
nói của cổ nhân để xét việc trước mắt. Nǎm Nhâm Thân (1392), Quý Ly soạn
sách "Minh Đạo" gồm 14 thiên đưa ra những kiến giải xác đáng về Khổng Tử
và những nghi vấn có cǎn cứ về sách "Luận ngữ" một trong những tác phẩm
kinh điển của nho gia. Hồ Quý Ly cũng có hoài bão xây dựng một nền vǎn hóa
dân tộc. Ông trọng dụng chữ Nôm, dịch Kinh thư ra nôm để dạy hậu phi, cung
nữ. Ông còn quan tâm đến việc mở thêm trường học ở các lộ phủ Sơn Nam,
Kinh Bắc, Hải Đông và định lại phép thi cho có quy củ.
Về mặt xã hội, Hồ Quý Ly mở "Quảng Tế Thư" một loại bệnh viện công, chữa
bệnh bằng châm cứu và lập kho bán thóc rẻ cho người nghèo. Việc ông cho ban
hành cân, thước, đấu, thưng để thống nhất đo lường cũng góp phần làm tǎng
16


thêm giá trị vǎn minh của đời sống xã hội.
Hồ Quý Ly đã thực hiện những cuộc cải cách ấy với một quyết tâm cao, một tài
nǎng xuất chúng và một bản lĩnh phi thường. Và dù những cải cách đó có ý
nghĩa tích cực nhưng nhìn chung toàn bộ chưa đáp ứng yêu cầu phát triển của
xã hội và những đòi hỏi cấp thiết của dân tộc. Chính sách cải cách của nhà Hồ
có hạn chế bớt thế lực họ Trần nhưng lại làm lợi riêng cho họ Hồ nhiều hơn là
lợi ích quốc gia. Vì vậy ông đã thất bại Cái mà ông làm ra không bằng những
bài học ông để lại. Bài học lớn nhất, dẫn đến thất bại của ông là dể mất lòng

dân. Quý Ly đã tiến hành cải cách và đoạt chính quyền bằng bạo lực tàn bạo.
Trong cuộc tàn sát các tôn thất nhà Trần và những người không ǎn cánh, Quý
Ly đã giết một lúc 370 người, gián tiếp và trực tiếp giết nhiều vua, và còn tiếp
tục tàn sát trong nhiều nǎm sau, làm cho người quen biết nhau "chỉ nhìn nhau
bằng mắt không dám nói chuyện với nhau bằng lời". Người đương thời cho Quý
Ly là "gian giảo". Một triều vua như vậy thật khó đứng vững.
Câu 2: Học giả người Pháp L.Bơdatxie nhận xét: “Công trình này là một
trong những tác phẩm đẹp nhất của nền kiến trúc Việt Nam” (Phan Đại Doãn:
Những bàn tay tài hoa của cha ông - NXB Giáo dục 1988). Ngày 27 - 06 - 2011,
Tổ chức UNESCO đã chính thức công nhận công trình này là Di sản văn hóa
thế giới. Đó là công trình nào? Em hãy đóng vai một hướng dẫn viên du lịch để
giúp cộng đồng hiểu biết về công trình này.
Trả lời:
Học giả người Pháp L.Bơdatxie nhận xét: “Công trình này là một trong
những tác phẩm đẹp nhất của nền kiến trúc Việt Nam” . Ngày 27 - 06 - 2011,
Tổ chức UNESCO đã chính thức công nhận công trình này là Di sản văn hóa
thế giới. Đây là công trình Thành Nhà Hồ tỉnh Thanh Hóa.
Thành Nhà Hồ thuộc địa phận các xã Vĩnh Tiến, Vĩnh Long, Vĩnh
Quang, Vĩnh Yên, Vĩnh Phúc, Vĩnh Ninh, Vĩnh Khang, Vĩnh Thành và thị trấn
Vĩnh Lộc (huyện Vĩnh Lộc), tỉnh Thanh Hóa. Đây là kinh thành của nước Việt
Nam từ năm 1398 đến 1407.
Thành Nhà Hồ do Hồ Quý Ly - lúc bấy giờ là tể tướng dưới triều đại nhà
Trần - cho xây dựng vào năm 1397. Thành xây xong, Hồ Quý Ly ép Vua Trần
Thuận Tông rời đô từ kinh thành Thăng Long (Hà Nội) về Thanh Hóa. Tháng 2
năm Canh Thìn (1400), Hồ Quý Ly lên ngôi vua thay nhà Trần và đặt tên nước
là Đại Ngu (1400-1407), thành Nhà Hồ chính thức trở thành kinh đô. Thành
Nhà Hồ trong lịch sử còn có các tên gọi khác là thành An Tôn, Tây Đô, Tây
Kinh, Tây Nhai, Tây Giai.
17



Thành Nhà Hồ được coi là tòa thành đá duy nhất còn lại ở Đông Nam Á
và là một trong rất ít còn lại trên thế giới. Ngày 27/6/2011, tại Paris (Pháp),
trong kỳ họp lần thứ 35 của Ủy ban Di sản thế giới, UNESCO đã công nhận
thành Nhà Hồ là di sản văn hóa thế giới.
Thành Nhà Hồ đã đáp ứng hai tiêu chí được quy định trong Công ước Di
sản Thế giới năm 2008. Đó là tiêu chí 2 “bày tỏ sự trao đổi quan trọng của các
giá trị nhân văn, qua một thời kỳ hay bên trong một khu vực văn hóa của thế
giới, về những phát triển trong kiến trúc, công nghệ, nghệ thuật điêu khắc, quy
hoạch thành phố hay thiết kế phong cảnh” và tiêu chí 4 “là ví dụ nổi bật về một
loại hình công trình xây dựng, một quần thể kiến trúc hoặc kỹ thuật hoặc cảnh
quan minh họa một (hoặc nhiều) giai đoạn trong lịch sử nhân loại”.
Trong hồ sơ di sản thế giới, thành Nhà Hồ được mô tả là một công trình
kỳ vĩ bởi kỹ thuật và nghệ thuật xây dựng đá lớn và sự kết hợp các truyền thống
xây dựng độc đáo có một không hai ở Việt Nam, khu vực Đông Á và Đông
Nam Á trong thời kỳ cuối thế kỷ 14, đầu thế kỷ 15. Nhờ kỹ thuật xây dựng độc
đáo, sử dụng các vật liệu bền vững, đặc biệt là các khối đá lớn, thành Nhà Hồ
được bảo tồn rất tốt trong cảnh quan thiên nhiên hầu như còn nguyên vẹn. Đây
là một trong số ít các di tích kinh thành chưa chịu nhiều tác động của quá trình
đô thị hóa, cảnh quan và quy mô kiến trúc còn được bảo tồn gần như nguyên
vẹn cả trên mặt đất và trong lòng đất ở khu vực Đông Á và Đông Nam Á.
Theo các tài liệu và thư tịch cổ, cùng với việc khảo cổ, nghiên cứu hiện
trạng thì phức hợp di sản thành Nhà Hồ ngoài Thành nội, Hào thành, La thành
còn có Đàn tế Nam Giao.

Câu 3: Triệu Thị Trinh có một câu nói nổi tiếng: “Tôi muốn cưỡi cơn gió
mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá Kình ở Biển Đông, đánh đuổi quân Ngô,
giành lại giang sơn, cởi ách nô lệ chứ không chịu khom lưng làm tì thiếp người
ta”. Bằng kiến thức lịch sử đã học, em hãy làm rõ truyền thống anh hùng bất
khuất chống giặc ngoại xâm của con người xứ Thanh.

Trả lời
Câu nói nổi tiếng của Bà Triệu : “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp
luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân xâm lược Ngô, cưỡi
ách nô lệ, há chịu cúi đầu làm tì thiếp cho người ta” có ý nghĩa gì trong xã hội
18


Việt Nam lúc bấy giờ? Bà Triệu là người giỏi võ nghệ, có chí lớn. năm 19 tuổi,
đáp lời hỏi bà về việc chồng con, bà nói : : “Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp
luồng sóng dữ, chém cá kình ở biển Đông, đánh đuổi quân xâm lược Ngô, cưỡi
ách nô lệ, há chịu cúi đầu làm tì thiếp cho người ta”. Bà cùng anh trai chiêu tập
nghĩa binh, quyết lòng đánh đuổi quân Ngô cứu nước, cứu dân. Có thể nói, Bà
Triệu là tấm gương sáng chói về cuộc cách mạng nhân quyền sớm trên thế giới,
vì vào thời điểm mà Bà khởi nghĩa, chế độ nô lệ còn đang bành trướng mạnh
mẽ khắp nơi và thân phận của người phụ nữ vẫn bị coi là rẻ mạt. trong hoàn
cảnh đất nước đang bị ngoại bang thống trị, với những lễ nghi tôn giáo khắt
khe, người đàn ông thường được suy tôn là “đại trưởng phu”, là “anh hùng nam
tử” và được quyền “năm thê, bảy thiếp”; còn người phụ nữ chỉ là “thân phận nữ
nhi”, “liễu yếu đào tơ”, cùng với những chính sách tàn bạo của nhà Hán nhằm
khống chế một bộ phận phản kháng ách áp bức bóc lột, gieo rắc trong lòng xã
hội tính “trọng nam, khinh nữ”. Tuy nhiên, bà Triệu đã dám khẳng khái tuyên
bố rằng “tôi muốn cỡi cơn gió mạnh, đạp luồng sóng dữ, chém cá kình biển
Đông”, để phản kháng lại chế độ và để khẳng định vai trò vị trí của người phụ
nữ trong xã hội. thử hỏi đáng nam nhi lức bấy giờ, trong cùng một hoàn cảnh đã
mấy ai sánh bằng. để phản đối và chống lại chế độ “trai năm thê, bảy thiếp”,
phận làm tì thiếp, một hình thức nô lệ” Bà Triệu đã dứt khoát “há chịu cúi đầu
làm tỳ thiếp người ta”. từ đó bà đã dấn thân vào cuộc nổi dậy thực sự. bà đã
chiêu binh, phất cờ làm cách mạng đòi sự bình đảng, bình quyền nam nữ. trong
đó người phụ nữ không còn phải “cúi đầu làm tỳ thiếp người ta”, và mục tiêu
của Bà là “đánh đuổi quân xâm lược Ngô” để nhân dân được hưởng độc lập,

thoát khỏi kiếp sống nô lệ.
Trong lịch sử chống giặc ngoại xâm, người dân Thanh Hóa luôn kiên
cường, bất khuất và mưu trí. Vì thế, vùng đất xứ Thanh “nhân kiệt” gần như
thời nào cũng là nơi phát tích, dựng cờ khởi nghĩa.
Đó là Bà Triệu với cuộc khởi nghĩa chống quân Đông Ngô; Dương Đình
Nghệ kéo quân từ xứ Thanh ra Đại La đánh chiếm La Thành, cai quản đất nước
dưới danh nghĩa Tiết Độ Sứ; Lê Lợi sau mười năm dấy binh đã đánh đuổi giặc
Minh giành lại giang sơn xã tắc... Người Thanh Hóa không chỉ giỏi “Lên ngựa
cầm gươm, xuống ngựa cầm bút” mà còn là những người giàu khả năng sáng
tạo. Cha con Hồ Quý Ly xây Thành Nhà Hồ, chế súng thần công, đúc tiền đồng
và xây dựng pháp luật; Lê Văn Hưu viết lên “Đại Việt sử ký toàn thư”, Lê Lợi
với “Lam Sơn thực lục”... Lịch sử cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ
của nhân dân Việt Nam ghi nhận sự đóng góp to lớn của nhân dân Thanh Hóa
với những trận chiến ác liệt, những chiến công vẻ vang. Những thanh niên xung
19


phong, tự vệ chiến đấu dũng cảm và chịu đựng gian khổ như Ngô Thị Tuyển,
Nguyễn Thị Hằng, anh hùng Tô Vĩnh Diện lấy thân mình chèn pháo; anh hùng
Lê Mã Lương với câu nói nổi tiếng “cuộc đời đẹp nhất là trên trận tuyến chống
quân thù”..., mỗi người một vẻ nhưng đều làm rạng danh cho Tổ quốc Việt
Nam, cho quê hương Thanh Hóa trong lịch sử. Lịch sử vinh quang ấy kết tinh
thành niềm tự hào của người Thanh Hóa.
Linh khí của núi sông hun đúc nên khí chất của con người xứ Thanh cần
cù trong lao động, anh hùng trong đấu tranh, thông minh trong học hành xử thế,
trọng danh dự, giữ khí tiết, giàu đạo lý nghĩa tình. Phẩm chất cao quý ấy được
lưu giữ từ thế hệ này sang thế hệ khác. Để rồi những người con xứ Thanh hôm
nay luôn ra sức thi đua học tập, lao động xây dựng quê hương, đất nước ngày
càng giàu đẹp, văn minh
Câu 4: Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được thành lập như thế nào? Hãy nêu

những hiểu biết của em về một người Cộng sản Thanh Hóa mà em ấn tượng
nhất?
Trả lời :
Ngày 29/7/1930, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được thành lập tại Làng Yên Trường,
xã Thọ Lập, huyện Thọ Xuân. Sự ra đời của Đảng bộ tỉnh là một bước ngoặt
lịch sử quan trọng, là nhân tố quyết định thắng lợi của phong trào đấu tranh
cách mạng đánh đổ chế độ thực dân và phong kiến, giành chính quyền ở Thanh
Hóa năm 1945, đồng thời giành nhiều thành tựu to lớn trong sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ Tổ Quốc cũng như trong công cuộc đổi mới, phát triển và hội
nhập hiện nay.
Năm 1858, Thực dân Pháp nổ súng tấn công Đà Nẵng, chính thức xâm
lược Việt Nam. Cùng với nhân dân cả nước, nhân dân Thanh Hóa, liên tục vùng
lên khởi nghĩa đánh đuổi giặc Pháp xâm lược. Các cuộc đấu tranh yêu nước do
các sỹ phu phong kiến lãnh đạo, tiêu biểu là phong trào Cần Vương, phong trào
Đông Du, Đông Kinh Nghĩa Thục diễn ra rộng khắp, thế nhưng đều lần lượt bị
địch khủng bố đẫm máu và thất bại, do thiếu một đường lối lãnh đạo đúng đắn
của một chính Đảng. Trong bối cảnh đó, ngày 03 tháng 2 năm 1930, tại Cửu
Long (Hương Cảng), lãnh tụ Nguyễn Ái Quốc đã chủ trì Hội nghị hợp nhất ba
tổ chức cộng sản, thành lập một Đảng thống nhất, lấy tên là Đảng Cộng sản
Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam được thành lập, tạo ra bước ngoặt quan
trọng đối với phong trào cách mạng trong cả nước và các địa phương. Cũng từ
đây phong trào đấu tranh cách mạng ở Thanh Hóa phát triển mạnh mẽ rộng
20


khắp. Các chi bộ Cộng Sản: Hàm Hạ - Đông Sơn ; Phúc Lộc - Thiệu Hóa, Yên
Trường, Thọ Xuân lần lượt ra đời. Trước tình hình phong trào đấu tranh cách
mạng ở Thanh Hóa ngày càng phát triển mạnh mẽ và đang rất cần sự lãnh đạo
của Đảng, xuất phát từ yêu cầu cấp bách, dưới sự chỉ đạo của Xứ ủy Bắc Kỳ,
ngày 29/7/1930, Hội nghị thành lập Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa đã được tổ chức

tại Làng Yên Trường, Xã Thọ Lập, huyện Thọ Xuân trên cơ sở hợp nhất 3 chi
bộ Cộng sản gồm Chi bộ Hàm Hạ, Chi bộ Thiệu Hóa và Chi bộ Thọ Xuân. Đ/c
Lê Thế Long được bầu giữ chức Bí thư Tỉnh ủy và là Bí thư Tỉnh ủy đầu tiên
của Đảng bộ Thanh Hóa.
Ngôi nhà lịch sử chính là của gia đình đ/c Lê Văn Sỹ - Bí thư Chi bộ
Yên Trường, huyện Thọ Xuân lúc bấy giờ, được chọn làm địa điểm để tổ chức
hội nghị thành lập Đảng bộ tỉnh vào ngày 29 tháng 7 năm 1930. Điều đặc biệt là
cũng tại ngôi nhà này trước đó một tuần đã diễn ra sự kiện thành lập chi bộ
cộng sản Yên Trường, tiền thân của Đảng bộ huyện Thọ Xuân. Có thể nói sự ra
đời của Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa là bước ngoặt quan trọng đối với Đảng bộ,
nhân dân trong phong trào đấu tranh cách mạng giành chính quyền ở tỉnh ta.
Chấm dứt giai đoạn khủng hoảng kéo dài của phong trào cách mạng do thiếu sự
lãnh đạo của một chính Đảng.
Ngay sau khi thành lập, Đảng bộ tỉnh đã đề ra một số nhiệm vụ quan
trọng trước mắt đó là: Xây dựng Đảng, xây dựng tổ chức Nông hội đỏ, Công
hội đỏ, cơ quan ấn loát, phát hành tờ báo “ Tiến lên” ......
Trong quá trình hoạt động, mặc dù bị thực dân Pháp khủng bố dã man, có
những thời điểm các Chi bộ Cộng sản và Đảng bộ tỉnh gần như bị cô lập thậm
chí là tan rã, nhưng trước yêu cầu bức thiết của lịch sử, bất chấp sự gian khổ, tù
đày và hy sinh, các Chi bộ Đảng và Đảng bộ tỉnh nhanh chóng được khôi phục
trở lại và tiếp tục lãnh đạo phong trào đấu tranh cách mạng và đánh đuổi thực
Pháp, lật đổ chế độ phong kiến. Từ cuối năm 1935 trở đi, phong trào cách mạng
đã phát triển rộng khắp ở nhiều phủ, huyện trong tỉnh, nhằm chuẩn bị cùng với
cả nước tiến tới khởi nghĩa giành chính quyền. Mở đầu là cuộc khởi nghĩa giành
chính quyền ngày 24/7/1945 ở huyện Hoằng Hóa.
Đêm ngày 18, rạng sáng ngày 19/8/1945, sau khi Ủy ban Khởi nghĩa tỉnh
phát lệnh tổng khởi nghĩa, nhân dân và tự vệ các huyện nhất tề vùng lên giành
chính quyền. Cuộc tổng khởi nghĩa giành chính quyền ở Thanh Hóa giành thắng
lợi nhanh chóng. Ngày 23/8/1945, từ đình làng Ngô Xá Hạ ở căn cứ Thiệu Hóa,
lực lượng cứu quốc gồm có hàng nghìn tự vệ của các huyện: Thiệu Hóa, Đông

Sơn, Yên Định, Thọ Xuân.....đã tiến về thị xã Thanh Hóa ra mắt quốc dân đồng
21


bào. Đ/c Lê Tất Đắc, Chủ tịch Uỷ ban Hành chính Cách mạng lâm thời tuyên bố
thành lập chính quyền cách mạng và kêu gọi toàn dân đoàn kết xây dựng bảo bệ
chế độ mới./.
Lê Hữu Lập - Người thanh niên cộng sản đầu tiên của tỉnh Thanh Hóa
Lê Hữu Lập lúc nhỏ tên là Độ (ngoài ra còn một số tên gọi khác như:
“Cậu Ấm”, Hoàng tức Thoại, tức Hoàng Lùn), sinh năm 1897 ở thôn Hữu
Nghĩa, tổng Xuân Trường, huyện Hậu Lộc (nay là xã Xuân Lộc, huyện Hậu
Lộc, tỉnh Thanh Hóa), là con một gia đình nho học có khí tiết.
* Lê Hữu Lập - Người thanh niên yêu nước chân chính:
Lúc còn nhỏ tuổi, Lê Hữu Lập được cha, chú mang theo trọ học ở nhiều
nơi trong tỉnh. Anh có điều kiện tiếp xúc với các tầng lớp nhân dân từ thành thị
đến nông thôn. Tầm hiểu biết ở một thiếu niên ham hiểu biết ngày được mở
rộng.
Năm 1918, sau khi tốt nghiệp trường Pháp Việt, được thêm một số kiến
thức cả về nho học và tân học, anh càng say sưa suy nghĩ về con đường hoạt
động tìm chí hướng. Thông thường ở thời kỳ đó, với cái bằng tiểu học, anh có
thể được bổ dụng đi làm trợ giáo hoặc thư ký cho các công sở Pháp hoặc Nam
triều để kiếm một cuộc sống sung túc. Nhưng anh coi cái bả vinh hoa phú quý
do bọn Tây, bọn vua quan đem lại là một sự đê hèn, nhục nhã. Bởi lẽ đó, mặc
dù có một tấm bằng trong tay và được phong hai tiếng “Ấm sinh” (tên gọi
đương thời thường được dùng cho các con quan lại từ ngũ phẩm trở lên. Lê Hữu
Lập tuy không phải con quan nhưng do kính trọng cụ Lê Cơ và lại là cháu nội
của quan án nên được phong là “Ấm sinh”), song anh vẫn cùng bà con dân làng
tham gia lao động, hòa mình với quần chúng trong các công việc đồng áng, phu
phen tạp dịch ở vùng nông thôn đồng chua nước mặn. Cuộc sống lầm than khổ
cực của nông dân, cảnh tô cao, tức nặng của giai cấp địa chủ phong kiến, cảnh

bị đánh đập, cùm kẹp… càng khắc sâu hận mất nước của người thanh niên yêu
nước Lê Hữu Lập.
Sau khi khởi nghĩa Ba Đình thất bại, phong trào cách mạng trong nước bị
bọn thực dân, phong kiến đàn áp dã man. Hàng trăm, ngàn gia đình có người
thân tham gia nghĩa quân đã từng chịu cảnh đầu rơi máu chảy. Khắp đó đây nỗi
uất hận tràn ngập trong lòng quần chúng. Ngay tại Làng Hữu Nghĩa, nơi chôn
rau cắt rốn của đồng chí Lê Hữu Lập, đã có hàng chục gia đình bị tàn sát dã
man, hàng trăm nóc nhà bị triệt hạ. Thực tế lịch sử ấy càng hun đúc thêm lòng
yêu nước, căm thù giặc trong tâm khảm người thanh niên trẻ tuổi Lê Hữu Lập.
22


Một ngày hè năm 1922, Lê Hữu Lập đã trực tiếp gặp đồng chí Đinh
Chương Dương, một thanh niên lớn tuổi đương thời đã từng nhiều phen bị thực
dân Pháp kết tội vì có lòng yêu nước. Đồng chí Đinh Chương Dương đã đem
những hiểu biết của mình truyền lại cho Lê Hữu Lập, kể cho anh nghe về các tổ
chức cách mạng trong nước, ngoài nước; về các nhà ái quốc Phan Bội Châu,
Phan Chu Trinh, về chính sách áp bức bóc lột của bọn thực dân Pháp đối với
nhân dân ta. Những ngày tiếp xúc với Đinh Chương Dương tình cảm và lý trí
của Lê Hữu lập càng lớn lên. Anh nhận ra một hướng đi mới và luôn suy nghĩ
đến điều căn dặn của Đinh Chương Dương: “Muốn làm cách mạng phải đi học
cách mạng và muốn đi học cách mạng phải thoát ly gia đình. Tuổi trẻ lúc này
phải vươn cánh tay đập mạnh vào đầu giặc, đền nợ nước, trả thù nhà”.
Đầu năm 1923, Lê Hữu Lập tạm biệt mẹ già, người vợ hiền và đứa con
thơ mới ba tháng tuổi, bước vào con đường thoát ly hoạt động.
Giữa năm 1924, Lê Hữu Lập được Đinh Chương Dương đưa sang Quảng
Châu tham gia vào “Tâm Tâm xã”. Tổ chức này ra đời từ năm 1923 do các
đồng chí Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng Mậu và một số thanh niên có tư tưởng tiến bộ
thành lập tại Quảng Châu, một thành phố ở miền nam Trung Quốc.
* Từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến với chủ nghĩa cộng sản:

Trong lúc Tâm Tâm xã đang mò mẫm đi tìm đường lối cách mạng thì
tháng 12 năm 1924, đồng chí Nguyễn Ái Quốc từ Liên Xô về Trung Quốc.
Đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã liên hệ được với nhóm Tâm Tâm xã và
nhóm cách mạng của cụ Phan Bội Châu. Các đồng chí Lê Hồng Sơn, Hồ Tùng
Mậu, Lê Hữu Lập… trong Tâm Tâm xã và một số người khác từ trong nước ra
đã được đồng chí Nguyễn Ái Quốc huấn luyện chính trị để đào tạo thành những
cán bộ cách mạng.
Đầu năm 1925, đồng chí Nguyễn Ái Quốc đã sáng lập ra “Việt Nam
Thanh niên cách mạng đồng chí Hội”, tổ chức tiền thân của Đảng Cộng sản
Việt Nam.
Tháng 6 năm 1925, đồng chí Lê Hữu Lập được kết nạp vào Việt Nam Thanh
niên cách mạng đồng chí Hội.
Đồng chí Lê Hữu Lập có vinh dự được sống gần gũi bên cạnh đồng chí
Nguyễn Ái Quốc, một người thầy lỗi lạc, một nhà cách mạng thiên tài, trực tiếp
được Người bồi dưỡng về lý luận cách mạng và phương pháp cách mạng, chính
điều này đã đưa Lê Hữu Lập đi từ chủ nghĩa yêu nước chân chính đến với chủ

23


nghĩa cộng sản, con đường đi đúng đắn do Bác Hồ vạch ra cho thanh niên nước
ta.
Cuối năm 1925, đồng chí Lê Hữu Lập cùng một số anh em khác trực tiếp
được đồng chí Nguyễn Ái Quốc giao nhiệm vụ rời Quảng Châu về nước tuyên
truyền giác ngộ cách mạng và lựa chọn những thanh niên yêu nước ở các tỉnh
Thái Bình, Nam Định, Thanh Hóa, Nghệ An và Quảng Trị đưa sang Quảng
Châu huấn luyện.
* Những tháng năm sôi động
Lê Hữu Lập về tỉnh nhà vào giữa lúc phong trào yêu nước của nhân dân
ta trở nên sôi động, tạo thuận lợi cho đồng chí có điều kiện hoạt động. Anh

khẩn trương đi vào nhiệm vụ tuyên truyền con đường cách mạng mới của đồng
chí Nguyễn Ái Quốc.
Tháng 5 năm 1926, tại số nhà 26 phố Hàng Than, Thị xã Thanh Hóa,
đồng chí Lê Hữu Lập đã tổ chức Hội đọc sách báo cách mạng. Đồng chí Lê
Hữu Lập đã tìm đến những thanh niên yêu nước. Các anh Nguyễn Văn Đắc,
Nguyễn Chí Hiền, Mai Xuân Diễn, Lê Văn Thanh, Hoàng Khắc Trung… được
anh tổ chức tham gia và trở thành hạt nhân của Hội đọc sách báo cách mạng bí
mật.
Sau khi Hội đọc sách báo cách mạng ra đời, lớp thanh niên tiến bộ và
những nhà thơ yêu nước bắt đầu được nhận thức về chủ nghĩa Mác - Lênin, về
chủ trương của cách mạng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa. Trên cơ sở
đó, đồng chí Lê Hữu Lập đã tiến hành cuộc vận động xuất dương để học tập con
đường cứu nước của đồng chí Nguyễn Ái Quốc.
Anh Nguyễn Văn Đắc ở Thị xã Thanh Hóa được Lê Hữu Lập tổ chức
chuyến xuất dương đầu tiên (Nguyễn Văn Đắc tức Cao Hoài Nghĩa, sau khi dự
xong lớp huấn luyện tại Quảng Châu được cử sang Thái Lan hoạt động trong tổ
chức cách mạng của Việt Kiều). Đoàn xuất dương lần đầu thuộc các tỉnh miền
Trung gồm có mười người, trong đó có đồng chí Trần Phú, sau này là Tổng Bí
thư đầu tiên của Đảng cộng sản Đông Dương.
Sau khi hoàn thành chuyến xuất dương thứ nhất, đồng chí Lê Hữu Lập
trở về tiếp tục vận động xuất dương ở Thanh Hóa, Nam Định và Thái Bình. Các
đồng chí Nguyễn Mậu Sung (Thọ Xuân) và Võ Danh Thùy (Nông Cống) là hai
người được đồng chí Lê Hữu Lập vận động xuất dương lần hai. Ngày 20 tháng
02 năm 1926, đoàn xuất dương lần hai gồm mười người được lệnh lên đường.

24


Hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ thứ nhất: Vận động thanh niên đi sang
nước ngoài học tập lý luận cách mạng, đồng chí Lê Hữu Lập bắt tay vào nhiệm

vụ thứ hai: Xây dựng tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội
tỉnh nhà.
* Lê Hữu Lập - Người thanh niên cộng sản đầu tiên của tỉnh Thanh Hóa
Đầu năm 1927, trên cơ sở Hội đọc sách báo cách mạng phát triển, đồng
chí Lê Hữu Lập kịp thời chỉ đạo việc thành lập Việt Nam Thanh niên cách
mạng đồng chí Hội tỉnh Thanh Hóa.
Tháng 4 năm 1927, Ban chấp hành Tỉnh bộ lâm thời Việt Nam Thanh
niên cách mạng đồng chí Hội được thành lập gồm ba ủy viên: Lê Hữu Lập, Lê
Văn Thanh, Nguyễn Chí Hiền. Đồng chí Lê Hữu Lập được cử làm Bí thư Tỉnh
bộ lâm thời.
Một ngày đầu tháng 4 năm 1928, dưới sự chủ trì của đồng chí Lê Hữu
Lập, hội nghị đại biểu Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội tỉnh
Thanh Hóa đã làm việc trong ba buổi và bầu ra Ban chấp hành Tỉnh bộ chính
thức gồm bảy ủy viên. Đồng chí Lê Hữu Lập được cử làm Bí thư và sau đó
được bầu vào Ban Chấp hành Kỳ bộ Thanh niên Trung Kỳ.
Năm 1929, đồng chí được cử sang Thái Lan hoạt động.
Tháng 11 năm 1929, đồng chí Lê Hữu Lập bị tòa án Nam Triều Thanh
Hóa kết án tử hình vắng mặt.
Tháng 3 năm 1930, tại Hội nghị đại biểu Việt Nam Thanh niên cách
mạng đồng chí Hội ở U-Đôn (Thái Lan) do đồng chí Nguyễn Ái Quốc chủ trì đã
quyết định chuyển tổ chức Việt Nam Thanh niên cách mạng đồng chí Hội thành
tổ chức cộng sản. Do công lao đóng góp tích cực cho việc thành lập Đảng
cộng sản, đồng chí Lê Hữu Lập đã trở thành đảng viên cộng sản đầu tiên của
tỉnh Thanh Hóa.
Cuối tháng 8 năm 1930, đồng chí lê Hữu Lập bí mật về nước. Cuối tháng
9 năm 1930, đồng chí thành lập chi bộ cộng sản đầu tiên của huyện Hoằng Hóa
tại thôn Cự Đà (nay là xã Hoằng Minh huyện Hoằng Hóa).
Cuối năm 1930, đồng chí quay lại Thái Lan hoạt động.
Từ năm 1932 đến năm 1933, đồng chí công tác ban viện trợ cách mạng
Đông Dương ở vùng Đông Bắc Thái Lan.


25


×