Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ PHÁT HUY VAI TRÒ của QUÂN đội NHÂN dân VIỆT NAM TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH đại đoàn kết TOÀN dân tộc của ĐẢNG và NHÀ nước THEO tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (445.66 KB, 76 trang )

BẢNG KÝ HIỆU CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

CHỮ VIẾT TẮT

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNH, HĐH

Chủ nghĩa xã hội
Đại đoàn kết dân tộc
Dân tộc thiểu số
Hệ thống chính trị
Quân đội nhân dân Việt Nam
Xã hội chủ nghĩa

CNXH
ĐĐKDT
DTTS
HTCT
QĐNDVN
XHCN
MỞ ĐẦU

1.Tính cấp thiết của đề tài
Trong lịch sử dựng nước và giữ nước, các dân tộc trong cộng đồng dân tộc Việt Nam đã
đoàn kết chặt chẽ, gắn bó keo sơn, chung sức chung lòng đấu tranh chống giặc xâm lăng, khắc
phục thiên tai bảo vệ và xây dựng đất nước. Đoàn kết toàn dân tộc đã trở thành một truyền
thống quý báu, là nguồn sức mạnh lớn lao, là nhân tố quyết định sự tồn tại và phát triển của dân
tộc.


Chủ tịch Hồ Chí Minh trong cuộc đời hoạt động cách mạng của mình đã nhận thức rõ
tầm quan trọng của việc xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân tộc. Người luôn chăm lo
xây dựng, phát huy sức mạnh toàn dân tộc trong thực hiện các nhiệm vụ của cách mạng, và
chính Người là biểu hiện cao đẹp cho tinh thần và truyền thống đại đoàn kết toàn dân tộc Việt Nam.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, tư tưởng về đại đoàn kết toàn dân tộc là một nội dung cơ bản và đặc
sắc.
Học tập tư tưởng Hồ Chí Minh và kế thừa truyền thống đoàn kết của dân tộc, trong quá
trình lãnh đạo cách mạng, Đảng cộng sản Việt Nam luôn giương cao ngọn cờ đại đoàn kết, tập
hợp toàn dân tộc phát huy sức mạnh tổng hợp đánh thắng mọi kẻ thù xâm lược giành độc lập tự
do cho dân tộc và xây dựng đất nước đi lên CNXH. Trong sự nghiệp đổi mới, đẩy mạnh CNH,
HĐH vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng dân chủ, văn minh ở nước ta hiện nay,
Đảng ta tiếp tục khẳng định đại đoàn kết toàn dân tộc là nguồn sức mạnh và động lực to lớn để
thực hiện thắng lợi các nhiệm vụ trong giai đoạn cách mạng mới.
Hiện nay, các thế lực phản động trong và ngoài nước vẫn đang ra sức chống phá cách
mạng nước ta, phá hoại khối ĐĐKDT, kích động đồng bào DTTS biểu tình phản đối chính quyền,
gây chia rẽ trong đồng bào các dân tộc, chia rẽ Đảng với dân, làm giảm sút lòng tin của nhân
dân với Đảng, chính quyền hòng làm suy yếu sức mạnh khối ĐĐKDT phục vụ cho ý đồ đen tối
của chúng. Vì vậy, xây dựng, củng cố khối ĐĐKDT ở nước ta trong tình hình hiện nay vừa là
yêu cầu, đòi hỏi của sự nghiệp cách mạng, vừa là trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân , toàn
quân ta.


Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội cách mạng mang bản chất giai cấp công nhân,
gắn bó máu thịt với nhân dân, có vai trò to lớn trong thực hiện chính sách ĐĐKDT của Đảng,
Nhà nước. Thời gian qua, bên cạnh những mạnh cơ bản, ở một vài đơn vị cơ sở trong quân đội
còn bộc lộ những hạn chế nhất định, chưa phát huy hết vai trò và khả năng to lớn của mình trong
thực hiện chính sách đại đoàn kết toàn dân tộc của Đảng và Nhà nước ta. Mặt khác, hiện nay
thực hiện tốt chính sách ĐĐKDT vừa là yêu cầu xây dựng quân đội trong tình hình mới, vừa là
trách nhiệm của quân đội, thể hiện bản chất một quân đội cách mạng, nhằm thắt chặt hơn nữa
mối quan hệ gắn bó máu thịt quân- dân góp phần phát huy sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn

dân tộc xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN trong giai
đoạn mới.
Chính vì vậy, tác giả đã chọn đề tài: “Phát huy vai trò của quân đội nhân dân Việt
Nam trong thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng, Nhà nước ta theo tư
tưởng Hồ Chí Minh” làm luận văn.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan tới đề tài
Tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc là vấn đề đã, đang tập trung sự chú ý,
quan tâm của Đảng, Nhà nước và các nhà khoa học. Đảng ta đã đề cập vấn đề này trong các
văn kiện, nghị quyết như Văn kiện Đại hội Đảng IX, Nghị quyết chuyên đề của Ban chấp hành
TW lần thứ 7 khoá IX về “Phát huy sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc vì dân giàu, nước mạnh,
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh” và Nghị quyết TW 7 khoá IX “về công tác dân tộc”... Các
công trình nghiên cứu của các nhà khoa học cũng đã đề cập tới vấn đề này ở những góc độ
khác nhau như: Đề tài “Chiến lược đại đoàn kết Hồ Chí Minh”, Phùng Hữu Phú- chủ biên, Nxb
CTQG, H.1995; “Tìm hiểu thêm tư tưởng Hồ Chí Minh về đoàn kết”, Phạm Văn Khánh, Tạp chí
cộng sản, số 18, tháng 9/2000; “Thực hiện đại đoàn kết dân tộc là trách nhiệm của cả hệ thống
chính trị”, Nông Đức Mạnh, Tạp chí cộng sản số 24, tháng 12/2001; sách “Tư tưởng Hồ Chí
Minh về đại đoàn kết và mặt trận đoàn kết dân tộc” của Nguyễn Bích Hạnh và Nguyễn Văn
Khoan, tái bản lần một, Nxb Lao động, H.2001; “Đại đoàn kết toàn dân tộc theo tư tưởng Hồ Chí
Minh”, Vũ Văn Châu, Tạp chí Xây dựng Đảng, số 6-2003...
Những công trình nghiên cứu nêu trên đã đề cập đến các khía cạnh khác nhau của vấn
đề ĐĐKDT trong tư tưởng Hồ Chí Minh. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có công trình nào nghiên
cứu một cách hệ thống vấn đề “Phát huy vai trò của quân đội nhân dân Việt Nam trong thực hiện
chính sách ĐĐKDT của Đảng, Nhà nước ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh”. Đề tài này không trùng
lặp với các công trình khoa học đã được công bố.
3. Mục đích, nhiệm vụ, phạm vi nghiên cứu của đề tài
3.1. Mục đích:
Thông qua việc nghiên cứu một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
ĐĐKDT và thực trạng vai trò của quân đội trong thực hiện chính sách ĐĐKDT của Đảng, Nhà



nước ta, đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của quân đội trong thực hiện
chính sách ĐĐKDT của Đảng, Nhà nước ta hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3.2. Nhiệm vụ :
- Làm rõ một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐĐKDT.
- Chỉ rõ vai trò và thực trạng của Quân đội nhân dân Việt Nam trong thực hiện chính sách
ĐĐKDT của Đảng, Nhà nước hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Đề xuất một số giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của quân đội trong thực hiện
chính sách ĐĐKDT của Đảng, Nhà nước ta hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
3.3.Phạm vi nghiên cứu:
Đề tài tập trung nghiên cứu một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về
ĐĐKDT và thực trạng vai trò của quân đội trong thực hiện chính sách ĐĐKDT của Đảng, Nhà
nước ta hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh (từ năm 1986 đến nay).
4. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của luận văn
Cơ sở lý luận:
Là những quan điểm cơ bản của chủ nghĩa Mác- Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường
lối quan điểm của Đảng cộng sản Việt Nam về đoàn kết và đại đoàn kết dân tộc.
Cơ sở thực tiễn:
- Thực tiễn mối quan hệ đoàn kết giữa các quốc gia dân tộc và các dân tộc ở Việt Nam
hiện nay.
- Kết quả thực hiện chính sách ĐĐKDT của Đảng, Nhà nước ta thời gian qua.
- Kết quả khảo sát ở một số đơn vị trong quân đội về thực hiện chính sách ĐĐKDT.
Phương pháp nghiên cứu:
Đề tài sử dụng phương pháp luận của CNDVBC và CNDVLS, chú trọng các phương
pháp kết hợp lôgíc- lịch sử, phân tích- tổng hợp, so sánh- thống kê điều tra xã hội học để phục
vụ mục đích nghiên cứu của đề tài.
5. Ý nghĩa của luận văn:
- Luận văn góp phần làm rõ tính đúng đắn, khoa học, cách mạng của tư tưởng Hồ Chí
Minh về vấn đề ĐĐKDT; đồng thời góp phần phát huy vai trò của quân đội trong thực hiện chính
sách ĐĐKDT của Đảng, Nhà nước ta hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh.
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng

dạy và vận dụng ở một số đơn vị quân đội trong quá trình thực hiện chính sách ĐĐKDT của Đảng,
Nhà nước ta hiện nay.
6. Kết cấu của luận văn:
Đề tài gồm phần mở đầu, 2 chương, 4 tiết, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ
lục.


Chương 1
MỘT SỐ NỘI DUNG CƠ BẢN TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH VỀ ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN
TỘC VÀ VAI TRÒ CỦA QUÂN ĐỘI TRONG THỰC HIỆN CHÍNH SÁCH ĐẠI ĐOÀN KẾT DÂN
TỘC CỦA ĐẢNG, NHÀ NƯỚC TA HIỆN NAY THEO TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
Dân tộc, xét theo nghĩa hẹp là một cộng đồng tộc người có chung một tiếng nói, một lịch
sử, cùng nguồn gốc, cùng một đời sống văn hoá dân tộc truyền thống, có ý thức tự giác dân tộc,
cùng cư trú trên một địa bàn đầu tiên.
Dân tộc, xét theo nghĩa rộng là một cộng đồng người ổn định xuất hiện trong lịch sử, là
cộng đồng về đời sống kinh tế, có tiếng nói chung, có lãnh thổ chung và có nền văn hoá chung,
trong đó đặc trưng quan trọng nhất là cộng đồng về kinh tế và cộng đồng về văn hoá.
Chỉ khi nào hội đủ các yếu tố trên thì dân tộc mới hình thành hẳn. Cho nên, theo nghĩa
này, dân tộc được gắn liền với sự hình thành và phát triển các quốc gia dân tộc. Đề tài này tiếp
cận vấn đề dân tộc theo nghĩa rộng.
Theo từ điển chính trị vắn tắt, đoàn kết là hợp nhiều người thành một khối vững chắc,
cùng một lòng, một dạ nhất trí với nhau; là sự ủng hộ các phong trào, các tổ chức hoặc cá nhân
trên cơ sở quan điểm và lợi ích gần nhau hoặc thống nhất [76, tr.128].
Như vậy có thể khái quát:
Đại đoàn kết dân tộc trong quá trình cách mạng Việt Nam là sự kết lại tất cả mọi người thuộc
dân tộc Việt Nam, không phân biệt đảng phái, thành phần dân tộc, tín ngưỡng, giới tính, lứa
tuổi, giàu nghèo, đang công tác hay đã nghỉ hưu, ở trong nước hay đang sống ở nước ngoài.
.. thành một khối vững chắc, ổn định, lâu dài, trên cơ sở thống nhất về mục tiêu và những lợi
ích chung cơ bản, để tạo nên sức mạnh vô địch thực hiện thắng lợi sự nghiệp cách mạng.
Tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐĐKDT là một bộ phận trong toàn bộ tư tưởng của Người, là

sự kế thừa, phát triển truyền thống đoàn kết dân tộc; sự tiếp thu quan điểm chủ nghĩa Mác- Lênin
về sự đoàn kết và vấn đề lực lượng cách mạng; là những yêu cầu, đòi hỏi của thực tiễn cách
mạng Việt Nam và là kết quả đúc kết từ cuộc đời hoạt động cách mạng của Hồ Chí Minh vì độc
lập tự do cho dân tộc, vì hoà bình, hạnh phúc cho nhân dân. Tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐĐKDT
có nội dung phong phú và rộng lớn. Trong phạm vi của luận văn, tác giả sẽ tập trung làm rõ một
số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về ĐĐKDT.
1.1.Một số nội dung cơ bản trong tư tưởng Hồ Chí Minh về đại đoàn kết dân tộc
1.1.1.Mục tiêu và cơ sở của đại đoàn kết dân tộc
*Mục tiêu của đại đoàn kết dân tộc
Đại đoàn kết dân tộc là truyền thống quý báu lâu đời, là bài học được đúc rút từ lịch sử
đau thương mà hào hùng của dân tộc Việt Nam, đồng thời đây còn là đường lối, phương hướng
để giải phóng dân tộc mà Hồ Chí Minh đã tìm thấy trong quá trình hoạt động cách mạng. Trong
tư tưởng của Người, mục tiêu ĐĐKDT là để tạo sức mạnh tổng hợp của toàn thể dân tộc Việt
Nam nhằm giải quyết các nhiệm vụ do thực tiễn cách mạng Việt Nam đặt ra. Đó là nhiệm vụ giải
phóng dân tộc, giải phóng con người, cải tạo xã hội cũ, xây dựng thành công xã hội mới- XHCN


trên đất nước ta; đó còn là nhiệm vụ bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN, chống các
hành động gây chia rẽ và phá hoại khối ĐĐKDT của các thế lực phản động. Khi nói chuyện tại
Hội nghị đại biểu mặt trận Liên- Việt toàn quốc, Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Ta đoàn kết để đấu tranh
cho thống nhất và độc lập của Tổ quốc; ta còn phải đoàn kết để xây dựng nước nhà”[52, tr.438].
Trong các mục tiêu mà ĐĐKDT hướng tới thì vấn đề giải phóng dân tộc được Hồ Chí
Minh đặt lên hàng đầu. Đây cũng là lý do khiến Người quyết chí ra đi tìm đường cứu nước, là
khát vọng, nỗi niềm trăn trở, động cơ thôi thúc Người dành trọn cả cuộc đời và sự nghiệp cách
mạng của mình để hy sinh, để phấn đấu. Trả lời các nhà báo nước ngoài, Người đã nói lên lý
tưởng đó: “Tôi chỉ có một ham muốn, ham muốn tột bậc, là làm sao cho nước ta được hoàn toàn
độc lập, dân ta được hoàn toàn tự do, đồng bào ai cũng có cơm ăn, áo mặc, ai cũng được học
hành”[37, tr. 161]. Để thực hiện được mục tiêu đó, Người đã làm hết sức mình để xây dựng,
củng cố khối ĐĐKDT, vận động, tuyên truyền toàn dân phát huy truyền thống đoàn kết của dân
tộc Việt Nam, chỉ đạo, tổ chức ra các mặt trận, các hội để tập hợp, đoàn kết mọi người, mọi giai

tầng cùng đồng tâm, hiệp lực, chung sức, chung lòng đánh thực dân phong kiến, giành độc lập,
tự do cho dân tộc. Trong thư kêu gọi tổng khởi nghĩa, Người viết: “Bốn năm trước đây, tôi có thư
kêu gọi đồng bào ta đoàn kết, vì có đoàn kết mới có lực lượng, có lực lượng mới giành được độc
lập, tự do”[25, tr. 553]. Cách mạng tháng Tám thành công, nước Việt Nam dân chủ cộng hoà ra
đời, trong bản Tuyên ngôn độc lập ngày 2/9/1945, Hồ Chủ tịch đã khẳng định trước toàn thể
quốc dân đồng bào và toàn thế giới biết rằng: do sức đoàn kết tranh đấu của toàn dân tộc mà
nước Việt Nam đã trở thành một nước tự do, độc lập và “Toàn thể dân tộc Việt Nam quyết đem
tất cả tinh thần và lực lượng, tính mạng và của cải để giữ vững quyền tự do, độc lập ấy”.
Sau cách mạng tháng Tám 1945, thực dân Pháp rồi đế quốc Mỹ tiếp tục xâm lược Việt
Nam, gây nên cảnh chia cắt giữa hai miền Nam- Bắc. Nghe theo lời kêu gọi của Hồ Chủ tịch, với
ý chí “thà hy sinh tất cả, chứ nhất định không chịu mất nước, nhất định không chịu làm nô lệ”,
“Không có gì quý hơn độc lập, tự do”, toàn dân Việt Nam không phân biệt trẻ, già, trai, gái, vùng,
miền, đoàn kết một lòng cùng quyết tâm đánh giặc Mỹ xâm lược, giải phóng miền Nam, thống
nhất đất nước. Chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ 7/5/1954 và chiến thắng trong chiến dịch Hồ
Chí Minh lịch sử 30/4/1975 là chiến thắng của sức mạnh ĐĐKDT, là sự chứng minh cho sự đúng
đắn, sáng tạo của tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh và của Đảng ta.
Việt Nam là một quốc gia gồm nhiều dân tộc sinh sống, kề vai sát cánh trong lịch sử
dựng nước và giữ nước, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở các dân tộc không phân biệt lớn, nhỏ phải
đoàn kết chặt chẽ, phải thương yêu quý mến nhau như anh em trong một nhà để cùng nhau
đánh giặc xâm lăng, giữ gìn độc lập tự do cho toàn dân tộc. Tổ quốc Việt Nam được giải phóng
thì các dân tộc trong đại gia đình các dân tộc Việt Nam mới được giải phóng, vì vậy, Người
khuyên đồng bào các dân tộc hãy đoàn kết chặt chẽ tạo sức mạnh to lớn để đánh đuổi xâm lăng,
giữ vững nền độc lập cho đất nước và cho các dân tộc. Phát biểu tại Hội nghị đại biểu các dân
tộc thiểu số miền Nam, Người nói: “Nhờ sức mạnh đoàn kết đấu tranh chung của các dân tộc,


nước Việt Nam ngày nay được độc lập, các dân tộc thiểu số được bình đẳng cùng dân tộc Việt
Nam, tất cả đều như anh chị em trong một nhà, không còn phân chia nòi giống, tiếng nói gì nữa.
Trước kia, các dân tộc để giành được độc lập phải đoàn kết, bây giờ để giữ lấy nền độc lập cũng
cần phải đoàn kết hơn nữa”[30, tr. 110].

Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, ĐĐKDT không chỉ để tạo nên sức mạnh vô địch chiến
thắng quân thù, giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước, mà ĐĐKDT còn nhằm xây dựng thành
công CNXH ở Việt Nam. Bởi theo Người, ĐĐKDT vừa là vấn đề sống còn của sự nghiệp cách
mạng, vừa là yêu cầu, là thuộc tính đặc trưng của CNXH. Người cho rằng, xã hội XHCN mà
chúng ta đang xây dựng là một xã hội khác hẳn về chất so với các xã hội bóc lột trước đó. Xã hội
XHCN không chỉ cần sức mạnh đoàn kết của cả cộng đồng dân tộc Việt Nam, mà đây còn là một
xã hội duy nhất có thể mang lại hạnh phúc, no ấm và tình đoàn kết, sự bình đẳng thực sự cho
các dân tộc, cho mọi người dân. Trong xã hội mới này, các dân tộc cùng sống một cuộc sống
hạnh phúc, đoàn kết, vui vẻ, không còn sự kỳ thị, phân biệt, không còn cảnh dân tộc lớn đè nén,
ức hiếp dân tộc bé theo kiểu “cá lớn nuốt cá bé”. Người quan niệm “CNXH là ấm no, đoàn kết,
vui vẻ. Vì vậy, muốn đi đến CNXH thì mọi người phải học tập, lao động và thực hành đoàn kết”.
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, thực hiện ĐĐKDT để tạo sức mạnh to lớn của
toàn dân tộc để đánh đuổi giặc xâm lăng, giải phóng dân tộc, giải phóng nhân dân thoát khỏi chế
độ áp bức, bóc lột. Đồng thời thực hiện ĐĐKDT còn nhằm xây dựng thành công CNXH trên đất
nước ta. Trong suốt quá trình cách mạng, Chủ tịch Hồ Chí Minh và Đảng ta luôn thấy rõ vai trò
sức mạnh của ĐĐKDT đối với sự nghiệp cách mạng Việt Nam, nên đã luôn quan tâm xây dựng,
củng cố và giữ gìn khối ĐĐKDT nhằm thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam XHCN.
*Cơ sở của đại đoàn kết dân tộc
Thứ nhất, đồng bào các dân tộc Việt Nam không phân biệt dân tộc, giai cấp, tín ngưỡng,
vùng, miền. .. đều có chung một cội nguồn sâu xa là con lạc cháu Hồng, đều là con dân
nước Việt, gắn bó với những truyền thống tốt đẹp lâu đời trong lịch sử đấu tranh dựng và giữ
nước của dân tộc.
Đại đoàn kết toàn dân tộc là một truyền thống quí báu của dân tộc ta đã được các thế hệ
người Việt Nam gìn giữ, vun đắp và phát huy trong công cuộc dựng nước và giữ nước. Trong tư
tưởng Hồ Chí Minh, khối đoàn kết của chúng ta được hình thành và dựa trên cơ sở mọi người
dân Việt Nam không kể sự giàu nghèo, sang hèn, tín ngưỡng, dân tộc. .. đều là con cháu Lạc
Hồng, có chung một nguồn cội. Từ một “bọc đẻ trăm trứng” do Mẹ Âu cơ sinh ra, 50 người con
đã theo cha lên rừng, 50 người con theo mẹ xuống biển để mở mang bờ cõi, hình thành nên
mảnh đất Việt Nam với những kỳ tích huyền thoại. Qua thời gian và những thử thách cam go,

các thế hệ người Việt Nam ngày càng sinh sôi, không ngừng khai phá, mở rộng lãnh thổ, đoàn
kết cùng nhau đấu tranh chống chọi với thiên nhiên, chống giặc ngoại xâm bảo tồn nòi giống,
phát triển quốc gia dân tộc. Vì cùng chung một tổ tiên nòi giống nên Hồ Chí Minh thường dùng từ
“đồng bào” để gọi toàn thể nhân dân Việt Nam, tức là những người cùng được sinh ra từ một


bọc. Trong các bài nói, bài viết của mình, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở, kêu gọi các tầng lớp nhân
dân hãy đoàn kết và chỉ cho họ thấy mọi người dân Việt Nam đều là anh em ruột thịt, đều từ một
bọc sinh ra. Khi diễn nôm “lịch sử nước ta” Người kêu gọi:
“Hỡi ai con cháu rồng tiên
Mau mau đoàn kết vững bền cùng nhau
Bất kỳ nam nữ giàu nghèo
Bất kỳ già trẻ cùng nhau kết đoàn”.
Việt Nam là một quốc gia đa dân tộc, mỗi dân tộc đều có một bản sắc riêng, điều đó
phản ánh tính đa dạng, đặc sắc của nền văn hoá Việt Nam. Trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí
Minh, 54 dân tộc sinh sống trên đất nước Việt Nam đều là anh em một nhà, là thành viên không
thể chia cắt của đại gia đình các dân tộc Việt Nam. Trong thư gửi Đại hội các dân tộc thiểu số
miền Nam tại Plâycu ngày 19/4/1946 Người chỉ rõ: “Đồng bào Kinh hay Thổ, Mường hay Mán,
Giarai hay Êđê, Xê đăng hay Bana và các dân tộc thiểu số khác, đều là con cháu Việt Nam, đều
là anh em ruột thịt. Chúng ta sống chết có nhau, sướng khổ cùng nhau, no đói giúp nhau”[33, tr.
217]. Trong tâm thức của Người, mọi dân tộc, mọi người dân Việt Nam đều có sự gắn bó bởi
tình ruột thịt, nghĩa đồng bào và cùng chung một gia đình, một Tổ quốc, nên phải đoàn kết gắn
bó keo sơn, yêu thương nhau, đùm bọc nhau như những người trong một gia đình. Trong thư
gửi học sinh trường sư phạm miền núi Trung ương nhân dịp ngày khai giảng, Người căn dặn:
“Các cháu thuộc nhiều dân tộc và ở nhiều địa phương. Nhưng các cháu đều là con em của đại
gia đình chung: là gia đình Việt Nam, đều có một Tổ quốc chung: là Tổ quốc Việt Nam”[53,
tr.496]. Do những diễn biến lịch sử và sự vận động của quá trình tộc người, nên ở Việt Nam, bên
cạnh đa số các dân tộc đã tụ cư lâu đời, cũng có một số dân tộc thiên di tới Việt Nam trong vài
thế kỷ gần đây, cùng làm ăn, sinh sống trên đất nước Việt Nam. Trong tư tưởng đoàn kết Hồ Chí
Minh, bộ phận này cũng là thành viên của đại gia đình dân tộc Việt Nam, có nhiều công lao đóng

góp vào quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, nên Người luôn tôn trọng, yêu quí, coi như anh
em ruột thịt. Trong thư gửi anh em Hoa Kiều ngày 28/12/1946, Người viết: “Dân tộc Việt Nam,
đồng văn đồng chủng, tình nghĩa thân thiết hơn mấy ngàn năm. Anh em Hoa Kiều làm ăn ở đây
với dân Việt Nam, cũng như ruột thịt”. Trên cơ sở có chung nguồn gốc, nòi giống, đều là anh em
một nhà, Hồ Chí Minh luôn khơi dậy trong mỗi con người, mỗi dân tộc trên đất nước Việt Nam
tình yêu thương, đùm bọc, gắn bó, tinh thần trách nhiệm giừ gìn tình đoàn kết toàn dân tộc. Với
Người, đất nước Việt Nam là quê hương, là gia đình lớn và cũng là người mẹ dịu hiền của tất cả
mọi người, mọi dân tộc sinh sống trên đất Việt. Cho nên, đoàn kết chặt chẽ, yêu thương, đùm
bọc lẫn nhau là bổn phận, trách nhiệm và là niềm tự hào cho mỗi người dân Việt Nam. Vì thế,
Người đã nhắc nhở:
“Dân ta phải giữ nước ta
Dân là con nước, nước là mẹ chung”[35, tr.486].
Thứ hai, mọi người dân Việt Nam và mọi dân tộc ở Việt Nam đều có chung những lợi ích cơ
bản và vận mệnh dân tộc.


Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, đại đoàn kết dân tộc không chỉ được xây dựng trên cơ sở
mọi người dân Việt Nam đều có chung nguồn gốc, nòi giống, mà tình đoàn kết đó còn được dựa
chắc trên cơ sở những lợi ích chung và vận mệnh dân tộc.
Lợi ích là vấn đề cốt lõi, là động cơ, là chất kết dính toàn dân tộc thành một khối thống
nhất cùng đồng tâm, hiệp lực thực hiện những nhiệm vụ của dân tộc. Lợi ích chung nhất của
toàn thể dân tộc Việt Nam là chủ quyền quốc gia, độc lập dân tộc, thống nhất đất nước. Do thống
nhất được những lợi ích cơ bản đó mà trong hàng ngàn năm lịch sử, các dân tộc ở Việt Nam đã
đoàn kết keo sơn, kề vai sát cánh, cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam vững mạnh.
Nhận thức được ý nghĩa và tầm quan trọng của mẫu số chung đó, Hồ Chí Minh đã qui tụ,
tập hợp được các tầng lớp nhân dân, không phân biệt đảng phái, tôn giáo, thành phần dân tộc. ..
vào mặt trận dân tộc thống nhất. Người đã chỉ ra cho mọi người thấy mối quan hệ biện chứng
giữa lợi ích riêng của mỗi người, mỗi dân tộc, mỗi thành phần phải gắn liền và đặt trong mối
quan hệ với lợi ích chung của quốc gia dân tộc. Nước mất thì nhà tan, mọi người, kể cả vua cũng
trở thành nô lệ. Chân lý đó đã được lịch sử dân tộc kiểm chứng. Hàng ngàn năm Bắc thuộc,

hàng trăm năm bị thực dân Pháp đô hộ, nhân dân ta sống trong gông cùm, tăm tối, mất tự do,
phải “làm thân trâu ngựa cho loài chó dê” cướp nước. Trong hoàn cảnh đó, đồng bào các dân
tộc, không phân biệt dân tộc đa số hay thiểu số, đồng bào miền xuôi hay đồng bào miền ngược
đều có chung số phận của người dân mất nước. Vì vậy, kẻ thù của toàn dân tộc cũng là kẻ thù
của mỗi dân tộc, từng dân tộc không thể tự giải phóng cho mình nếu không dựa vào khối đoàn
kết của toàn dân tộc. Đây chính là yêu cầu khách quan buộc mọi dân tộc, tôn giáo, thành phần. ..
trong đất nước phải đoàn kết chặt chẽ cùng đấu tranh vì lợi ích của mỗi bộ phận cũng như vì
quyền lợi chung của cả quốc gia dân tộc. Hồ Chí Minh đã chỉ rõ: “Tổ quốc là Tổ quốc chung. Tổ
quốc độc lập thì ai cũng được tự do. Nếu nước mất thì ai cũng phải làm nô lệ”[35, tr.485].
Sau cách mạng tháng Tám 1945, thực dân Pháp, rồi sau đó là đế quốc Mỹ lại xâm lược
nước ta. Chúng dùng mọi thủ đoạn nham hiểm để phá vỡ khối đại đoàn kết, thống thất toàn dân
tộc, chúng đã lập ra những khu tự trị, cô lập từng vùng miền làm cho đồng bào các dân tộc cách
trở, ly gián, đối địch lẫn nhau. Khi Pháp thất bại ở Điện Biên phủ buộc phải ký hiệp định Giơnevơ
công nhận nền hoà bình trên bán đảo Đông Dương, đế quốc Mỹ nhảy vào xâm lược miền Nam
Việt Nam đã dùng vĩ tuyến 17 để cắt đôi đất nước. Vì lợi ích chung của toàn dân tộc, vì độc lập,
tự do và sự thống nhất toàn vẹn của hai miền Nam- Bắc, nhân dân ta, dưới sự lãnh đạo của
Đảng cộng sản Việt Nam và Hồ Chủ tịch, đã đoàn kết nhất trí, triệu người như một, tất cả vì một
nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, tiến hành cuộc kháng chiến thần thánh, thu giang sơn đất
nước về một mối, Nam- Bắc sum họp một nhà, cả nước thống nhất đi lên CNXH. Khẳng định ý
chí và tinh thần đoàn kết của toàn dân tộc, Hồ Chủ tịch đã viết:
“Nước Việt Nam là một
Dân tộc Việt Nam là một.
Dù cho sông cạn đá mòn


Nhân dân Nam- Bắc là con một nhà”.
Thứ ba, các dân tộc ở Việt Nam có một chính phủ chung thống nhất đại diện cho lợi ích của
toàn dân tộc.
Chính phủ nước Việt Nam dân chủ cộng hoà được lập nên từ thành quả của cách mạng
tháng Tám 1945, là chính phủ của mọi người dân Việt Nam, của các dân tộc sinh sống trên đất

nước Việt Nam, mang trách nhiệm trước nhân dân trong công cuộc xây dựng và giữ gìn đất
nước. Vì vậy, mọi người dân Việt Nam đều coi đó là chính phủ của chính mình, đoàn kết gắn bó
theo sự điều hành, quản lý của chính phủ để thực hiện thành công công cuộc kháng chiến và
kiến quốc. Trong thư gửi đại hội các dân tộc thiểu số miền nam tại Plâycu, Hồ Chủ Tịch đã khẳng
định: “Giang sơn và chính phủ là giang sơn và chính phủ chung của chúng ta. Vậy nên tất cả các
dân tộc chúng ta phải đoàn kết chặt chẽ để giữ gìn nước non ta, để ủng hộ chính phủ ta”[33,
tr.217].
Như vậy, trong tư tưởng Hồ Chí Minh, khối đại đoàn kết dân tộc của chúng ta được đặt
trên cơ sở vững chắc của những điểm tương đồng về nguồn gốc nòi giống và những lợi ích
chung. Chính những nét tương đồng đó đã gắn kết mọi người, mọi bộ phận trên đất nước trong
khối thống nhất toàn dân tộc Việt Nam để cùng dựng nước và giữ nước. Những điểm chung đó
đã làm cho số phận và lợi ích của từng bộ phận luôn gắn liền với vận mệnh chung của quốc gia
dân tộc và chính đặc điểm chung đó đã làm cho các thành phần, dân tộc trên đất nước, qua
những bước thăng trầm của lịch sử, những khó khăn, thử thách lại thêm đoàn kết, gắn bó, thuỷ
chung. Trong quá trình cách mạng, Hồ Chí Minh và Đảng ta đã biết cách khơi dậy, đánh thức và
tôn trọng các cơ sở chung đó nên đã tập hợp, xây dựng được khối đoàn kết toàn dân tộc tạo sức
mạnh to lớn, đưa sự nghiệp cách mạng nước ta tới bến bờ thắng lợi.

1.1.2.Lực lượng và phương pháp của đại đoàn kết dân tộc
*Lực lượng của đại đoàn kết dân tộc
Trong tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, lực lượng tham gia trong khối ĐĐKDT là toàn
thể dân tộc Việt Nam, gồm tất cả những người Việt Nam yêu nước, tán thành, ủng hộ và phấn
đấu vì một nước Việt Nam hoà bình, thống nhất, dân chủ và giàu mạnh, không phân biệt thành
phần giai cấp, dân tộc, tín ngưỡng, kể cả quá khứ trước kia của họ thế nào. Lực lượng đoàn kết
trong tư tưởng Hồ Chí Minh rất rộng rãi, đông đảo. Trong thư gửi đồng bào Nam bộ ngày
31/5/1946, Người chỉ rõ: “Tôi khuyên đồng bào đoàn kết chặt chẽ và rộng rãi. Năm ngón tay cũng
có ngón ngắn, ngón dài. Nhưng ngắn dài đều hợp lại nơi bàn tay. Trong mấy triệu người cũng có
người thế này thế khác, nhưng thế này hay thế khác đều dòng dõi của tổ tiên ta. Vậy nên ta phải
khoan hồng đại độ, ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu Hồng thì ai cũng có ít nhiều lòng ái quốc.
Đối với những đồng bào lạc lối lầm đường ta phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ. Có như thế mới

thành đoàn kết, có đoàn kết thì tương lai chắc chắn sẽ vẻ vang”[32, tr.246-247].


Tư tưởng đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ của Hồ Chí Minh được thể hiện ngay trong thành
phần của chính phủ liên hiệp chính thức được lập nên sau khi tổng tuyển cử bầu quốc hội
6/1/1946. Trong chính quyền mới được lập ra có đủ thành phần đại diện cho khối đại đoàn kết
toàn dân tộc, có những chí sĩ yêu nước như cụ Huỳnh Thúc Kháng, có những người của chế độ
cũ như các ông Phan Kế Toại, Bùi Bằng Đoàn, có cả “công dân Vĩnh Thuỵ” là vua Bảo Đại mới
thoái vị, có giám mục Lê Hữu Từ ở chức cố vấn, cũng có cả đại diện Đảng “Việt quốc” và “Việt
cách” trong chính phủ. Trong thành phần của Quốc hội khoá I, Hồ Chí Minh đã nhường hẳn một
phần năm số ghế cho những người thuộc Việt Nam quốc dân Đảng và Việt Nam cách mạng
đồng minh hội, mà không thông qua bầu cử, vì họ không có cơ hội trúng cử qua tổng tuyển cử tự
do. Hồ Chí Minh chủ trương thực thà đoàn kết lâu dài với những người thuộc mọi xu hướng,
miễn là họ có tinh thần yêu nước để cùng mưu cầu độc lập, tự do, hạnh phúc cho nhân dân. Khi
trả lời báo “Độc lập” về việc chính phủ mở rộng 28/8/1947, Hồ Chủ tịch nêu rõ: “chính sách của
chính phủ trước sau vẫn là đại đoàn kết. Đối với các vị quan lại cũ, cũng như đối với tất cả các
giới đồng bào, những người có tài, có đức, thì chính phủ hoan nghênh ra gánh vác việc
nước”[41, tr.196].
Từ những quan điểm và chính sách đúng đắn về xây dựng khối đoàn kết toàn dân tộc,
nên Hồ Chí Minh đã thu hút, qui tụ được nhiều nhân sĩ yêu nước, những người tài giỏi, những
người có uy tín, trong mặt trận dân tộc để cùng mưu sự chung. Đặc biệt Người đã cô lập được
những phần tử bất đồng với cách mạng, lôi kéo được những người trung lập đi theo cách mạng,
tạo nên sức mạnh hùng hậu của khối ĐĐKDT đưa sự nghiệp cách mạng mau thắng lợi. Phát
biểu trong buổi tiếp đại biểu nhân dân thủ đô Hà Nội ngày 16/10/1954, Người nói: “Đoàn kết là
lực lượng mạnh nhất của chúng ta. Chúng ta phải đoàn kết rộng rãi và chặt chẽ. đoàn kết giữa
chính phủ và nhân dân. Đoàn kết giữa các tầng lớp nhân dân với nhau. Đoàn kết giữa đồng bào
toàn quốc, từ Bắc chí Nam. Nói rộng hơn nữa, đoàn kết giữa nhân dân ta và nhân dân nước
bạn. ..”[51, tr. 368].
Trong tư tưởng, tình cảm Hồ Chí Minh, mọi người Việt Nam đều có chung nguồn gốc nòi
giống, đều là con dân nước Việt, miền Nam hay miền Bắc cũng có chung một cội nguồn dân tộc, một

truyền thống lịch sử đoàn kết lâu đời. Người kịch liệt phản đối âm mưu và hành động của kẻ thù hòng
chia cắt đất nước, Người luôn coi miền Nam là máu của máu Việt Nam, là thịt của thịt Việt Nam, và:
“Dù cho sông cạn đá mòn
Nhân dân Nam Bắc là con một nhà”.
Vì vậy, Người chủ trương: “Từ Nam đến Bắc, ai là người tán thành hoà bình, thống nhất,
độc lập, dân chủ, thì ta sẵn sàng đoàn kết với họ, thật thà hợp tác với họ, dù từ trước đến nay họ
đã theo phe phái nào. Đoàn kết là một lực lượng vô địch”.
Một trong những lực lượng trong tư tưởng ĐĐKDT Hồ Chí Minh là đồng bào các dân tộc
thiểu số. Người luôn coi các dân tộc thiểu số là “anh em một nhà”, nên nhắc nhở mọi cấp, mọi
ngành phải đặc biệt quan tâm, giúp đỡ, thương yêu đồng bào các dân tộc. Nói chuyện tại Hội


nghị cán bộ phụ nữ miền núi, Người nhắc nhở phải đoàn kết giữa dân tộc mình, đoàn kết giữa
các dân tộc. Đoàn kết với đồng bào miền xuôi lên phát triển kinh tế miền núi. Tất cả các dân tộc
miền núi và miền xuôi phải đoàn kết như anh em, chị em trong một nhà.
Đồng bào theo các tôn giáo cũng là một bộ phận không thể tách rời trong tư tưởng
ĐĐKDT của Hồ Chí Minh và Người luôn đánh giá cao vai trò hết sức quan trọng của đồng bào
trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, trong xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Nhận thức rõ vấn đề đó,
Hồ Chí Minh luôn quan tâm, xây dựng, củng cố khối đại đoàn kết toàn dân, đoàn kết lương giáo,
động viên giáo dân thi đua đóng góp công sức vào sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. Thực
hiện sự đoàn kết giữa các tôn giáo, giữa đồng bào Lương và đồng bào Giáo là quan điểm nhất
quán của Hồ Chí Minh và của Đảng ta từ năm 1945. Trong cuộc họp Hội đồng chính phủ lâm
thời sau ngày độc lập, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Hiện nay, những vấn đề gì là cấp bách hơn
cả. Theo tôi có 6 vấn đề:... vấn đề thứ sáu: thực dân và phong kiến thi hành chính sách chia rẽ
đồng bào Giáo và đồng bào Lương để dễ dàng thống trị. Tôi đề nghị chính phủ ta tuyên bố: tín
ngưỡng tự do và Lương Giáo đoàn kết”[31, tr.9].
Trong thư gửi Hội nghị đại biểu đồng bào Công giáo miền Bắc ngày 17/9/1964, Người
mong muốn rằng: Lương Giáo đoàn kết, toàn dân đoàn kết, cả nước một lòng, nhân dân ta nhất
định sẽ thắng lợi trong công cuộc đấu tranh thực hiện hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ và
giàu mạnh.

Nghiên cứu tư tưởng đại đoàn kết Hồ Chí Minh, chúng ta thấy, lực lượng trong tư tưởng
đoàn kết của Người là rất đông đảo, rộng rãi. Trong đất nước Việt Nam, hễ ai có lòng yêu nước,
thành thực muốn đóng góp công sức của mình vào sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng
CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc XHCN thì đều trở thành lực lượng trong khối ĐĐKDT, đều
là đối tượng để Người đoàn kết. Tư tưởng đại đoàn kết rộng rãi của Hồ Chí Minh là rất xa lạ với
những quan điểm dân tộc hèp hòi, dân tộc “thượng đẳng” và những quan điểm đoàn kết cổ xưa.
Quan điểm về đối tượng đoàn kết của Hồ Chí Minh cũng khác với quan điểm của các nhân sĩ
yêu nước như Phan Bội Châu, Phan Chu Trinh. ..
Phan Bội Châu, một sĩ phu yêu nước đã từng hô hào “Nghìn muôn ức triệu người trong
nước, xây dựng nên cơ nghiệp nước nhà”, và “cốt rằng người trong nước chung nhau một lòng”.
Ông luôn tin tưởng rằng: “nếu cả nước đồng lòng như thế, việc gì coi cũng dễ như không” và đã
chủ trương đoàn kết tất cả những người đồng tâm là “Phú hào, quan tước, thế gia, sĩ, binh tập,
côn đồ, nghịch tử, nhi nữ, anh sỹ, bồi bếp, thông ký, người đi du học. ..”. Nhưng Phan Bội Châu
lại coi hạng người phú hào, quan tước, sỹ, người đi du học nước ngoài là những hạng người lớp
trên, là động lực chính của cuộc vận động cách mạng, còn tầng lớp công, nông, thương lại
không có trong tư duy đoàn kết của ông.
Khác với quan điểm trên, Hồ Chí Minh luôn chủ trương đoàn kết rộng rãi tất cả lực
lượng, thành phần có thể đoàn kết trong xã hội nhưng phải đặt trên nguyên tắc, đó là họ phải có
tinh thần yêu nước, ủng hộ cách mạng, một lòng một dạ đấu tranh vì lợi ích chung của toàn dân


tộc. Hơn nữa, thực hiện đoàn kết đông đảo các lực lượng trong mặt trận dân tộc thống nhất,
nhưng phải lấy khối liên minh công- nông- trí làm nòng cốt. Nói chuyện tại Hội nghị đại biểu mặt
trận Liên Việt, ngày 10/1/1953, Người chỉ rõ: “Đại đoàn kết tức là trước hết phải đoàn kết đại đa số nhân
dân, mà đại đa số nhân dân ta là công nhân, nông dân và các tầng lớp nhân dân lao động khác. Đó là
nền gốc của đại đoàn kết”[52, tr. 438].
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng, Hồ Chí Minh luôn biết phân tích, đánh giá đúng vai
trò cách mạng, ưu điểm, hạn chế của từng lực lượng, giai tầng trong xã hội, thông cảm sâu sắc
với địa vị, hoàn cảnh của họ, tìm ra những điểm tương đồng dẫn dắt họ đi theo con đường cách
mạng, nên đã đoàn kết, tập hợp được lực lượng đông đảo toàn dân tộc, góp phần đưa sự

nghiệp cách mạng mau tới thành công.
*Phương pháp đại đoàn kết dân tộc
Nghiên cứu tư tưởng ĐĐKDT của Hồ Chí Minh, chúng ta thấy nét đặc sắc, nổi bật là
cách thức, phương pháp mà Người đã thực hiện để vận động, tập hợp, quy tụ, đoàn kết mọi
người. Phương pháp ĐĐKDT của Hồ Chí Minh là sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn, tinh tế
những tinh hoa văn hoá ứng xử từ cổ, kim, Đông, Tây trên thế giới với sự đậm đà, sâu sắc của
truyền thống văn hoá của dân tộc Việt Nam. Những điều đó được hội tụ trong con người Hồ Chí
Minh tạo nên phong cách và lối ứng xử để thu phục, cảm hoá, đoàn kết mọi người cùng đồng
tâm nhất trí thực hiện những mục tiêu cao cả của sự nghiệp cách mạng.
Thứ nhất, tôn trọng, thương yêu, quý mến, tin tưởng đồng bào, dùng những lời lẽ chân
thành, giản dị để thuyết phục, cảm hoá quần chúng.
Thấm nhuần truyền thống đạo lý của dân tộc qua những câu ca dao, cách ngôn “Bầu ơi
thương lấy bí cùng”, “Thương người như thể thương thân”, “chị ngã em nâng”... Hồ Chí Minh
luôn tôn trọng, thương yêu và tin tưởng ở lòng tốt, tính hướng thiện của con người. Ở Người,
lòng nhân đạo, tình thương yêu con người, thương đồng bào luôn toả rộng, không bao giờ vơi
cạn. Tình thương đó là tình thương yêu giai cấp, thương yêu nhân dân lao động và những người
cùng khổ. Người nhận rõ rằng, cách mạng là sự nghiệp của quần chúng, do quần chúng tiến
hành và mưu lại lợi ích của quần chúng nhân dân. Sức mạnh ở quần chúng nhân dân là vô địch,
trong bầu trời không có gì quý bằng nhân dân, trong thế giới cũng không có gì mạng hơn sức
mạnh đoàn kết của nhân dân. Song quần chúng nhân dân, những kiếp người lao khổ đó phải
được đoàn kết, quy tụ lại. Và muốn đến với con người, cảm hoá, thuyết phục con người thì con
đường ngắn nhất, hiệu quả nhất và bền lâu nhất là bằng sự chân thành, tình thương yêu, quý
mến họ. Không có lòng thương người, sự tôn trọng, bao dung với con người thì không thể nào
đại đoàn kết, đại hoà hợp được với con người. Bằng trái tim để đến với trái tim, đó là nhân cách,
đạo đức và cùng là phương pháp để thực hiện ĐĐKDT ở con người Hồ Chí Minh.
Tình thương, sự tôn trọng của Người dành cho tất cả mọi người, mọi dân tộc, mọi thành
phần giai cấp, xã hội, mọi giới, mọi lứa tuổi và không chỉ với đồng bào dân tộc mình mà còn dành
cho cả nhân loại tiến bộ, yêu chuộng hoà bình trên thế giới.



Với đồng bào các dân tộc thiểu số, Người luôn dành những tình cảm và sự quan tâm
sâu sắc tới đồng bào, ân cần thương yêu, tôn trọng đồng bào, coi đồng bào như anh em ruột thịt,
động viên, thăm hỏi bằng thái độ chân thành, gần gũi, ấm áp như những người thân trong một
gia đình. Nói chuyện với đoàn đại biểu các dân tộc thiểu số tỉnh Tuyên Quang ngày 23/11/1945,
Người căn dặn: “Tôi nhờ anh chị em về nói lại với đồng bào trên ấy biết rằng, đồng bào Kinh và
chính phủ rất thương mến đồng bào Mán, Thổ, coi như anh chị em trong một nhà và khuyên anh
chị em gắng sức để đi tới thái bình để cùng hưởng chung”[29, tr.104]. Trong bức thư gửi đồng
bào các tỉnh Thái Nguyên, Bắc Cạn, Lạng Sơn, Cao Bằng, Hà Đông ngày 20/3/1946, Người bày
tỏ sự chân thành: “Tuy hiện nay tôi ở Hà Nội, xa cách với đồng bào nhưng không bao giờ tôi
quên các đồng bào. Tôi luôn nhớ đến lòng yêu mến và sự giúp đỡ của các đồng bào trong
những tháng ngày tôi ở thượng du”[34, tr.210].
Sự chân thành và tình thương yêu của Hồ Chí Minh còn được thể hiện cụ thể, sinh động
đối với một số dân tộc mới di cư đến làm ăn, sinh sống với nhân dân Việt Nam. Trong thư gửi
anh em Hoa Kiều ngày 2/9/1945, Người viết: “Tôi xin thay mặt chính phủ nhân dân lâm thời Việt
Nam và toàn dân Việt Nam đưa bàn tay nồng nhiệt hoan nghênh anh em Hoa Kiều sinh sống
trên đất nước ta, mong rằng anh em hai nước chúng ta thân mật đoàn kết, có việc gì thì giải
quyết với nhau theo nguyên tắc hợp lý, hợp tình với thái độ kính trọng nhường nhịn lẫn nhau,
không được vì những tranh chấp nhỏ của cá nhân mà gây điều bất hạnh ngăn cách giữa hai dân
tộc”.
Đối với đồng bào theo các tôn giáo và các giáo chủ, giáo sĩ, chức sắc trong các tôn giáo,
Hồ Chí Minh luôn tôn trọng quyền tự do tín ngưỡng và đức tin của họ. Mặc dù là một lãnh tụ
cộng sản nhưng Người để lại một ấn tượng tốt đẹp trong giáo dân, gây được cảm tình từ đồng
bào tôn giáo, tạo được niềm tin, sự kính trọng, nể phục và nghe theo của giới chức sắc tu hành.
Trong hầu hết các bài nói, bài viết của Hồ Chí Minh về tôn giáo đều ít nhiều đề cập tới những
người sáng lập ra các tôn giáo, tới sự tương đồng về mục tiêu, lý tưởng giữa tôn giáo và CNCS.
Với sự kính trọng đức chúa chân thành, trong thư gửi linh mục và đồng bào công giáo Việt Nam
ngày 23/12/1945, Người viết: “Cách một nghìn chín trăm bốn mươi nhăm năm trước, cũng ngày
hôm nay, một vị thánh nhân là Đức chúa Giêsu ra đời. Suốt đời hy sinh phấn đấu cho tự do, cho
dân chủ, từ ngày giáng sinh đến nay đã gần 2000 năm, nhưng tinh thần thân ái của Ngài chẳng
những không phai nhạt mà toả ra khắp, thấm vào sâu”[27, tr.121].

Trong thư gửi Hội phật tử Việt Nam ngày 30/8/1947, Hồ Chí Minh viết: “Đức phật đại từ,
đại bi, cứu khổ, cứu nạn, muốn cứu chúng sinh ra khỏi khổ nạn, Người phải hy sinh tranh đấu
diệt lũ ác ma”. Đối với các chức sắc tôn giáo, dù bận trăm công ngàn việc, song Người vẫn
không quên viết thư, điện thăm hỏi với lời lẽ ân cần, tôn trọng mà rất gần gũi như những người
bạn cùng phấn đấu cho mục đích chung. Trong thư gửi Giám mục Lê Hữu Từ, Người viết:
“Thưa Đức cha,
Từ lâu tôi không được gặp Đức cha, tôi buồn lắm”.


Chính từ tình yêu thương, thái độ chân thành, gần gũi của Hồ Chí Minh đã thuyết phục,
cảm hoá, quy tụ, đoàn kết được đồng bào và các chức sắc tôn giáo, xây dựng khối ĐĐKDT, tạo
sức mạnh thực hiện thắng lợi công cuộc kháng chiến và kiến thiết nước nhà.
Trong phương pháp thực hiện ĐĐKDT, chúng ta phải đề cập tới nghệ thuật sử dụng
ngôn từ, cách nói ví von, hình ảnh và khả năng tuyên truyền, thu phục nhân tâm để đoàn kết, tập
hợp lực lượng ở Hồ Chí Minh. Với vốn sống, kinh nghiệm thực tiễn phong phú và sự hiểu biết
sâu sắc đối tượng cần đoàn kết, Hồ Chí Minh luôn sử dụng những ngôn từ đơn giản, mộc mạc
mang đậm hình ảnh trực quan, phù hợp với đối tượng. Trong bài thơ “Hòn đá”, in trên báo “Độc
lập” ngày 21/4/1942, Người đã dùng hình ảnh “hòn đá to, hòn đá nặng” để ví với nhiệm vụ cách
mạng rất nặng nề, gian khổ, ít người tham gia thì khó mà giải quyết được; nhưng nếu toàn dân
đoàn kết, triệu người như một, mỗi người đều phải chung tay giúp sức thì khó mấy cũng làm
xong. Người kết luận:
“Biết đồng sức
Biết đồng lòng
Việc gì khó
Làm cũng xong. ..”.
Cũng bằng cách nói hình ảnh, giản dị, Người đã làm cho đồng bào các dân tộc thiểu số
thấy sự cần thiết phải đoàn kết các dân tộc thành một khối vững chắc trong gia đình dân tộc Việt
Nam và chỉ có đoàn kết mới có sức mạnh, mới đập tan được âm mưu chia rẽ của kẻ địch. Khi
nói chuyện với đồng bào tỉnh Yên Bái ngày 25/9/1958, Người nói:
“Ví dụ: 10 dân tộc ở tỉnh nhà như 10 ngón tay. Nếu xoè 10 ngón tay mà bẻ từng ngón

như thế có dễ bẻ không? Nếu nắm chặt cả 10 ngón tay thì có bẻ được không? Nếu kẻ thù nào chia
rẽ thì phải làm thế nào? thì phải đập vào đầu chúng nó. Đó là điểm thứ nhất tại sao phải đoàn kết
chặt chẽ giữa các dân tộc”[55, tr. 226].
Khi được tin một số đồng bào ở vùng Sơn Hà vì sự sai lầm của một số cán bộ địa
phương mà để giặc lợi dụng, kích động, gây rối trật tự trị an, ảnh hưởng tới sản xuất và cuộc
sống của nhân dân, Hồ Chí Minh rất đau lòng. Bằng những lời lẽ chân tình của một người cha,
một vị Chủ tịch nước, Người khuyên nhủ: “Đồng bào biết rằng, chính phủ ta là chính phủ của
dân. Việc gì hại đến dân thì chính phủ hết sức tránh. Việc gì lợi cho dân chì chính phủ ra sức
làm. Vậy tôi khuyên đồng bào mau mau tỉnh ngộ, trở về yên phận làm ăn, chớ nghe lời giặc lừa
phỉnh”. Và Người cũng kiên quyết: “Tôi đảm bảo rằng tôi và chính phủ sẽ trừng trị những cán bộ
có lỗi và sẽ làm cho đồng bào khỏi oan ức”[46, tr.117].
Nhờ thái độ chân thành và những lời nói có tình có lý thể hiện tình thương và trách
nhiệm trước nhân dân, Người đã làm cho đồng bào tin và nghe theo, trở về ổn định cuộc sống,
thắt chặt tình đoàn kết giữa nhân dân và chính quyền địa phương.
Từ sự tôn trọng, thương yêu, quý mến đồng bào và bằng những lời lẽ chân thành, mộc
mạc, dễ hiểu để cảm hoá quần chúng, Hồ Chí Minh đã lôi kéo, quy tụ, đoàn kết được mọi người


thuộc mọi đối tượng khác nhau xung quanh mình. Có nhiều người không biết gì về chủ nghĩa
cộng sản, nhưng trước con người, nhân cách, tâm hồn, phong thái Hồ Chí Minh, họ đã tin, theo
và nguyện đứng xung quanh khối đại đoàn kết của Người và sẵn sàng hy sinh để phấn đấu cho
lý tưởng cộng sản chủ nghĩa mà Người là biểu tượng.
Thứ hai, khoan dung, độ lượng, vị tha, hướng mọi người vào mục đích chung cao cả.
Đức khoan dung, sự độ lượng và lòng vị tha là những đức tính, phẩm chất trong con
người Hồ Chí Minh và đây cũng là cái cách để Hồ Chí Minh đoàn kết, thu phục mọi người cùng
quyết tâm thực hiện sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng đất nước. Theo Hồ Chí Minh, làm
người phải biết khoan dung, độ lượng, bởi “không ai hoàn toàn tránh khỏi sai lầm”, phải biết chấp
nhận và tha thứ những khuyết điểm, sai lầm của người khác. Có như vậy chúng ta mới cứu vớt
được con người, hạn chế được phần xấu trong họ và nhen nhóm, thổi bùng phần tốt, thiện trong
con người họ, làm cho họ trở thành người có ích cho cách mạng, cho dân, cho nước. Người

quan niệm:
“Hiền dữ phải đâu là tính sẵn
Phần nhiều do giáo dục mà nên”
Sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng con người, xây dựng thành công một xã hội
mới, một xã hội chưa từng có trong lịch sử là sự nghiệp vĩ đại đòi hỏi phải có sự tham gia của
muôn triệu quần chúng nhân dân. Song, trong khối quần chúng đông đảo, cũng như trong mỗi
một con người, một dân tộc, một giai tầng lại không hoàn toàn giống nhau. Ở họ có những nét
riêng, sự khác nhau về quan điểm tính cách, sở thích phù hợp với môi trường sống cụ thể của
họ. Theo Hồ Chí Minh làm cách mạng là phải biết chấp nhận sự khác nhau đó không phải chấp
nhận một cách miễn cưỡng hay một sự dung tha tạm thời, mà là sự chấp nhận chân thành, miễn
là sự khác nhau đó không phương hại tới lợi ích chung. Có như vậy, mới đoàn kết tập hợp được
những con người, những lực lượng những bộ phận khác nhau đó trong xã hội để xây dựng nên
khối đại đoàn kết thống nhất toàn dân tộc cùng hướng tới một mục tiêu chung của sự nghiệp
cách mạng.
Hồ Chí Minh quan niệm mỗi con người đều có thiện và ác ở trong lòng; ngay cả “cái ác”
ở trong lòng con người cũng không phải là thứ bất biến. Người nói: Một người cán bộ khi trước
có sai lầm, không phải vì thế mà sai lầm mãi. Cũng có cán bộ đến nay chưa bị sai lầm, nhưng
chắc gì sau này không phạm sai lầm. Quá khứ, hiện tại và tương lai của mọi người không phải
luôn giống nhau. Người cũng chỉ rõ những trở ngại, ngăn cản sự đoàn kết toàn dân tộc là sự
nhìn nhận đánh giá phiến diện, thành kiến, định kiến với con người, thấy cái tốt ở người thì ít mà
thấy cái xấu của họ thì nhiều. Người luôn có cách nhìn thiện chí với mọi người với tấm lòng bao
dung độ lượng và chỉ rõ: “Đối với những người có thói hư tật xấu, trừ hạng người phản lại Tổ
quốc và nhân dân, ta cũng phải giúp họ tiến bộ bằng cách làm cho phần thiện trong con người
nẩy nở để đẩy lùi phần ác, chứ không phải đập cho tơi bời”[60, tr.558].


Sự khoan dung, lòng độ lượng như một phương pháp để Hồ Chí Minh thực hiện
ĐĐKDT, điều đó được thể hiện ở thái độ của Người với những người phạm tội, những con người
lầm đường lạc lối. Người chỉ rõ phải: Nguyên tắc với kẻ ngoan cố, đối với người thực sự cải tạo
thì khoan hồng. Người luôn tin tưởng ở sự hướng thiện trong mỗi con người và khả năng cải tạo,

giáo dục với những người có phạm sai lầm. Người nói: Ta phải nhận rằng đã là con Lạc cháu
Hồng thì ai cũng có ít nhiều lòng ái quốc. Đối với những người đồng bào lạc lối lầm đường, ta
phải lấy tình thân ái mà cảm hoá họ.
Sau khi cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền cách mạng được thiết lập trong
cả nước. ở một số địa phương, do cán bộ chưa quán triệt đầy đủ chính sách ĐĐKDT của Đảng
và của Hồ Chủ Tịch, nên đã gây ra những ảnh hưởng nhất định đến sự đoàn kết và cuộc sống
của nhân dân. Trong thư gửi cho các đồng chí lãnh đạo tỉnh Nghệ An ngày 17/9/1945 Hồ Chủ
Tịch chỉ rõ: “Những đứa phản quốc có chứng cứ rõ ràng phải trừng trị đã đành. Nhưng chúng ta
không nên đào bới những chuyện cũ ra làm án mới. Đối với những người không nguy hiểm lắm
thì nên dùng chính sách cảm hoá, khoan dung, không nên bắt bớ lung tung, không nên tịch thu
vô lý, làm cho dân kinh khủng”[26, tr.20].
Đối với các chức sắc tôn giáo và các giáo dân do lầm đường lạc lối đi theo lời lừa phỉnh
của kẻ thù, Hồ Chí Minh luôn tỏ ra sự độ lượng, khoan hồng. Người chẳng những không trách
cứ, bỏ rơi, hay trừng phạt họ mà ngược lại còn tỏ lòng thương xót về nỗi khổ của họ và sẵn sàng
hoan nghênh đón tiếp những người muốn trở về với nhân dân, với cách mạng. Người viết: “Nay
đồng bào Hoà Hảo Sađéc đã xung phong bỏ quân giặc cướp nước mà về với Tổ quốc thân yêu.
Chính phủ và toàn quốc đồng bào đang chờ đợi để hoan nghênh những người hiện đang lầm
đường theo giặc, sẽ noi gương ái quốc của anh em Hoà Hảo đó”. Người thường nhắc nhở, chỉ
đạo cán bộ các cấp “Không được báo thù, báo oán. Đối với những người lầm đường lạc lối,
đồng bào ta phải dùng chính sách khoan hồng”[38, tr.420]. Có thể nói, trong bối cảnh chính
quyền cách mạng non trẻ vừa mới được thành lập, tình hình đất nước phải đương đầu với vô
vàn khó khăn, vận mệnh dân tộc như “nghìn cân treo sợi tóc”, thì lòng khoan dung, vị tha, nhân
ái của Hồ Chí Minh có tác dụng sâu sắc trong việc yên dân, đoàn kết dân tộc, tăng cường cố kết
cộng đồng, thực hiện “thêm bạn bớt thù”, để tạo sức mạnh đoàn kết toàn dân tộc đưa đất nước
vượt qua những khó khăn, thử thách, giữ vững thành quả của cách mạng tháng Tám.
Sau khi quay trở lại xâm lược nước ta, để chia rẽ khối ĐĐKDT của chúng ta, làm suy yếu
sức mạnh toàn dân chống Pháp, thực dân Pháp thực hiện âm mưu nham hiểm tuyên truyền, kích
động trong nhân dân và vu cho chính phủ Hồ Chí Minh là phân biệt nhân dân ba miền: BắcTrung- Nam, và sự đối xử, có thành kiến với những người đã trót làm việc, cộng tác hoặc có liên
quan tới chính quyền cũ, nhất là những đồng bào ở Nam bộ. Để đập tan âm mưu và hành động
thâm độc, đê hèn, lừa bịp của kẻ thù và khẳng định chính sách ĐĐKDT của chính phủ cách

mạng, tỏ rõ sự khoan hồng, độ lượng, vị tha của mình và của cách mạng, trong thư chúc tết
đồng bào Nam Bộ ngày 24/1/1947, Hồ Chí Minh viết: “Bọn thực dân nói: nếu ba kỳ thống nhất thì


những người ái quốc sẽ khủng bố những người hiện nay sai lầm đi theo Pháp. Tôi cả quyết cam
đoan rằng, chính phủ và đồng bào ta sẽ hết sức khoan hồng đại độ. Chẳng những để cho những
người đó cải quá tự tâm, quay về với Tổ quốc, mà lại sẵn sàng trọng dụng họ, nếu những người
đó có tài nghệ”[40, tr.30].
Trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, một số người do không hiểu mưu mô của
giặc bị dụ dỗ hoặc ép buộc phải đi lính cho Pháp, cầm súng chống lại Tổ quốc, gây hại nhân dân,
đáng phải trừng trị. Nhưng với những nguỵ binh hoặc

hàng binh này, Hồ Chí Minh luôn rộng

lòng tha thứ, khoan hồng, coi trọng giáo dục, coi nhẹ xử phạt để giúp đỡ họ quay về với chính
nghĩa, phục vụ cho sự nghiệp cách mạng. Trong thư gửi các nguỵ binh đã bị bắt ở mặt trận,
Người tỏ rõ: “Tuy các người đã phạm tội nặng là cầm súng chống lại Tổ quốc, song chính phủ
kháng chiến độ lượng khoan hồng, thương hại các người như những đứa con lầm đường, lạc lối
cho nên nặng về giáo dục, nhẹ tay xử phạt, để dìu dắt các người bỏ đường tà theo đường
chính”. Đối với những nguỵ binh còn đang làm việc cho địch, với tinh thần vị tha, khoan hồng, đại
đoàn kết, Người kêu gọi: “Nguỵ binh cũng là con dân nước Việt, nhưng dại mà đi lầm đường cho
nên tôi và chính phủ sẵn sàng tha thứ những người sớm biết lỗi và quay về với đại gia đình
kháng chiến”[50, tr.305-306].
Với lòng độ lượng, khoan dung, tình yêu thương của Hồ Chí Minh và của chính phủ ta,
nhiều nguỵ binh đã quay trở về với chính quyền cách mạng, nhận rõ sai lầm của mình, tự giác
“cải tà quy chính”, nguyện đi theo kháng chiến, góp phần tăng cường khối ĐĐKDT, đưa cuộc
kháng chiến mau tới thắng lợi. Đúng như cố Thủ tướng Phạm Văn Đồng đã nhận xét: “Đối với kẻ
lầm đường lạc lối, lòng Hồ Chủ tịch còn rộng hơn biển cả. .. Cụ Hồ nói rằng người Việt Nam ai
cũng yêu nước, muốn nước độc lập, thống nhất, ta khéo nhen chút than hồng ấy, nó sẽ cháy lên
thành ngọn lửa”[11, tr.102].

Sự khoan dung, độ lượng và lòng vị tha là một đức tính, một phẩm chất cao cả, một giá
trị văn hoá đã đưa nhân cách Hồ Chí Minh đến độ hoàn hảo, khiến cho Người bình thường, giản
dị mà vĩ đại. Người luôn biết đặt mình vào vị trí, hoàn cảnh của người khác, chấp nhận những
sự khác biệt, đặc điểm riêng để khoan dung; tìm hiểu, cảm thông và nhìn thấy cái tốt, cái thiện ở
người khác để tha thứ lỗi lầm và luôn hướng mọi người, mọi lực lượng theo mục tiêu cao cả của
sự nghiệp giải phóng dân tộc, xây dựng CNXH. Với phẩm chất cao đẹp đó, Hồ Chí Minh đã lôi
kéo, cứu vớt, đem lại cuộc sống cho bao mảnh đời lầm lạc; thu hút, quy tập được những lực
lượng, thành phần khác nhau trong xã hội, trong khối ĐĐKDT; khơi dậy tình thương yêu, truyền
thống đoàn kết cộng đồng, sự sẻ chia, nâng đỡ, bao dung trong mỗi con người, mỗi dân tộc, mỗi
thành phần giai cấp để tạo nên một sức mạnh như “thác cuốn triều dâng” của khối ĐĐKDT phục
vụ cho sự nghiệp cách mạng. Đây là một phương pháp ĐĐKDT của Hồ Chí Minh mà chúng ta
cần nghiên cứu, học tập và vận dụng linh hoạt trong quá trình xây dựng khối đại đoàn kết toàn
dân ở nước ta hiện nay.
Thứ ba, quan tâm chăm lo tới những lợi ích thiết thực của nhân dân, chú trọng nêu gương
để thực hành đoàn kết


Để đoàn kết, tập hợp được quần chúng nhân dân và các thành phần, lực lượng trong xã
hội, Chủ tịch Hồ Chí Minh luôn quan tâm, chăm lo, đáp ứng những lợi ích thiết thực cho mọi
người và coi đây là cách thiết thực, hiệu quả trong thực hiện ĐĐKDT. Vấn đề lợi ích suy cho
cùng là vấn đề cốt lõi, là chất keo dính gắn bó mọi người lại với nhau, cho dù giữa họ có sự khác
nhau về dân tộc, thành phần, tín ngưỡng. Hồ Chí Minh cho rằng, vì lợi ích chung của dân tộc mà
các thế hệ người Việt Nam, không kể thuộc dân tộc đa số hay thiểu số, giàu hay nghèo đã đoàn
kết chặt chẽ để chống chọi với sự khắc nghiệt của thiên nhiên, sự xâm lăng của các thế lực bên
ngoài để bảo vệ sự tồn tại của mình cũng như sự trường tồn và phát triển của cả cộng đồng dân
tộc. Khi bọn thực dân, đế quốc xâm lược nước ta, lợi ích của toàn dân tộc bị đe doạ, nước mất
thì nhà cũng tan, ngay cả vua cũng chịu chung kiếp người nô lệ. Để bảo vệ lợi ích dân tộc cũng
là lợi ích của từng bộ phận, toàn dân Việt Nam nhất tề đứng lên, đoàn kết một lòng đánh đuổi
thực dân, đánh đổ phong kiến giành lại độc lập, tự do cho dân tộc, hoà bình, hạnh phúc, ấm no
cho nhân dân.

Tuy nhiên, trong tư duy Hồ Chí Minh, lợi ích chung không bao giờ tách rời và phủ nhận
lợi ích riêng của từng người, từng bộ phận, từng thành phần dân tộc. Người luôn quan tâm tới lợi
ích của mọi tầng lớp người, từ người phục vụ gần gũi đến quảng đại quần chúng nhân dân, từ
miền xuôi đến miền ngược, mọi tôn giáo, mọi dân tộc. Người quan tâm trước tiên tới lợi ích vật
chất thiết thực: dân đủ ăn, đủ mặc, có nhà ở, được học hành, chữa bệnh.. .
Sau khi giành được độc lập, Người từng nói: “Chúng ta tranh được độc lập, tự do rồi mà dân
cứ chết đói, chết rét, thì tự do, độc lập cũng không làm gì. Dân chỉ biết rõ giá trị của tự do, của độc lập
khi mà dân được ăn no, mặc đủ”[39, tr.152].
Ngoài sự quan tâm, chăm lo lợi ích vật chất thiết thực như: tương, cà, mắm, muối và
những nhu cầu cuộc sống tối thiểu cho đồng bào, Người còn quan tâm tới đời sống văn hoá, tinh
thần của mọi tầng lớp nhân dân. Với đồng bào các dân tộc thiểu số, Người luôn gần gũi, động
viên, thăm hỏi, và chỉ đạo các cấp, các ngành phải quan tâm đặc biệt giúp đỡ đồng bào phát triển
sản xuất, nâng cao đời sống nhân dân. Nói chuyện với đoàn đại biểu các dân tộc ít người về dự
lễ kỷ niệm ngày 1/5/1959, Người khẳng định: Đảng và chính phủ lúc nào cũng chú ý đến đồng
bào vùng cao và càng ngày càng hết sức chú ý giúp đỡ đồng bào nhiều hơn nữa.
Với các giáo dân, Hồ Chí Minh chủ trương chăm lo chu đáo cả “phần xác” và “phần hồn”
của đồng bào và cố gắng làm cho đồng bào theo các tôn giáo sống “tốt đời đẹp đạo”, luôn có
“phần xác no ấm, phần hồn thong dong”, mọi người được “sống phúc âm trong lòng dân tộc”.
Bằng những chủ trương, chính sách đúng đắn và sự quan tâm chăm lo tới cuộc sống của đồng
bào theo đạo, Người đã làm cho đồng bào nhận rõ sự ưu việt của chính phủ, xoá dần sự mặc
cảm, nghi kị giữa đồng bào Giáo và đồng bào Lương, thực hiện đúng trách nhiệm, nghĩa vụ đối
với Tổ quốc, xây dựng khối ĐĐKDT ngày càng bền chặt.
Đối với các nhân sĩ, trí thức yêu nước, những người có công với cách mạng, những
người có uy tín trong xã hội, thậm chí cả những người đã từng ở phe đối lập với cách mạng cũng


được Hồ Chí Minh quan tâm chăm lo, giúp đỡ cả về vật chất lẫn tinh thần. Khi nghe tin con trai
bác sĩ Vũ Đình Tụng hy sinh, với sự thương cảm và quan tâm sâu sắc, Người đã viết thư thăm
hỏi, động viên, chia sẻ với lời lẽ tự đáy lòng: “Tôi được báo cáo rằng: con trai ngài đã oanh liệt hy
sinh cho Tổ quốc. Ngài biết rằng tôi không có gia đình, cũng không có con cái. Nước Việt Nam là

gia đình của tôi. Tất cả thanh niên Việt Nam là con cháu của tôi. Mất một thanh niên thì tôi như
đứt một đoạn ruột”[43, tr.40]. Chỉ bằng mấy dòng thư này cũng làm cho chúng ta thấy rõ tấm lòng
và sự quan tâm của một lãnh tụ với những số phận con người và chính điều này đã cảm hoá, thu
hút, đoàn kết mọi người, làm cho họ sẵn sàng hy sinh vì sự nghiệp cách mạng.
Cùng với sự quan tâm, chăm lo tới lợi ích của mọi người, đáp ứng những nhu cầu thiết
thực cho mọi đối tượng để tạo cơ sở thực hiện sự đoàn kết dân tộc, Hồ Chí Minh còn chú trọng
tới phương pháp nêu gương để thực hành đoàn kết. Trong đó, Người luôn nhắc nhở cán bộ
đảng viên, bộ đội, thanh niên phải đoàn kết chặt chẽ để nêu gương cho quần chúng nhân dân,
cấp trên phải đoàn kết để làm gương cho cấp dưới, các bậc phụ huynh, các cụ phụ lão phải giữ
gìn đoàn kết để noi gương cho con cháu.
Nghiên cứu phương pháp ĐĐKDT ở Hồ Chí Minh chúng ta thấy để thực hành đoàn kết
không chỉ bằng lời nói, mà phải bằng hành động thiết thực; không phải ở hình thức bên ngoài mà
phải xuất phát từ bên trong, từ tấm lòng, phẩm chất, nhân cách của chính mình. Từ phương
pháp đoàn kết Hồ Chí Minh, chúng ta hiểu rằng muốn thu phục, vận động, quy tụ được mọi
người, mọi thành phần, mọi đối tượng trong xã hội, thì phải xuất phát từ tấm lòng chân thành, trái
tim yêu thương mênh mông và sự quan tâm đáp ứng những nhu cầu chính đáng của mọi người,
mọi đối tượng. Có thể nói, phương pháp ĐĐKDT của Hồ Chí Minh đã đạt đến tầm cao nghệ
thuật dẫn dụ, cảm hoá, thu phục con người, nghệ thuật khơi dậy và nhân lên những điều tốt đẹp,
nhân bản trong mỗi con người, hướng con người đi theo một mục tiêu chung cao cả. Chính vì
thế, Người là hiện thân và là trung tâm của tinh thần ĐĐKDT, cả dân tộc đã tin và đoàn kết
quanh Người, quanh Đảng Cộng sản Việt Nam, sẵn sàng hy sinh quyền lợi riêng, phấn đấu theo
mục tiêu, lý tưởng mà Người đã lựa chọn.
Trong giai đoạn mới của cách mạng nước ta hiện nay, phương pháp ĐĐKDT của Hồ Chí
Minh là kinh nghiệm quý giá để chúng ta xây dựng khối ĐĐKDT, xây dựng thành công CNXH và
bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam XHCN.
1.1.3.Nguyên tắc và yêu cầu của đại đoàn kết dân tộc
*Nguyên tắc đại đoàn kết dân tộc
Nguyên tắc ĐĐKDT trong tư tưởng Hồ Chí Minh là những quan điểm căn bản của Người
nhằm xây dựng khối ĐĐKDT ngày càng vững mạnh, phát triển đúng hướng và đảm bảo cho nó
luôn được đặt trên lập trường của giai cấp công nhân cũng như lợi ích tối cao của toàn dân tộc.

Thứ nhất, khối ĐĐKDT phải dựa trên cơ sở khối liên minh giai cấp công nhân, nông dân
và đội ngũ trí thức.


Hồ Chí Minh luôn chủ trương đoàn kết đông đảo, rộng rãi mọi người, mọi thành phần,
mọi lực lượng trong khối ĐĐKDT, nhưng sự đông đảo, rộng rãi của Người không phải là vô
nguyên tắc, không xác định đúng trọng tâm, trọng điểm khi xây dựng khối đại đoàn kết của mình.
ĐĐKDT trong tư tưởng của người, trước hết phải được đặt trên cơ sở vững chắc của khối liên
minh giai cấp công nhân, nông dân và tầng lớp trí thức. Người cho rằng, trong khối ĐĐKDT có
nhiều lực lượng, nhiều giai tầng. .. nhưng vị trí, vai trò của mỗi thành phần, lực lượng ấy lại
không như nhau, mà trong đó giai cấp công nhân, giai cấp nông dânvà tầng lớp trí thức luôn giữ
vai trò nền tảng, cơ bản, chủ yếu.
Ngay từ năm 1927, trong tác phẩm “ Đường cách mạng”, Người dã thể hiện rõ quan
điểm, lập trường của mình khi đánh giá vai trò, vị trí của các giai tầng đối với cách mạng, cũng
như đối với ĐĐKDT. Người chỉ rõ: “ công nông là gốc Kách mệnh; còn học trò, nhà buôn nhỏ,
điền chủ nhỏ cũng bị tư bản áp bức, song không cực khổ bằng công nông; ba hạng ấy chỉ là bầu
bạn Kách mệnh của công nông thôi”.
Được học thuyết Mác- Lê nin soi sáng, Hồ Chí Minh đã nghiên cứu, phân tích tình hình
thực tiễn Việt Nam. Người chỉ ra rằng: giai cấp công nhân và nông dân luôn là chỗ dựa cho khối
ĐĐKDT, bởi họ bị áp bức, bóc lột nặng nề nhất, lại là lực lượng đông đảo nhất trong xã hội, trong
cộng đồng dân tộc, vì vậy họ là động lực chính của cách mạng, là chỗ dựa vững chắc cho các
giai tầng, lực lượng khác trong khối ĐĐKDT. Chúng ta sẽ không xây dựng được khối ĐĐKDT
nếu thiếu vắng các giai tầng này và chỉ trên cơ sở liên minh giai cấp công nhân, nông dân và
tầng lớp trí thức thì mới đoàn kết được các lực lượng khác như giai cấp tư sản dân tộc, địa chủ
kháng chiến, các nhân sĩ, trí thức. .. để tạo sức mạnh hùng hậu thực hiện thắng lợi nhiệm vụ,
mục tiêu của cách mạng.
Nguyên tắc này bảo đảm cho khối ĐĐKDT mang lập trường giai cấp vô sản, giữ vững
tính định hướng chính trị, kiên định mục tiêu và đã lôi kéo, tập hợp được một lực lượng đông đảo
trong các mặt trận phục vụ cho sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc thắng lợi.
Thứ hai, ĐĐKDT trên cơ sở thống nhất mục tiêu chiến lược của cách mạng và lợi ích

căn bản của các lực lượng trong khối ĐĐKDT.
Trong tư tưởng Hồ Chí Minh, ĐĐKDT được coi là cách thức, phương hướng để giải
quyết vấn đề lực lượng cách mạng, tạo sức mạnh của cả dân tộc nhằm thực hiện thắng lợi mục
tiêu của cách mạng vô sản. Như vậy, ĐĐKDT phải luôn hướng tới thực hiện thắng lợi nhiệm vụ,
mục tiêu của cách mạng; nếu khối ĐĐKDT mà không hướng tới mục tiêu chiến lược của cách
mạng, không đáp ứng lợi ích căn bản của các giai tầng thì sự đoàn kết đó chỉ là tạm thời, mang
hình thức và sẽ nhanh chóng tan vỡ.
Nhiệm vụ của cách mạng phụ thuộc vào đặc điểm, yêu cầu của từng giai đoạn cách
mạng. Nếu trong giai đoạn đất nước bị xâm lăng, nhiệm vụ cao cả, bức bách đặt ra cho toàn dân
tộc là giải phóng dân tộc, thống nhất đất nước thì trong giai đoạn hoà bình, nhiệm vụ đó là phải
giữ vững độc lập, tự chủ, xây dựng thành công CNXH và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam


XHCN. Tuy nhiên, các nhiệm vụ đó phải hướng tới và thực hiện cho được mục tiêu chiến lược
của cách mạng. Đó là độc lập dân tộc, thống nhất Tổ quốc, xây dựng thành công CNXH ở Việt
Nam. Mục tiêu đó cũng là lợi ích chung của toàn dân tộc.
Trong quá trình xây dựng khối ĐĐKDT, Hồ Chí Minh luôn giữ vững mục tiêu của cách
mạng, hướng cho mọi giai tầng, lực lượng trong khối ĐĐKDT đi theo và quyết tâm thực hiện cho
được mục tiêu đó. Người cho rằng, mục tiêu đó là điểm tương đồng để lôi kéo, quy tụ mọi lực
lượng và nó là mẫu số chung của khối ĐĐKDT, từ đó mà chấp nhận những điểm khác nhau
không trái với lợi ích chung cơ bản. Khi nói chuyện tại lớp bồi dưỡng cán bộ về công tác mặt
trận, Người nói: “Bất kỳ ai mà thật thà tán thành hoà bình, thống nhất, độc lập, dân chủ thì dù
những người đó trước đây chống chúng ta, bây giờ chúng ta cũng thật thà đoàn kết với họ”.
Nếu như mục tiêu cách mạng là cái đích, là ngọn cờ để đoàn kết, hướng dẫn mọi người
hành động, thì việc đáp ứng các lợi ích cơ bản của các giai tầng lại là chất kết dính mọi lực
lượng, giai tầng trong xã hội để xây dựng khối ĐĐKDT ngày càng vững mạnh. Nguyên tắc này
đã trở thành tư tưởng chỉ đạo cho Đảng ta xây dựng khối ĐĐKDT trong giai đoạn cách mạng Việt
Nam hiện nay.
Thứ ba, đoàn kết gắn liền với đấu tranh để xây dựng khối ĐĐKDT ngày càng bền chặt
hơn

Hồ Chí Minh luôn quan tâm xây dựng và mở rộng khối ĐĐKDT, song Người cũng rất chú
trọng mặt đấu tranh trong quá trình thực hiện đoàn kết và coi đó là một nguyên tắc để xây dựng
khối ĐĐKDT ngày càng bền vững. Người mở rộng đoàn kết, nhưng kiên quyết đấu tranh chống
các phần tử phản động, phản bội lại quyền lợi dân tộc. Năm 1945, cách mạng tháng Tám thành
công, chính phủ lâm thời cách mạng được thành lập, để thực hiện ĐĐKDT và hạn chế sự chống
đối của các thế lực phản động, Hồ Chí Minh đã mạnh dạn đưa vào thành phần của chính phủ
những nhân vật mà trước đó ở phe đối lập của cách mạng như Nguyễn Hải Thần, Nguyễn Tường
Tam, Vũ Hồng Khanh, đưa linh mục Lê Hữu Từ làm cố vấn tối cao của chính phủ. Song, Người
không bao giờ buông lỏng đấu tranh và không ngừng phê phán bản chất buôn dân, bán nước, “lá
mặt lá trái” của họ.
Ngay trong “Chính cương vắn tắt, sách lược vắn tắt” của Hội nghị thành lập Đảng 1930,
tư tưởng đoàn kết nhưng phải đấu tranh của Hồ Chí Minh đã được thể hiện rõ. Trong đó Người
quan niệm, dân tộc ta là một khối thống nhất gồm nhiều dân tộc, giai tầng có lợi ích khác nhau,
thậm chí đối lập nhau. Song các giai tầng cùng tập hợp trong ngọn cờ ĐĐKDT để chống kẻ thù
chung. Vì vậy, khối thống nhất đó vẫn có mâu thuẫn và cần phải giải quyết mâu thuẫn đó để đi
tới thống nhất cao hơn. Người còn cho rằng, nếu từ bỏ đấu tranh sẽ rơi vào tiêu cực, hữu
khuynh và làm cho khối ĐĐKDT đi đến suy yếu.
Năm 1958, nói chuyện tại Hội nghị mở rộng uỷ ban Trung ương Mặt trận Tổ quốc Việt
Nam, Người nói: “Đoàn kết thực sự nghĩa là mục đích phải nhất trí và lập trường cũng phải nhất
trí. Đoàn kết thực sự nghĩa là vừa đoàn kết, vừa đấu tranh, học những cái tốt của nhau, phê bình


những cái sai của nhau và phê bình trên lập trường thân ái, vì nước, vì dân”[54, tr.137]. Tư
tưởng đoàn kết phải đấu tranh đã trở thành nguyên tắc để Hồ Chí Minh và Đảng ta xây dựng
khối ĐĐKDT vững mạnh, khắc phục khuynh hướng đoàn kết một chiều, sự đấu tranh mà làm tan
vỡ khối đoàn kết trong quá trình cách mạng.
*Yêu cầu của đại đoàn kết dân tộc
Để thực hiện việc xây dựng khối ĐĐKDT ngày càng bền chặt, vững mạnh, theo Hồ Chí
Minh, mọi người, mọi lực lượng phải thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau, coi nhau như anh em ruột
thịt. Trong tất cả các bài nói, bài viết của mình, Hồ Chí Minh luôn nhắc nhở mọi người, từ cấp

trên Trung ương cho đến cấp dưới ở các địa phương, từ những người thuộc giai tầng khác nhau,
sang giàu khác nhau đều phải yêu thương nhau, cùng nhau đoàn kết chặt chẽ vì mục đích
chung. Nếu không có tình yêu thương, giúp đỡ lẫn nhau giữa các bộ phận, những con người
khác nhau thì khó có thể có mối quan hệ đoàn kết thực sự. Người luôn chỉ bảo: “Chúng ta phải
yêu thương nhau, phải kính trọng nhau, phải giúp đỡ nhau để mưu hạnh phúc chung cho chúng
ta và con cháu chúng ta”.
Hồ Chí Minh cho rằng, mọi người dân Việt Nam đều mang dòng máu con Lạc cháu
Hồng, có lòng yêu nước thiết tha, có tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường, cùng gắn bó với
nhau trong sự nghiệp dựng nước và giữ nước. Vì vậy, mọi người phải phát huy những truyền
thống tốt đẹp đó, thương yêu quý trọng nhau để thắt chặt hơn nữa tình đoàn kết thuỷ chung son
sắt, làm cho khối ĐĐKDT ngày một bền chặt.
Trên đất nước Việt Nam, 54 thành phần dân tộc cùng sinh sống, kề vai sát cánh bên
nhau qua hàng ngàn năm lịch sử đã xây dựng nên truyền thống đoàn kết gắn bó như anh em
một nhà trong đại gia đình Việt Nam. Người nhắc nhở dù dân tộc đa số hay thiểu số, đồng bào
Kinh hay Mán, Thổ. .. đều là anh em ruột thịt, nên phải thương yêu nhau và giúp đỡ nhau chân
thành, hiệu quả. Nói chuyện với đồng bào tỉnh Yên Bái, Người căn dặn: “Dân tộc nhiều người
phải giúp đỡ dân tộc ít người, dân tộc ít người cần cố gắng làm ruộng, hai bên phải giúp đỡ
nhau. Dân tộc đông người không phải giúp qua loa, cũng như dân tộc ít người không nên ngồi
chờ giúp. Một bên ra sức giúp, một bên ra sức làm. Giúp nhau thì việc gì cùng nhất định làm
được”[55, tr.227].
Trong quá trình xây dựng khối ĐĐKDT, Hồ Chí Minh cũng nhận thấy những tư tưởng,
biểu hiện sai trái gây ảnh hưởng tới quá trình ĐĐKDT. Đó là những thành kiến, tư tưởng dân tộc
lớn, dân tộc nhỏ trong quan hệ giữa các dân tộc. Người cho rằng, sự thành kiến về thành phần
dân tộc của nhau là biểu hiện tư tưởng lạc hậu, cổ hủ đã ngăn trở việc thực hiện ĐĐKDT, ngăn
cản sự phát triển về kinh tế, văn hoá trong đời sống của đồng bào các dân tộc. Người chỉ rõ:
“Các dân tộc anh em chúng ta muốn tiến bộ, muốn phát triển văn hoá của mình thì chúng ta phải
tẩy trừ những thành kiến giữa các dân tộc, phải đoàn kết, thương yêu, giúp đỡ lẫn nhau như
anh em một nhà”.



Người cũng cho rằng, nước ta có nhiều dân tộc, đó là điểm quý, phải tôn trọng lẫn nhau,
tránh xúc phạm nhau và phải khắc phục ngay tư tưởng dân tộc lớn, dân tộc nhỏ. Nói chuyện tại
Hội nghị tuyên giáo miền núi, Người phê phán: “Cũng phải khắc phục những tư tưởng dân tộc
lớn, dân tộc hẹp hòi, tự ti dân tộc. Người dân tộc lớn dễ mắc bệnh kiêu ngạo. Cán bộ địa
phương, nhân dân địa phương lại dễ cho mình là dân tộc bé nhỏ, tự ti, cái gì cũng cho là mình
không làm được, rồi không cố gắng. Đó là những điểm cần tránh”[58, tr.135].
Quá trình thực hành đoàn kết, Hồ Chí Minh đặc biệt chú trọng tới phẩm chất, đạo đức và
sự đoàn kết trong đội ngũ cán bộ của Đảng. Người cho rằng, để xây dựng được khối ĐĐKDT,
mối quan hệ gắn bó của mọi lực lượng trong xã hội thì đội ngũ cán bộ phải làm kiểu mẫu về sự
đoàn kết nhất trí, phải thực sự là người đầy tớ tận tuỵ, trung thành của nhân dân. Nói chuyện với
đồng bào các dân tộc tỉnh Tuyên Quang, Người chỉ rõ: “Tất cả cán bộ đều phải một lòng một dạ
phục vụ nhân dân; đều phải hết sức quan tâm đến đời sống của nhân dân; đều phải theo đúng chính
sách của Đảng và đi đúng đường lối quần chúng”[56, tr.323].
Muốn vậy, người cán bộ của Đảng phải thường xuyên tu dưỡng đạo đức cách mạng,
phải “thật thà, ngay thẳng; không được giấu dốt, giấu khuyết điểm, sai lầm. Phải khiêm tốn gần
gũi quần chúng, không được kiêu ngạo; phải thực sự cầu thị, không được chủ quan. Phải luôn
chăm lo tới đời sống của quần chúng”. Chỉ có như vậy, người cán bộ mới làm cho dân ta tin yêu,
nể phục, mới vận động được nhân dân thực hành đoàn kết và là tấm gương về tinh thần đoàn
kết để cho dân noi theo.
Một trong những yêu cầu của Hồ Chí Minh để xây dựng khối ĐĐKDT là ở trong bất kỳ tổ
chức nào, bộ phận nào, muốn có đoàn kết thực sự cần phải kết hợp với đấu tranh tự phê bình và
phê bình. Đây vừa là nguyên tắc thực hiện ĐĐKDT của Hồ Chí Minh và cũng là một yêu cầu đặt
ra để tăng cường đoàn kết. Song, Người cũng nhắc nhở mọi người cần phải phê bình đúng, phê
bình việc chứ không phải phê bình người, phê bình đồng đội với thái độ chân thành, vạch rõ
đúng sai để đồng đội mình sửa chữa, để tiến bộ, chứ không phải phê bình theo kiểu đào bới
khuyết điểm để trù dập nhau. Có như vậy, sau phê bình mới mang lại tình đoàn kết, thắt chặt hơn sự
gắn bó của mọi người vào tổ chức để cùng thực hiện nhiệm vụ chung. Nói chuyện tại trường công an
trung cấp khoá II năm 1951, Người nói: “Đoàn kết không phải là “chén chú chén anh” là anh A giấu lỗi



cho anh B” và “phê bình và tự phê bình phải từ trên xuống dưới, từ dưới lên trên. Phê bình trên công tác
cách mạng, phê bình để tiến bộ, không phải để xoi mói”[49, tr.366].
Để có đoàn kết thực sự, ngoài việc phê bình đúng người, đúng việc, theo Hồ Chí Minh,
người đi phê bình phải có nhân cách tốt, phẩm chất tốt và điều rất quan trọng nữa là phải có cái
tâm trong sáng, chân thành trong tư tưởng. Nói chuyện trong buổi bế mạc Hội nghị cán bộ của
Đảng lần thứ 6 ngày 18/1/1949, Người nhắc nhở: “Đồng chí ta, tuy có khi khác nhau về chủng
tộc hay khác nhau về nguồn gốc giai cấp, nhưng là những người cùng chủ nghĩa, cùng mục đích,
cùng sống, cùng chết, chung sướng, chung khổ, cho nên ta phải thật thà đoàn kết. Muốn đi tới
mục đích, không phải chỉ tổ chức là đủ, phải chân thành trong tư tưởng nữa”[44, tr.552].
Trong tư duy của Hồ Chí Minh về đại đoàn kết, chúng ta dễ dàng nhận thấy, điều làm
cho Người quan tâm hàng đầu là vấn đề đoàn kết trong Đảng. Đảng phải đoàn kết nhất trí cao độ
giữa các đảng viên cũng như trong toàn Đảng, thực hành dân chủ rộng rãi để xứng đáng là hạt
nhân đoàn kết cho toàn dân tộc, đủ sức tập hợp quanh mình để cùng thực hiện thắng lợi mục
tiêu, lý tưởng của Đảng. Trong di chúc trước lúc đi xa, Người không quên căn dặn Đảng ta:
“Đoàn kết là một truyền thống cực kỳ quí báu của Đảng và của dân ta. Các đồng chí từ Trung
ương đến các chi bộ cần phải giữ gìn sự đoàn kết nhất trí của Đảng như giữ gìn con ngươi của
mắt mình”[61, tr.510].
Đó là một số yêu cầu cơ bản trong tư tưởng ĐĐKDT Hồ Chí Minh. Thực hiện theo
những lời chỉ bảo của Người, toàn Đảng, toàn dân ta đã đoàn kết nhất trí, cố kết, gắn bó toàn
dân tộc trong khối ĐĐKDT tạo sức mạnh to lớn đưa con thuyền cách mạng tới thắng lợi vẻ
vang.
Nghiên cứu tư tưởng ĐĐKDT Hồ Chí Minh chúng ta thấy chủ trương đại đoàn kết của
Người không phải nhất thời, từng giai đoạn mà là vấn đề lâu dài, xuyên suốt trong toàn bộ sự
nghiệp cách mạng. Đoàn kết một cách chân thành, thực sự, có đấu tranh để sự đoàn kết được
ngày càng bền chặt. Trong cả cuộc đời hoạt động cách mạng của Người, vấn đề đoàn kết không
chỉ bằng lời nói, sự tuyên truyền, mà quan trọng hơn là được thể hiện bằng những hành động
thực tế. Người là tấm gương và là sự hiện thân của khối ĐĐKDT, là trung tâm đoàn kết, quy tập


mọi lực lượng, thành phần, giai cấp, dân tộc, tôn giáo. .. trong Mặt trận dân tộc thống nhất để

thực hiện mục tiêu của cách mạng Việt Nam.
Điều kỳ diệu và độc đáo trong lịch sử cách mạng Việt Nam là ở chỗ, ĐĐKDT là tư tưởng
lớn của Hồ Chí Minh đã trở thành một bộ phận hữu cơ trong đường lối chiến lược của Đảng
cộng sản Việt Nam và được Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng sinh động vào điều kiện cách
mạng Việt Nam trong quá trình lãnh đạo cách mạng. Quán triệt và vận dụng linh hoạt tư tưởng
ĐĐKDT của Người, Đảng ta đã xây dựng nên khối đoàn kết thống nhất toàn dân tộc, huy động được
nhân tài, vật lực của toàn dân, khơi dậy được tiềm năng ẩn chứa trong các lực lượng, thành phần,
giai cấp, dân tộc, tôn giáo đưa đến thắng lợi của sự nghiệp cách mạng.
1.2.Vai trò của quân đội trong thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc của Đảng,
nhà nước ta hiện nay theo tư tưởng Hồ Chí Minh
1.2.1.Đặc điểm của quân đội trong thực hiện chính sách đại đoàn kết dân tộc của
Đảng, Nhà nước ta hiện nay
Trong quá trình thực hiện chính sách ĐĐKDT của Đảng, nhà nước, xây dựng tình đoàn
kết gắn bó giữa các dân tộc, thành phần, lực lượng trong xã hội thành một khối thống nhất cùng
thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc XHCN, quân đội có những điều kiện
thuận lợi, nhiều ưu thế để thực hiện các nhiệm vụ này.
Trước hết, xuất phát từ bản chất, truyền thống của quân đội. Quân đội ta từ nhân dân mà
ra, vì nhân dân mà chiến đấu, đoàn kết, gắn bó máu thịt với nhân dân là vấn đề thuộc về bản
chất, truyền thống tốt đẹp của quân đội nhân dân. Từ khi ra đời đến nay, quân đội ta đã được
Đảng, Bác giáo dục, rèn luyện, được nhân dân yêu thương, đùm bọc, chở che nên đã không
ngừng trưởng thành và lớn mạnh, hoàn thành xuất sắc mọi nhiệm vụ mà Đảng và nhân dân giao
phó. Mối quan hệ giữa quân đội và nhân dân từ lâu đã trở thành mối quan hệ của tình ruột thịt,
tình quân dân cá- nước. Nhân dân ta là người mẹ hiền, là nền tảng, là hậu phương vững chắc
cho quân đội. Vì sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, đánh đuổi xâm lăng, nhân dân ta đã
cung cấp những người con yêu dấu của mình cho quân đội, cho Đảng. Nhân dân ta cũng vô
cùng tự hào vì có một quân đội anh hùng, một quân đội mà ban đầu chỉ là những người nông
dân phải mặc áo lính, vì nợ nước thù nhà phải cầm súng giết giặc, đã trở thành một đội quân
hùng mạnh, gan dạ, dũng cảm, hy sinh vì nước, vì dân, không phụ lòng sinh thành dưỡng dục,
tin tưởng, yêu thương của nhân dân, của Đảng và Bác Hồ. Quân đội ta đã dũng cảm, ngoan
cường chiến đấu và chiến thắng, một lòng một dạ chiến đấu hy sinh vì độc lập, tự do của Tổ

quốc, vì hạnh phúc của nhân dân. Cán bộ chiến sĩ trong quân đội ta từ vị tướng đến người binh
nhì, được toàn dân yêu mến, khen tặng danh hiệu cao quý vừa giản dị, vừa gần gũi thân thương:
“Bộ đội Cụ Hồ”. Trong gian lao khói lửa chiến tranh cũng như trong hoà bình xây dựng đất nước,


×