Tải bản đầy đủ (.doc) (89 trang)

LUẬN án TIẾN sĩ PHÁT HUY VAI TRÒ của QUÂN đội TRONG xây DỰNG hệ THỐNG CHÍNH TRỊ ở cơ sở TRÊN địa bản tây NGUYÊN HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (456.79 KB, 89 trang )

CÁC CHỮ VIẾT TẮT

Chữ viết đầy đủ

Chữ viết tắt

Chủ nghĩa đế quốc

CNĐQ

Chủ nghĩa xã hội

CNXH

Công nghiệp hoá, hiện đại hoá

CNH, HĐH

Hệ thống chính trị

HTCT

Xã hội chủ nghĩa

XHCN
MỞ ĐẦU

1. Tính cấp thiết của đề tài
HTCT cơ sở là tổ chức cấp thấp nhất trong 4 cấp HTCT (Trung ương, tỉnh, huyện, xã) ở
nước ta. Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam
khoá IX xác định: “HTCT cơ sở có vai trò rất quan trọng trong việc tổ chức và vận động nhân dân


thực hiện đường lối của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước, tăng cường đại đoàn kết
toàn dân...” [5, tr. 89]. Vì vậy, xây dựng HTCT cơ sở vững mạnh đáp ứng yêu cầu đẩy mạnh
CNH, HĐH là khâu then chốt trong đổi mới chính trị hiện nay ở nước ta.
Tây Nguyên là địa bàn chiến lược quan trọng, thường xuyên được sự quan tâm
chăm lo của Đảng và Nhà nước. Trong những năm đấu tranh giải phóng đất nước, Tây
Nguyên là một căn cứ địa cách mạng kiên trung, góp công lớn vào thắng lợi của cuộc cách
mạng dân tộc dân chủ. Bước vào kỷ nguyên xây dựng CNXH, đặc biệt là từ khi cùng cả
nước tiến hành công cuộc đổi mới, Tây Nguyên cũng đã phát triển về mọi mặt, trong đó có
sự chuyển biến tích cực của HTCT. Tuy nhiên, bên cạnh những thành công đáng ghi nhận,
nội tình Tây Nguyên còn bộc lộ nhiều hạn chế, xuất hiện những vấn đề nổi cộm đáng lo ngại
do nhiều nguyên nhân, trong đó có nguyên nhân từ sự yếu kém, khuyết điểm của HTCT, đặc
biệt là ở cơ sở. Ở một số vùng, HTCT cơ sở yếu, một bộ phận bị quan liêu hoá, hành chính
hoá, không thực hiện tốt chức năng, nhiệm vụ. Trong khi đó, CNĐQ và các thế lực thù địch
luôn tìm cách lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo và những yếu kém, sơ hở của HTCT cơ sở,
đẩy mạnh chiến lược “diễn biến hoà bình”, nhen nhóm phục hồi tổ chức FULRO phản động,
gây bạo loạn chính trị, đòi thành lập cái gọi là “Nhà nước Đê - Ga tự trị”… làm cho Tây
Nguyên trở thành “điểm nóng” cần tập trung giải quyết.
Quân đội nhân dân Việt Nam là quân đội cách mạng do Đảng Cộng sản Việt Nam sáng
lập và lãnh đạo, công tác vận động quần chúng, tham gia xây dựng HTCT là một nhiệm vụ chính


trị thuộc chức năng công tác của quân đội ta. Thực tiễn đã khẳng định vai trò không thể thiếu của
quân đội ta trong công tác vận động quần chúng nhân dân theo Đảng làm cách mạng. Theo thời
gian, đã có nhiều cuộc tổng kết về công tác dân vận của quân đội; song hầu như mới chỉ tập
trung làm rõ các hoạt động tuyên truyền, vận động; các đóng góp về mặt cơ sở vật chất, văn hoá
nhằm nâng cao đời sống nhân dân; các đóng góp về xây dựng lực lượng quân sự ở địa phương.
Vấn đề quân đội tham gia xây dựng HTCT chưa được chú ý nghiên cứu đúng mức. Vì lẽ đó, tác
giả chọn đề tài “Phát huy vai trò của quân đội trong xây dựng HTCT cơ sở trên địa bàn Tây
Nguyên hiện nay” nhằm luận giải những vấn đề lý luận và thực tiễn đang nảy sinh liên quan đến
vai trò của quân đội trong xây dựng HTCT cơ sở và việc phát huy vai trò đó trong giai đoạn hiện

nay đối với Tây Nguyên đang là một vấn đề cấp bách và mang tính thời sự nóng hổi.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Vấn đề đổi mới, xây dựng HTCT, HTCT cơ sở đã được triển khai nghiên cứu khá sâu
rộng với nhiều công trình cho các hướng nghiên cứu, các vùng, miền khác nhau, làm luận cứ
khoa học cho sự hình thành đường lối đổi mới HTCT nước ta. Tiêu biểu có thể kể đến các
cuốn sách “Đổi mới và tăng cường HTCT nước ta trong giai đoạn mới” do GS Nguyễn Đức
Bình cùng tập thể tác giả biên soạn [ 7 ]; “HTCT cơ sở - đặc điểm, xu hướng và giải pháp”
của TS Vũ Hoàng Công [ 12 ]; “Thực hiện quy chế dân chủ và xây dựng chính quyền cấp xã
ở nước ta hiện nay” do TS Nguyễn Văn Sáu và GS Hồ Văn Thông đồng chủ biên [ 38 ]; “Giải
pháp đổi mới hoạt động của HTCT ở các tỉnh miền núi nước ta hiện nay” của các PGS,
TS Tô Huy Rứa, Nguyễn Cúc, Trần Khắc Việt đồng chủ biên [ 15 ]; nhiều bài viết của các
đồng chí lãnh đạo Đảng, Nhà nước, các nhà khoa học, nhà nghiên cứu xung quanh vấn đề
này, trong đó có đề cập tới tình hình xây dựng HTCT cơ sở ở Tây Nguyên.
Vấn đề vai trò của quân đội trong công tác vận động quần chúng nói chung và ở địa bàn
Tây Nguyên nói riêng đã được các đơn vị trong toàn quân cùng với Cục Dân vận và Tuyên
truyền đặc biệt, Tổng cục Chính trị tổng kết hàng năm và toàn diện nhất là cuộc tổng kết về công
tác dân vận của quân đội trong những năm đổi mới (1990-1999), qua đó đã khẳng định vai trò
cực kỳ quan trọng của quân đội ta trong công tác vận động quần chúng; trong xây dựng, củng cố
cơ sở chính trị ở các địa phương. Tuy nhiên, cho đến nay chưa có một công trình khoa học nào
đề cập đến phát huy vai trò của quân đội trong xây dựng HTCT cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích: Nghiên cứu cơ sở lý luận và thực tiễn vấn đề phát huy vai trò của quân đội
trong xây dựng HTCT cơ sở ở Tây Nguyên, từ đó đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát
huy vai trò của quân đội trong xây dựng HTCT cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay.
* Nhiệm vụ:
- Nghiên cứu chỉ ra những đặc điểm xây dựng HTCT cơ sở và những vấn đề có tính quy
luật phát huy vai trò của quân đội trong xây dựng HTCT cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên.


- Làm rõ thực trạng phát huy vai trò của quân đội trong xây dựng HTCT cơ sở trên địa

bàn Tây Nguyên.
- Đề xuất những giải pháp cơ bản nhằm phát huy vai trò của quân đội trong xây dựng
HTCT cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp luận nghiên cứu
Luận văn dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; các
quan điểm, đường lối của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây dựng chính quyền nhà nước, về
chuyên chính vô sản, về HTCT, về bản chất, vai trò, chức năng của Quân đội nhân dân Việt
Nam; các chỉ thị, nghị quyết của Đảng uỷ Quân sự Trung ương và Bộ Quốc phòng về các vấn đề
liên quan đến đề tài.
Luận văn sử dụng tổng hợp phương pháp luận duy vật biện chứng và duy vật lịch sử,
các phương pháp tổng kết, thống kê, lôgíc - lịch sử, điều tra xã hội học, phân tích - tổng hợp trên
cơ sở hoạt động nghiên cứu thực tế của bản thân tác giả và các nguồn tư liệu có liên quan, đồng
thời có kế thừa những nghiên cứu và kết luận của các công trình khoa học đã được công bố.
5. Ý nghĩa của luận văn
Với các kết quả nghiên cứu đã đạt được, luận văn góp phần làm sáng tỏ mối liên hệ giữa
hoạt động của quân đội với xây dựng HTCT cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay. Thông qua
đó định hướng hoạt động cho quân đội thời gian tới đóng góp tích cực vào việc ổn định và phát
triển của HTCT cơ sở và đời sống đồng bào các dân tộc Tây Nguyên.
Luận văn có thể dùng làm tài liệu tham khảo cho việc nghiên cứu giảng dạy ở các nhà
trường quân đội.
6. Kết cấu của luận văn
Gồm mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục tài liệu tham khảo và phụ lục.
Chương 1
BẢN CHẤT PHÁT HUY VAI TRÒ CỦA QUÂN ĐỘI TRONG XÂY DỰNG HỆ THỐNG CHÍNH
TRỊ CƠ SỞ TRÊN ĐỊA BÀN TÂY NGUYÊN
1.1. Xây dựng hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên - khái niệm và đặc
điểm
1.1.1. Khái niệm hệ thống chính trị cơ sở, xây dựng hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn Tây
Nguyên
* Khái niệm hệ thống chính trị cơ sở:



HTCT cơ sở là khái niệm bộ phận thuộc khái niệm HTCT, được sử dụng phổ biến ở nước ta
từ những năm 90 của thế kỷ XX. Đến nay, đã có nhiều công trình nghiên cứu từ những góc độ tiếp
cận khác nhau nêu ra quan niệm về HTCT, tựu trung đều thống nhất hai vấn đề cơ bản:
Thứ nhất, thừa nhận HTCT có cấu trúc bao gồm các tổ chức thành viên và mối quan hệ
giữa các tổ chức đó.
Thứ hai, khẳng định quyền lực chính trị của giai cấp thống trị là bản chất, cốt lõi, là mục
đích của việc tổ chức và vận hành của HTCT. Đúng như tư tưởng của C. Mác, Ph. Ăngghen:
“Quyền lực chính trị (…) là bạo lực có tổ chức của một giai cấp để trấn áp một giai cấp khác” [29,
tr. 628].
Đó là hai điểm mấu chốt nhất trong nội hàm khái niệm HTCT đã được các nhà khoa học
giải đáp. Khái quát lại, HTCT là tổng thể các tổ chức, các thiết chế chính trị - xã hội và mối quan
hệ giữa chúng hợp thành cơ chế chính trị của một chế độ xã hội nhằm bảo đảm việc thực hiện
quyền lực chính trị của giai cấp thống trị đối với toàn xã hội.
Khi sử dụng thuật ngữ HTCT, các nhà nghiên cứu đã nhấn mạnh tính hệ thống, tính chỉnh
thể trong cấu trúc của nó. Nó không chỉ đơn giản là sự liệt kê các tổ chức thành viên mà còn xác định
vị trí, vai trò, mối quan hệ giữa các tổ chức đó, đồng thời chỉ ra hình thức tổ chức, cơ chế hoạt động,
nhiệm vụ, chức năng, quyền hạn và phương thức phối hợp giữa các tổ chức (tức là nói tới các thiết
chế chính trị - xã hội). Tính chỉnh thể của HTCT còn biểu hiện ở chỗ một mặt nó luôn tự biến đổi, tự
điều chỉnh để phù hợp với môi trường xã hội mà nó đang tồn tại; mặt khác, quan hệ giữa các tổ chức
trong quá trình hoạt động, tuỳ theo yêu cầu, có thể xuất hiện một số tổ chức phái sinh, không ổn định,
nhằm giải quyết về một nhiệm vụ nhất thời nào đó, sau đó thì giải thể (ví dụ: các ban chỉ đạo, các tiểu
ban, hội đồng, tổ công tác liên hợp… do một hoặc nhiều tổ chức phối hợp lập ra để thực hiện một
nhiệm vụ chung nào đó). Tính chỉnh thể của HTCT không những chỉ nói đến các tổ chức và mối quan
hệ giữa các tổ chức mà còn bao hàm trong đó cả ý thức chính trị mà cốt lõi là hệ tư tưởng chính trị.
Chính điều này giúp cho HTCT vận hành thống nhất hướng vào thực hiện một mục đích nhất định,
dựa trên những nguyên tắc hoạt động nhất định, từ đó hình thành nên cơ chế chính trị của một chế
độ xã hội.



Như vậy, cấu trúc HTCT - với tính cách là một chỉnh thể - bao gồm cả trật tự theo chiều
ngang, cả trật tự theo chiều dọc và ngoài ra còn kể tới những sự lồng ghép, đan xen, sự xuất
hiện những yếu tố phái sinh.
Ở nước ta hiện nay, mô hình tổng thể HTCT được xác định là: xét theo chiều ngang gồm có
Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhà nước Cộng hoà XHCN Việt Nam, Mặt trận Tổ quốc Việt Nam và các
đoàn thể nhân dân là Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, Hội Nông dân Việt Nam, Đoàn Thanh niên
Cộng sản Hồ Chí Minh, Hội Liên hiệp Phụ nữ Việt Nam và Hội Cựu chiến binh Việt Nam. Trong đó
Đảng Cộng sản Việt Nam vừa là một bộ phận, một thành viên, vừa là hạt nhân lãnh đạo HTCT; Nhà
nước Cộng hoà XHCN Việt Nam là tổ chức cao nhất “thể hiện và thực hiện ý chí, quyền lực của nhân
dân”; Mặt trận Tổ quốc Việt Nam “là liên minh chính trị của các đoàn thể nhân dân và cá nhân tiêu
biểu của các giai cấp và tầng lớp xã hội, các dân tộc, các tôn giáo, là cơ sở chính trị của chính quyền
nhân dân”; các đoàn thể nhân dân là các tổ chức chính trị - xã hội đại diện cho quyền lợi, ý chí của
các giới quần chúng, tham gia xây dựng và giám sát hoạt động của Đảng, Nhà nước, tham gia vào
quản lý nhà nước, quản lý xã hội [16, tr. 19-21]. Xét theo chiều dọc, mô hình HTCT nước ta được tổ
chức với 4 cấp tương ứng với phân cấp hành chính - lãnh thổ hiện nay: Trung ương, tỉnh (và thành
phố trực thuộc Trung ương), huyện (quận, thị xã và thành phố trực thuộc tỉnh), xã (phường và thị
trấn). Theo đó, mỗi tổ chức trong HTCT cũng là một hệ thống dọc từ Trung ương xuống cơ sở, song
căn cứ vào chức năng và tính chất hoạt động của mình từng tổ chức xác định mô hình tổ chức riêng
cho phù hợp (chẳng hạn: Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam cho đến nay về cơ bản chưa có tổ
chức ở cấp xã, phường, thị trấn).
HTCT nước ta là HTCT XHCN, với đặc điểm nói lên bản chất của nó là việc thực hiện
quyền lực chính trị của giai cấp công nhân Việt Nam đối với toàn xã hội mà Nhà nước là biểu
hiện tập trung nhất của quyền lực ấy. Vì vậy, trong HTCT, gắn với vai trò Đảng lãnh đạo xã
hội là vai trò quản lý, điều hành của Nhà nước. Đây là hai tổ chức quan trọng nhất, thường
không mâu thuẫn mà thống nhất với nhau về mục tiêu, phương hướng chính trị và giữ vai trò
quyết định bản chất HTCT. Cho nên có thể khẳng định bản chất của HTCT nước ta là chuyên
chính vô sản, nói cách khác, giai cấp công nhân Việt Nam thực hiện quyền lãnh đạo, quyền



chuyên chính của mình trong toàn xã hội, cụ thể là “xây dựng Nhà nước XHCN, Nhà nước
của nhân dân, do nhân dân, vì nhân dân, lấy liên minh giai cấp công nhân với giai cấp nông
dân và tầng lớp trí thức làm nền tảng, do Đảng Cộng sản lãnh đạo. Thực hiện đầy đủ quyền
dân chủ của nhân dân, giữ nghiêm kỷ cương xã hội, chuyên chính với mọi hành động xâm
phạm lợi ích của Tổ quốc và của nhân dân”[16, tr. 9].
Với tư cách là một giai cấp cách mạng, tiên tiến nhất, khác về chất so với tất cả các giai
cấp khác trong lịch sử nên lợi ích của giai cấp công nhân Việt Nam ngay từ trong bản chất đã có
sự thống nhất với lợi ích của nhân dân lao động và của toàn dân tộc, vì thế quyền lực chính trị
của giai cấp công nhân Việt Nam, của HTCT XHCN suy đến cùng thuộc về quần chúng nhân dân
lao động, cội nguồn sức mạnh của HTCT nước ta chính là sức mạnh đại đoàn kết toàn dân tộc
dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Về khái niệm HTCT cơ sở (hay HTCT ở cơ sở), hiện nay phần lớn các nghiên cứu đều
theo xu hướng gắn khái niệm HTCT với từng cấp hành chính - lãnh thổ, theo sự phân cấp ấy,
HTCT cấp cao nhất là Trung ương, các cấp trung gian là tỉnh và huyện, cấp thấp nhất là xã. Cấp
càng cao thẩm quyền càng lớn và ngược lại. Do là cấp thấp nhất nên cấp xã (phường, thị trấn)
được gọi là cấp cơ sở. Vì thế dễ thấy nhiều ý kiến đồng tình với quan niệm cho rằng “HTCT ở cơ
sở là HTCT được tổ chức ở cơ sở bao gồm xã, phường, thị trấn” [24, tr. 421]. Tuy vậy, vẫn có ý
kiến băn khoăn: “khái niệm “HTCT ở cơ sở” vẫn chưa được nhận thức đúng và chưa thống
nhất”. Bởi “cơ sở” (theo nghĩa là một tổ chức) gồm xã, phường, thị trấn; các doanh nghiệp nhà
nước, các cơ quan hành chính, sự nghiệp. Trong ba loại hình cơ sở ấy, HTCT ở mỗi loại hình lại
có những nét riêng biệt” [25, tr. 7]. Điều băn khoăn này là có cơ sở. Thực tế hiện nay, ngoài hệ
thống dọc được tổ chức theo hệ thống hành chính - lãnh thổ, HTCT còn được tổ chức ở những
ngành, đơn vị hành chính - sự nghiệp, doanh nghiệp nhà nước với những kiểu tổ chức đặc thù
tuỳ theo tính chất, đặc điểm hoạt động của từng đơn vị. Song xuất phát từ tinh thần của Nghị
quyết Trung ương 5 (khoá IX) “Đổi mới và nâng cao chất lượng HTCT ở cơ sở xã, phường, thị
trấn”, tác giả cho rằng khái niệm HTCT cơ sở đã xác định và có giới hạn. Cấp cơ sở được đề
cập đến để nghiên cứu về HTCT trong luận văn này không thuộc loại hình cơ sở doanh nghiệp


nhà nước hay đơn vị hành chính - sự nghiệp mà là xã, phường, thị trấn, cấp cuối cùng trong

phân cấp hành chính - lãnh thổ 4 cấp hiện nay ở nước ta. Theo tinh thần đó, HTCT cơ sở là
HTCT được tổ chức ở cơ sở, tương ứng với cấp hành chính - lãnh thổ hiện nay là xã, phường, thị
trấn. Đây cũng chính là cấp đang nảy sinh và tồn tại nhiều vấn đề nhạy cảm, được xác định là
khâu then chốt trong đổi mới HTCT ở nước ta.
HTCT cơ sở ở nước ta hiện nay gồm có các thành tố: tổ chức đảng (đảng bộ hoặc chi bộ
xã), chính quyền (Hội đồng nhân dân xã, Uỷ ban nhân dân xã), Mặt trận Tổ quốc xã và các đoàn
thể nhân dân cấp xã (là các tổ chức chính trị - xã hội: Đoàn Thanh niên, Hội Phụ nữ, Hội Nông
dân, Hội Cựu chiến binh).
Cần lưu ý rằng, dưới cấp xã (phường, thị trấn) còn có các thôn, làng (khu phố, bản,
buôn…) với các tổ chức thuộc HTCT như: Chi bộ đảng, Chi đoàn Thanh niên, Chi hội Phụ nữ,
Chi hội Cựu chiến binh… có vị trí, vai trò quan trọng, không thể thiếu trong tổ chức xã hội hiện
nay ở nước ta.
Nghiên cứu khái niệm HTCT, HTCT cơ sở như trên cho phép chúng ta hình dung
được tính chất đa dạng, phức tạp về mặt tổ chức và cơ chế vận hành trong quan hệ giữa các
tổ chức, trên cơ sở đó lường trước những khó khăn, chủ động dự kiến trước các tình huống
khi đi vào tìm hiểu, xây dựng các tổ chức này. Trong đó HTCT cơ sở sẽ là nơi tập trung đầy
đủ và rõ nét sự đa dạng và phức tạp đó.
HTCT cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên chính là HTCT cơ sở xã, phường, thị trấn thuộc địa
bàn Tây Nguyên (hiện nay gồm 5 tỉnh miền núi là Gia Lai, Kon Tum, Đắc Lắc, Đắc Nông và Lâm
Đồng). Một mặt nó cũng được tổ chức theo mô hình HTCT cơ sở chung trên cả nước, mặt khác
tự thân nó cũng hàm chứa những đặc trưng riêng, điển hình là: phân bố trên địa bàn hiểm trở và
rộng lớn với những cộng đồng dân cư đa dân tộc, nổi bật là các dân tộc thiểu số. Cùng tồn tại và
gắn bó chặt chẽ với hệ thống thiết chế xã hội cổ truyền (buôn làng - dòng họ - gia đình), trong đó
buôn làng là cộng đồng bền vững nhất. Đối với đội ngũ cán bộ của HTCT cơ sở Tây Nguyên, uy
tín cá nhân sẽ là yếu tố đầu tiên quyết định hiệu quả công việc của họ, chứ không phải là trình độ
năng lực. Điều này thể hiện rõ ở các già làng, trưởng bản, v.v..


Xét với tư cách là một hệ thống, HTCT cơ sở ở Tây Nguyên vừa bị khuyết thiếu, không
đầy đủ, vừa có sự “rập khuôn máy móc” về phương thức và mô hình tổ chức, chưa sát với đặc

điểm tình hình cụ thể của Tây Nguyên.
Năm tỉnh thuộc địa bàn Tây Nguyên, theo quy định của Chính phủ, đều là “các tỉnh miền
núi” - đây là một khái niệm mang tính ước lệ. Ở cấp cơ sở vẫn có đủ các các mô hình tổ chức là
xã, phường và thị trấn, trong đó đơn vị hành chính cấp xã là phổ biến nhất, nhiều nhất. Do đó,
luận văn xác định tập trung nghiên cứu vào HTCT cơ sở xã - đặc biệt là các xã nông thôn miền
núi thuộc địa bàn các tỉnh Tây Nguyên. Phù hợp với sự giới hạn này, các đơn vị quân đội được
đề cập đến trong luận văn (với tư cách đại diện cho quân đội, là chủ thể trực tiếp tham gia xây
dựng HTCT cơ sở ở Tây Nguyên) chủ yếu là các đơn vị thuộc Quân đoàn 3, Binh đoàn 15, Bộ
đội Biên phòng, Bộ đội địa phương của các tỉnh Tây Nguyên (thuộc Quân khu 5 và Quân khu 7)
đang làm nhiệm vụ ở các địa bàn nông thôn miền núi cùng với các số liệu khảo sát thực tế trong
khoảng 10 năm - đặc biệt từ năm 2001 - trở lại đây.
* Khái niệm xây dựng hệ thống cbính trị cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên:
Xây dựng HTCT cơ sở được hiểu đồng thời trên hai khía cạnh:
Thứ nhất, xây dựng các thành tố trong HTCT cơ sở (tổ chức đảng, chính quyền, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân) từ tổ chức bộ máy, con người đến xác định chức năng,
nhiệm vụ… đảm bảo phát huy vai trò và nâng cao hiệu quả hoạt động của từng tổ chức.
Thứ hai, trên cơ sở đó xác định rõ mối quan hệ giữa các tổ chức thành viên, đảm
bảo HTCT cơ sở như một bộ máy vận hành thông suốt, hiệu quả cao; tạo nên sự đồng bộ,
thống nhất chặt chẽ trong lãnh đạo, tổ chức quản lý xã hội ở địa phương cơ sở. Bao gồm
xác định mối quan hệ giữa các tổ chức trong HTCT cơ sở, giữa HTCT cơ sở với HTCT cấp
trên, giữa toàn bộ HTCT cơ sở (cũng như từng thành viên trong hệ thống ấy) với quần
chúng nhân dân.
Từ khi nước ta được hoàn toàn giải phóng, đi lên CNXH, HTCT XHCN được thiết lập
thống nhất, bao trùm trên toàn bộ lãnh thổ Việt Nam. HTCT trên địa bàn Tây Nguyên gồm 3 cấp
tỉnh, huyện, xã, thuộc 5 tỉnh, nằm trong HTCT chung cả nước; không có HTCT riêng của địa bàn


Tây Nguyên. Do vậy, để định nghĩa khái niệm “xây dựng HTCT cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên”,
trước hết cần nhận thức thống nhất mấy điểm sau:
- HTCT cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên với các tổ chức, thiết chế theo quy định chung đã

và đang tồn tại, vận hành trong bộ máy HTCT chung cả nước. Tuy nhiên ở nơi này nơi khác, do
đặc điểm dân cư và địa bàn (hoặc một lý do nào đó khác) mà một vài tổ chức chưa hình thành
được; lực lượng mỏng, yếu; HTCT cơ sở hoạt động hiệu quả chưa cao… Vì thế, đặt vấn đề “xây
dựng” ở đây cần hiểu là có những nội dung phải xây dựng mới, có những nội dung lại là chấn
chỉnh, sửa chữa, khắc phục những mặt hạn chế, yếu kém, v.v.. “Xây dựng” - trong trường hợp
này - là một khái niệm mở, có tính biến thiên, mang các hàm ý: xây dựng, củng cố, kiện toàn,
hoàn thiện… nhằm làm cho HTCT cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên ngày càng vững mạnh, hoạt
động có hiệu quả. Với ý nghĩa đó, “xây dựng” là một việc làm thường xuyên đối với HTCT cơ sở
trên địa bàn Tây Nguyên.
- Cơ sở tạo nên hiệu lực của HTCT cơ sở xét đến cùng xuất phát từ sức mạnh của quần
chúng nhân dân. Hoạt động của HTCT cơ sở chỉ có ý nghĩa và đem lại hiệu quả khi nó hướng vào
phục vụ lợi ích chân chính của quần chúng nhân dân, dựa vào và phát huy sức mạnh đại đoàn kết của
các tầng lớp nhân dân, các dân tộc. Thực chất đó chính là định hướng XHCN trong xây dựng HTCT cơ
sở hiện nay.
- Xây dựng HTCT cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên, về bản chất là loại hình hoạt động xã
hội, do đó vừa mang tính cụ thể, vừa mang tính trừu tượng; kết quả hoạt động có chỗ đánh giá
được ngay, có chỗ cần phải qua thời gian và thực tiễn kiểm nghiệm mới có thể đánh giá được;
có việc mang lại tác dụng ngay trước mắt, có việc tác dụng lâu dài - như một sự tích luỹ, chuẩn
bị cho cả một quá trình. Nói chung đó là hoạt động mang tính cách mạng, đòi hỏi một tinh thần
làm việc công phu, tỉ mỉ, không nóng vội, thận trọng trong từng khâu, từng bước.
Quán triệt tinh thần trên, có thể định nghĩa rằng xây dựng HTCT cơ sở trên địa bàn Tây
Nguyên là hoạt động tự giác, có kế hoạch của chủ thể (con người, các tổ chức) với những hình
thức và phương pháp thích hợp nhằm củng cố, hoàn thiện tổ chức bộ máy và cơ chế vận hành,


nâng cao hiệu quả hoạt động của HTCT ở cơ sở, đảm bảo phát huy hiệu lực của HTCT XHCN,
góp phần trực tiếp giữ vững sự ổn định và phát triển xã hội ở Tây Nguyên.
Chăm lo, xây dựng HTCT là nghĩa vụ, trách nhiệm của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân, của mọi cấp, mọi ngành trong cả nước. Đối với cấp cơ sở, Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ
rõ: “Cấp xã là gần gũi dân nhất, là nền tảng của hành chính. Cấp xã làm được việc thì mọi

công việc đều xong xuôi” [34, tr. 371]. Xuất phát từ vị trí, vai trò của cơ sở và nhiệm vụ xây
dựng, hoàn thiện HTCT, hiện nay Đảng và Nhà nước ta đang chủ trương tập trung dồn sức
cho xây dựng cơ sở, “hướng mạnh tới cơ sở, tới thôn, xóm, ấp, bản; tăng cường đi sát, làm
việc trực tiếp với cơ sở, với dân, thấu hiểu nguyện vọng của dân, cùng với cơ sở giải quyết
vướng mắc cho dân” [5, tr. 105]. Đặc biệt đối với Tây Nguyên hiện nay, xây dựng HTCT cơ
sở vững mạnh đang là một nhiệm vụ cấp bách, cần thiết, thu hút sự quan tâm của toàn xã
hội, đòi hỏi sự tham gia và phát huy trách nhiệm của mọi tổ chức, mọi cấp, mọi ngành, mọi
đối tượng. Trong đó với ưu thế về mặt tổ chức và hoạt động, Quân đội nhân dân Việt Nam là
một trong những chủ thể xây dựng có khả năng, vai trò, tác dụng rất lớn - rõ nét nhất là ở
những địa phương cơ sở miền núi hiện nay. Tuy nhiên, đó hoàn toàn không phải là sự hoạt
động đơn phương mà luôn trong sự phối hợp hiệp đồng, cộng đồng trách nhiệm với các lực
lượng khác (như công an, dân - chính - đảng, …); sự ủng hộ, giúp đỡ của quần chúng nhân dân,
của cấp uỷ, chính quyền, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể nhân dân cả trong và ngoài HTCT
tại địa phương; sự lãnh đạo tập trung, thống nhất của Đảng Cộng sản Việt Nam. Có thể nói
đó là một tập hợp các chủ thể tác động vào đối tượng xây dựng là toàn bộ HTCT cơ sở trên
địa bàn Tây Nguyên và từng tổ chức thành viên trong HTCT cơ sở đó. Như vậy, chủ thể xây
dựng HTCT cơ sở ở Tây Nguyên bao gồm những lực lượng bên ngoài HTCT cơ sở tác động
vào và cả những lực lượng nằm ngay trong từng tổ chức của HTCT cơ sở. Với sự phân tích
đó, xây dựng HTCT cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên hiện nay là một quá trình bao gồm sự
kết hợp giữa xây dựng và tự xây dựng, tự hoàn thiện mà vai trò của cái nội tại, cái bên trong
bao giờ cũng là quyết định. Toàn bộ quá trình nói trên nhằm tới mục tiêu xây dựng các địa
phương cơ sở xã, phường, thị trấn ở Tây Nguyên hiện nay có bộ máy HTCT ngày càng


được củng cố, kiện toàn; xác định rõ chức năng, nhiệm vụ, phối hợp nhịp nhàng các tổ
chức; vận hành thông suốt, phát huy hiệu quả hoạt động, hiệu lực của HTCT XHCN tại
cơ sở địa phương, giữ vai trò quyết định sự ổn định và phát triển các địa phương cơ sở
Tây Nguyên, theo tinh thần: “Toàn bộ tổ chức và hoạt động của HTCT nước ta trong giai
đoạn mới là nhằm xây dựng và từng bước hoàn thiện nền dân chủ XHCN, bảo đảm
quyền lực thuộc về nhân dân” [16, tr. 19] đã được xác định trong Cương lĩnh xây dựng

đất nước trong thời kỳ quá độ lên CNXH của Đảng Cộng sản Việt Nam.
Nội dung xây dựng HTCT cơ sở ở Tây Nguyên gồm:
- Xây dựng tổ chức bộ máy của HTCT cơ sở
Đây là quá trình dựng lên một “bộ khung” của HTCT cơ sở, duy trì sự tồn tại và đảm
bảo cho hoạt động của nó. “Bộ khung” này gồm các thành tố cơ bản là: tổ chức cơ sở đảng,
chính quyền cơ sở, Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội ở cơ sở. Mỗi tổ chức là
một bộ máy nhỏ cấu thành bộ máy lớn là HTCT cơ sở, do vậy những tổ chức đó cũng có cấu
trúc riêng với các chức danh nhân sự và cách thức hoạt động riêng theo phạm vi, lĩnh vực
mà nó đảm nhiệm. Ngoài ra, dưới cấp xã, phường, thị trấn còn có những hình thức tổ chức
cộng đồng dân cư thấp hơn là khu phố, tổ dân phố, thôn, làng, bản, buôn (Plây, Plơi, Bon...
như cách gọi của các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên) - dưới đây gọi chung là buôn làng. Đây
chính là tổ chức tế bào cơ bản của xã hội Việt Nam (nói chung) và Tây Nguyên (nói riêng)
trước đây, hiện nay nó vẫn tồn tại như một nhu cầu tất yếu của đời sống cộng đồng dân cư,
của sự cố kết cộng đồng, đồng thời nó cũng là một thiết chế cần thiết cho sự quản lý xã hội
của HTCT, được xem là các “chân rết”, là “cánh tay nối dài” của HTCT cơ sở. Ở đó cũng
hình thành đủ các tổ chức với tư cách như là những “tổ chức nhánh” của HTCT cơ sở (gọi là
chi đoàn, chi hội...) và cũng đã chứng tỏ được vai trò của mình, nhất là ở địa bàn nông thôn
miền núi. Chính vì vậy mà đội ngũ trưởng thôn, bản được Nhà nước ta thừa nhận và có vai
trò nhất định trong xã hội, đặc biệt ở địa phương miền núi Tây Nguyên là các trưởng thôn,
buôn, bản; già làng.
- Xây dựng nội dung, phương thức và cơ chế hoạt động của từng tổ chức và của toàn bộ
HTCT cơ sở:


Đây chính là yếu tố đảm bảo phát huy hiệu lực và hiệu quả hoạt động của HTCT cơ sở,
đảm bảo cho HTCT cơ sở và từng tổ chức thành viên hoàn thành chức năng, nhiệm vụ đã được
xác định. Xây dựng nội dung này gồm: xác định tính chất, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ,
trách nhiệm, phạm vi, quyền hạn, quy chế làm việc.. của các tổ chức; xây dựng cơ chế phối hợp
hoạt động giữa các tổ chức; từ đó hình thành nên các mối quan hệ, tính chất các mối quan hệ và
phương thức giải quyết các mối quan hệ giữa các tổ chức trong HTCT cơ sở, giữa HTCT cơ sở

với HTCT cấp trên và với HTCT nói chung, giữa HTCT cơ sở cũng như từng tổ chức thành viên
với các tổ chức không thuộc HTCT và với quần chúng nhân dân.
Ở chế độ ta hiện nay, tổ chức đảng vừa là thành viên vừa là hạt nhân lãnh đạo HTCT,
chính quyền là tổ chức quản lý, điều hành mọi hoạt động xã hội trong phạm vi địa bàn được đảm
nhiệm; Mặt trận Tổ quốc và các tổ chức chính trị - xã hội là đại diện cho quyền lợi, ý chí của
những bộ phận nhân dân, đại diện cho họ trong tham gia xây dựng và giám sát HTCT, tuyên
truyền vận động nhân dân thực hiện đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước, ngoài ra còn
có thể trực tiếp tổ chức nhân dân xây dựng các công trình dân sinh do nhân dân tự nguyện đóng
góp kinh phí, đúng như ý tưởng của Bác Hồ rằng đó là những “Tổ chức của dân, phấn đấu cho
dân, bệnh vực quyền của dân, liên lạc mật thiết nhân dân với Chính phủ” [33, tr. 66]. Đó chính là
cơ chế: Đảng lãnh đạo; chính quyền quản lý, điều hành; Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân
dân kiểm tra, giám sát, kiến nghị.
Mối quan hệ này được biểu hiện thông qua các văn bản pháp luật, xác định rõ mối quan hệ
này sẽ tránh được sự chồng chéo, “lấn sân” trong công việc giữa các tổ chức, là điều kiện cơ
bản tạo ra sự thống nhất, đồng bộ, làm cho HTCT cơ sở đủ sức mạnh để làm tròn chức trách,
nhiệm vụ của mình. Đây cũng chính là trọng điểm, là khâu then chốt của đổi mới HTCT hiện nay
ở nước ta.
- Xây dựng đội ngũ cán bộ của HTCT cơ sở:
Đây là khâu cơ bản, then chốt và hơn nữa là nội dung trọng yếu trong xây dựng HTCT cơ
sở ở Tây Nguyên. Bởi lẽ cấu thành tổ chức bộ máy HTCT là từ con người và chất lượng, hiệu


quả hoạt động của bộ máy đó cũng là do con người. Con người - trước hết và chủ yếu là đội ngũ
cán bộ giữ vai trò quyết định trong xây dựng HTCT cơ sở.
Xây dựng đội ngũ cán bộ của HTCT cơ sở ở Tây Nguyên bao gồm từ việc phát hiện, tuyển
chọn, bồi dưỡng, đào tạo, sử dụng cán bộ theo các chức danh và theo yêu cầu, đặc điểm của
từng loại cán bộ đến việc quy hoạch, định hướng phát triển cán bộ; thực hiện chính sách cán
bộ... Đó là một quá trình liên thông nhằm tạo ra một đội ngũ cán bộ có cơ cấu hợp lý, đủ phẩm
chất, trình độ, năng lực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
Nghị quyết Hội nghị lần thứ năm Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về “Đổi mới và nâng

cao chất lượng HTCT ở cơ sở xã, phường, thị trấn” xác định: “Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở có năng
lực tổ chức và vận động nhân dân thực hiện đường lối của Đảng, pháp luật của Nhà nước, công tâm,
thạo việc, tận tụy với dân, biết phát huy sức dân, không tham nhũng, không ức hiếp dân; trẻ hoá đội
ngũ...” [5, tr. 91] là một trong ba vấn đề “cơ bản và bức xúc” của xây dựng HTCT cơ sở mà Trung ương
xác định từ nay đến năm 2005 cần tập trung giải quyết, đồng thời cũng là yêu cầu về xây dựng đội ngũ
cán bộ cơ sở nói chung. Đối với địa phương cơ sở Tây Nguyên, do có những đặc thù riêng của địa bàn
miền núi, trong khi quán triệt yêu cầu trên cần chú ý nhấn mạnh những tiêu chuẩn nhất thiết phải có, nổi
trội hiện nay là: có sức khoẻ dẻo dai; có khả năng giải quyết công việc một cách độc lập; sống hoà hợp
với dân, được dân tin cậy, tín nhiệm. Chỉ như vậy mới có thể đảm bảo cho đội ngũ cán bộ cơ sở ở Tây
Nguyên hoàn thành chức trách, nhiệm vụ của mình.
Tóm lại, ba nội dung trên mỗi nội dung có vị trí, vai trò riêng nhưng có mối liên hệ, gắn bó chặt
chẽ với nhau, xây dựng một nội dung nào đó đều tất yếu có liên quan đến xây dựng các nội dung còn
lại. Các nội dung đều được tiến hành xây dựng đồng thời, khi kết thúc chu trình xây dựng ở nội dung
này thì đồng thời cũng hoàn tất chu trình ở các nội dung khác. Cứ như thế, kết quả sẽ là HTCT cơ sở
ngày

càng

được

hoàn

thiện,

vận

hành




hiệu

lực



hiệu

quả cao.
1.1.2. Đặc điểm xây dựng hệ thống chính trị cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên
Tây Nguyên hiện nay có 638 xã, phường, thị trấn; 5985 buôn làng, phần lớn là miền núi.
Là địa bàn cư trú của 45 dân tộc anh em, trong đó có 13 dân tộc bản địa cùng với sự tồn tại của


nhiều tôn giáo lớn và kéo theo là sự đan bện đa dạng các sắc thái và cơ tầng văn hoá. Đây
không chỉ là địa bàn có tiềm năng phát triển kinh tế mà còn có tầm quan trọng chiến lược về an
ninh - quốc phòng, không chỉ phong phú về tài nguyên thiên nhiên mà còn là vùng đất giàu truyền
thống cách mạng. Xây dựng HTCT cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên cần chú ý những đặc điểm
sau:
Một là, xây dựng HTCT cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên phải nghiên cứu kỹ và tính đến sự
tác động của hệ thống thiết chế xã hội cổ truyền, kế thừa và phát triển những yếu tố tiến bộ trong
“luật tục” của từng dân tộc thiểu số dang còn phù hợp với giai đoạn hiện nay
Xã hội Tây Nguyên trước đây được biết đến là một xã hội khép kín, bó hẹp trong phạm vi
những buôn làng nhỏ. “Nếu như ở xã hội người Kinh, làng gắn với nước thành “làng nước”, thì ở Tây
Nguyên trước đây, buôn làng cũng là nước” [15, tr. 142], đồng bào các dân tộc thiểu số Tây Nguyên
hầu như không muốn chịu bất cứ một sự ràng buộc nào ngoài buôn làng mình. Với họ, làng là tổ
chức xã hội cao nhất, tương đối độc lập, tương đối hoàn chỉnh và tách biệt. Có thể nói, đó chính là
tàn dư của chế độ công xã nông thôn phương Đông điển hình. Điều chỉnh mọi hoạt động của làng là
“luật tục” cùng với hệ thống lễ nghi và các chức sắc do làng bầu ra hoặc suy tôn (như già làng, chủ
làng, trưởng tộc...) hợp thành thiết chế xã hội truyền thống, thiêng liêng, phù hợp với đặc điểm từng

tộc người và điều kiện sống trong buôn làng của họ.
Luật tục (còn gọi là tập quán pháp): là một hình thức quy ước tự quản của cộng đồng dân
tộc thiểu số, được xem như là hình thức pháp luật sơ khai, đề cập đến hầu hết các lĩnh vực, các
mối quan hệ trong cộng đồng nhất định như: quan hệ giữa các cá nhân trong cộng đồng, cộng
đồng với thủ lĩnh, con người với thiên nhiên, quan hệ gia đình, quan hệ sở hữu đất đai và tài
nguyên, và cả quan hệ giữa con người với thần linh thông qua nghi lễ, tín ngưỡng... Phần lớn tồn
tại dưới thể văn vần, truyền miệng, nội dung rõ ràng, dễ nhớ (như bộ “Bidue” của người Ê đê hay
“Ol” của người Xtiêng...). Ở Tây Nguyên, hầu hết các tộc người bản địa đều có luật tục, trong đó
có nhiều luật tục được phát hiện và công bố từ hơn nửa thế kỷ nay như luật tục Ê đê, M’nông, Ba
na, X tiêng, Mạ, H rê... [42, tr. 36]. Do được xây dựng bởi những tộc người mà trình độ sản xuất
và điều kiện sinh hoạt vật chất của họ còn thấp kém, luật tục tất nhiên không tránh khỏi bao gồm


trong nó những hủ tục, song cũng có khá nhiều nội dung quy ước mang tính tiến bộ, chẳng hạn
như: những quy định về chuẩn mực đạo đức của con người; những quy định về quyền sở hữu
và sử dụng đất đai, tài nguyên; nội dung luật tục luôn hướng tới việc xây dựng một xã hội hài
hoà, bảo tồn các thuần phong mỹ tục mang tính cộng đồng, bảo vệ cộng đồng một cách tối ưu
nhất, chống lại sự mất đoàn kết... Đó là những yếu tố tích cực, còn phù hợp với yêu cầu xây
dựng xã hội mới, cần được nghiên cứu sử dụng, kế thừa.
Ngày nay, dưới chế độ mới, HTCT XHCN được thiết lập rộng khắp, có tính hệ thống chặt chẽ, là
hệ thống thiết chế xã hội chính thống, giữ vai trò chủ đạo trong quản lý, điều hành mọi hoạt động xã hội,
nhưng thiết chế xã hội cổ truyền ở các buôn làng Tây Nguyên vẫn tồn tại và phát huy tác dụng, mặc dù
đã bị thu hẹp ít nhiều. Nhìn chung ảnh hưởng của thiết chế xã hội cổ truyền đối với đời sống đồng bào
các dân tộc Tây Nguyên còn khá mạnh. Biểu hiện ở chỗ một số yếu tố vẫn được chế độ mới thừa nhận
và sử dụng vào việc điều hành xã hội (như già làng, chủ làng, v.v..). Thực tế chứng minh rằng, các vị
chủ làng, già làng, trưởng tộc , thầy xử kiện, thầy cúng... cho đến nay vẫn còn là những người có uy tín
lớn trong ý thức mỗi người dân tộc thiểu số Tây Nguyên. Chính họ là những người am hiểu và giữ gìn
luật tục, quản lý và điều hành xã hội cổ truyền, một số người có vai trò dẫn dắt đối với dân làng trội hơn
các cán bộ trong HTCT cơ sở của chúng ta. Chính vì vậy, khi cần tiến hành những việc liên quan đến
cả cộng đồng làng buôn như vận động định canh định cư, từ bỏ ma tuý, từ bỏ các hủ tục lạc hậu... thì

đại diện các thiết chế xã hội chính thống đều phải tranh thủ được sự ủng hộ của đại diện các thiết chế
xã hội cổ truyền. Chỉ có như vậy công việc mới dễ bề thành công, ngược lại thì sẽ gặp khó khăn, rắc rối.
Do đó, phương hướng đúng đắn nhất trong xây dựng HTCT cơ sở ở Tây Nguyên hiện nay là phải tính
toán để dung nạp được các yếu tố tích cực, đang còn phù hợp của thiết chế xã hội cổ truyền; thực hiện
quá trình lồng ghép và chi phối giữa hệ thống thiết chế xã hội chính thống với thiết chế xã hội cổ truyền,
chủ động phát huy mặt tích cực, hạn chế và từng bước tiến tới loại bỏ dần mặt tiêu cực, lạc hậu của nó.
Thực chất đây là quá trình xây dựng một kiến trúc thượng tầng phù hợp với cơ sở hạ tầng ở Tây
Nguyên mang định hướng XHCN. Để đạt đến một thiết chế xã hội XHCN thực sự theo đúng nghĩa của
nó, tất yếu chúng ta còn phải trải qua những giai đoạn quá độ với nhiều chặng đường, nhiều thang bậc
khác nhau phù hợp với đặc điểm và trình độ phát triển của từng vùng, từng dân tộc. Quyết không được


chủ quan nóng vội, áp đặt kể cả trong xây dựng mô hình tổ chức, trong xây dựng nội dung và phương
thức hoạt động, trong bố trí sắp xếp cán bộ.
Hiện nay, xét ở góc độ các tổ chức, thiết chế tác động vào cộng đồng người ở Tây Nguyên


thể

nhận

thấy



phân

loại

ra


các

thiết

chế



hội sau:
- Thiết chế xã hội chính thống là HTCT XHCN, tồn tại và hoạt động công khai, hợp pháp
theo quy định của Hiến pháp và pháp luật của nước Cộng hoà XHCN Việt Nam. Đây là thiết chế
giữ vai trò chi phối, chủ đạo trong sự vận động của đời sống cộng đồng xã hội. Hệ thống này
được xây dựng và phát triển đầy đủ, hoàn chỉnh hơn cả. Đó cũng là những tổ chức hợp pháp đại
diện cho Nhà nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam tại Tây Nguyên trong quan hệ với cộng
đồng quốc tế, với các quốc gia trên thế giới.
- Thiết chế xã hội truyền thống (cổ truyền) được truyền nối lâu đời, gắn với phong tục,
tập quán, tín ngưỡng, tâm lý xã hội... vốn là những yếu tố “có tính trội” ở đồng bào thiểu số
Tây Nguyên, là yếu tố nảy sinh từ bên trong, gắn chặt với đời sống cộng đồng, do đó có sức
sống khá mạnh mẽ, tác động âm thầm, bền bỉ. Thiết chế xã hội cổ truyền được hình thành
theo đặc điểm và nhu cầu sinh hoạt riêng của từng dân tộc, từng buôn làng. Ở những vùng
rộng lớn có nhiều buôn làng, đa dân tộc như Tây Nguyên thì thiết chế xã hội cổ truyền tất
yếu mang tính đa dạng, phức tạp, có sự giao thoa, đan xen nhau. Thiết chế xã hội cổ truyền
vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực nhưng không thể đơn giản gạt bỏ một cách võ
đoán, vì vậy vấn đề đặt ra đối với chúng ta trong xây dựng HTCT cơ sở ở Tây Nguyên là biết
khai thác, sử dụng mặt tích cực đồng thời hạn chế mặt tiêu cực của thiết chế xã hội cổ
truyền. Trước mắt cần đấu tranh ngăn chặn các thế lực phản động, thù địch lợi dụng mặt tiêu
cực của nó để chống phá sự nghiệp xây dựng xã hội mới XHCN của chúng ta.
- Thiết chế xã hội bất hợp pháp: là các tổ chức do các lực lượng phản động, thù địch lén lút xây
dựng và duy trì hoạt động; đó cũng có thể là các tổ chức tôn giáo được lập ra và hoạt động trái pháp

luật; hoặc cũng có thể là một tổ chức chính trị phản động núp bóng, trá hình vào một tổ chức mang tính
tôn giáo, dân tộc nào đó để hoạt động phá hoại an ninh trật tự tại các địa phương. Tựu trung đó là thiết


chế xã hội tồn tại và tác động bí mật, có mục đích hoàn toàn trái ngược với hệ thống thiết chế xã hội
chính thống. Đây đó đã có nơi thiết chế xã hội bất hợp pháp hoạt động mạnh, tỏ ra lấn lướt khi thiết chế
xã hội chính thống có sự sơ hở, tác động yếu. Chúng mưu toan lồng ghép thiết chế xã hội bất hợp pháp
vào thiết chế xã hội cổ truyền, núp bóng nó và lợi dụng nó để phá hoại HTCT của chúng ta, rõ nét nhất
là ở cấp cơ sở. Hiện tượng “Tin lành Đê - Ga” mà bọn tàn quân FULRO nhen nhóm trong cộng đồng
các dân tộc thiểu số ở Tây Nguyên những năm gần đây là một ví dụ điển hình.
Ba loại thiết chế xã hội nói trên đang tồn tại, tác động đan xen, chi phối lẫn nhau rất phức
tạp. Mặc dù là thiết chế xã hội chính thống giữ vai trò chủ đạo nhưng thời gian qua, ở một số nơi
do sự yếu kém của HTCT cơ sở đã vô tình làm thiết chế xã hội bất hợp pháp gia tăng sự phá
hoại, gây rối trên địa bàn Tây Nguyên. Đối với thiết chế xã hội cổ truyền chúng ta vẫn chưa đối
xử phù hợp và đúng mức, chưa có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa nó với thiết chế xã hội chính
thống, chưa giáo dục cho đồng bào ý thức tôn trọng pháp luật, đặt “phép nước” trên “lệ làng”,
cho nên vẫn có những hành vi phạm pháp lại không xử lý bằng pháp luật mà xử theo lệ làng, luật
tục [44, tr. 10], do đó sức mạnh của HTCT cơ sở ở Tây Nguyên còn nhiều hạn chế. Với ý nghĩa
trên, xây dựng HTCT cơ sở ở Tây Nguyên chính là phát triển, hoàn thiện thiết chế xã hội chính
thống để nó giữ vững vị trí thống trị, quyết định đường hướng phát triển của xã hội; đồng thời
phát huy những mặt tích cực và loại bỏ dần những mặt tiêu cực, lạc hậu của thiết chế xã hội cổ
truyền; đấu tranh ngăn chặn sự phá hoại tiến đến loại trừ thiết chế xã hội bất hợp pháp ra khỏi
đời sống xã hội.
Hai là, xây dựng HTCT cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên phải chú ý đúng mức và giải quyết
tốt những nét đặc thù về vấn đề dân tộc và vấn đề tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập quán vốn
rất nhạy cảm và phức tạp. Đây là những nhân tố có ảnh hưởng rất lớn đối với sự ổn định an ninh
chính trị ở địa phương cơ sở Tây Nguyên
Việt Nam vốn là một quốc gia đa dân tộc đồng thời là một quốc gia đa tôn giáo. Do vậy,
vấn đề dân tộc và vấn đề tôn giáo là những vấn đề lớn của cách mạng Việt Nam. Tây Nguyên là
nơi điển hình về tập trung dân tộc, tôn giáo và hoạt động của các dân tộc, các tôn giáo. Theo

thống kê của Ban chỉ đạo Tây Nguyên (1/2003), trong tổng số 54 dân tộc anh em ở nước ta thì
riêng vùng Tây Nguyên đã có sự hiện diện của 45 dân tộc (trong khi đó dân số Tây Nguyên chỉ


có khoảng 4,54 triệu người, chiếm 5,3% dân số cả nước). Nước ta hiện nay có khoảng 30% số
dân theo 6 tôn giáo chính (Phật giáo, Thiên chúa giáo, Tin lành, Hồi giáo, Cao đài, Hoà hảo) thì
tại Tây Nguyên có tới 32% số dân toàn vùng theo 4 tôn giáo chính (Phật giáo, Thiên chúa giáo,
Tin lành, Cao đài), trong đó người dân tộc thiểu số chiếm 41% dân số theo đạo [3, tr. 1-4].
Vấn đề dân tộc, tôn giáo luôn gắn chặt với các vấn đề tín ngưỡng, phong tục tập quán
của đồng bào các dân tộc Tây Nguyên, là vấn đề vốn rất nhạy cảm và phức tạp liên quan đến
tâm thức và đời sống thường nhật của mỗi người dân. Do cư trú ở vùng núi, hẻo lánh, không
thường xuyên tiếp xúc với bên ngoài, mức sống thấp, mặt bằng nhận thức hạn chế, lại thường
phải đối mặt với thiên nhiên rộng lớn nhưng cực kỳ khắc nghiệt đã làm cho tín ngưỡng và phong
tục tập quán của người dân nơi đây có những đặc trưng riêng. Đối với họ, bên cạnh tôn giáo độc
thần còn tồn tại cả tôn giáo đa thần. Niềm tin và sự ngưỡng mộ của họ đối với các đấng thần linh
thật mãnh liệt biểu hiện rõ qua các lễ nghi, phong tục tập quán của những cộng đồng (làng buôn,
dân tộc) đến mức mà một chủ trương nào đó của chúng ta ngày nay muốn triển khai thành công
đôi khi có thể phải “khúc xạ” qua những yếu tố đó. Cho đến nay, phần lớn đồng bào miền núi Tây
Nguyên do khả năng làm chủ bản thân, làm chủ xã hội chưa cao nên thường gửi gắm niềm tin
vào các bậc siêu nhiên hơn là tin vào khả năng của chính bản thân mình. Người dân tộc thiểu số
vẫn chưa xoá được sự tự ti, mặc cảm về thân phận của họ. Đồng bào dân tộc thiểu số thường “nhẹ
dạ, cả tin”. Thực ra những lời kẻ xấu và bọn phản động dụ dỗ, lừa phỉnh được họ chẳng qua cũng
nhờ vào chỗ chúng núp được bóng của đấng thần linh trong các tôn giáo và nơi tín ngưỡng của họ
mà thôi.
Tình hình trên một mặt phản ánh đặc thù về điều kiện địa lý, dân số; điều kiện sản xuất,
kinh tế - xã hội còn rất thấp kém - yếu tố suy đến cùng quy định sự phát triển mọi mặt của đồng
bào các dân tộc Tây Nguyên; mặt khác cũng chính là những điểm kẻ thù dễ lợi dụng, tập trung
khai thác, lôi kéo đồng bào vào những hành động sai trái, phi pháp, mù quáng, kích động hận thù
và gây chia rẽ khối đoàn kết các dân tộc. Đặc biệt đối với các vùng núi cao, vùng sâu, vùng xa,
vùng nằm sát biên giới với các nước bạn, là nơi có thể nói vừa nhạy cảm về vấn đề dân tộc, tôn

giáo, vừa nhạy cảm về vấn đề an ninh - quốc phòng của đất nước ta.


Điều đáng mừng là Việt Nam chúng ta luôn có sự chung sống hoà bình giữa các dân
tộc, các tôn giáo. Ở Tây Nguyên, các dân tộc sống đan xen nhau trong một quần cư, mỗi dân
tộc có tiếng nói, bản sắc văn hoá riêng, nhưng rất hoà thuận. Không có xung đột sắc tộc
cũng như không có xung đột, tranh giành giữa các tôn giáo. Nguyên nhân của thực tế ấy một
phần xuất phát từ dòng trong truyền thống của lịch sử Việt Nam, phần khác là do chính sách
dân tộc và chính sách tôn giáo đúng đắn của Đảng và Nhà nước ta trong suốt quá trình cách
mạng, như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: “Chính sách của Đảng và Chính phủ ta đối với miền
núi là rất đúng đắn. Trong chính sách đó có hai điều quan trọng nhất là: đoàn kết dân tộc và
nâng cao đời sống của đồng bào” [30, tr. 608]. Chính sách đúng đối với vấn đề dân tộc và
tôn giáo là yếu tố căn bản giúp cho đồng bào các dân tộc Tây Nguyên sống hài hoà giữa đạo
và đời, tự tin phấn đấu vươn lên và có khả năng “miễn dịch” với mọi tác động, ảnh hưởng
xấu từ bên ngoài. Chính vì vậy, những diễn biến sôi động ở nơi này nơi khác trên thế giới
xung quanh vấn đề dân tộc và tôn giáo những năm qua ảnh hưởng không đáng kể với chúng
ta.
Tuy nhiên, so với các vùng khác trong cả nước, Tây Nguyên đang là một “điểm nóng”,
nổi trội về sự mất ổn định, nguy cơ đe doạ đến an ninh -quốc phòng của đất nước. Vấn đề dân
tộc và vấn đề tôn giáo cùng với các vấn đề khác (như khó khăn về kinh tế - xã hội, sự yếu kém
trong quản lý của HTCT cơ sở…) đang được các thế lực phản động, thù địch triệt để khai thác,
lợi dụng hòng phá hoại sự nghiệp cách mạng, phá hoại công cuộc lao động hoà bình, xây dựng
CNXH của chính quyền và nhân dân các dân tộc Tây Nguyên. Các cuộc tụ tập gây rối, lôi kéo
quần chúng biểu tình, gây bạo loạn chính trị xảy ra trên địa bàn này tháng 2/2001 và tháng
4/2004 đã chứng minh rõ dã tâm của kẻ thù đang điên cuồng theo đuổi những mưu đồ chính trị
đen tối của chúng. Điều đó cũng càng giúp chúng ta nhận thức rõ hơn vị trí, vai trò của vấn đề
dân tộc, vấn đề tôn giáo cũng như giá trị của những chủ trương, chính sách đúng đắn của Đảng
và Nhà nước ta về vấn đề này trong mối quan hệ với sự ổn định và phát triển của đất nước hiện
nay. Đồng thời với việc thực hiện tốt chính sách dân tộc và chính sách tôn giáo, Đảng ta cũng chỉ
rõ: “Nghiêm cấm lợi dụng các vấn đề dân tộc, tín ngưỡng, tôn giáo để hoạt động trái pháp luật và



chính sách của Nhà nước, kích động chia rẽ nhân dân, chia rẽ các dân tộc, gây rối, xâm phạm
an ninh quốc gia”[17, tr. 128]. Từ đó đòi hỏi chúng ta trong quá trình xây dựng HTCT cơ sở trên
địa bàn Tây Nguyên vừa phải luôn đề cao cảnh giác, nắm chắc tình hình, kịp thời đấu tranh ngăn
chặn kẻ địch lợi dụng vấn đề dân tộc và tôn giáo để phá hoại cách mạng; mặt khác phải quan
tâm giải quyết thoả đáng, dứt điểm những nhu cầu cũng như những khúc mắc nảy sinh trong nội
bộ nhân dân - đặc biệt là các vấn đề liên quan đến dân tộc, tôn giáo, tín ngưỡng, phong tục tập
quán… của đồng bào, giữ cho “trong ấm ngoài êm”. Chỉ có như vậy chúng ta mới giữ vững niềm
tin và tranh thủ được sự ủng hộ của quần chúng nhân dân góp phần xây dựng HTCT cơ sở ngày
càng vững mạnh. Trước mắt cần chú ý và tập trung giải quyết mấy điểm sau:
Những năm gần đây đạo Tin lành ở Tây Nguyên phát triển nhanh đến mức không bình
thường, nhanh nhất là trong đồng bào các dân tộc thiểu số bản địa. Biểu hiện: Năm 1975 chỉ có
khoảng 70.000 tín đồ, năm 2003 đã lên tới 296.478 tín đồ với 12 hệ phái, tăng bình quân 4 lần,
riêng tỉnh Đắc Lắc tăng 11,6 lần, tỉnh Gia Lai tăng 9,4 lần [2, tr. 1]. Cùng với sự gia tăng đó là sự
gia tăng các hoạt động sai trái, không phù hợp với đường hướng hành đạo chân chính. Đặc biệt
có sự tham gia của bọn phản động FULRO lưu vong liên hệ với bọn phản động trong nội địa Tây
Nguyên lập nên tổ chức phản động “Tin lành Đê - Ga” làm cơ sở chính trị cho cái gọi là “Nhà
nước Đê - Ga độc lập”, mưu toan kích động, gây rối, làm mất trật tự xã hội, dần dần tách Tây
Nguyên thành một “quốc gia độc lập” thân Mỹ.
Sau những vụ biểu tình, gây rối ở Tây Nguyên, đoàn kết dân tộc (chủ yếu giữa người Kinh và
người Thượng) là “có vấn đề”. Đã xuất hiện những sự rạn nứt, những tâm lý e ngại, “canh chừng” lẫn
nhau, những sơ xuất dù nhỏ trong quan hệ hai bên cũng có thể dẫn tới sự xô sát, kích động kỳ thị dân tộc,
nếu không giải quyết kịp thời thì có thể bị đẩy lên cao hơn nữa là xuất hiện “yếu tố chính trị”. Ngay trong
đồng bào dân tộc thiểu số còn xuất hiện tư tưởng so bì ở một số khía cạnh xã hội; ỷ lại, dựa dẫm vào
chính
yêu sách.

sách


Nhà

nước,

đôi

khi



cả

những


Đây là những vấn đề lớn, nhạy cảm và mang tính cấp bách, đòi hỏi phải có sự chỉ đạo
chiến lược. Xây dựng HTCT cơ sở ở Tây Nguyên cũng là một quá trình giải quyết từng bước
những vấn đề trên.
Ba là, xây dựng HTCT cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên phải phát huy sức mạnh tổng hợp
của mọi cấp, mọi ngành và toàn dân. Trong đó lực lượng vũ trang nói chung, Quân đội nhân dân
Việt Nam nói riêng – mà trực tiếp là các đơn vị đóng quân trên địa bàn - có vai trò quan trọng nổi
bật, nhất là trong tình hình hiện nay
Chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng vấn đề chính quyền nhà nước là vấn đề cơ bản của mọi
cuộc cách mạng xã hội. VI.I. Lênin nhấn mạnh: “Vấn đề chính quyền nhà nước nhất định là vấn
đề chủ yếu nhất của mọi cuộc cách mạng chính đó là vấn đề cơ bản, vấn đề quyết định tất cả
mọi cái trong sự phát triển của cách mạng” [27, tr. 268]. Luận điểm này đã nêu rõ vị trí và vai trò
của “vấn đề chính quyền nhà nước” đối với các cuộc cách mạng xã hội nói chung, trong đó có
cách mạng XHCN. Mở rộng và vận dụng luận điểm này ngày nay chúng ta có thể khẳng định:
xây dựng HTCT là một nội dung cơ bản, chủ yếu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc
Việt Nam, của sự nghiệp cách mạng XHCN của Đảng ta, nhân dân ta. Đó là một công việc lớn,

có tầm quan trọng chiến lược, có ý nghĩa quyết định đối với thành công của công cuộc đổi mới
đất nước theo định hướng XHCN, trong đó xây dựng HTCT cơ sở ở Tây Nguyên hiện nay đang
là một hướng trọng điểm, ưu tiên, đòi hỏi sự tham gia của mọi cấp, mọi ngành và toàn dân theo
hướng phát huy sức mạnh tổng hợp của toàn xã hội. Các cấp, các ngành, mọi người dân, mọi tổ
chức xã hội với những vị trí, vai trò khác nhau, bằng nghĩa vụ, trách nhiệm và tình cảm của mình,
tích cực góp phần vào xây dựng HTCT cơ sở ở Tây Nguyên vững mạnh. Đảng Cộng sản Việt
Nam vừa là một tổ chức cơ bản của HTCT được chăm lo củng cố, xây dựng, vừa là cơ quan
lãnh đạo, điều khiển toàn bộ quá trình xây dựng ấy.
Trong xây dựng HTCT cơ sở ở Tây Nguyên một mặt phải tuân thủ những nguyên tắc tổ
chức và phương hướng hoạt động chung, đảm bảo sự thống nhất về bản chất của HTCT XHCN,
mặt khác phải sáng tạo trong xây dựng mô hình tổ chức và xác định nội dung hoạt động cho phù
hợp với từng địa phương cơ sở, sao cho HTCT cơ sở được xây dựng đi vào hoạt động đem lại


hiệu quả cao nhất. Đó chính là sự kết hợp giữa tính thống nhất (đồng nhất) và tính đa dạng (khác
biệt) trong xây dựng HTCT cơ sở ở địa bàn miền núi Tây Nguyên, thấm nhuần sâu sắc lời dạy
của Bác Hồ: “Miền núi đất rộng người thưa, tình hình vùng này không giống tình hình vùng khác.
Vì vậy áp dụng chủ trương và chính sách phải thật sát với tình hình thực tế của mỗi nơi. Tuyệt
đối chớ rập khuôn, chớ máy móc, chớ nóng vội” [30, tr. 611]. Để đáp ứng yêu cầu nói trên, cần
có sự đầu tư tìm hiểu, nghiên cứu, khảo sát kỹ lưỡng về mọi mặt (địa lý, kinh tế, văn hoá, phong
tục tập quán, dân trí...), đánh giá đúng đặc điểm và thực lực từng địa phương, từng cộng đồng
dân cư; đồng thời cần có những lực lượng thường xuyên bám nắm địa bàn, đi sâu đi sát cơ sở,
trực tiếp tiếp xúc với các tầng lớp nhân dân, hiểu rõ tình hình địa phương, vừa đấu tranh chống
các hoạt động phá hoại của bọn phản động, vừa hướng dẫn, vận động nhân dân, cùng nhân dân
tham gia xây dựng HTCT cơ sở và là lực lượng nòng cốt, đi đầu trong quá trình xây dựng ấy.
Lực lượng đó chính là lực lượng vũ trang nhân dân (với các thành phần tiêu biểu như công an,
quân đội ...). Trong đó Quân đội nhân dân Việt Nam với bản chất của quân đội cách mạng, với
truyền thống vẻ vang “Bộ đội Cụ Hồ”, được tổ chức chặt chẽ, hoạt động tập trung, hành động
thống nhất; có bản lĩnh vững vàng; được rèn luyện, thử thách trong môi trường ác liệt, gian khổ
nhất; có lòng kiên trì chịu đựng, vượt mọi khó khăn; có trí tuệ năng động và sáng tạo; lòng trung

thành vô hạn với Đảng, Tổ quốc, nhân dân... đã và đang chứng tỏ là lực lượng có đủ điều kiện
và khả năng, xung kích đi đầu trong xây dựng HTCT cơ sở ở địa bàn Tây Nguyên hiện nay. Tóm
lại có thể nói, những đặc điểm riêng về tổ chức và hoạt động đã tạo nên lợi thế của quân đội ta
trong nhiệm vụ này. Những lực lượng, những đơn vị quân đội đóng quân trên địa bàn Tây
Nguyên hiện nay là những đại diện của quân đội ta trực tiếp tham gia xây dựng HTCT cơ sở. Cụ
thể có thể kể đến là các Quân khu 5, 7, Quân đoàn 3, Binh đoàn 15, 16; các đơn vị Bộ đội Biên
phòng; v.v.. Tuỳ thuộc vào chức năng, yêu cầu, nhiệm vụ mà mỗi đơn vị có thế mạnh và đặc
điểm hoạt động riêng. “Lực lượng vũ trang thuộc các quân khu là lực lượng gần dân nhất, đáp
ứng nhanh nhất yêu cầu tại chỗ, kịp thời làm tham mưu cho cấp uỷ, chính quyền địa phương, là
trung tâm phối hợp với các đơn vị đứng chân trên địa bàn, ngày đêm lăn lộn xây dựng cơ sở địa
phương. Các quân đoàn thể hiện rõ là lực lượng có sức mạnh tập trung để hoàn thành những


công việc lớn, đòi hỏi quân số đông, phương tiện nhiều. Bộ đội làm kinh tế đã biết phát huy thế
mạnh trong kết hợp chặt chẽ kinh tế với quốc phòng để giúp dân định canh định cư, ổn định cuộc
sống, xoá đói giảm nghèo ở quy mô lớn. Bộ đội Biên phòng đã bám sát biên giới, đưa chủ trương,
chính sách của Đảng, của quân đội đến với đồng bào dân tộc, đến những nơi khó khăn nhất, cùng
nhân dân phát huy sức mạnh tại chỗ, bảo vệ vững chắc chủ quyền lãnh thổ”[35, tr. 294 - 295].
Trong chủ trương huy động sức mạnh tổng hợp cho xây dựng HTCT cơ sở ở Tây
Nguyên, mọi cấp, mọi ngành đã tích cực hưởng ứng và phát huy tinh thần trách nhiệm theo
phạm vi chức năng, nhiệm vụ. Nhiều tổ, đội công tác do các ban ngành cấp trên, do công an,
quân đội lập ra và cử xuống hoạt động ở cơ sở; nhiều cán bộ được luân phiên cử về tiếp xúc với
quần chúng nhân dân, xây dựng tổ chức. Quân đội ta là một trong những lực lượng bám cơ sở
bền bỉ nhất, có nhiều đóng góp thiết thực và hiệu quả nhất trong xây dựng HTCT cơ sở, có uy tín
với nhân dân... do đó mà có vai trò rất quan trọng trong xây dựng HTCT cơ sở ở Tây Nguyên
hiện nay.
Rồi đây, dưới tác động của sự phát triển khoa học công nghệ, các hình thức tập hợp,
vận động quần chúng nhân dân sẽ có sự thay đổi, phát triển nhờ sự hỗ trợ đắc lực của các
phương tiện, công cụ truyền thông hiện đại - trước hết là ở vùng đô thị và đồng bằng, nhưng uy
tín và tình cảm của quân đội ta đối với quần chúng nhân dân thì không gì có thể thay thế được.

Vì thế, ở bất cứ vùng miền nào trên cả nước, vai trò đội quân công tác của Quân đội nhân dân
Việt Nam cũng sẽ được khẳng định - đặc biệt là đối với miền núi như Tây Nguyên và với quá
trình xây dựng HTCT cơ sở ở Tây Nguyên.
Bốn là, xây dựng HTCT cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên cần đặt trọng tâm vào phát triển đội
ngũ

cán

bộ

dân

tộc

thiểu

số,

cả

về

số

lượng



chất lượng
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy: “Cán bộ là cái gốc của mọi công việc”[32, tr. 269], “Muôn

việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc kém” [32, tr. 240].


Xây dựng HTCT cơ sở ở Tây Nguyên là quá trình tiến hành xây dựng đồng thời các nội dung,
trong đó xây dựng đội ngũ cán bộ là khâu cơ bản - then chốt, là nhân tố quyết định chất lượng và hiệu
quả hoạt động của HTCT cơ sở.
Tây Nguyên có 1,47 triệu người thuộc các dân tộc thiểu số (chiếm 32,36% dân số toàn
vùng). Hiện nay, hầu hết các xã trên địa bàn Tây Nguyên đều có dân tộc thiểu số sinh sống; có
buôn, làng “thuần” dân tộc thiểu số. Vì vậy, vấn đề xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ người
dân tộc thiểu số để họ có thể tự đảm đương lấy việc quản lý cộng đồng, địa phương mình, đang
đặt ra như một tất yếu. Một mặt đáp ứng nhu cầu phát triển tự thân từng dân tộc, mặt khác tạo điều
kiện cho các dân tộc đều được góp phần mình vào sự phát triển chung của quốc gia - dân tộc Việt
Nam. Hơn nữa, thực trạng đội ngũ cán bộ của HTCT cơ sở ở Tây Nguyên còn nhiều nhược điểm.
Kết quả điều tra xã hội học cho thấy đánh giá về năng lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ
lãnh đạo chủ chốt cấp xã ở mức trung bình và yếu là 61,4%, một chỉ số cao nhất trong 3 cấp HTCT
ở địa phương [22, tr. 59]. Một hướng điều tra khác cũng cho kết quả tương tự: Nguyên nhân hàng
đầu của tình trạng yếu kém trong hoạt động của HTCT cơ sở ở Tây Nguyên không phải là do vấn
đề tổ chức bộ máy, cũng không do cơ chế vận hành, mà do trình độ, năng lực chuyên môn, năng
lực lãnh đạo, quản lý của đội ngũ cán bộ cơ sở còn yếu [21, tr. 240]. Tỷ lệ cán bộ dân tộc thiểu số
còn chưa cân đối với cơ cấu thành phần dân tộc (xét toàn vùng cũng như ở từng địa phương cơ
sở), cán bộ người Kinh phần lớn không biết tiếng dân tộc thiểu số, còn cán bộ người dân tộc thiểu
số do trình độ còn hạn chế nên chủ yếu giữ cương vị cấp phó. Tại kỳ họp thứ 5, Quốc hội khoá IX
vừa qua, khi thảo luận về dự thảo “Luật ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng
nhân dân và Uỷ ban nhân dân”, đại biểu Quốc hội (người dân tộc thiểu số) của tỉnh Kon Tum – Y
Vêng đề nghị: “Không cần quy định văn bản có thể được dịch ra tiếng các dân tộc thiểu số... Bởi vì,
sự hiểu biết tiếng dân tộc thiểu số của cán bộ tư pháp ở cơ sở hiện nay còn quá yếu, không đáp
ứng được yêu cầu . Nếu không cẩn thận sẽ gây chia rẽ giữa các dân tộc anh em với nhau” [36, tr.
2].
Để khắc phục tình trạng yếu kém nói trên và phát triển đội ngũ cán bộ dân tộc thiểu số
trong HTCT cơ sở ở Tây Nguyên đòi hỏi chúng ta phải xác định được kế hoạch (cao hơn là chiến



lược) về xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở, bao gồm từ khâu phát hiện, tạo nguồn đến đào tạo và
sử dụng; gắn với nó là các chính sách ưu tiên, khuyến khích học tập, rèn luyện đối với con em
các dân tộc thiểu số; đồng thời đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao mặt bằng dân trí...
trong tạo nguồn và bồi dưỡng cán bộ cần chú ý những quân nhân đã hoàn thành nghĩa vụ quân
sự trở về địa phương, cần chú trọng phối hợp giữa địa phương với các đơn vị đóng quân trên địa
bàn để đào tạo đội ngũ cán bộ cơ sở. Đây chính là một trong những nguồn cơ bản và tin cậy bổ
sung vào đội ngũ cán bộ ở cơ sở hiện nay.
Làm được như vậy, Tây Nguyên sẽ dần có được một đội ngũ cán bộ cơ sở vững mạnh,
tạo điều kiện cơ bản để thu hẹp khoảng cách chênh lệch giữa người Kinh và người dân tộc thiểu
số, tiến tới bình đẳng cộng đồng, khắc phục được tâm lý tự ti, mặc cảm, tạo điều kiện cho mọi
dân tộc đều được đóng góp vào sự nghiệp chung, thực hiện đại đoàn kết dân tộc để xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam XHCN.
Năm là, xây dựng HTCT cơ sở trên địa bàn Tây Nguyên bên cạnh khâu then chốt là xây dựng
tổ chức đảng, chính quyền cơ sở, cần chú ý xây dựng đều khắp và phát huy hiệu quả hoạt động của
các tổ chức chính trị - xã hội và các tổ chức quần chúng - nhất là tại các “điểm nóng”, các địa bàn xung
yếu
Bộ máy HTCT cơ sở là một chỉnh thể liên hoàn các tổ chức mà giữa các tổ chức ấy có
mối liên hệ nhân quả lẫn nhau. Nếu một khâu nào, bộ phận nào yếu kém thì tất yếu ảnh hưởng
đến các khâu khác, bộ phận khác dẫn đến cả bộ máy vận hành kém chất lượng, hiệu quả thấp
và ngược lại. Nhưng mỗi tổ chức trong bộ máy lại có chức năng, nhiệm vụ, thẩm quyền riêng, do
đó chúng có vị trí, vai trò không ngang bằng nhau. Điều đó chỉ dẫn chúng ta trong xây dựng
HTCT cơ sở vừa phải đạt được yêu cầu chung vừa phải tính đến chức năng, nhiệm vụ, nét đặc
thù của từng tổ chức, đồng thời xác định được những “điểm nhấn” phù hợp với đặc điểm từng
địa phương, từng giai đoạn phát triển của xã hội để có sự tập trung xây dựng thích đáng.
Tổ chức đảng và chính quyền ở cơ sở là hai tổ chức quan trọng nhất, giữ vị trí then chốt,
là “linh hồn”, là “cơ quan đầu não” của HTCT cơ sở ở nước ta. Trong điều kiện Đảng Cộng sản
Việt Nam là đảng cầm quyền, thực hiện độc tôn quyền lãnh đạo xã hội thì tổ chức đảng (cấp cơ



×