Tải bản đầy đủ (.doc) (63 trang)

ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM vận DỤNG QUAN điểm về NHÀ nước của CHỦ NGHĨA mác lê NIN, tư TƯỞNG hồ CHÍ MINH vào xây DỰNG NHÀ nước PHÁP QUYỀN xã hội CHỦ NGHĨA ở nước TA HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (277.78 KB, 63 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của luận văn
Xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa là một
vấn đề quan trọng, cấp bách và mang tính thời sự. Tuy nhiên, đây là vấn đề
mới và khó khăn đối với Đảng ta. Quá trình xây dựng nhà nước kiểu mới,
Đảng vừa xây dựng, vừa nghiên cứu tổng kết kinh nghiệm và đã vận dụng một
cách linh hoạt quan điểm nhà nước của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh. Sự vận dụng của Đảng mang tính toàn diện, sáng tạo ngay từ những
ngày đầu giành được chính quyền xây dựng nhà nước kiểu mới và trong suốt
các thời kỳ cách mạng.
Kể từ sau ngày cách mạng tháng Tám thành công, chính quyền về tay
nhân dân đến nay, Đảng ta đã có kinh nghiệm hơn nửa thế kỷ xây dựng và lãnh
đạo nhà nước. Từ cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân chuyển sang cách mạng
xã hội chủ nghĩa, tuy nội dung và nhiệm vụ nhà nước có sự khác nhau, song về
bản chất vẫn là nhà nước của dân, do dân, vì dân. Nhà nước được xây dựng
trên những nguyên tắc của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh,
mang bản chất giai cấp công nhân, tính nhân dân và tính dân tộc sâu sắc.
Nhưng, từ chiến tranh chống ngoại sâm chuyển sang hòa bình xây dựng kinh
tế; từ cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp chuyển sang cơ chế thị trường
theo định hướng xã hội chủ nghĩa; trước xu thế toàn cầu hóa, khu vực hóa diễn
ra mạnh mẽ trong điều kiện mở cửa nền kinh tế... Sự nghiệp cách mạng của
nhân dân ta đang đứng trước những cơ hội và thách thức chưa từng có. Trong
tình hình đó, nếu không có một Nhà nước thực sự trong sạch, vững mạnh, hoạt
động có hiệu quả, hiệu lực, tranh thủ nắm lấy vận hội, đưa đất nước vượt qua
nguy cơ, thách thức thì chủ nghĩa xã hội sẽ không có mà độc lập dân tộc cũng
khó bảo vệ được. Điều đó đặt ra yêu cầu rất lớn trong giai đoạn hiện nay cần
phải xây dựng, hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa và nâng cao
hiệu quả vận dụng.
Kế thừa và phát triển những tư tưởng tiến bộ, khoa học về nhà nước của
các nhà tư tưởng trong lịch sử và của các nhà tư tưởng thời kỳ đương đại, các
nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin cho rằng: Nhân dân phải đập tan nhà


nước của giai cấp bóc lột giành lấy chính quyền, xây dựng nhà nước của mình;
1


nhà nước vô sản phải đảm bảo chủ quyền của nhân dân, tất cả quyền lực nhà
nước thuộc về nhân dân, các cơ quan nhà nước thực hiện quyền lực của mình
chỉ là đại biểu cho chủ quyền của nhân dân.
Nhà nước ta là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa mang bản chất
giai cấp công nhân, đó là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Nhà
nước đảm bảo mọi quyền lực thực sự thuộc về nhân dân. Nhà nước được tổ
chức theo nguyên tắc tập trung thống nhất quyền lực nhưng có sự phân công
phối hợp chặt chẽ giữa các cơ quan nhà nước trong việc thực hiện các quyền
lập pháp, hành pháp và tư pháp. Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng giải
phóng dân tộc cũng như trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội. Đảng ta
luôn quân tâm lãnh đạo việc củng cố, từng bước hoàn thiện bộ máy nhà nước
và tăng cường pháp chế chủ nghĩa xã hội.
Thực tiễn lãnh đạo đất nước Đảng ta nhận thấy rằng: Chỉ khi có một nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân mới có thể phát huy
quyền làm chủ của nhân dân, bảo đảm quyền sống, quyền được làm việc, lao
động, được học hành… Và chỉ có như vậy mới đảm bảo thắng lợi sự nghiệp
xây dựng chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và nhân dân ta đã lựa chọn. Tổng
kết kinh nghiệm hơn 30 năm đổi mới. Đảng ta xác định: Việc xây dựng nhà
nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân là vấn đề có tính quy luật và đồng
thời là yêu cầu khách quan, cấp bách trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội
ở nước ta.
Do vây, vận dụng quan điểm nhà nước của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay có ý nghĩa to lớn góp phần xây dựng nhà nước của dân, do
dân, vì dân đáp ứng yêu cầu đòi hỏi ngày càng cao của sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc.


2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Vấn đề vận dụng quan điểm về nhà nước của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở
nước ta hiện nay là một nội dung được nhiều nhà nghiên cứu trong và ngoài
quân đội quan tâm. Nhiều công trình khoa học đã góp phần làm sáng tỏ những
quan điểm cơ bản của các nhà kinh điển chủ nghĩa Mác - Lênin, tưởng Hồ Chí
2


Minh về xây dựng nhà nước kiểu mới. Đáng chú ý có các công trình sau: Luận
văn cao học “Đảng cộng sản Việt Nam lãnh đạo xây dựng nhà nước xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân từ 1986 – 1999”, khoa học lịch sử, của Nguyễn
Trung Kim, HVCT; Luận văn thạc sĩ “Vai trò của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong
việc xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam thời kỳ 1945 - 1946” chuyên
ngành lịch sử Đảng cộng Việt Nam, của Nguyễn Như Khải, HVCT; Đề tài
khoa học cấp nhà nước KX 04 “Cơ sở lý luận và thực tiễn về nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân”, Nguyễn Duy Quý, Hà Nội
2004; Kỷ yếu hội thảo “Các nội dung cơ bản tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà
nước kiểu mới, nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân”, của Viện nghiên
cứu khoa học Pháp lý, Bộ Tư pháp, 1995; Chuyên đề nghiên cứu “Năng lực,
hiệu lực, hiệu quả quản lý hành chính nhà nước, thực trạng, nguyên nhân, giải
pháp”, Thông tin khoa học, Bộ Tư pháp, tháng 12, 2000; Bài viết “Về nhu cầu,
mức độ sửa đổi Hiến pháp 1992 và quan điểm xây dựng nhà nước pháp
quyền”, của Đào Trí Úc, tạp chí cộng sản số 21 năm 2001; Bài viết “Về đổi
mới và nâng cao chất lượng đội ngũ thẩm phán tòa án nhân dân địa phương
hiện nay”, của Trần Thu Yến, tạp trí nhà nước và pháp luật, số 9 năm 1999…
Trên cơ sở tiếp thu, kế thừa có chọn lọc những công trình nghiên cứu
trước tác giả chọn đề tài: “Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng quan điểm về
nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng

nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay” để nghiên cứu.
Đề tài này có ý nghĩa về mặt lý luận và thực tiễn, không có sự trùng lặp với các
công trình nghiên cứu trước.

3. Mục đích nghiên cứu và nhiệm vụ của luận văn
Mục đích
Làm rõ thực chất quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước và vận dụng quan điển đó của Đảng ta trong quá
trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, đề suất một số yêu cầu
và giải pháp góp phần nâng cao hiệu quả vận dụng vào xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Nhiệm vụ
3


- Phân tích làm rõ thực chất quan điểm về nhà nước của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và sự vận dụng của Đảng ta trong xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
- Nghiên cứu thành tựu và những mặt tồn tại của sự vận dụng trên và từ
đó đưa ra một số vấn đề để góp phần nâng cao hiệu quả quá trình xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.

4. Cơ sở và phương pháp nghiên cứu của luận văn
-Cơ sở
+ Cơ sở lý luận
Luận văn được nghiên cứu trên cơ sở lý luận về nhà nước của chủ
nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và đường lối, quan điểm của Đảng
ta qua các thời kỳ.
+ Cơ sở thực tiễn
Thực tiễn quá trình vận dụng quan điểm nhà nước của chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội

chủ nghĩa ở nước ta từ khi thành lập đến nay.
- Phương pháp nghiên cứu
Sử dụng tổng hợp phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng
và chủ nghĩa duy vật lịch sử đồng thời sử dụng các phương pháp nhận thức
khoa học như: Phân tích, tổng hợp, lịch sử …

5. Ý nghĩa của luận văn
- Làm rõ thực chất quan điểm lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư
tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và sự vận dụng quan điểm đó của Đảng ta
trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa, từ đó đề suất
một số vấn đề góp phần nâng cao hiệu quả vận dụng vào xây dựng nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
- Luận văn có thể làm tài tài liệu nghiên cứu và học tập tại các nhà
trường.

6. Kết cấu của luận văn
4


Luận văn bao gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, tài liệu tham
khảo.

5


NỘI DUNG
Chương 1: Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng
Hồ Chí Minh về nhà nước và sự vận dụng của Đảng ta vào xây
dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh

về nhà nước
1.1.1 Quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước
a. Quan điểm của Mác – Ănghen
Do ở thời Mác - Ănghen chưa có một cuộc cách mạng vô sản nào thành
công duy chỉ có Công xã Pari tồn tại trong 70 ngày với một kiểu nhà nước vô
sản, nên ngay sau khi Công xã Pari thất bại C.Mác rất coi trọng tổng kết kinh
nghiệm Công xã rút ra những vấn đề cần thiết để bổ sung, hoàn thiện học
thuyết của mình về nhà nước cách mạng. Do đó, trong di sản của Mác Ănghen các quan điểm về nhà nước so với các lĩnh vực khác không nhiều
nhưng hết sức cô đọng, khái quát đã trở thành những quan niệm có tính chất
kinh điển trong nghiên cứu về nhà nước cũng như trong xây dựng nhà nước
kiểu mới. Quan điểm của Mác – Ănghen về nhà nước tập trung trên một số nội
dung sau:
Quan niệm về sự ra đời nhà nước kiểu mới. Kế thừa những quan điểm
tiến bộ, khoa học về nhà nước của các nhà tư tưởng tiến bộ trong lịch sử cũng
như thời kỳ đương đại của cách mạng tư sản, vận dụng và mở rộng quan điểm
duy vật biện chứng vào nghiên cứu trong lĩnh vực xã hội, Mác - Ănghen chỉ rõ:
Sự ra đời nhà nước vô sản phải trên cơ sở đập tan nhà nước tư sản, sự cần thiết
một cách tất yếu tổ chức chính trị của giai cấp công nhân để lãnh đạo cách
mạng vô sản. C. Mác viết: “Cái mà công nhân cần phải đập tan không phải là
hình thức ít nhiều không hoàn chỉnh của quyền lực chính phủ của một xã hội
cũ mà chính bản thân quyền lực đó, dưới hình thức cuối cùng và hoàn bị của nó
là đế chế. Công xã là cái đối lập trực tiếp với đế chế” (20, tr34). Chỉ trên cơ sở
đập tan nhà nước bóc lột cũ mới mở đường cho sự ra đời của nhà nước mới.

6


Quan niệm về bản chất nhà nước. Theo C.Mác nhà nước là tổ chức đặc
biệt của quyền lực chính trị có bộ máy chuyên làm nhiệm vụ cưỡng chế và thực
hiện chức năng quản lý xã hội nhằm thể hiện và bảo vệ hết quyền lợi của giai

cấp thống trị trong xã hội. Phân tích vấn đề này, C.Mác cho rằng ngay cả cơ
quan nhà nước có chủ quyền, thực hiện quyền lực của mình cũng chỉ là đại
biểu cho chủ quyền của nhân dân, thực hiện quyền lực của nhân dân. Phê phán
quan điểm của Hêghen, C.Mác chỉ rõ: “Nếu nhà vua có chủ quyền, vì đại biểu
cho sự thống nhất của nhân dân thì bản thân nhà vua chỉ là người đại biểu cho
chủ quyền của nhân dân không phải là cái phát sinh từ chủ quyền của nhà vua,
mà ngược lại, chủ quyền nhà vua dựa trên chủ quyền của nhân dân” (21,
tr347). Trong Tuyên ngôn đảng cộng sản, Mác - Ănghen chủ trương xây dựng
một chế độ dân chủ triệt để, trong đó tự do mỗi người là điều kiện cho sự phát
triển tự do của tất cả mọi người, nhà nước kiểu mới phải giải phóng con người,
phải đảm bảo sự phát triển tự do tối đa và sự phát triển toàn diện con người.
Muốn vậy phải biến: Nhà nước từ cơ quan đứng trên xã hội thành cơ quan hoàn
toàn phục tùng xã hội. Dân chủ trong nhà nước kiểu mới là dân chủ do nhân
dân tự quyết định, là bước chuyển từ xã hội thần dân sang xã hội công dân.
Theo Mác – Ănghen thì điều thể hiện tính ưu việt của nhà nước mới thể
hiện ở chỗ mang lại lợi ích cho toàn thể nhân dân, nhà nước đó đại diện cho lợi
ích của cả dân tộc. C.Mác viết trong tác phẩm “Nội chiến ở Pháp”: “Công xã
không chỉ đại diện cho lợi ích của giai cấp công nhân, mà còn đại diện cho lợi
ích của giai cấp tiểu tư sản, thực ra là lợi ích của toàn bộ giai cấp trung đẳng,
chỉ trừ giai cấp tư sản. Trước hết nó đại diện cho lợi ích cho nông dân Pháp”
(20, tr75).
Mác - Ănghen cũng chỉ rõ một sự khác nhau về chất giữa nhà nước trước
đó với nhà nước kiểu mới, nhà nước vô sản là nghĩa vụ bảo vệ nhà nước không
chỉ thuộc một giai cấp nào mà của toàn xã hội của mọi người dân trong quốc
gia đó. C.Mác viết: “Trong xã hội cộng sản chủ nghĩa, sẽ chẳng có ai nghĩ đến
quân đội thường trực cả. Để làm gì? Để giữ gìn an ninh trong nước ư? Nhưng
chúng ta thấy rằng chẳng có ai nghĩ đến việc phá hoại nền an ninh trong nước
cả … Để tiến hành chiến tranh tự vệ ư? Để làm việc này nó không cần đến
quân đội thường trực vì nó dễ dàng huấn luyện cho mỗi thành viên xã hội có
7



khả năng chiến đấu và ngoài ngành nghề của mình ra biết sử dụng vũ khí để
bảo vệ tổ quốc chứ không phải để duyệt binh thôi” (22, tr724-725).
Quan niệm về phương pháp cách mạng. Trong tác phẩm “Nội chiến ở
Pháp” C.Mác đã chỉ rõ bản chất và tính chất của chính quyền nhà nước trong
chế độ cũ. C.Mác viết: “Tính chất của chính quyền nhà nước đã ngày càng phát
triển như một công cụ của nền chuyên chế giai cấp, của một bộ máy chính trị
có nhiệm vụ dùng bạo lực để duy trì vĩnh viễn sự nô dịch xã hội của những kẻ
chiếm hữu đối với những người sản xuất ra của cải” (20, tr31).
Sau khi giai cấp vô sản giành chính quyền thì phải tiếp tục sử dụng bạo
lực cách mạng để đập tan mọi sự phản kháng của giai cấp tư sản, mà việc đầu
tiên cần làm là cải tạo bộ máy cũ. C.Mác viết: “Điều kiện tiên quyết để giữ
vững chính quyền là phải cải tạo bộ máy công tác cổ truyền của nhà nước và
đập tan nó, với tính cách là công cụ thống trị giai cấp” (20, tr32).
Quan niệm về giai cấp lãnh đạo. Thực tiễn nghiên cứu Công xã Pari
C.Mác cho rằng giai cấp công nhân mới đủ khả năng lãnh đạo cách mạng.
C.Mác viết: “Chỉ có những người vô sản nhiệt tình hừng hực vì nhiệm vụ xã
hội mới mà họ có nhiệm vụ thực hiện cho toàn thể xã hội, tức là thủ tiêu tất cả
giai cấp và sự thống trị giai cấp mới là những người có thể đập tan nhà nước”
(20, tr67).
Vấn đề đạo đức, năng lực phẩm chất của nhà nước, công chức trong
nhà nước. Vấn đề này cũng được Mác - Ănghen đề cập đến. C.Mác cho rằng:
“Hiển nhiên khi những cá nhân là những người mang những chức năng và
quyền lực nhà nước thì những cá nhân đó phải được xem xét căn cứ theo
những phẩm chất xã hội của họ, chứ không phải căn cứ theo phẩm chất tư nhân
của họ” (21, tr337).
Quan niệm về sự diệt vong của nhà nước. Thực tiễn nghiên cứu lý luận
và hoạt động cách mạng, Mác - Ănghen đã nêu lên tư tưởng về sự tiêu vong
nhà nước và giai cấp khi mà cơ sở cho sự tồn tại của nó không còn nữa, nhà

nước được tổ chức ra chỉ là tạm thời trong đấu tranh cách mạng và trong đấu
tranh giành chính quyền, để đàn ấp giai cấp bóc lột. Khi nhiệm vụ cách mạng
hoàn thành, đã giành được chính quyền về tay nhân dân thì nhà nước vẫn được
duy trì để đàn áp sự phản kháng của giai bóc lột đã thất bại nhưng chưa bị tiêu
8


vong hoàn toàn. C.Mác viết: “Với sự thiết lập chế độ xã hội chủ nghĩa, nhà
nước sẽ bị tiêu vong và biến đi vì nhà nước xét đến cùng chỉ là thiết chế tạm
thời mà người ta phải dùng đến trong đấu tranh, trong cách mạng để đàn áp kẻ
địch của mình bằng bạo lực, cho nên nói đến một nhà nước nhân dân tự do là
hoàn toàn vô nghĩa; chừng nào giai cấp vô sản còn cần đến nhà nước thì như
thế tuyệt nhiên không phải vì tự do, mà là để trấn áp kẻ địch của mình và ngày
nào có thể nói đến tự do thì nhà nước sẽ không còn tồn tại với tư cách là nhà
nước nữa” (23, tr15).
Ngoài ra, Mác - Ănghen cũng đề cập đến vấn đề phân chia quyền lực
nhà nước và vị trí, vai trò của các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp trong
bộ máy nhà nước. Trong tác phẩm của mình C.Mác tán thành quan điểm của
Hêghen: “Coi nhà nước chính trị là một cơ chế; và do đó coi sự phân chia
quyền lực không phải là một sự phân chia máy móc mà là một sự phân chia có
sức sống và hợp lý” (21, tr319).
Đó là những quan điểm cơ bản của Mác - Ănghen về nhà nước, tư tưởng
đó của các ông tuy ngắn ngọn nhưng hết sức cô đọng, xúc tích. Nhận thức và
vận dụng quan điểm trên có ý nghĩa rất lớn đối với các Đảng cộng sản trong
xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
b. Quan điểm của Lênin
Tư tưởng về nhà nước có một ví trí đặc biệt quan trọng trong hệ thống lý
luận của Lênin bởi nó không thuần túy là những lý thuyết khoa học mà nó gắn
bó chặt chẽ với những quan điểm chính trị, nó không đơn giản là những suy tư
tinh thần mà nó gắn liền với những thực tiễn hoạt động của ông. Chính vì vậy

tìm hiểu những tư tưởng của Lênin về nhà nước có ý nghĩa đặc biệt quan trọng
đối với chúng ta trong quá trình xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân hiện nay.
Những đóng góp của Lênin về lý luận nhà nước không chỉ làm sáng tỏ
những quan điểm căn bản của Mác - Ănghen về nhà nước, đem lại vũ khí lý
luận sắc bén cho cuộc đấu tranh của giai cấp công nhân giành chính quyền mà
còn đấu tranh chống mọi âm mưu xuyên tạc, bẻ cong mọi luận điệu giả dối của
các học giả tư sản xung quanh vấn đề nhà nước.
9


Vào đầu thế kỷ XX chủ nghĩa tư bản bước sang giai đoạn cuối cùng của
nó - chủ nghĩa Đế quốc, chiến tranh thế giới làm cho mâu thuẫn của chủ nghĩa
tư bản gay ngắt đến tột độ, thúc đẩy chín muồi cuộc khủng hoảng cách mạng
trong các nước đế quốc. Thực tế này đặt ra trước giai cấp vô sản và các Đảng
mácxít của nó phải lật đổ ách thống trị của giai cấp tư sản, giành chính quyền
về tay giai cấp công nhân. Thực tiễn đặt ra yêu cầu tổng kết một cách sáng tạo
kinh nghiệm cách mạng trên cơ sở đó phát triển hơn nữa lý luận mácxít về cách
mạng xã hội chủ nghĩa, trong đó cốt lõi nhất là học thuyết về nhà nước. Do
vậy, cần phải trình bày có hệ thống các quan điểm của những người sáng lập
chủ nghĩa cộng sản khoa học về nhà nước, các quan điểm này đã bị bóp méo,
xuyên tạc dưới nhiều hình thức của chủ nghĩa cơ hội quốc tế xét lại và phát
triển chúng cho phù hợp với hoàn cảnh lịch sử mới.
Lênin đã giải quyết một cách xuất sắc các nhiệm vụ quan trọng hàng đầu
này trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” đặt cơ sở của lý luận về nhà
nước xã hội chủ nghĩa, phần quan trọng nhất của học thuyết mácxít về nhà
nước, sau này lý luận này được Lênin phát triển trên kinh nghiệm chính quyền
Xô viết. Lênin đã phát triển quan niệm nhà nước của Mác – Ănghen thể hiện
trên một số nội dung sau:
Về sự cần thiết phải đập tan nhà nước bóc lột. Lênin khẳng định chỉ có

chủ nghĩa Mác mới làm rõ nguồn gốc, bản chất và các hình thức của nhà nước.
Trong tác phẩm “Nhà nước và cách mạng” Lênin tiếp tục khẳng định tư tưởng
của Mác – Ănghen về nhà nước kiểu mới. Người khẳng định sự cần thiết phải
đập tan nhà nước bóc lột để giành chính quyền về tay nhân dân, giai cấp vô sản
phải xây dựng chính đảng của mình để lãnh đạo cách mạng và tự trở thành giai
cấp thống trị.
Về bản chất nhà nước. Lênin chỉ ra rằng nhà nước cũng có bản chất giai
cấp là công cụ của giai cấp thống trị, phục vụ cho lợi ích của giai cấp thống trị:
“Nhà nước là một bộ máy dùng để duy trì sự thống trị của giai cấp này đối với
giai cấp khác” (13, tr84). Trong xã hội xã hội chủ nghĩa nhà nước là tổ chức
chính trị của nhân dân, thể hiện ý chí của nhân dân. Theo Lênin, với việc sở
hữu những tư liệu sản xuất chủ yếu, nhà nước xã hội chủ nghĩa không còn là
nhà nước nguyên nghĩa nữa, nó không chỉ có chức năng trấn áp sự phản kháng
của giai cấp bóc lột đã bị đánh đổ mà còn có vai trò quan trọng là tổ chức xây
10


dựng chế độ xã hội mới, trong đó quan trọng hơn là chức năng quản lý kinh tế.
Đến giai đoạn phát triển cao của chủ nghĩa xã hội khi không còn giai cấp nữa
thì cũng không cần nhà nước, nhà nước sẽ bị tiêu vong.
Về vấn đề dân chủ. Lênin cũng chỉ ra bản chất dân chủ thực của nhà
nước Xô viết Nga: “Các Xô viết là do chính bản thân những người lao động
thiết lập ra bằng nghị lực và sức sáng tạo của chính họ, đó là cái bảo đảm duy
nhất cho sự tận tụy vô biên của họ đối với quyền lợi của quần chúng khi cử đại
biểu của mình vào chính quyền Xô viết, mỗi người dân cũng đều có thể bãi
miễn họ và đó chính là tính chất nhân dân chân chính của các Xô viết” (12,
tr131). Người còn chỉ rõ: “Chính quyền Xô viết là một kiểu nhà nước mới,
không có bộ máy quan liêu … Một kiểu nhà nước trong đó nền dân chủ tư sản
được thay thế bằng một nền dân chủ mới – nền dân chủ đang đưa đội tiền
phong của giai cấp lao động lên hàng đầu, làm cho quần chúng trở thành những

người lập pháp và hành pháp, thành những đội vũ trang bảo vệ và thiết lập một
bộ máy có khả năng cải tạo quần chúng”(9, tr65 ). Lênin phản đối định kiến
cho rằng người nông dân do trình độ hạn chế không thể tham gia quản lý nhà
nước và xã hội. Tư tưởng này được thể hiện đậm nét ở Môngtexkiơ khi hạn chế
quyền của những người lao động tham gia quản lý nhà nước và xã hội. Lênin
cho rằng: “Chính quyền mới với tính cách là chuyên chính của tuyệt đại đa số,
đã có thể duy trì và đã được duy trì chỉ nhờ vào sự tín nhiệm của quần chúng
đông đảo, chỉ bằng lôi cuốn một cách tự do nhất và mạnh mẽ nhất toàn thể
quần chúng tham gia chính quyền. Đó là chính quyền công khai đối với mọi
người, làm việc trước mặt quần chúng, quần chúng dễ dàng gần gũi nó, nó trực
tiếp đại biểu cho quần chúng nhân dân và tổ chức sản xuất trên quy mô toàn
quốc”(10, tr378). Người còn chỉ ra khả năng tham gia quản lý nhà nước và xã
hội của những người lao động bình thường nếu họ học được và thực tiễn tham
gia quản lý: “Chính quyền Xô viết là một bộ máy, nhờ bộ máy này quần chúng
có thể bắt tay ngay vào việc học tập quản lý nhà nước và tổ chức sản xuất trên
quy mô toàn quốc” (9, tr67).
Như vậy, tư tưởng về chủ quyền nhà nước của Môngtéckiơ và Rútxô đã
được Lênin phát triển toàn diện và triệt để, nhân dân không chỉ tham gia góp ý
kiến trong các công việc của nhà nước mà còn là người trực tiếp thực hành
những công việc ấy.
11


Về vai trò lãnh đạo nhà nước. Lênin đặc biệt coi trọng vai trò lãnh đạo
của Đảng đối với mọi tổ chức và mọi hoạt động của nhà nước. Người khẳng
định tính tất yếu khách quan về sự lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước bởi vì:
“Chủ nghĩa Mác giáo dục Đảng công nhân, là giáo dục đội tiền phong của giai
cấp vô sản, đội tiền phong này đủ sức nắm chính quyền và dẫn dắt toàn dân
tiến lên chủ nghĩa xã hội” (11, tr33).
Về xây dựng đội ngũ cán bộ công chức của nhà nước. Lênin cho rằng

cán bộ, công chức phải có đủ năng lực và phẩm chất cách mạng. Người yêu
cầu những người lãnh đạo: “Gồm những người có uy tín nhất, có ảnh hưởng
nhất, kinh nghiệm nhất” (14, tr30) và “Trong lịch sử chưa hề có một giai cấp
nào giành được quyền thống trị, nếu nó không đào tạo ra được trong hàng ngũ
của mình những lãnh tụ chính trị, những đại biểu tiền phong có đủ năng lực tổ
chức và lãnh đạo phong trào” (8, tr473). Muốn thực hiện được điều đó thì cấn
phải xây dựng, quan tâm đến vấn đề đào tạo, bồi dưỡng cán bộ. Người chỉ rõ:
“Muốn đổi mới bộ máy nhà nước của chúng ta, phải cố hết sức tự đạt cho mình
nhiệm vụ sau đây: Một là học tập, hai là học tập, ba là học tập mãi và sau nữa
phải làm sao cho học thức của chúng ta không nằm trên giấy hoặc là một lời
nói theo mốt nữa” (15, tr444).
Lênin kịch liệt đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí trong
hoạt đông bộ máy nhà nước. Người viết: “Kẻ thù bên trong tệ hại nhất của
chúng ta, chính là anh chàng quan liêu” và cảnh báo “Những người cộng sản đã
trở thành anh quan liêu, nếu có cái gì sẽ làm tiêu vong chúng ta thì chính là cái
đó” (16, tr235).
Về tổ chức và hoạt động nhà nước. Lênin quan tâm đến nguyên tắc tập
trung dân chủ, nhất là mối quan hệ giữa tập thể lãnh đạo và cá nhân phụ trách.
Người cho rằng: “Lãnh đạo tập thể là điều cần thiết để giải quyết công việc của
nhà nước công nông, nhưng mọi sự thái quá về lãnh đạo tập thể, mọi sự lệch
lạc đưa đến tình trạng chậm chạp quan liêu thiếu tinh thần trách nhiệm, mọi sự
chuyển biến các cơ quan lãnh đạo tập thể thành chỗ bàn suông đều là những tai
hại rất lớn, cần phải chấm dứt bằng được, hết sức mau chóng, không được ngại
dù bất kỳ biện pháp nào” (13, tr486).

12


Lênin còn quan tâm đến việc củng cố mối liên hệ máu thịt giữa tổ chức
bộ máy của Đảng, nhà nước với quần chúng coi đây là điểm khác biệt căn bản

giữa chế độ tư bản chủ nghĩa với chế độ xã hội chủ nghĩa. Người yêu cầu tổ
chức, bộ máy của Đảng, nhà nước phải liên hệ với quần chúng, sống trong lòng
quần chúng, biết tâm trạng quần chúng, giành được lòng tin tuyệt đối của quần
chúng.
Trong hoạt động nhà nước Xô viết. Lênin đặc biệt quan tâm đến vấn đề
xây dựng pháp luật và pháp chế xã hội chủ nghĩa. Trong chế độ xã hội chủ
nghĩa thì pháp luật là ý chí của nhà nước và nhân dân lao động. Người cho rằng
khi cán bộ, Đảng viên vi phạm pháp luật phải xử lý hơn nhân dân.
Sự phát triển của Lênin đối với quan điểm của Mác – Ănghen về nhà
nước, điều quan trọng nhất chính là ở chỗ đặc tính phổ biến nhất của mọi nhà
nước chính là giai cấp. Như thế, biểu hiện về mặt lịch sử trong suốt quá trình
phát triển của xã hội loài người là mối quan hệ của hai mặt chuyên chính và
dân chủ, rõ ràng trên phương diện này, nhà nước là một cách thức tổ chức đời
sống xã hội, một giai đoạn trong tiến trình phát triển của xã hội, là một vòng
khâu của sự phát triển. Đây chính là quan niệm có tính chất duy vật và biện
chứng có tính nguyên tắc trong việc lý giải đời sống xã hội nói chung, vấn đề
nhà nước nói riêng và gắn liền với những cố gắng to lớn của loài người trong
sự phát triển chủ nghĩa Mác. Tư tưởng của Lênin về nhà nước hình thành trên
cơ sở vận dụng và phát triển sáng tạo học thuyết Mác về nhà nước vào điều
kiện, hoàn cảnh cụ thể của nước Nga Xô viết và tình hình thế giới những năm
đầu thế kỷ XX. Những tưởng ấy chứa đựng những giá trị có ý nghĩa về mặt lý
luận và thực tiễn quan trọng đối với công cuộc xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa nước ta hiện nay.
Như vậy, học thuyết về nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin đã chỉ ra
những quan điểm, nội dung cơ bản về lý luận nhà nước, xây dựng nhà nước
kiểu mới. Đó là hệ thống lý luận hết sức khoa học - cách mạng đã giải quyết
đúng đắn những vấn đề xung quanh lý luận nhà nước trên cơ sở chủ nghĩa duy
vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử. Đó là cơ sở cho các Đảng cộng
sản, các nhà nước xã hội chủ nghĩa trên thế giới vận dụng vào xây dựng nhà
nước kiểu mới phù hợp với điều kiện hoàn cảnh của mỗi quốc gia, dân tộc. Học

thuyết về nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin còn làm cơ sở, vũ khí đấu tranh
13


cho các Đảng cộng sản, cho những người Mácxít đấu tranh chống các quan
điểm sai trái, lệch lạc, các thủ đoạn xuyên tạc, bóp méo xung quanh vấn đề nhà
nước của các thế lực thù địch, những phần tử cơ hội. Qua đó khẳng định niềm
tin vào sự tất thắng về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội mà Đảng, Bác Hồ và
nhân dân ta đã lựa chọn. Lý luận đó còn có ý nghĩa quan trọng để Đảng ta vận
dụng vào xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân hiện nay.
1.1.2 Tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước
Chủ tịch Hồ Chí Minh - vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc, người chiến sĩ
cộng sản lỗi lạc, người học trò suất sắc của chủ nghĩa Mác - Lênin. Trong quá
trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa của dân, do dân, vì dân. Người đã tiếp thu và vận dụng một cách sáng tạo
học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Qua thực tiễn hoạt động cách
mạng, qua sách, báo, các bài viết, nói chuyện của Người những tư tưởng về
nhà nước kiểu mới, nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân đã được hình thành. Tuy nhiên không dừng lại ở đó mà Người đã phát triển
một cách sáng tạo lý luận nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin vào điều kiện
hoàn cảnh một nước thuộc địa, nửa phong khiến chưa kinh qua chủ nghĩa tư
bản như ở nước ta. Đó là sự vận dụng có tính chất linh hoạt, sáng tạo góp phần
làm cho chủ nghĩa Mác - Lênin giàu sức sống và trường tồn mãi mãi.
Như chúng ta đã biết, trong di sản của Người không đề cập đến khái
niệm nhà nước pháp quyền nói chung và nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa nói riêng, nhưng xét về nội dung khoa học của tư tưởng, quan điểm về
nhà nước pháp quyền trong lịch sử, thực tiễn nhân loại thì những tư tưởng,
quan điểm của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới - nhà nước xã hội

chủ nghĩa đã thể hiện khá đấy đủ, sâu sắc những đặc trưng, nội dung cơ bản
của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Tư tưởng về nhà nước kiểu mới của Hồ Chí Minh có nội dung phong
phú. Người không chỉ quan tâm đến việc giành chính quyền về tay nhân dân
mà còn quan tâm đến việc khó khăn hơn là xây dựng nhà nước kiểu mới của

14


dân, do dân, vì dân như thế nào. Có thể khái quát nội dung tư tưởng Chủ tịch
Hồ Chí Minh về nhà nước kiểu mới trên những quan điểm sau:
Về con đường cách mạng. Theo Người, cách mạng vô sản không thể di
theo con đường như cách mạng tư sản Pháp và Mỹ vì: “Cách mệnh Pháp cũng
như cách mệnh Mỹ, những cách mệnh tư sản, cách mệnh không đến nơi tiếng
là cộng hòa và dân chủ, kỳ thực trong đó thì nó tước lục công nông, ngoài thì
nó áp bức thuộc địa” (24, tr280). Do vậy, cách mạng Việt Nam phải đi theo
con đường cách mạng tháng 10 Nga: “Trong thế giới bây giờ chỉ có cách mạng
tháng 10 Nga là thành công và thành công đến nơi nghĩa là dân chúng được
hưởng cái hạnh phúc tự do, bình đẳng thực sự” (24, tr280).
Về xây dựng nhà nước kiểu mới. Trong di sản tư tưởng Chủ tịch Hồ Chí
Minh, tư tưởng về tiến hành cách mạng dân tộc, dân chủ nhân dân là sự phát
triển sáng tạo lý luận của chủ nghĩa Mác - Lênin về cách mạng vô sản trong
quá trình lãnh đạo xây dựng nhà nước kiểu mới ở Việt Nam. Chủ tịch Hồ Chí
Minh đã để lại di sản vô giá cả về lý luận và thực tiễn trên lĩnh vực này. Chủ
tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ bản chất giai cấp của nhà nước kiểu mới. Người khẳng
định giai cấp công nhân, Đảng của giai cấp công nhân có vai trò là người lãnh
đạo nhà nước và xã hội. Vì thế, bản chất giai cấp của nhà nước xã hội chủ
nghĩa thể hiện ý chí của giai cấp công nhân và nhân dân lao động. Tư tưởng đại
đoàn kết của Người đã tạo cơ sở xã hội rộng lớn và vững chắc cho nhà nước
kiểu mới: “Đoàn kết, đoàn kết, đại đoàn kết. Thành công, thành công, đại thành

công”.
Về quyền lực nhà nước. Chủ tịch Hồ Chí Minh chỉ rõ nhà nước kiểu mới
là nhà nước thực sự của dân, do dân, vì dân tất cả quyền lực thuộc về nhân dân.
Theo Người, trong nhà nước kiểu mới tính giai cấp hòa quyện tính nhân dân và
tính dân tộc. Vấn đề đặt ra là làm sao để tất cả quyền lực nhà nước đều thuộc
về nhân dân, nhân dân thực sự làm chủ nhà nước và xã hội. Nhân dân thể hiện
quyền làm chủ của mình thông qua các cơ quan nhà nước do nhân dân bầu ra,
hoặc trực tiếp tham gia quản lý nhà nước. Quyền lực nhà nước dựa vào sức
mạnh của nhân dân, nhân dân theo Chủ tịch Hồ Chí Minh là toàn dân, là tất cả
đàn ông - đàn bà, người già - người trẻ, không phân biệt giai cấp, đảng phái,
tôn giáo, nhân dân không phải là một khối thống nhất không có mẫu thuẫn mà
15


trong nhân dân còn có một bộ phận lầm đường lạc lối, sa vào cạm bẫy của kẻ
thù, đi ngược lại lợi ích của dân tộc.
Cũng theo Người, nhà nước kiểu mới là nhà nước hợp hiến, hợp pháp
thực hiện quản lý xã hội theo pháp luật và kết hợp chặt chẽ với giáo dục tư
tưởng, đạo đức. Người đã sớm nhận thức được tầm quan trọng của tính hợp
pháp của nhà nước, vai trò của pháp luật trong quản lý xã hội và hoạt động của
nhà nước nhất là trong công việc bảo vệ chính quyền và lợi ích của nhân dân.
Trong nhận thức và trong hành động của Người đã thể hiện được sự kết hợp
nhuần nhuyễn giữa tư tưởng đức trị và pháp trị.
Về vấn đề dân chủ của nhà nước. Người chỉ ra là nhà nước xã hội chủ
nghĩa là nhà nước vì dân và chịu trách nhiệm trước nhân dân, bảo đảm cho
công dân làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước và xã hội. Chủ tịch Hồ Chí Minh
luôn khẳng định: “Chế độ ta là chế độ dân chủ, tức là nhân dân là người làm
chủ, mà chính phủ là người đầy tớ trung thành của nhân dân, chính phủ chỉ có
một đích là hết lòng, hết sức phụng sự Tổ quốc, phục vụ nhân dân” (26, tr499).
Chính vì vậy, Chủ tịch Hồ Chí Minh thường xuyên quan tâm, nhắc nhở các cơ

quan của Đảng, nhà nước phải hết sức chăm lo đến đời sống của nhân dân lao
động, tổ chức, giáo dục quần chúng tăng gia sản xuất, thực hành tiết kiệm. Mặt
khác, Chủ tịch Hồ Chí Minh cũng nhấn mạnh trách nhiệm pháp lý của nhà
nước, cán bộ, công chức nhà nước nếu không làm tốt chức năng, quyền hạn của
mình. Người nói: “Nếu dân đói là Đảng và chính phủ có lỗi, nếu dân rét là
Đảng và chính quyền có lỗi, nếu dân dốt là Đảng và chính quyền có lỗi, nếu
dân ốm là Đảng và chính quyền có lỗi” (26, tr499).
Về xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nhà nước. Đây là vấn đề được
Chủ tịch Hồ Chí Minh quan tâm rất lớn. Người cho rằng: “Cán bộ là gốc của
mọi công việc, muôn việc thành công hay thất bại đều do cán bộ tốt hoặc xấu.
Đó là một chân lý nhất định” (25, tr240). Ngoài ra, Chủ tịch Hồ Chí Minh còn
quan tâm đến nhiều vấn đề khác như: Công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ; vai
trò trách nhiệm đối với người làm công tác lãnh đạo; về kiểm tra, giám sát hoạt
động của bộ máy nhà nước và cán bộ, công chức nhà nước…
Như vậy, quan điểm tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh về nhà nước
kiểu mới thể hiện sự kết tinh tri thức, tinh hoa của nhân loại trong lĩnh vực này.
16


Những tư tưởng, quan điểm đó là di sản lý luận vô cùng quý giá của cách mạng
Việt Nam, đồng thời có giá trị đối với phong trào cách mạng của giai cấp công
nhân và các Đảng cộng sản trên thế giới. Tư tưởng của Người về nhà nước kiểu
mới có ý nghĩa to lớn trong sự nghiệp xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội
chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta hiện nay.
1.2 Đảng cộng sản Việt Nam vận dụng quan điểm nhà nước của chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay
Theo từ điển Tiếng việt, vận dụng là: Đem tri thức lý luận dùng vào thực
tiễn. Theo đó, vận dụng là tổng hợp các phương pháp, cách thức của chủ thể
hoạt động nhằm biến tư tưởng, lý luận, học thuyết thành hành động thực tiễn,

cụ thể nhằm cải tạo tự nhiên và xã hội. Đó là quá trình kết hợp điều kiện khách
quan và nhân tố chủ quan, thống nhất giữa lý luận và thực tiễn. Từ đó có thể
quan niệm vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
về nhà nước là sự nhận thức thấu đáo, thực hiện đúng đắn, sáng tạo tư tưởng
nhà nước vào việc hoạch định đường lối lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp
quyền xã hội chủ nghĩa hiện nay, hiện thực hóa tư tưởng đó trên thực tế.
Vận dụng quan điểm chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về
nhà nước là Đảng ta đã kế thừa, phát triển quan điểm nhà nước của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh phù hợp với điều kiện lịch sử cụ thể của
nước ta. Phân tích những đặc điểm dân tộc Việt Nam, thực tiễn cách mạng Việt
Nam, phân tích quá trình hình thành xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa qua các giai đoạn để định ra đường lối, quan điểm, chính sách và tổ chức
thực hiện xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì
dân. Đồng thời quan điểm nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin còn là vũ khí
đấu tranh chống mọi hình thức, mọi âm mưu, mọi luận điểm xuyên tạc của các
thế lực thù địch xung quanh vấn đề nhà nước, từ đó là cơ sở Đảng ta thực hiện
thắng lợi sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta.
Kết quả của sự vận dụng đó thể hiện thông qua đường lối xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa qua các giai đoạn lịch sử đất nước. Trải qua
những thăng trầm lịch sử, sâm lược của chủ nghĩa thực dân, đế quốc, sụp đổ
của chủ nghĩa xã hội ở Đông âu, Liên xô… Nhưng Nhà nước pháp quyền xã
17


hội chủ nghĩa Việt Nam vẫn đứng vững, vẫn hiên ngang như thách thức mọi
thế lực phản động đi ngược lại mục tiêu hòa bình, dân chủ, tiến bộ, văn minh.
Kết quả sự vận dụng đó đã góp phần đưa cách mạng Việt Nam đi từ thắng lợi
này đến thắng lợi khác, vững bước tiến vào thế kỷ XXI.
Khi vận dụng quan điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí
Minh về nhà nước, Đảng ta đã có tư duy khoa học để có phương thức vận dụng

đúng đắn. Mỗi quốc gia, dân tộc có những điểm khác về điều kiện tự nhiên,
lịch sử, điều kiện kinh tế - xã hội … Quá trình tiến lên chủ nghĩa xã hội ở mỗi
quốc gia lại có điểm khác nhau, điểm xuất phát khác nhau. Chính vì vậy trong
quá trình lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa Đảng ta đã
kế thừa những tư tưởng, quan điểm phù hợp với thực tiễn trong nước từ đó đề
ra đường lối lãnh đạo đất nước. Những yếu tố, những quan điểm đúng đắn,
khoa học của chủ nghĩa Mác - Lênin về nhà nước nhưng không phù hợp với
điều kiện hoàn cảnh nước ta thì Đảng ta không vận dụng. Đồng thời, quá trình
vận dụng Đảng ta đã có sự bổ sung, phát triển lý luận xây dựng nhà nước kiểu
mới đối với một nước phong khiến nửa thuộc địa chưa qua chủ nghĩa tư bản.
Sự bổ sung, phát triển đó không chỉ có ý nghĩa làm phong phú kho tàng chủ
nghĩa Mác - Lênin mà còn là bài học cho các nước anh, em, các Đảng cộng sản
trên thế giới học hỏi, tiếp thu. Quá trình vận dụng Đảng ta đã tránh tư tưởng
giáo điều, rập khuôn, máy móc, vận dụng một cách vô nguyên tắc quan điểm
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về lý luận nhà nước và mô
hình xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở Liên xô, Đông âu.
Thực tiễn thành tựu đạt được trong quá trình xây dựng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân ở nước ta đã chứng minh tính đúng đắn
khoa học của phương thức vận dụng trên của Đảng ta.
Như vậy, nội dụng Đảng vận dụng mang tính toàn diện tất cả các quan
điểm của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước phù hợp
với điều kiện, hoàn cảnh và lịch sử nước ta. Sự vận dụng của Đảng được thể
hiện qua các thời kỳ:
1.2.1 Thời kỳ trước đổi mới
Trước khi cách mạng tháng Tám năm 1945 nổ ra và giành thắng lợi. Đất
nước ta chịu ánh nô lệ của thực dân Pháp hơn 80 năm với bao tủi nhục và căm
18


hờn, đau thương và nước mắt. Chế độ phong khiến tồn tại hàng nghìn năm đến

giai đoan này đã trở thành lỗi thời và lạc hậu. Cách mạng tháng Tám thành
công, đất nước giành được độc lập xây dựng chế độ mới – chế độ xã hội chủ
nghĩa. Nhà nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa ra đời. Tuy nhiên, ngay sau khi
giành được độc lập đất nước ta đã phải đương đầu với sự quay trở lại sâm lược
của thực dân Pháp. Với âm mưu, thủ đoạn, dã tâm, tiềm lực mạnh hơn trước,
lại được sự giúp đỡ của các nước đồng minh, hơn nữa trên lãnh thổ nước ta còn
có quân Nhật và Tưởng cũng đang tìm mọi cách chống phá cách mạng nước ta.
Bè lũ tay sai, phản động, các đảng phái nổi lên chống phá chính quyền non trẻ.
Nhưng, dưới sự lãnh đạo của Bác Hồ, của Đảng đã cùng toàn dân đánh bại
thực dân Pháp sâm lược, chính quyền nhân dân non trẻ được bảo vệ và phát
huy vai trò to lớn đối với lịch sử.
Tuy nhiên khó khăn, thử thách vẫn còn. Nối tiếp thực dân Pháp là Đế
quốc Mỹ, với tiềm lực quân sự lớn hơn gấp nhiều lần thực dân Pháp tiến hành
sâm lược nước ta, chúng muốn biến nước ta thành thuộc địa kiểu mới và thực
hiện âm mưu toàn cầu phản động của chúng. Trải qua hơn 20 năm đấu tranh
gian khổ, dưới sự lãnh đạo tài tình của Đảng, Bác Hồ, sự giúp đỡ nhiệt tình của
các nước anh em trong cộng đồng quốc tế, nhân dân ta đã đánh thắng đế quốc
Mỹ sâm lược giành lại hòa bình cho tổ quốc. Trong khoảng thời gian này thì
cùng một lúc cánh mạng nước ta thực hiện hai nhiệm vụ chống Mỹ cứu nước
và xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Đó là một kỳ tích đồng thời cũng là
một sáng tạo, thể hiện sự lãnh đạo đúng đắn của Đảng ta và Chủ tịch Hồ Chí
Minh.
Do chịu ảnh hưởng của điều kiện chiến tranh, hoàn cảnh đặc biệt của đất
nước nên nội dung Đảng ta vận dụng quan điểm nhà nước của chủ nghĩa Mác –
Lênin thể hiện tập trung qua các bản Hiến pháp 1946, 1959, 1980 và qua
đường lối lãnh đạo của Đảng. Cụ thể:
Về bản chất nhà nước. Ngay từ bản Hiến pháp đầu tiên 1946 ở Điều 1
khẳng định: “Nước Việt Nam là một nước dân chủ cộng hòa. Tất cả quyền bính
trong nước là của toàn thể nhân dân Việt Nam, không phân biệt nòi giống, trai
gái, giàu nghèo, giai cấp, tôn giáo”. Đó là nhà nước của dân, do dân, vì dân.


19


Kế thừa và phát triển những tư tưởng về nhà nước kiểu mới của 2 bản
Hiến pháp trước, bản Hiến Pháp 1980 xác định: Nhà nước Cộng hòa xã hội chủ
nghĩa Việt Nam là nhà nước chuyên chính vô sản, sứ mệnh lịch sử của nhà
nước đó là thực hiện quyền làm chủ tập thể của nhân dân lao động (Điều 2).
Về tính chất của nhà nước. Thể hiện rõ nét nhất ở bản Hiến pháp 1959
tiếp tục làm rõ hơn tính chất của nhà nước ta: Nhà nước ta là nhà nước dân chủ
nhân dân. Ở các chương I, III nổi bật là điều 4, 5, 6 . Điều 4 quy định: Tất cả
quyền lực nhà nước Việt Nam dân chủ cộng hòa đều thuộc về nhân dân. Nhân
dân sử dụng quyền lực của mình thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân các
cấp. Điều 6 cũng quy định: Tất cả các cơ quan nhà nước đều phải dựa vào dân,
liên hệ chặt chẽ với nhà nước, lắng nghe ý kiến và chịu sự kiểm soát của nhân
dân. Theo nguyên tắc: Ở nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam tất cả
quyền lực nhà nước đều thuộc về nhân dân (Điều 6) và nhà nước quản lý bằng
pháp luật không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Xét về tính chất
vẫn là nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân.
Về dân chủ của nhà nước. Điều 32 Hiến pháp năm 1946 cũng quy định:
Những việc quan hệ đến vận mệnh quốc gia sẽ đưa ra nhân dân phúc quyết.
Ngay sau khi giành được chính quyền, chính quyền mới do nhân dân bầu ra
nhưng: Nhân dân có quyền bãi miễn đại biểu Quốc hội và Đại biểu hội đồng
nhân dân nếu những đại biểu ấy tỏ ra không xứng đáng với sự tín nhiệm của
nhân dân, nếu chính phủ làm hại dân thì dân có quyền đuổi Chính phủ.
Về cán bộ, công chức nhà nước. Đảng khẳng định cán bộ, công chức nhà
nước là công bộc của nhân dân, là người “Đầy tớ” của dân. Điều này được thể
hiện rõ trong tư tưởng Hồ Chí Minh: Chế độ ta là chế độ dân chủ, nghĩa là
nhân dân làm chủ. Đảng ta là Đảng lãnh đạo, nghĩa là tất cả cán bộ từ trung
ương đến khu, đến tỉnh, đến huyện, đến xã, bất kỳ ở cấp nào, ngành nào - đều

phải là người đầy tớ trung thành của nhân dân.
Như vậy, trong thời kỳ cách mạng từ cách mạng tháng Tám thành công
đến trước đổi mới Đảng đã vận dụng một cách linh hoạt quan điểm nhà nước
của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào từng bước xây dựng,
hoàn thiện Nhà nước pháp quyền Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Những nội dung
Đảng ta vận dụng được thể hiện và cụ thể hóa trong các bản Hiến pháp 1946,
20


1959, 1980, các văn bản pháp luật và trong các chủ trương, chính sách của
Đảng. Kết quả vận dụng đó đã góp phần to lớn vào việc củng cố chính quyền
dân chủ nhân dân trong những ngày đầu non trẻ, vào công cuộc xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc – hậu phương lớn. Trực tiếp lãnh đạo thắng lợi cuộc
kháng chiến thần thánh chống thực dân Pháp và đế quốc Mỹ sâm lược. Đó là
bài học quý giá để Đảng ta tổng kết kinh nghiệm tiếp tục vận dụng quan điểm
nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân trong giai đoạn cách
mạng tiếp theo.
1.2.2 Thời kỳ từ đổi mới đến nay
Thời kỳ từ đổi mới đến nay. Đây là giai đoạn đất nước ta gặp rất nhiều
khó khăn. Do chịu ảnh hưởng nặng nề của hậu quả chiến tranh, ngay sau khi
giành được độc lập lại bị các thế lực đế quốc bao vây cấm vận kinh tế, trong
nước lại duy trì quá lâu nền kinh tế quan liêu bao cấp. Điều đó đã đưa đất nước
ta đã rơi vào tình trạng khủng hoảng kinh tế, xã hội trầm trọng. Bản chất chế
độ mới – xã hội xã hội chủ nghĩa và nhà nước kiểu mới không được thể hiện
rõ. Trên thế giới sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa Liên xô và Đông âu,
sự thoái trào của hệ thống xã hội chủ nghĩa càng làm cho sự nghiệp xây dựng
chủ nghĩa xã hội ở nước ta gặp nhiều khó khăn.
Đứng trước những thách thức, khó khăn đó Đảng ta đã tiến hành đổi mới
toàn diện đất nước. Công cuộc đổi mới được manh nha từ năm 1979 và đến

Đại hội VI của Đảng được chính thức bắt đầu. Trải qua các kỳ Đại hội Đảng
VI, VII, VIII, IX, X, XI, cùng với quá trình đổi mới toàn diện thì nhà nước
pháp quyền xã hội chủ nghĩa cũng dần dần được hoàn thiện.
Quá trình đổi mới tư duy, lý luận. Đảng cộng sản Việt Nam đã vận dụng
những nguyên lý, lý luận về nhà nước của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh vào thực tiễn cách mạng trong nước, làm cơ sở xây dựng đường lối
lãnh đạo đất nước vượt qua khó khăn, khủng hoảng. Bước vào giai đoạn lịch sử
mới, trước những yêu cầu mới của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc,
Đảng ta đã chỉ ra tính tất yếu lịch sử của việc xây dựng nhà nước pháp quyền
xã hội chủ nghĩa ở nước ta trong giai đoạn hiện nay.
Tính tất yếu đó thể hiện trên cơ sở sau :
21


Một là, xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện
nay là phù hợp với quy luật khách quan của lịch sử.
Lịch sử xã hội cho thấy sự phát triển của sản xuất vật chất là nhân tố xét
đến cùng quyết định sự vận động, phát triển xã hội từ thấp đến cao. Thực tế
cho thấy, trong xã hội có đối kháng giai cấp, xã hội càng phát triển thì mâu
thuẫn đó càng trở nên gay gắt. Để giải quyết mâu thuẫn đó đòi hỏi phải thay
thế nhà nước độc tài, chuyên chế bằng nhà nước pháp quyền, quản lý xã hội
bằng pháp luật. Thắng lợi của cuộc cách mạng lật đổ chế độ phong khiến tàn
bạo, chuyên chế, độc tài vô pháp luật và sự ra đời nhà nước tư sản đã chứng
minh cho khuynh hướng phát triển tất yếu đó. Tuy nhiên, trên thực tế nhà nước
pháp quyền tư sản đã không giải quyết được vấn đề dân chủ và bảo vệ quyền
con người. Vì vậy, quyền lợi của giai cấp vô sản và của nhân dân lao động tất
yếu phải thay thế nhà nước pháp quyền tư sản bằng nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa. Điều này đã được chủ nghĩa Mác - Lênin luận giải một cách
khoa học.
Hai là, tính tất yếu bắt nguồn từ chính lịch sử xây dựng và phát triển

của nhà nước ta.
Ngay trong quá trình thành lập và trong quá trình phát triển nhà nước
Việt Nam dân chủ Cộng hòa, nhà nước ta đã và luôn là nhà nước hợp hiến, hợp
pháp. Nhà nước được tổ chức và hoạt động trên cơ sở các quy định của Hiến
pháp và pháp luật và luôn luôn thể hiện rõ bản chất nhà nước kiểu mới thực sự
của nhân dân lao động. Ngày nay, tính tất yếu khách quan còn thể hiện từ định
hướng xã hội chủ nghĩa mà mục tiêu cơ bản là xây dựng một xã hội dân giàu,
nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Chúng ta ý thức được rằng,
để có một chế độ xã hội như vậy công cụ, phương tiện cơ bản chỉ có thể là nền
kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và một nhà nước pháp quyền xã
hội chủ nghĩa đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh. Điều đó đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải
cách nhà nước, cải cách pháp luật, bảo đảm cho nhà nước không ngừng vững
mạnh, thực sự là của nhân dân lao động, phục vụ lợi ích của nhân dân lao động.
Ba là, xuất phát từ yêu cầu thực hiện sứ mệnh lịch sử, lãnh đạo xây
dựng chủ nghĩa xã hội của giai cấp công nhân.
22


Trong điều kiện Đảng lãnh đạo chính quyền, nếu không có một nhà nước
được tổ chức khoa học, có đủ năng lực quản lý mọi mặt đời sống xã hội, nhất
là năng lực về tổ chức quản lý kinh tế thì không thể tổ chức thực hiện thắng lợi
đường lối, chính sách của Đảng. Điều đó cũng có nghĩa là Đảng cộng sản cũng
không thực hiện được vai trò lãnh đạo xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội.
Do vây, tất yếu phải xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa kiểu mới
mang bản chất giai cấp công nhân, dưới sự lãnh đạo của Đảng.
Bốn là, xuất phát từ chính vai trò, nhiệm vụ của nhà nước xã hội chủ
nghĩa.
Nhà nước xã hội chủ nghĩa có vai trò to lớn trong công cuộc xây dựng xã
hội mới. Xây dựng chế độ xã hội mới, nền kinh tế mới, văn hóa mới và con

người mới xã hội chủ nghĩa. Đây là nhiệm vụ mới mẻ, hết sức khó khăn, phức
tạp đối với một Đảng lãnh đạo chính quyền và lãnh đạo nhà nước. Nhà nước xã
hội chủ nghĩa nếu không đổi mới tổ chức, hoạt động, không nâng cao hiệu lực
quản lý của mình, không thực sự là nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì
dân thì không thể hoàn thành những nhiệm vụ khó khăn, phức tạp đó.
Năm là, xuất phát từ yêu cầu thích ứng với diễn biến mới của tình hình
thế giới và trong nước.
Trước diễn biến phức tạp của tình hình chính trị thế giới. Xu thế quốc tế
hóa, toàn cầu hóa, khu vực hóa ngày càng được đẩy mạnh. Trong nước, đất
nước đang trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa – hiện đại hóa xây dựng cơ
sở vật chất của chủ nghĩa xã hội. Mở cửa hội nhập, hợp tác ngày càng đa dạng,
phức tạp. Các thế lực thù địch trong, ngoài câu kết tăng cường hoạt động chống
phá … Từ đó đòi hỏi chúng ta phải đổi mới tư duy, đổi mới tổ chức nhất là đổi
phương thức hoạt động của nhà nước từ đó mới nâng cao hiệu quả quản lý đất
nước, thực hiện thắng lợi mục tiêu đã xác định.
Sáu là, xuất phát từ mục tiêu và thực tiễn của cách mạng xã hội chủ
nghĩa ở nước ta hiện nay.
Trong quá trình tìm đường cứu nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh thấy rõ ở
chủ nghĩa Mác - Lênin con đường đúng đắn cho cách mạng Việt Nam. Người
chỉ rõ: “Muốn cứu nước giải phóng dân tộc, không có con đường nào khác con đường cách mạng vô sản”. Theo Người, cuộc cách mạng nước ta ngay sau
23


khi hoàn thành mục tiêu giải phóng dân tộc, xóa bỏ chế độ thực dân, phong
khiến, phải tiếp tục tiến lên thực hiện mục tiêu cách mạng xã hội chủ nghĩa.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa thực chất là cuộc cách mạng do giai cấp công
nhân và nhân dân lao động tiến hành, thực hiện xóa bỏ chế độ xã hội có áp bức,
bóc lột, bất công, xây dựng chế độ xã hội mới không có giai cấp áp bức và bóc
lột, giải phóng con người thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, bất bình đẳng. Thực
tiễn cho thấy một trong những tiền đề quan trọng đưa cuộc cách mạng xã hội

chủ nghĩa đến thành công đó là phải có nhà nước pháp quyền mà quyền lực nhà
nước phải thuộc về nhân dân.
Bảy là, xuất phát từ thực trạng những biểu hiện tiêu cực trong xây dựng
nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa ở nước ta hiện nay.
Thực tiễn cho thấy trong công cuộc đổi mới hiện nay, bên cạnh những
thành tựu quan trọng đã giành được vẫn tồn tại những nguy cơ, thách thức to
lớn đối với sự phát triển đi lên của đất nước ta. Trong bài phát biểu khai mạc
Hội nghị Trung ương Sáu lần 2 khóa VIII, Tổng Bí thư Lê Khả Phiêu chỉ rõ:
“Tệ quan liêu, tham nhũng đang làm biến chất một bộ phận cán bộ, đảng viên
… Nhất là tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống”. Nhận
định trên của đồng chí Bí thư phản ánh phần nào những yếu kém trong việc
xây dựng nhà nước pháp quyền. Những nhân tố chủ quan đó nếu kết hợp với
yếu tố khách quan của các thế lực thù địch bên ngoài thì có tác hại vô cùng to
lớn. Do vậy, Đảng phải chăn lo xây dựng bản thân mình đồng thời phải xây
dựng nhà nước kiểu mới mang đầy đủ yếu tố bản chất nhất về tính ưu việt của
nó đáp ứng yêu cầu sự nghiệp cách mạng mới.
Từ những cơ sở xuất phát trên có thể khẳng định tính tất yếu phải tiếp
tục xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân
trong giai đoạn hiện nay. Đồng thời qua đó thấy được sự cần thiết, cấp bách và
ý nghĩa to lớn của việc xây dựng nhà nước pháp quyền đối với sự nghiệp xây
dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Trong giai đoạn hiện nay, để thực hiện thắng lợi sự nghiệp xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc trước tình hình mới. Đảng ta đã vận dụng quan điểm nhà nước
của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh vào xây dựng nhà nước

24


pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Nội dung vận dụng tập trung trên một số vấn đề
sau:

Một là, khẳng định vị trí tối thượng của Hiến pháp trong hệ thống pháp
luật.
Quá trình lãnh đạo xây dựng nhà nước pháp quyền Đảng luôn vận dụng
tư tưởng của các nhà kinh điển khẳng định tính tối thượng của Hiến pháp và
coi đây là cơ sở đảm bảo cho sự thống nhất pháp luật xã hội chủ nghĩa, làm cơ
sở xác lập trật tự, kỷ cương, tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Hiến pháp
là văn bản luật do cơ quan quyền lực cao nhất của nhà nước ban hành thể hiện
tập trung ý chí và lợi ích của nhân dân lao động trên mọi lĩnh vực của đời sống
xã hội, mọi công việc hệ trọng của đất nước. Hiến pháp luôn là văn bản có giá
trị pháp lý cao nhất mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp và tuân theo Hiến
pháp.
Hai là, tiếp tục xây dựng và hoàn thiện hệ thống pháp luật bảo đảm các
quyền con người ngày càng hoàn thiện.
Bước vào thời kỳ công nghiệp hóa - hiện đại hóa đất nước Đảng chủ
trương xây dựng và hoàn thiện nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa để lãnh
đạo công cuộc đổi mới, công nghiệp hóa - hiện đại hóa. Văn kiện Đại hội XI
khẳng định: “Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật, cơ chế, chính sách để vận
hành có hiệu quả nền kinh tế và thực hiện tốt các cam kết quốc tế, bảo vệ lợi
ích quốc gia, dân tộc” (3, tr247). Xây dựng và cải cách pháp luật đáp ứng mục
tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Với bốn bản
hiến pháp được thông qua trên thực tế hệ thống pháp luật Việt Nam đã trải qua
bốn giai đoạn phát triển, tuy ở mỗi giai đoan khác nhau, pháp luật lúc mạnh lúc
yếu nhưng pháp luật luôn là công cụ để quản lý xã hội, giữ gìn kỷ cương, tăng
cường dân chủ. Hiến pháp năm 1992 đã khẳng định nhà nước quản lý xã hội
bằng pháp luật, đó là nguyên tắc có tính hiến định. Biện chứng của sự phát
triển lịch sử nhà nước ta cho thấy: Một mặt nhà nước chỉ có thể trở thành nhà
nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa khi có sự lãnh đạo của Đảng, mặt khác sự
lãnh đạo của Đảng đối với nhà nước chỉ có thể được xác lập trong điều kiện
Đảng đổi mới nội dung, phương thức lãnh đạo phù hợp với tổ chức quyền lực
trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa. Ở khía cạnh thứ hai này vai trò

25


×