Tải bản đầy đủ (.doc) (76 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ ĐẢNG CỘNG sản VIỆT NAM với VIỆC đổi mới tư DUY đối NGOẠI TRONG CÔNG CUỘC đổi mới (1986 2001)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (448.5 KB, 76 trang )

MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Đối ngoại là một lĩnh vực quan trọng và đặc biệt nhạy cảm đối với mọi quốc
gia trên thế giới. Nó góp phần cùng đường lối đối nội quyết định đến sự tồn tại,
phát triển của đất nước, của dân tộc. Vì vậy, đường lối, chủ trương, chính sách và
hoạt động đối ngoại của mỗi quốc gia dân tộc, mỗi chế độ chính trị, bao giờ cũng
giữ vị trí quan trọng hàng đầu.
Ở nước ta, kể từ khi Cách mạng Tháng Tám năm 1945 thành công đến nay,
dưới sự lãnh đạo của Đảng, của Chủ tịch Hồ Chí Minh vĩ đại đã hình thành một
nền ngoại giao cách mạng. Kế thừa chủ nghĩa Mác - Lênin, kết tinh tư tưởng và
phong cách ngoại giao Hồ Chí Minh; kế thừa truyền thống tinh hoa của dân tộc và
văn hoá của nhân loại, mặt trận ngoại giao đã thu được nhiều thắng lợi to lớn, góp
phần xứng đáng vào việc nâng cao uy tín và vị thế của Đảng, của cách mạng Việt
Nam trên trường quốc tế.
Ngày nay, cùng với sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, mặt trận đối ngoại
tiếp tục thu được nhiều thành tựu to lớn, hiệu quả. Đối ngoại đã và đang trở thành
chiếc cầu nối liền Việt Nam với thế giới, tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển mọi
mặt về kinh tế, chính trị, văn hoá - xã hội.
Có được thành tựu to lớn trên lĩnh vực đối ngoại trong thời kỳ đổi mới là kết
quả tổng hợp của nhiều yếu tố mang lại, là sự nỗ lực cố gắng của toàn Đảng, toàn
dân, của các ngành, các cấp, các địa phương và cả hệ thống chính trị. Tuy nhiên,
yếu tố quan trọng hàng đầu và quyết định nhất phải bắt nguồn từ sự lãnh đạo đúng
đắn sáng tạo của Đảng trên mặt trận đối ngoại. Đảng đã đổi mới tư duy đối ngoại
phù hợp với xu thế tất yếu của đất nước và tình hình quốc tế. Đó thực chất là một
quá trình chuyển hoá đường lối, từ tư duy cũ, giáo điều, máy móc, sang tư duy
khoa học biện chứng; từ đối đầu chuyển sang đối thoại, hoà bình; từ quan hệ với
một số nước xã hội chủ nghĩa là chủ yếu chuyển thành "đa dạng hoá, đa phương
hoá quan hệ đối ngoại". Điều đó đánh dấu một quá trình đổi mới tư duy sáng tạo
trong suốt hơn 15 năm đổi mới (1986 - 2001). Có được đường lối đúng đắn ấy, bởi
nó bắt nguồn từ lý luận Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; truyền thống văn hoá
Việt Nam và từ những kinh nghiệm quý báu của nền ngoại giao cách mạng...


được Đảng ta kế thừa, phát triển nâng lên tầm cao mới của thời đại; góp phần
xứng đáng vào những thắng lợi to lớn, quan trọng của sự nghiệp đổi mới đất
nước. Tuy nhiên, trong quá trình lãnh đạo hoạt động đối ngoại của Đảng vẫn có
một số mặt yếu kém, bất cập như: chưa dự đoán hết tình hình, đặc biệt là sự sụp
đổ của Liên Bang Xô Viết (12/1991). Hiệu quả hội nhập và hợp tác quốc tế chưa
cao, còn để lúng túng, sơ hở nên ảnh hưởng đến phát triển kinh tế - xã hội. Thủ


tục hành chính còn phiền hà, môi trường đầu tư chưa thông thoáng nên đầu tư
nước ngoài vào còn chậm và hiệu quả không cao. Sự phối hợp giữa các ngành,
các cấp chưa đồng bộ, năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác đối ngoại chưa
tương xứng... Bên cạnh đó sự chống phá quyết liệt của các thế lực thù địch trên
mặt trận đối ngoại ngày càng tinh vi, phức tạp, đòi hỏi Đảng và Nhà nước ta phải
tiếp tục đổi mới tư duy đối ngoại theo hướng mở rộng và nâng cao chất lượng,
hiệu quả hội nhập và hợp tác quốc tế, xứng đáng với tầm vóc và vị thế ngày càng
cao của Việt Nam trên trường quốc tế.
Việc luận giải, làm sáng tỏ cơ sở khoa học và tính đúng đắn sáng tạo quá trình
đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng là một yêu cầu cấp thiết, có ý nghĩa lý luận và
thực tiễn sâu sắc, nhằm đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp đổi mới đất nước và quá
trình hội nhập quốc tế. Mặt khác, để góp phần nâng cao nhận thức tư tưởng cho cán
bộ, đảng viên và nhân dân, nâng cao ý thức trách nhiệm và hiệu quả trong từng mặt
hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta, đồng thời làm thất bại mọi âm mưu,
thủ đoạn chống phá của kẻ thù, tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn nữa cho sự
nghiệp đổi mới, sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, đồng thời góp
phần vào sự nghiệp cách mạng của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội.
Vì vậy, tôi chọn đề tài: "Đảng Cộng sản Việt Nam với việc đổi mới tư duy đối
ngoại trong công cuộc đổi mới (1986 - 2001)", nhằm làm sáng tỏ cơ sở khoa học
của quá trình đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng trong 15 năm qua, đồng thời rút
ra một số kinh nghiệm góp phần hoàn thiện đường lối đối ngoại của Đảng ta trong

thời gian tới.
2. Tình hình nghiên cứu có liên quan đến đề tài
Đảng Cộng Sản Việt Nam đổi mới tư duy đối ngoại thời kỳ 1986 - 2001 là một
chủ đề rộng lớn được giới nghiên cứu trong và ngoài nước quan tâm. Trong đó,
tiêu biểu là các công trình khoa học của các đồng chí lãnh đạo Đảng và Nhà nước:
nguyên Tổng Bí thư Đỗ Mười, "Việt Nam muốn là bạn của tất cả các nước trong
cộng đồng thế giới", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 1996; nguyên Tổng
Bí thư Lê Khả Phiêu, "Ngoại giao Việt Nam trong thời đại Hồ Chí Minh", Tạp chí
Nghiên cứu quốc tế, Số 4, Tháng 8 năm 2000; Chủ tịch nước Trần Đức Lương,
"Khái quát các hoạt động đối ngoại năm 2000"; nguyên phó Thủ tướng Nguyễn
Mạnh Cầm, "Ngoại giao Việt Nam trong thời đại mới", Tạp chí Cộng sản, Số 17,
Tháng 9 năm 2000. Các nhà ngoại giao: Lưu Văn Lợi, "50 năm ngoại giao Việt
Nam"; Đinh Nho Liêm, "Tiến tới xây dựng lý luận ngoại giao Việt Nam"; Vũ
Khoan, "Một số vấn đề quốc tế của Đại hội VII"; Trần Quang Cơ, "Cục diện thế
giới, vận nước". Một số công trình khoa học: "Chính sách đối ngoại của Đảng thời
kỳ đổi mới (1986 - 1996)", Luận án thạc sĩ khoa học của Bùi Trung Thành; Kỷ yếu


Hội thảo khoa học: "50 năm ngoại giao Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng" của
Học viện Quan hệ quốc tế; Kỷ yếu đề tài KX.01.12 thuộc chương trình khoa học
công nghệ Nhà nước KX.01: "Quan hệ đối ngoại và chính sách đối ngoại của nước
ta" của Ban đối ngoại Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam; "Vai trò lãnh đạo của
Đảng Cộng sản Việt Nam trong thời kỳ đổi mới đất nước" của Nguyễn Trọng
Phúc; "Đảng Cộng sản Việt Nam lãnh đạo hoạt động đối ngoại thời kỳ 1986 1996", Luận án tiến sĩ khoa học lịch sử của Vũ Quang Vinh; "Tìm hiểu tư tưởng Hồ
Chí Minh về một số vấn đề quốc tế", Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội,
1995, Giáo sư Phan Ngọc Liên chủ biên; "Ngoại giao Việt Nam 1945 - 2000",
Nguyễn Đình Bin chủ biên, Nhà xuất bản Chính trị quốc gia, Hà Nội, 2002.
Thông qua các bài viết của mình, các tác giả trên đã đề cập đến nhiều vấn đề
về quan điểm, đường lối, chính sách đối ngoại của Đảng ta trong thời kỳ mới; sự
tác động của tình hình thế giới, tình hình trong nước đến hoạt động đối ngoại của

Đảng ta; luận giải những thuận lợi, những khó khăn trên con đường hội nhập,
đồng thời đưa ra một số kinh nghiệm và giải pháp phục vụ hoạt động đối ngoại
của Đảng ta ở từng giai đoạn lịch sử nhất định... Tuy nhiên, chưa có một công
trình nào đề cập một cách trực tiếp và hệ thống đến quá trình đổi mới tư duy đối
ngoại của Đảng ta thời kỳ 1986 - 2001, dưới góc độ khoa học lịch sử Đảng. Đây
là những tài liệu quý, tác giả có thể kế thừa, tiếp thu để xây dựng luận văn của
mình.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
* Mục đích: Làm sáng tỏ cơ sở khoa học của quá trình đổi mới tư duy đối
ngoại, trên cơ sở đó chứng minh tính đúng đắn, sáng tạo của đường lối đối ngoại
do Đảng ta đề xướng, lãnh đạo. Thông qua đó khẳng định sự nhạy cảm về chính trị
và kinh nghiệm hoạt động đối ngoại của Đảng trên con đường đổi mới đất nước và
hội nhập quốc tế.
* Nhiệm vụ:
- Làm rõ tính tất yếu của quá trình đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng thời kỳ
1986 - 2001.
- Trình bày quá trình đổi mới tư duy đối ngoại và quá trình chỉ đạo thực hiện đổi
mới tư duy đối ngoại từ 1986 đến 2001 của Đảng.
- Làm rõ những thành tựu, những hạn chế, yếu kém và rút ra một số kinh nghiệm
trong quá trình lãnh đạo đổi mới tư duy đối ngoại thời kỳ 1986 - 2001.
4. Cơ sở lý luận và phương pháp luận
- Cơ sở lý luận của luận văn: Nghiên cứu, trình bày đề tài này, tôi dựa trên cơ sở
lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm và
chính sách đối ngoại của Đảng Cộng sản Việt Nam.


- Phương pháp nghiên cứu: Sử dụng chủ yếu phương pháp lịch sử, phương pháp
lô gíc và kết hợp chặt chẽ hai phương pháp này với nhau, ngoài ra còn sử dụng một
số phương pháp như: phân tích, tổng hợp, thống kê, so sánh, phương pháp chuyên
gia...

5. Ý nghĩa của luận văn
- Kết quả nghiên cứu của đề tài có thể làm cơ sở góp phần tổng kết quá trình
Đảng lãnh đạo và chỉ đạo hoạt động đối ngoại.
- Luận văn sẽ là tài liệu tham khảo phục vụ nghiên cứu, giảng dạy Lịch sử
Đảng Cộng sản Việt Nam trong nhà trường quân đội.
6. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, phụ lục, luận văn kết
cấu thành 2 chương, 4 tiết.
Chương 1
TÍNH TẤT YẾU VÀ QUÁ TRÌNH ĐỔI MỚI
TƯ DUY ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TỪ 1986 ĐẾN 2001
1.1. Tính tất yếu đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng
1.1.1. Tình hình thế giới có nhiều biến động to lớn, phức tạp đòi hỏi Đảng
ta phải đổi mới tư duy đối ngoại
Trong những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, tình hình thế giới có nhiều biến
động to lớn, phức tạp trên tất cả các mặt của đời sống xã hội, trong đó những biến động
về chính trị, kinh tế và quan hệ quốc tế đã mở màn cho những bước phát triển và biến
đổi có tính chất bước ngoặt.
Từ những năm 70 của thế kỷ trước, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ
hiện đại đã phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy quá trình cơ cấu lại nền kinh tế trên nhiều
nước. Nhiều công nghệ mới ra đời như tin học, vật liệu mới, công nghệ sinh học,
năng lượng mới, công nghệ nano... với đặc trưng nổi bật là sự xâm nhập ngày càng
nhanh của tri thức và công nghệ cao vào tất cả các ngành, các lĩnh vực của đời
sống xã hội. Tri thức, khoa học, công nghệ đang trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp. Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã tác động sâu sắc đến quá
trình phát triển của nhân loại; làm thay đổi cơ cấu và bộ mặt kinh tế toàn cầu dẫn
đến những thay đổi to lớn trong các mối quan hệ chính trị - xã hội giữa các nước,
các tổ chức quốc tế, thúc đẩy mạnh mẽ quá trình toàn cầu hoá, liên kết khu vực,
liên kết châu lục, làm xuất hiện ngày càng nhiều thể chế đa phương, song phương...
Nhìn chung, cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại đã tác động và cuốn



hút tất cả các nước ở mức độ khác nhau. Nó đã đem lại động lực thúc đẩy mạnh mẽ
cho quá trình tăng trưởng kinh tế thế giới. Kết quả rõ ràng mà cuộc cách mạng
khoa học - công nghệ hiện đại mang lại chính ở chỗ nó đã tạo ra những động lực
mới cho quá trình phát triển, động lực đó chính là trí tuệ con người. Đây là một đặc
trưng mới rất cơ bản của lực lượng sản xuất hiện đại. Với lực lượng sản xuất đó,
quá trình phát triển chuyển từ việc dựa chủ yếu vào các lợi thế truyền thống như tài
nguyên, vốn và kỹ thuật từng bước nhường chỗ cho lợi thế về tri thức, về khoa học
và năng lực sáng tạo áp dụng công nghệ mới... Trong quá trình phát triển của cuộc
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, toàn cầu hoá được xem như là một hệ quả
tất yếu của quá trình ấy. Toàn cầu hoá đã làm cho nền kinh tế thế giới cũng như
từng quốc gia trở nên năng động hơn, liên kết chặt chẽ hơn, tăng trưởng GDP cao
hơn, dòng vốn, hàng hoá và công nghệ lưu chuyển nhanh hơn, đó là những yếu tố
tạo nên môi trường thuận lợi cho tất các nước. Theo nghĩa đó, xét toàn cục cuộc
cách mạng khoa học công nghệ hiện đại cũng như toàn cầu hoá đem lại cơ hội phát
triển to lớn chưa từng thấy cho tất cả các quốc gia.
Tuy nhiên, cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại và quá trình toàn cầu
hoá cũng đã và đang tạo ra sự chênh lệch trong quá trình phát triển không đồng đều.
Sự chênh lệch giữa giàu và nghèo ngày càng gia tăng dẫn tới sự chênh lệch về tiềm
lực tài chính, tiềm lực kinh tế và năng lực trí tuệ càng dẫn tới sự chênh lệch về cơ
hội phát triển. Sự chênh lệch đó ngày càng đẩy khoảng cách phát triển với một gia
tốc cao hơn... và như vậy, nguy cơ tụt hậucủa các nước nghèo, các nước chậm phát
triển đang biến thành hiện thực gay gắt.
Trong cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại cũng như quá trình toàn
cầu hoá, Việt Nam coi đây là một thời cơ tốt để phát triển đất nước, đồng thời nó
còn là một thách thức không nhỏ đối với một nước nghèo, chậm phát triển như
nước ta. Nếu chúng ta tận dụng được các yếu tố thuận lợi; tham gia vào các quan
hệ kinh tế toàn cầu sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp, các thành phần
kinh tế mở rộng kinh doanh, khai thác các nguồn lực về vốn, kinh nghiệm quản lý,

công nghệ, thị trường của thế giới để phát triển sản xuất trong nước, chuyển dịch
cơ cấu kinh tế theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hóa, nâng cao đời sống nhân
dân. Mặt khác, chúng ta cũng phải chấp nhận "luật chơi" với các nước giàu từ
những quy định, những cam kết rất khắt khe trong quan hệ song phương và đa
phương. Hội nhập càng sâu rộng, càng phải chấp nhận những yếu tố bất trắc khó
lường, phải chấp nhận cạnh tranh trên phạm vi quốc tế. Đối với nước ta còn phải
chấp nhận thách thức từ những âm mưu "diễn biến hoà bình".
Cùng với sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại, chủ
nghĩa tư bản đã từng bước điều chỉnh để thích nghi và phát triển. Chúng tăng cường


chống phá phong trào cách mạng thế giới mà trọng điểm là các nước xã hội chủ
nghĩa, trong đó có Việt Nam.
Trước hết, chủ nghĩa tư bản hiện đại đã tận dụng được những thành tựu của
khoa học công nghệ vào quá trình sản xuất xã hội, nhờ đó mà tạo ra năng suất lao
động cao hơn hẳn so với hệ thống xã hội chủ nghĩa. Cũng nhờ áp dụng thành công
những tiến bộ mới của khoa học công nghệ hiện đại mà chủ nghĩa tư bản đã đẩy
nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế, nâng cao thu nhập quốc dân, cải thiện mức sống
của người lao động và giải quyết được nhiều vấn đề xã hội.
Cùng với việc tận dụng các thành tựu khoa học công nghệ hiện đại, chủ nghĩa
tư bản thực hiện sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế , hình thành cơ cấu kinh tế hiện đại,
các ngành sản xuất vật chất tiếp tục được hiện đại hoá với tỷ trọng thay đổi theo
chiều hướng giảm, dịch vụ trở thành một bộ phận rất quan trọng của nền kinh tế
với tỷ trọng ngày càng cao. Các ngành có hàm lượng khoa học cao tăng nhanh,
tính hiện đại, tính năng động cao, vì vậy chiến lược điều chỉnh cơ cấu trở thành
một nội dung quan trọng trong phát triển kinh tế.
Về hình thức sở hữu chủ nghĩa tư bản cũng có những điểu chỉnh lớn, đa dạng
hoá các hình thức sở hữu: sở hữu độc quyền nhà nước, độc quyền xuyên quốc gia,
độc quyền liên nhà nước... Kết hợp sở hữu hỗn hợp giữa nhà nước, tư nhân, tập
đoàn tư bản lớn, thậm chí cả người lao động. Bên cạnh hình thức sở hữu tư liệu sản

xuất, với sở hữu lao động còn xuất hiện hình thức sở hữu trí tuệ. Các hình thức sở
hữu thay đổi làm cho các quan hệ quản lý, quan hệ phân phối cũng thay đổi theo và
có nhiều biểu hiện phong phú . Hiện nay chủ nghĩa tư bản đang chú ý mở rộng cổ
phần hoá tư bản đối với người lao động. Đây là một hành động thức thời và khôn
ngoan của nhà tư bản, một mặt họ huy động được tiền nhàn rỗi trong người lao
động, mặt khác biến người lao động trở thành những "ông chủ nhỏ" bên cạnh
những ông chủ thực sự, biến họ thành những người "cùng giai cấp", xoá nhoà ranh
giới giai cấp và xoa dịu đấu tranh của người lao động.
Trong quan hệ tổ chức quản lý có sự thay đổi, giai cấp tư sản khai thác tối đa
năng lực trí tuệ của người lao động vào việc phục vụ lợi ích cho giai cấp tư sản,
chừng mực nào đó họ tạo ra "dân chủ" cho người lao động. Dựa vào những thành
tựu mới của khoa học và tổng hợp các biện pháp kinh tế, tâm lý, xã hội để tạo ra
động lực tìm kiếm sáng tạo, làm tăng năng suất lao động, giảm chi phí, làm cho
người lao động dễ chấp nhận hơn trước.
Trong vấn đề phân phối, do phát triển kinh tế nên giai cấp tư sản có điều kiện để
làm "từ thiện" họ dành một phần lợi nhuận phân phối cho người lao động, dưới hình


thức tăng lương, chia tiền thưởng, trả lợi nhuận trong cổ phiếu tương đối phổ biến.
Nhà nước tư bản còn dành ngân sách giải quyết vấn đề phúc lợi công cộng... Tuy
nhiên, xét đến cùng thì nguồn gốc phân phối này là do kết quả của người lao động
bỏ ra chứ không phải của nhà tư sản.
Thực chất của quá trình điều chỉnh chiến lược này là mở rộng chế độ tham dự
đối với người lao động, làm cho họ nhầm tưởng mình đang có nhiều "quyền lợi"
hơn trong chế độ tư bản, họ không chỉ tham dự vào chế độ sở hữu tư nhân tư bản
mà vốn trước đây là điều cấm kỵ đối với người lao động, từ đó họ còn được tham
gia vào cả quá trình quản lý và quá trình phân phối. Với chế độ tham dự này giai
cấp tư sản đã "nhất cử lưỡng tiện" đạt cùng lúc cả hai mục đích kinh tế và chính trị.
Đó là một bước điều chỉnh phù hợp, do đó chủ nghĩa tư bản đã thích nghi và vẫn
còn tiềm năng phát triển.

Tuy nhiên, chủ nghĩa tư bản hiện đại vẫn gặp những giới hạn không thể vượt
qua do bản chất của chế độ tư nhân chiếm hữu tư liệu sản xuất qui định. Chủ nghĩa
tư bản vẫn dựa trên sự bóc lột giá trị thặng dư để tồn tại, song hình thức, phương
pháp và qui mô bóc lột đã có sự biến đổi, bằng cách đầu tư chiều sâu, áp dụng
thành tựu của khoa học công nghệ hiện đại; đầu tư trực tiếp ra nước ngoài, quốc tế
hoá quá trình bóc lột.
Trong chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại nhiều bất bình đẳng, giai cấp tư sản ngày
càng giàu lên, giai cấp công nhân và nhân dân lao động ngày càng bị bần cùng hoá
(mặc dù cuộc sống của họ được cải thiện hơn trước), tệ nạn xã hội ngày càng
nhiều, thất nghiệp, khủng hoảng vẫn tồn tại nhiều hình thức mới. Mâu thuẫn cơ
bản của chủ nghĩa tư bản vẫn tồn tại gay gắt và biểu hiện ngày càng phức tạp.
Trước tình hình đó chủ nghĩa tư bản đã liên tục có những bước điều chỉnh chính
sách đối nội và đối ngoại:
Về đối nội, chủ nghĩa tư bản đã tiến hành phát triển nền kinh tế theo chiều sâu,
cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước và tư nhân, đổi mới quản lý kinh tế, tăng phúc
lợi công cộng, quan tâm chính sách phát triển giáo dục, đào tạo thu hút nhân tài,
đẩy mạnh phát triển nghiên cứu khoa học, quan tâm phần nào đến cuộc sống của
người lao động tạo ra sự ổn định tạm thời cho chế độ tư bản chủ nghĩa.
Về đối ngoại, trong những thập kỷ 60, 70 chúng tăng cường chạy đua vũ trang
đẩy tình hình thế giới vào thế đối đầu căng thẳng. Chúng liên tục thay đổi chiến
lược chống phá cách mạng thế giới, chống phá hệ thống xã hội chủ nghĩa. Bằng
các chiến lược "ngăn chặn", "vượt trên ngăn chặn", chiến lược "mở rộng", "triệt


tiêu kẻ thù" và hiện nay là "diễn biến hoà bình", bạo loạn lật đổ, chủ nghĩa tư bản
đã không từ bất kỳ một âm mưu thủ đoạn nào đểchống phá cách mạng thế giới mà
trọng tâm là các nước xã hội chủ nghĩa. Chúng chống phá Đảng, chia rẽ Đảng, tuyên
truyền cho chủ nghĩa đa nguyên, xuyên tạc, bôi nhọ chủ nghĩa Mác - Lênin; kết
hợp "diễn biến hoà bình" từ bên trong, bên trên với bao vây, cấm vận, phá hoại về
kinh tế, cô lập về chính trị, ngoại giao và răn đe quân sự... Rõ ràng với bản chất

bóc lột và hiếu chiến của chủ nghĩa tư bản vẫn không thay đổi. Mặc dầu cho đến
nay một số nước xã hội chủ nghĩa đã tan rã, khối quân sự Vac-sa-va không còn,
chiến tranh lạnh kết thúc... Nhưng chủ nghĩa tư bản vẫn tiếp tục gây chiến tranh,
gây ra nhiều tội ác cho nhân loại. Đó là một trong những yếu tố khách quan đòi hỏi
Đảng ta phải đổi mới chính sách đối ngoại để có những đối sách mới phù hợp
trong quan hệ quốc tế.
Cùng với tình hình trên, những biến đổi to lớn, sâu sắc từ công cuộc cải cách,
cải tổ ở các nước xã hội chủ nghĩa cũng tác động mạnh mẽ đến quá trình đổi mới
tư duy đối ngoại của Đảng ta.
Cách mạng xã hội chủ nghĩa Tháng Mười Nga vĩ đại đã mở đầu cho một thời
đại mới, thời đại quá độ từ chủ nghĩa tư bản lên chủ nghĩa xã hội trên phạm vi toàn
thế giới. Từ đó đến nay lịch sử phát triển của chủ nghĩa xã hội hiện thực đã trải qua
nhiều bước thăng trầm với bao nhiêu biến cố dữ dội và phức tạp. Lịch sử thế giới
hiện đại đã ghi nhận vai trò to lớn của hệ thống xã hội chủ nghĩa thế giới như một
lực lượng hùng mạnh chi phối nhiều quá trình, nhiều lĩnh vực của thế giới hiện đại.
Chính hệ thống xã hội chủ nghĩa lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại đã thực thi
những lý tưởng cao đẹp của các thời đại khác nhau trước đó đã từng mơ ước như
tự do, bình đẳng, bình đẳng nam nữ, bình đẳng giữa các dân tộc, tôn giáo, màu da,
chấm dứt tình trạng dân tộc này áp bức dân tộc khác.
Quá trình tồn tại và phát triển của mình, chủ nghĩa xã hội hiện thực đã góp
phần quyết định vào việc tiêu diệt chủ nghĩa phát xít, một vết nhơ trong lịch sử
nhân loại. Cũng trong quá trình phát triển của mình chủ nghĩa xã hiện thực đã thực
hiện những bước tiến vĩ đại trong giải phóng giai cấp, từng bước tiến tới giải
phóng xã hội, giải phóng con người, đưa con người lên làm chủ cuộc sống của
mình, xoá bỏ chế độ người bóc lột người. Từ những nền kinh tế lạc hậu chậm phát
triển, trong bối cảnh chiến tranh tàn phá và sự bao vây cô lập của chủ nghĩa tư bản,
nhưng trong một thời gian ngắn hệ thống xã hội chủ nghĩa đã xây dựng và phát
triển nhanh chóng có những mặt, những lĩnh vực đuổi kịp và vượt chủ nghĩa tư
bản. Trong hệ thống xã hội chủ nghĩa, Liên Xô từ một nước phát triển trung bình



trở thành một siêu cường, có tiềm lực kinh tế, tiềm lực quốc phòng hùng mạnh, có
nền công nghiệp hiện đại, một nền khoa học và công nghiệp vũ trụ hàng đầu thế
giới, đi đầu trong chinh phục thiên nhiên, chinh phục vũ trụ... Hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới cũng giải quyết được nhiều vấn đề xã hội phức tạp mà qua mấy trăm
năm chủ
nghĩa tư bản không giải quyết nổi như những vấn đề về y tế, giáo dục, hạn chế
tệ nạn xã hội, hình thành trong xã hội những mối quan hệ tốt đẹp, một lối sống
mới, con người mới, tạo ra những động lực mạnh mẽ thúc đẩy xã hội phát triển.
Chủ nghĩa xã hội hiện thực còn là chỗ dựa vững chắc cho phong trào cách mạng
giải phóng dân tộc và phong trào đấu tranh của giai cấp công nhân và nhân dân lao
động các nước tư bản chủ nghĩa. Đó là những thành tựu to lớn mà hệ thống xã hội
chủ nghĩa đã ghi đậm dấu ấn vào lịch sử thế giới hiện đại, đó là những điều không
ai phủ nhận được.
Tuy nhiên, trong quá trình tồn tại và phát triển, bên cạnh những thành tựu to
lớn nói trên, chủ nghĩa xã hội hiện thực cũng bộc lộ những khuyết điểm, yếu kém
mà ngyên nhân sâu xa là do thiết kế mô hình xã hội chủ nghĩa giáo điều, máy móc.
Về kinh tế, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, không chấp nhận
kinh tế thị trường, vội vàng xoá bỏ các thành phần kinh tế "phi xã hội chủ nghĩa",
cơ cấu kinh tế bất hợp lý, công nghiệp hoá chủ yếu dựa vào công nghiệp nặng, quy
mô lớn; không tận dụng được thành tựu của cách mạng khoa học công nghệ hiện
đại, năng suất lao động xã hội thấp, chi phí lớn, hiệu quả kém, sản xuất không gắn
liền thị trường, không tuân theo quy luật cung cầu... làm triệt tiêu động lực phát
triển kinh tế.
Về chính trị, đường lối chính trị phổ biến là giáo điều, rập khuôn, máy móc,
nhận thức rơi vào chủ quan, duy ý chí, không tuân theo quy luật khách quan, nhận
thức lý luận rơi vào chủ nghĩa kinh nghiệm hoặc lý luận tách rời thực tiễn... Trong
xây dựng Nhà nước, nặng về hình thức, bộ máy cồng kềnh, quan liêu, kém hiệu
lực, nhiều nơi tình trạng tham nhũng, mất dân chủ nặng. Dẫn tới đời sống của nhân
dân khó khăn, một bộ phận nhân dân hoài nghi, dao động, thậm chí mất niềm tin

đối với Đảng, với chế độ xã hội chủ nghĩa. Trong quan hệ quốc tế thì tăng cường
chạy đua vũ trang, do đó, bị cuốn vào cuộc chiến tranh lạnh, luôn luôn ở tình trạng
đối đầu căng thẳng. Trong nội bộ hệ thống xã hội chủ nghĩa vẫn còn mối quan hệ
bất bình đẳng, bao cấp, áp đặt... Hậu quả là bước vào cuối thập niên 70 và những
năm 80, cả hệ thống xã hội chủ nghĩa rơi vào khủng hoảng toàn diện về kinh tế - xã
hội. Đứng trước thực trạng đó, các nước đã tiến hành cải cách, mở cửa, cải tổ, đổi
mới, nhằm đem lại sức sống mới trong đời sống hiện thực, khắc phục những sai lầm
trước đây. Thế nhưng, điều đáng tiếc là trong quá trình cải tổ, cải cách, đổi mới ở một


số nước lại không diễn ra như mong muốn. Đảng Cộng sản đã phạm những sai lầm
nghiêm trọng về đường lối cải tổ, sai lầm về mục tiêu và cả hình thức, bước đi. Ở
Liên Xô lúc đầu tập trung vào "cải tổ" kinh tế, sau đó lại tập trung vào "cải tổ" chính
trị, từ bỏ những giá trị truyền thống, xa rời những nguyên tắc cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, đi chệch quỹ đạo xã hội chủ nghĩa. Những người lãnh đạo cao nhất của
Đảng và Nhà nước Xô Viết trở thành những kẻ phản bội, cơ hội, xét lại. Bên cạnh
đó chủ nghĩa đế quốc lại tăng cường chống phá bằng chiến lược "diễn biến hoà
bình" làm cho các nước xã hội chủ nghĩa Đông Âu và Liên Xô tan vỡ, Đảng Cộng
sản mất quyền lãnh đạo.
Sự sup đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa ở các nước Đông Âu và Liên Xô đã làm
thay đổi cục diện tình hình thế giới, thay đổi tương quan so sánh lực lượng không có
lợi cho cách mạng. Nước ta mất đi một chỗ dựa vững chắc cả về chính trị tinh thần,
cả về tiềm lực quốc phòng, kinh tế. Mặc dù đây là sự khủng hoảng và sụp đổ của một
mô hình chủ nghĩa xã hội cụ thể chứ không phải sụp đổ một lý tưởng, một học
thuyết cách mạng và khoa học, nhưng thực tế đó lại đặt cách mạng Việt Nam trước
những thử thách mới. Đòi hỏi Đảng ta phải có sự chuyển hướng cả trong tư duy và
hành động, cả chủ trương và biện pháp đối ngoại nhằm tạo ra môi trường ổn định
tiếp tục đưa cách mạng tiến lên.
Như vậy, sự phát triển của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại và
quá trình điều chỉnh thích nghi của chủ nghĩa tư bản, cùng với sự khủng hoảng dẫn

tới sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên Xô là những nhân
tố chủ yếu tác động vào quá trình đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có quá trình
đổi mới tư duy và đổi mới hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta. Bên cạnh
đó, loài người đang đứng trước những vấn đề toàn cầu như môi trường sinh thái ô
nhiễm, sự gia tăng dân số nhanh, bệnh tật hiểm nghèo, tội phạm quốc tế, nguy cơ
chiến tranh... là những vấn đề đòi hỏi cộng đồng quốc tế, có chung tiếng nói và sự
phối hợp hiệu quả giữa các quốc gia để cùng giải quyết. Trong bối cảnh đó, đòi hỏi
nước ta phải hoà nhập cùng cộng đồng quốc tế, vì một thế giới hoà bình, ổn định
và phát triển.
1.1.2. Tình hình trong nước có những thuận lợi cơ bản, song cũng đứng trước
nhiều thử thách nghiêm trọng, đòi hỏi Đảng phải đổi mới tư duy đối ngoại
Sau thắng lợi hoàn toàn của cuộc kháng chiến chống Mỹ mùa Xuân 1975, một kỷ
nguyên mới đã mở ra trên đất nước ta: Hoà bình, độc lập, thống nhất, cả nước đi
lên chủ nghĩa xã hội, đồng thời sau thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Mỹ,
cứu nước đã nâng cao vị thế và uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Tranh
thủ được điều kiện thuận lợi, Đảng và Nhà nước ta đã đẩy mạnh công cuộc tái


thiết xây dựng đất nước và đã giành được những thành tựu quan trọng về phát
triển kinh tế - xã hội, về an ninh quốc phòng và đối ngoại. Trong một thời gian
ngắn ta đã đẩy mạnh mở rộng giao lưu và hợp tác quốc tế với các nước trong
khu vực châu Á, châu Phi và châu Mỹ la tinh.
Tuy nhiên, công cuộc xây dựng tiến hành chưa được bao lâu thì Việt Nam lại
đứng trước những thử thách mới nghiêm trọng trong quan hệ quốc tế. Quan hệ Việt
Nam với các nước láng giềng có chung đường biên giới xuất hiện nhiều trắc trở và
phát triển theo chiều hướng ngày càng phức tạp. Các thế lực thù địch trong và
ngoài khu vực phối hợp chống phá Việt Nam.
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng Cộng sản Việt Nam tháng 12
năm 1976 đã đề ra đường lối chung cách mạng xã hội chủ nghĩa trong giai đoạn
mới là: "Nắm vững chuyên chính vô sản, phát huy quyền làm chủ tập thể của nhân

dân lao động, tiến hành đồng thời ba cuộc cách mạng: cách mạng về quan hệ sản
xuất, cách mạng khoa học - kỹ thuật, cách mạng tư tưởng và văn hoá, trong đó
cách mạng khoa học - kỹ thuật là then chốt; đẩy mạnh công nghiệp hoá là nhiệm
vụ trung tâm của cả thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội; xây dựng nền sản xuất lớn
xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền văn hoá mới; xây dựng con người mới xã hội chủ
nghĩa; xoá bỏ chế độ người bóc lột người; xoá bỏ nghèo nàn và lạc hậu, không
ngừng đề cao cảnh giác thường xuyên củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh chính
trị và trật tự an toàn xã hội, xây dựng thành công Tổ quốc Việt Nam hoà bình, độc
lập, thống nhất và xã hội chủ nghĩa; góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh của
nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội" [15,
tr.67].
Về đối ngoại, Đại hội lần thứ IV của Đảng đề ra nhiệm vụ: "Ra sức tranh thủ
những điều kiện quốc tế thuận lợi để nhanh chóng hàn gắn vết thương chiến tranh,
khôi phục và phát triển kinh tế, phát triển văn hoá, khoa học - kỹ thuật, củng cố
quốc phòng, xây dựng cơ sở vật chất kỹ thuật của chủ nghĩa xã hội ở nước ta; đồng
thời tiếp tục kề vai sát cánh với các nước xã hội chủ nghĩa anh em và tất cả các dân
tộc trên thế giới đấu tranh vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã
hội" [15, tr.178].
Thực tiễn 10 năm xây dựng chủ nghĩa xã hội (1976 - 1986) dưới sự lãnh đạo của
Đảng, cách mạng Việt Nam đã đạt được những thành tựu quan trọng về kinh tế - xã
hội, quốc phòng - an ninh và đối ngoại. Công cuộc cải tạo xã hội chủ nghĩa đã tiến
thêm một bước, đại bộ phận nông dân Nam Bộ đi vào con đường sản xuất tập thể,
đồng bào các dân tộc ở Tây Nguyên có nhiều tiến bộ trong sự nghiệp xây dựng cuộc
sống mới. Cùng với việc áp dụng những thành tựu về khoa học - kỹ thuật, việc thực
hiện khoán sản phẩm cuối cùng đến người lao động trong nông nghiệp đã góp phần
tạo nên bước phát triển trong sản xuất nông nghiệp.


Nhà nước và nhân dân ta đã cố gắng chăm lo bảo đảm được các nhu cầu quốc
phòng - an ninh, thi hành chính sách hậu phương quân đội. Phát triển sự nghiệp

văn hoá, thể thao, giáo dục, y tế góp phần quan trọng vào việc xây dựng nền văn
hoá mới, con người mới. Các hoạt động khoa học - kỹ thuật được triển khai góp
phần thúc đẩy sản xuất, nhất là sản xuất nông nghiệp. Trong cả nước xuất hiện
nhiều cơ sở sản xuất kinh doanh giỏi, nhiều địa phương, nhiều ngành có cách làm
ăn năng động sáng tạo và đạt được những thành tích đáng phấn khởi. Trong chiến
đấu bảo vệ Tổ quốc, chúng ta đã làm thất bại thêm một bước quan trọng âm mưu
phá hoại của kẻ thù, củng cố hơn nữa khả năng quốc phòng của đất nước, củng cố
thế trận chiến tranh nhân dân, củng cố chính trị ở địa bàn xung yếu, xây dựng lực
lượng dự bị. Quân đội ta đã có bước phát triển theo hướng chính quy, hiện đại; sức
mạnh chiến đấu được nâng cao. Lực lượng dân quân, tự vệ được tăng cường cả về
số lượng và chất lượng. Việc kết hợp kinh tế với quốc phòng và huy động quân đội
tham gia xây dựng kinh tế đạt một số hiệu quả thiết thực, nhất là xây dựng các
công trình công nghiệp và các công trình giao thông.
Quân và dân ta tiếp tục thực hiện các nghĩa vụ quốc tế với Lào và Cămpuchia,
củng cố liên minh chiến lược 3 nước trên bán đảo Đông Dương, cùng nhau tăng
thêm thế và lực cho cách mạng của mỗi nước.
Những thành tựu đạt được trong thực hiện hai nhiệm vụ chiến lược gắn liền với
thành công trong lĩnh vực đối ngoại, trong đó sự tăng cường quan hệ và hợp tác toàn
diện với Liên Xô, Lào, Cămpuchia và các nước xã hội chủ nghĩa anh em đã tạo cho
cách mạng Việt Nam những nhân tố mới để tiếp tục tiến lên.
Bên cạnh đó, chúng ta cũng đứng trước nhiều khó khăn thử thách gay gắt. Đảng
cũng chỉ ra những sai lầm khuyết điểm của mình, thể hiện: lạc hậu về nhận thức lý
luận, vừa "tả khuynh" vừa "hữu khuynh" trong việc tổ chức thực hiện; có nhiều sai
sót trong đánh giá tình hình; chưa nhận thức đầy đủ thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội là một quá trình lịch sử tương đối dài, phải trải qua nhiều chặng đường; tư
tưởng chủ quan nóng vội, phạm sai lầm trong xác định mục tiêu và bước đi, trong
xây dựng củng cố quan hệ sản xuất mới, sử dụng các thành phần kinh tế, về phân
phối lưu thông, về xây dựng cơ sở vật chất - kỹ thuật cho chủ nghĩa xã hội, về thực
hiện chuyên chính vô sản... Thời kỳ này chúng ta cũng mắc nhiều sai lầm nhất là
về chính sách kinh tế, duy trì quá lâu cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, xoá bỏ

các thành phần kinh tế "phi" xã hội chủ nghĩa; xây dựng nền kinh tế thuần nhất có
2 hình thức sở hữu chủ yếu quốc doanh và tập thể. Hậu quả là: lưu thông phân phối
rối ren, cơ cấu kinh tế mất cân đối nghiêm trọng, quan hệ sản xuất xã hội chủ nghĩa
chậm được củng cố, đời sống của nhân dân khó khăn, người lao động không có
việc làm, hiện tượng tiêu cực trong xã hội phát triển, kỷ cương phép nước không
nghiêm, cán bộ quan liêu, nạn tham nhũng lan tràn... Về đối ngoại, thời kỳ này


cũng gặp nhiều khó khăn do chúng ta chưa chuyển hướng kịp thời hoạt động đối
ngoại cho phù hợp với tình hình mới, tư duy trên lĩnh vực đối ngoại còn thụ động,
theo lối mòn cũ, chưa xoay chuyển kịp với tình hình, nhận định, đánh giá tình hình
về bạn thù còn cứng nhắc, cho nên chỉ tập trung vào quan hệ với các nước trong phe
xã hội chủ nghĩa mà chủ yếu là Liên Xô mà chưa chú ý đến quan hệ với các nước
trong khu vực, các nước có chế độ chính trị khác ta và các tổ chức quốc tế... Tất cả
những hạn chế đó đều ảnh hưởng trực tiếp đến sự phát triển của cách mạng nước ta,
chưa tận dụng và khai thác được nhiều tiềm năng quốc tế. Thực trạng đó, đòi hỏi
Đảng ta phải đổi mới tư duy, đổi mới đường lối và hệ thống các chủ trương, chính
sách đối ngoại cho phù hợp với điều kiện mới của tình hình quốc tế và tình hình
trong nước, nhằm tạo ra môi trường thuận lợi cho công cuộc đổi mới, tranh thủ
được nhiều hơn nữa tiềm năng và các nguồn lực từ bên ngoài phục vụ cho sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa.
Tóm lại, trong những thập niên cuối cùng của thế kỷ XX, thế giới có nhiều biến
động phức tạp trên tất cả các mặt của đời sống kinh tế, chính trị, xã hội và quan hệ
quốc tế. Nó có tác động ảnh hưởng rất to lớn tới tình hình mọi mặt của mọi quốc
gia trong cộng đồng quốc tế. Bên cạnh đó, cách mạng Việt Nam đã giành được
nhiều thành tựu quan trọng, song cũng đứng trước nhiều khó khăn, thách thức.
Nhận thức đúng đắn thực trạng đó, Đảng Cộng sản Việt Nam đã đề xướng đường
lối đổi mới toàn diện đất nước, trong đó có đổi mới tư duy đối ngoại mà thực chất
là từng bước đổi mới đường lối, đổi mới chính sách và các chủ trương, biện pháp
trong công tác đối ngoại cho phù hợp với tình hình trong nước và quốc tế. Cho

phép khai thác hiệu quả nguồn lực bên trong với nguồn lực bên ngoài, sức mạnh
dân tộc với sức mạnh thời đại, phục vụ cho sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước.
1.2. Quá trình đổi mới tư duy đối ngoại của Đảng từ 1986 đến 2001
1.2.1. Chủ trương thêm bạn bớt thù, chọn khâu đột phá, từng bước chuyển
hướng chiến lược đối ngoại giai đoạn 1986 - 1991
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng (12/1986) đề ra đường lối đổi
mới toàn diện đất nước, đây là một bước ngoặt lịch sử trên con đường xây dựng và
bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Với tinh thần nhìn thẳng vào sự thật,
đánh giá đúng sự thật, nói rõ sự thật, Đại hội đã đánh giá khách quan thành tựu,
những khuyết điểm và nguyên nhân của 10 năm (1976 - 1986). Trên cơ sở đó Đại
hội kết luận: "Đối với nước ta, đổi mới là yêu cầu bức thiết của sự nghiệp cách
mạng, là vấn đề có ý nghĩa sống còn" [17, tr.125]. Đổi mới theo tinh thần Đại hội
VI của Đảng là đổi mới toàn diện, đồng bộ, trước hết là đổi mới tư duy kinh tế. Đổi
mới không phải là phủ định sạch trơn mà phải biết kế thừa những thành quả của


những năm trước đó, trong cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân và cách mạng xã
hội chủ nghĩa; đồng thời phải biết từ bỏ những sai lầm vừa qua; đổi mới toàn diện,
đồng bộ nhưng phải có bước đi, hình thức phù hợp để đem lại sức sống cho chủ
nghĩa xã hội nhiều hơn. Một chế độ xã hội xã hội chủ nghĩa trên cơ sở những
nguyên lý phổ biến của chủ nghĩa Mác - Lênin, phù hợp với thực tiễn Việt Nam và
thời đại của chúng ta.
Trên cơ sở phân tích, đánh giá, nhận định tình hình thế giới và trong nước, Đại
hội xác định nhiệm vụ đối ngoại của cách mạng Việt Nam trong giai đoạn mới là:
"Ra sức kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại phấn đấu giữ vững hoà
bình ở Đông Dương, góp phần tích cực giữ vững hoà bình ở Đông Nam Á và trên
thế giới, tăng cường quan hệ đặc biệt giữa ba nước Đông Dương, tăng cường quan
hệ hữu nghị và hợp tác toàn diện với Liên Xô và các nước trong cộng đồng xã hội
chủ nghĩa, tranh thủ điều kiện quốc tế thuận lợi cho sự nghiệp xây dựng chủ nghĩa
xã hội và bảo vệ Tổ quốc, đồng thời tích cực góp phần vào cuộc đấu tranh chung

của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và chủ nghĩa xã hội"
[17, tr.99]. Đường lối đối ngoại được Đại hội VI xác định là hoàn toàn đúng đắn,
bởi nó được xây dựng trên cơ sở thế giới quan khoa học Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, phù hợp với những điều kiện thực tiễn Việt Nam và những biến động
của tình hình quốc tế và trong khu vực.
Lênin đã chỉ ra rằng: "... nghệ thuật mềm dẻo, biết tính đến những điều kiện
khách quan đã thay đổi mà nhanh chóng và đột nhiên thay đổi sách lược, chọn một
con đường khác để đi tới đích của chúng ta, nếu con đường cũ trong một thời gian
nhất định nào đó xem ra không còn thích hợp nữa" [32, tr.189].
Thành công hay thất bại trong đường lối và chính sách đối ngoại trong mọi
quốc gia, ở mọi thời đại ngoài việc phải "kiên định về chiến lược, mềm dẻo về sách
lược", "dĩ bất biến, ứng vạn biến" còn phụ thuộc vào một phần rất quan trọng là
thực lực của đất nước. Điều này đã được Hồ Chí Minh chỉ rõ: "Thực lực mạnh,
ngoại giao sẽ thắng lợi. Thực lực là cái chiêng, ngoại giao là cái tiếng, chiêng có
to, tiếng mới lớn" [36, tr.126].
Trong lúc nền kinh tế nước ta còn yếu kém, lạc hậu, cơ sở vật chất - kỹ thuật
còn nghèo nàn, đời sống của nhân dân và cán bộ đảng viên còn gặp nhiều khó khăn
...; cộng với sự chống phá quyết liệt của kẻ thù, đòi hỏi Đảng phải đổi mới chính
sách đối ngoại, coi đối ngoại là một đối sách quan trọng để đảm bảo độc lập chủ
quyền, toàn vẹn lãnh thổ, đồng thời mở rộng hội nhập quốc tế để thu hút nguồn lực
từ bên ngoài như: vốn, khoa học công nghệ, kinh nghiệm quản lý kinh tế ... để xây
dựng và phát triển đất nước. Đại hội VI xác định quan điểm chỉ đạo công tác đối
ngoại là: "Giương cao ngọn cờ hoà bình, độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, kết
hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân,


giữ vững độc lập tự chủ, tăng cường hợp tác và làm tốt nghĩa vụ quốc tế đối với
nhân dân thế giới, trong lúc tranh thủ hoà bình ổn định để tập trung xây dựng đất
nước, phát triển kinh tế, đồng thời cảnh giác bảo vệ anh ninh, phòng thủ đất nước,
tuyệt đối không lơ là mất cảnh giác, coi nhẹ nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.

Đây là sự vận dụng sáng tạo học thuyết của chủ nghĩa Mác - Lênin về sứ mệnh
lịch sử của giai cấp vô sản trong điều kiện lịch sử mới. Giai cấp vô sản chỉ có thể
thực hiện thắng lợi sứ mệnh của mình khi biết tổ chức và đoàn kết lại, nghĩa là phải
biết kết hợp chủ nghĩa yêu nước chân chính với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp
công nhân. Đồng thời quan điểm trên cũng xác định tính thống nhất hữu cơ giữa
nhiệm vụ đối ngoại với nhiệm vụ xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã hội
chủ nghĩa.
Cùng với việc xác định rõ đường lối, quan điểm đổi mới, Đại hội VI của Đảng
cũng xác định chính sách đối ngoại đối với từng nước, từng khu vực, cụ thể là: Đối
với Liên Xô và các nước xã hội chủ nghĩa, Việt Nam xác định Liên Xô là đối tác
quan trọng nhất. Liên Xô luôn đóng vai trò quan trọng trong hệ thống xã hội chủ
nghĩa thế giới, luôn có ảnh hưởng sâu sắc, giữ vai trò quyết định, chi phối quá trình
phát triển của thế giới và của hệ thống xã hội chủ nghĩa. Sự giúp đỡ của Liên Xô
đối với Việt Nam là rất to lớn và hiệu quả. Tính đến năm 1986, sau hơn 30 năm
Liên Xô và Việt Nam ký các hiệp định thương mại, trao đổi hàng hoá giữa hai
nước tăng 100 lần, Liên Xô đã giúp Việt Nam hơn 200 dự án trong các ngành kinh
tế quan trọng. Liên Xô đã đào tạo "miễn phí" cho Việt Nam một đội ngũ chuyên
gia với khoảng 20.000 người có trình độ đại học; 2.000 phó tiến sĩ, 70 tiến sĩ trong
nhiều lĩnh vực khoa học và ngành nghề khác nhau. Với các nước xã hội chủ nghĩa
khác, Đại hội VI xác định: "Tiếp tục tăng cường quan hệ hữu nghị và hợp tác với
các nước thành viên Hội đồng tương trợ kinh tế và mở rộng quan hệ với các nước
xã hội chủ nghĩa khác" [17, tr.101]. Việt nam và các nước xã hội chủ nghĩa
hợp tác từ hình thức viện trợ kinh tế, kỹ thuật tiến tới hợp tác toàn diện trên mọi
lĩnh vực kinh tế - xã hội, văn hoá, khoa học, an ninh, quốc phòng. Việt Nam gia
nhập Hội đồng tương trợ kinh tế (SEV) (29/6/1978), cùng các nước ký nhiều hiệp
định song phương và đa phương. Với Trung Quốc, Nghị quyết Đại hội VI xác
định: "Việt nam sẵn sàng đàm phán với Trung Quốc bất cứ lúc nào, bất cứ cấp
nào và bất cứ ở đâu nhằm bình thường hoá quan hệ giữa hai nước, vì lợi ích của
nhân dân hai nước, vì hoà bình ở Đông Nam Á và trên thế giới" [17, tr.107]. Đến
đây quan hệ Việt - Trung đã được xác định cụ thể hơn trước. Sự thay đổi đó làm

dịu đi những căng thẳng vốn có giữa hai nước, phù hợp với xu thế chung của thời
đại và nguyện vọng của nhân dân hai nước Việt Nam - Trung Quốc. Đối với
phong trào giải phóng dân tộc, thái độ trước sau như một của Đảng và Nhà nước
Việt Nam là ủng hộ phong trào. Sau khi Việt Nam giành được độc lập, thống nhất
đất nước, nhiều nước vốn là thuộc địa của chủ nghĩa đế quốc đã vùng lên giành


độc lập, những nước này có chung nguyện vọng là được sống trong hoà bình,
bình đẳng giữa các quốc gia, cùng hợp tác xây dựng đất nước, hội nhập với cộng
đồng thế giới. ủng hộ phong trào giải phóng dân tộc, khẳng định lập trường của
Việt Nam về mong muốn có một thế giới hoà bình, bình đẳng, hợp tác giữa các
quốc gia, không có bất kỳ sự phân biệt, kỳ thị nào.
Đối với các nước tư bản chủ nghĩa và các nước phương Tây, Đảng ta chủ
trương quan hệ bình đẳng cùng có lợi, ủng hộ mạnh mẽ cuộc đấu tranh của giai cấp
công nhân và nhân dân lao động ở các nước tư bản chủ nghĩa chống áp bức, bóc
lột, chống chạy đua vũ trang, vì hoà bình, dân chủ, việc làm và cải thiện mức sống
cho người lao động. ủng hộ chính sách đoàn kết, tập hợp mọi lực lượng dân chủ,
tiến bộ của các Đảng Cộng sản và công nhân..
Đối với Mỹ, Đảng và Nhà nước Việt Nam chủ trương: "Tiếp tục bàn bạc với
Mỹ để giải quyết vấn đề nhân đạo do chiến tranh để lại và cùng cải thiện quan hệ
với Mỹ về lợi ích của hoà bình, ổn định ở Đông Nam Á" [17, tr.108].
Đối với các nước có chế độ chính trị khác nhau, Việt Nam "...ủng hộ chính sách
cùng tồn tại hoà bình giữa các nước có chế độ chính trị và xã hội khác nhau, loại
trừ chiến tranh xâm lược và mọi hình thức của chủ nghĩa khủng bố, nhất là chủ
nghĩa khủng bố nhà nước mà đế quốc Mỹ coi là quốc sách của họ" [17, tr.105].
Như vậy, Đại hội VI (12/1986) đã quyết định đổi mới tư duy trên mọi lĩnh
vực của đời sống kinh tế - xã hội, trong đó tư duy đối ngoại đã có những chuyển
động tích cực theo hướng "mềm dẻo" và "sẵn sàng đối thoại". Điều đó đánh dấu
những tiến triển bước đầu của Đảng về đổi mới tư duy đối ngoại.
Tiếp theo Nghị quyết Đại hội VI, tháng 5 năm 1988 Bộ Chính trị Ban Chấp

hành Trung ương Đảng khoá VI đã họp và thông qua Nghị quyết 13 về: Nhiệm vụ
và chính sách đối ngoại trong tình hình mới. Đây là mốc quan trọng trong việc đổi
mới tư duy đối ngoại theo định hướng mới. Nghị quyết nhấn mạnh: "Lợi ích cao
nhất của Đảng và nhân dân ta sau khi giải phóng miền Nam cả nước thống nhất đi
lên chủ nghĩa xã hội là phải củng cố và giữ vững hoà bình để tập trung sức xây
dựng và phát triển kinh tế. Đó là nhân tố quyết định củng cố và giữ vững an ninh
và độc lập" [42, tr.3].
Ở Việt Nam lúc này, mục tiêu đặt ra hàng đầu là phải củng cố và giữ vững hoà
bình, để tập trung sức xây dựng và phát triển kinh tế. Trong tình hình mới ta có
những thuận lợi lớn để có thể giữ vững hoà bình và phát triển kinh tế, bên cạnh đó,
Bộ Chính trị cũng chỉ ra những hạn chế, yếu kém về kinh tế, bị bao vây về kinh tế,
cô lập về chính trị, sẽ thành nguy cơ lớn đối với an ninh, chủ quyền đất nước, sẽ
ảnh hưởng xấu đến quan hệ của nước ta với nước khác trong khu vực và trên thế


giới. Bộ Chính trị kết luận: "Cần có quan điểm mới về an ninh và phát triển trong
thời đại ngày nay để khẳng định mạnh mẽ phương hướng ưu tiên tập trung cho sự
nghiệp giữ vững hoà bình và phát triển kinh tế... Với một nền kinh tế mạnh, một
nền quốc phòng vừa đủ mạnh cùng với sự mở rộng quan hệ hợp tác quốc tế, chúng
ta sẽ càng có nhiều khả năng giữ vững độc lập và xây dựng thành công chủ nghĩa
xã hội hơn" [42, tr.3-4]. Để thực hiện mục tiêu "giữ vững hoà bình phát triển kinh
tế", Bộ Chính trị chỉ đạo tập trung giải quyết những vấn đề sau: ra sức lợi dụng sự
phát triển khoa học, công nghệ và xu thế quốc tế hoá của nền kinh tế thế giới. Kiên
quyết mở rộng quan hệ quốc tế và hợp tác quốc tế vào làm kinh tế thực sự có hiệu
quả. Vừa nâng cao quan hệ hợp tác với Liên Xô, Lào, Cămpuchia và các nước xã
hội chủ nghĩa khác vừa ra sức đa dạng hoá quan hệ, tăng cường quan hệ với các
nước, chú trọng ấn Độ, Inđônêxia, các nước Đông Nam Á - Thái Bình Dương, các
nước công nghiệp mới...
Từng bước giảm quân số và từng bước giảm chi phí quốc phòng tới mức tối
thiểu, cần thiết vừa để dồn sức phát triển kinh tế vừa để biểu thị mạnh mẽ với thế

giới... quyết tâm của ta là giữ vững hoà bình và phát triển kinh tế. Trong quan hệ
quốc tế chúng ta phải "thêm bạn, bớt thù", ra sức tranh thủ các nước anh em bầu
bạn và dư luận rộng rãi trên thế giới phân hoá hàng ngũ đối phương làm thất bại
âm mưu và thủ đoạn bao vây, cô lập ta về kinh tế, chính trị, kiên quyết chủ động
chuyển cuộc đấu tranh từ tình trạng đối đầu hiện nay sang đấu tranh và hợp tác
trong cùng tồn tại hoà bình.
Rõ ràng, đây là những vấn đề mới, rất quan trọng trong tư duy đối ngoại của
Đảng mà Đại hội VI chưa đề cập tới. Tư tưởng "đa dạng hoá quan hệ", "thêm bạn
bớt thù" và "kiên quyết chủ động chuyển cuộc đấu tranh từ tình trạng đối đầu hiện
nay sang đấu tranh và hợp tác trong cùng tồn tại hoà bình".
Những vấn đề trên đây đã thể hiện tính sáng tạo, linh hoạt của Đảng ta về việc
vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh vào hoàn cảnh
mới của đất nước. Một mặt, mở rộng quan hệ quốc tế, tranh thủ được nhiều bạn
đồng minh, tránh phải đối đầu với nhiều kẻ thù cùng một lúc. Mặt khác, chủ trương
trên của ta thể hiện tính chủ động và thiện chí của Đảng và Nhà nước ta trong quan
hệ quốc tế. Lênin chỉ ra rằng: "Chỉ có thể thắng một kẻ địch mạnh hơn bằng một
nỗ lực hết sức lớn và với điều kiện bắt buộc phải lợi dụng hết sức tỷ mỷ, hết sức
chăm chú, hết sức cẩn thận, hết sức khôn khéo bất cứ một rạn nứt nhỏ bé nhất nào
giữa các kẻ thù... cũng như lợi dụng mọi khả năng dù nhỏ bé nhất, để có được một
bạn đồng minh tạm thời, bấp bênh có điều kiện, ít chắc chắn và ít đáng tin cậy"
[31, tr.69]. Lịch sử ngoại giao Việt Nam đã cho thấy rằng, ngay từ những ngày đầu


mới thành lập nước, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã hết sức khéo léo thể hiện tư tưởng
"thêm bạn, bớt thù" và "hết sức tránh một mình phải đối phó với nhiều kẻ thù trong
một lúc". Đồng thời Nghị quyết chỉ đạo một số chính sách lớn về đối ngoại như
sau:
Đối với Liên Xô, tiếp tục coi Liên Xô là đồng minh chiến lược quan trọng nhất
của ta, quan hệ hợp tác toàn diện với Liên Xô có ý nghĩa vô cùng to lớn đối với sự
nghiệp xây dựng đất nước và bảo vệ Tổ quốc. Đối với Trung Quốc, ta chủ trương

sớm sửa đổi điều ghi trong Hiến pháp chống chủ nghĩa bành trướng bá quyền Trung
Quốc, chấm dứt đả kích lẫn nhau..., mở rộng tiếp xúc với Trung Quốc bằng nhiều
hình thức..., cần phòng ngừa những tư tưởng lệch lạc có thể xảy ra trong nhân dân.
Quá trình chuẩn bị dư luận khi có sự chuyển hướng chiến lược với Trung Quốc là:
không chỉ thấy Trung Quốc có tư tưởng bá quyền nước lớn mà không thấy Trung
Quốc là một nước xã hội chủ nghĩa, ngược lại, không chỉ thấy Trung Quốc là một
nước xã hội chủ nghĩa mà không
thấy tư tưởng bá quyền nước lớn trong giới cầm quyền Trung Quốc. Đối với
Lào và Cămpuchia, tăng cường hợp tác nâng cao hơn nữa quan hệ với Lào, thực
hiện quyền tự quyết của các dân tộc, chuẩn bị rút hết quân tình nguyện khỏi
Cămpuchia và Lào, tạo điều kiện cho Cămpuchia tiếp tục đấu tranh trong khuôn khổ
hoà bình ở Đông Nam Á. Đối với ấn Độ, cần có chính sách toàn diện tăng cường và
nâng cao hiệu quả hợp tác nhiều mặt, tạo nên sự gắn bó về lợi ích làm cơ sở cho sự
hợp tác lâu dài giữa hai nước. Đối với Mỹ, ASEAN và phương Tây, ta không đối lập
nhóm ba nước Đông Dương với ASEAN, mở rộng quan hệ hợp tác kinh tế, khoa học
kỹ thuật và văn hoá với các nước này bằng thương lượng, thúc đẩy việc xây dựng
khu vực hoà bình, ổn định, hữu nghị và hợp tác. Đối với Mỹ, cần có chính sách mới
toàn diện với Mỹ nhằm tranh thủ dư luận nhân dân Mỹ và thế giới phân hoá Mỹ...
Ta cần giải quyết vấn đề MIA (người Mỹ mất tích), vấn đề người di tản ra đi có trật
tự, mở đàm phán về việc cho người được thả ra khỏi các trại cải tạo đi Mỹ, khuyến
khích Mỹ vào Việt Nam trao đổi khoa học kỹ thuật văn hoá hai nước. Đối với
phương Tây, cần tranh thủ từng bước mở rộng quan hệ với các nước phương Tây, có
chính sách tích cực thúc đẩy quan hệ kinh tế, khoa học kỹ thuật, trước hết là với Pháp,
Thụy Điển, Phần Lan, các nước Tây Âu, Bắc Âu khác và Nhật Bản, Oxtrâylia... Cần
mở rộng quan hệ với các nước công nghiệp mới, giải quyết đúng đắn các mâu thuẫn
giữa mặt chính trị và kinh tế như Hàn Quốc và Đài Loan.
Nghị quyết Đại hội VI đề ra đường lối đổi mới toàn diện đất nước, Nghị
quyết 13 Bộ Chính trị (5/1988) là mốc đánh dấu sự chuyển hướng chỉ đạo chiến
lược đối ngoại trong giai đoạn cách mạng mới. Nghị quyết 13Bộ Chính trị là tiền
đề tạo ra những bước đột phá quan trọng trong công tác đối ngoại.



Thứ nhất, với chủ trương "thêm bạn bớt thù" và chủ trương "đa dạng hoá quan
hệ đối ngoại" nhằm tập trung sức giữ vững hoà bình, phát triển kinh tế. Việt Nam
đã chuyển đổi lập trường từ đối đầu sang đối thoại, mở ra một thời kỳ mới trong
quan hệ quốc tế.
Thứ hai, trên cơ sở những tiến bộ đạt được sau Nghị quyết 13 Bộ Chính trị,
việc quyết định rút toàn bộ quân tình nguyện Việt Nam ở Cămpuchia trước thời
hạn dự định một năm (26/9/1989) là một quyết định mang tính đột phá. Việc rút
hết quân tình nguyện Việt Nam ở Cămpuchia, để người Cămpuchia tự giải quyết
công việc nội bộ của mình, chứng tỏ tinh thần quốc tế vô sản trong sáng trước sau
như một của Việt Nam với bạn bè quốc tế. Việc rút quân tình nguyện Việt Nam
khỏi Cămpuchia còn là một đòn đánh vào những luận điệu thù địch, xuyên tạc Việt
Nam "xâm lược Cămpuchia" và lấy đó làm nguyên cớ cho việc gây áp lực, bao
vây, cấm vận và cô lập ta về kinh tế, chính trị. Giải quyết "êm đẹp" vấn đề
Cămpuchia giúp cho nhiều quốc gia trên thế giới hiểu đúng Việt Nam hơn, ngăn
chặn dư luận không thiện chí, xuyên tạc sự thật của các thế lực thù địch.
Thứ ba, giải quyết vấn đề Cămpuchia cũng tạo ra cơ sở quan trọng để tiến tới
bình thường hoá Việt Nam - Trung Quốc, từng bước cải thiện quan hệ với Mỹ, các
nước Đông Nam Á và các nước phương Tây.
Như vậy, với việc chuyển hướng chỉ đạo chiến lược đối ngoại kịp thời. Công
tác đối ngoại thời kỳ 1986 - 1991 đã gặt hái được những thành công quan trọng
bước đầu, tạo ra những tiền đề quan trọng, cần thiết cho việc mở ra một thời kỳ
mới: phá thế bao vây cấm vận của các thế lực thù địch, đa dạng hoá, đa phương
hoá quan hệ đối ngoại.
1.2.2. Chủ trương đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại, từng bước
phá thế bao vây cô lập của các thế lực thù địch giai đoạn 1991 - 1996
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng (6/1991) trong bối cảnh đất
nước và thế giới có nhiều thay đổi.
Từ Đại hội VI của Đảng, đường lối đổi mới đã đi vào cuộc sống và đã tạo ra sự

chuyển biến rõ nét. Đặc biệt từ giữa năm 1988 trở đi, các chủ trương, chính sách
đổi mới bắt đầu mang lại kết quả, tình hình kinh tế và đời sống nhân dân dần
được cải thiện, sinh hoạt dân chủ trong xã hội ngày càng được phát huy, lòng tin
của nhân dân vào công cuộc đổi mới tăng lên. Mặc dầu vậy, Việt Nam vẫn chưa
thoát ra khỏi cuộc khủng hoảng về kinh tế - xã hội, sản xuất vẫn đình đốn, chỉ số
lạm phát vẫn ở mức cao (năm 1991: 67%), tệ quan liêu, tham nhũng, các tệ nạn
xã hội tiếp tục gia tăng, đời sống của người lao động vẫn khó khăn... Bên cạnh
đó, cũng xuất hiện nhiều nhân tố mới nảy sinh đòi hỏi Đảng phải sáng suốt trong
đánh giá tình hình cũng như các biện pháp chỉ đạo, tổ chức thực hiện. Đó là hiện
tượng xuất hiện tư tưởng hoài nghi, dao động về vai trò lãnh đạo cách mạng của


Đảng, về chủ nghĩa Mác - Lênin, về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội ở Việt
Nam... sau một loạt nước Đông Âu tan rã, Liên Xô đang đứng bên bờ vực của sự
tan rã, cộng với sự chống phá của các thế lực thù địch... Đứng trước tình hình
đó, Đảng Cộng sản Việt Nam vẫn kiên định với mục tiêu, lý tưởng của mình,
vẫn tin tưởng vào sự tất thắng của chủ nghĩa xã hội, vào tương lai tươi sáng của
loài người. "Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa
xã hội ở Việt Nam" do Đại hội VII thông qua đã khẳng định: "Lịch sử thế giới
đang trải qua những bước ngoặt quanh co phức tạp; song loài người nhất định sẽ
tiến tới chủ nghĩa xã hội vì đó là quy luật tiến hoá của lịch sử" [19, tr.8].
Với niềm tin mãnh liệt đó, Đại hội VII đã xác định mục tiêu tổng quát 5 năm
(1991 - 1995) là: "vượt qua khó khăn thử thách, ổn định và phát triển kinh tế - xã
hội, tăng cường ổn định chính trị, đẩy lùi tiêu cực và bất công xã hội, đưa nước ta
cơ bản ra khỏi tình trạng khủng hoảng hiện nay" [18, tr.60].
Về đường lối đối ngoại, Đại hội VII xác định: "Nhiệm vụ đối ngoại bao trùm
trong thời gian tới là giữ vững hoà bình, mở rộng quan hệ hữu nghị và hợp tác,
tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo
vệ Tổ quốc, đồng thời góp phần tích cực vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân
thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội" [18, tr.88].

Xác định nhiệm vụ đối ngoại trong tình hình mới, Đảng ta đã thể hiện sự kế
thừa đường lối và chính sách đối ngoại do Đại hội VI đề ra, kế thừa, phát triển Nghị
quyết 13 Bộ Chính trị khoá VI (5/1988). Điều đó có ý nghĩa hết sức to lớn trong việc
định hướng nhận thức, tư tưởng cho cách mạng Việt Nam trước diễn biến phức tạp
của tình hình thế giới và tình hình trong nước; thể hiện được sự kết hợp lợi ích dân
tộc với lợi ích giai cấp, lợi ích quốc gia với lợi ích quốc tế; ngăn ngừa được khuynh
hướng xa rời mục tiêu, chỉ coi trọng lợi ích trước mắt mà quên đi lợi ích lâu dài của
đất nước, của cách mạng.
Về phương châm đối ngoại, Đại hội VII xác định: "hợp tác bình đẳng cùng có
lợi với tất cả các nước không phân biệt chế độ chính trị - xã hội khác nhau trên
nguyên tắc cùng tồn tại hoà bình" [16, tr.88].
Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ VII và Cương lĩnh xây dựng đất nước trong
thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội đề ra chủ trương mở rộng quan hệ hữu nghị và
hợp tác quốc tế, chủ động tạo điều kiện quốc tế thuận lợi cho công cuộc xây dựng
chủ nghĩa xã hội và bảo vệ Tổ quốc, chính sách đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ
đối ngoại, trở thành mẫu mực cho một thời kỳ phát triển mới trong quan hệ quốc tế,
quan hệ với tất cả các nước, các chế độ chính trị khác nhau. Đây là điều mà trước
Đại hội VI chưa ai dám nghĩ tới, bởi nhiều lý do khác nhau, song để tạo ra được "tư
duy mới" mang tính cách mạng ấy, Đảng ta phải trải qua một quá trình đấu tranh
gian khổ trong hoạt động thực tiễn, trong tổng kết những kinh nghiệm hoạt động đối


ngoại. Chủ trương "đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ đối ngoại" trở thành
nhân tố mới, tiếp thêm sức mạnh cho hoạt động đối ngoại của Đảng ta trên con
đường đổi mới.
Đại hội VII xác định: Trước sau như một tăng cường đoàn kết và hợp tác với
Liên Xô, đổi mới phương thức và nâng cao hiệu quả hợp tác Việt - Xô nhằm đáp
ứng lợi ích của mỗi nước. Không ngừng củng cố, phát triển quan hệ đoàn kết, hữu
nghị đặc biệt Việt Nam - Lào và Cămpuchia, chú trọng đến hiệu quả theo nguyên
tắc bình đẳng, tôn trọng độc lập, chủ quyền và lợi ích chính đáng của nhau; thúc

đẩy quá trình bình thường hoá quan hệ với Trung Quốc, từng bước mở rộng quan
hệ hợp tác Việt - Trung, giải quyết những vấn đề tồn tại giữa hai nước thông qua
thương lượng; củng cố và phát triển quan hệ hữu nghị, đoàn kết, hợp tác với Cu Ba
và các nước xã hội chủ nghĩa khác; Đảng Cộng sản Việt Nam tăng cường quan hệ
với các Đảng Cộng sản và công nhân, góp phần tích cực vào sự hợp tác giữa các
đảng anh em trên cơ sở chủ nghĩa Mác - Lênin đấu tranh vì những mục tiêu cao cả
của thời đại. đoàn kết với các lực lượng đấu tranh cho hoà bình, độc lập dân tộc,
dân chủ và tiến bộ xã hội, sẵn sàng thiết lập và mở rộng quan hệ với các đảng xã
hội - dân chủ, các phong trào dân chủ và tiến bộ trên thế giới; nâng cao hiệu quả
hợp tác nhiều mặt với ấn Độ, tích cực góp phần củng cố và tăng cường phong trào
không liên kết; phát triển quan hệ hữu nghị với các nước ở Đông Nam Á và châu Á
- Thái Bình Dương, phấn đấu cho một Đông Nam Á hoà bình, hữu nghị và hợp tác.
Mở rộng sự hợp tác bình đẳng với các nước Bắc Âu, Tây Âu, Nhật Bản. Thúc đẩy
quá trình bình thường hoá quan hệ với Hoa Kỳ; góp phần làm cho Liên hợp quốc
phục vụ đắc lực hơn những mục tiêu của nhân loại. Hợp tác với các tổ chức tài
chính và tiền tệ quốc tế, các tổ chức phi chính phủ với chính sách đối ngoại rộng
mở, Đại hội VII tuyên bố rằng: "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước trong
cộng động thế giới, phấn đấu vì hoà bình, độc lập và phát triển" [18, tr.147].
Với chính sách đối ngoại rộng mở, Đảng ta đã thể hiện sự kế tục tư tưởng ngoại
giao Hồ Chí Minh trong điều kiện mới: "Việt Nam muốn là bạn với tất cả các nước
dân chủ và không gây thù oán với một ai" [37, tr.220]. Tư tưởng đó vừa thể hiện
lập trường và nguyện vọng của Đảng, Nhà nước và nhân dân ta, đồng thời nó cũng
khẳng định quyết tâm mở cửa, hội nhập của Việt Nam trong xu thế toàn cầu hoá,
khắc phục được khuynh hướng đơn điệu, cứng nhắc trước đây, tạo ra sức sống mới
cho hoạt động đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta.
Sau Đại hội VII của Đảng Cộng sản Việt Nam, tình hình thế giới tiếp tục có
những diễn biến phức tạp theo chiều hướng bất lợi, đặc biệt sự kiện Liên Bang
Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Xô Viết tan rã (25/12/1991) đã gây ra sự chấn động
mạnh mẽ đối với toàn thế giới. Đối với Việt Nam sự kiện đó đã tác động tiêu cực
nhiều mặt, đặc biệt là tác động vào niềm tin, vào tình cảm của cán bộ, đảng viên và



nhân dân ta về chế độ xã hội chủ nghĩa, về tương lai của Đảng, của cách mạng Việt
Nam. Trước tình hình đó, tháng 6 năm 1992, Ban Chấp hành Trung ương Đảng đã
mở Hội nghị lần thứ 3. Hội nghị đề ra những quyết sách về đối ngoại có giá trị to lớn
cả về lý luận và thực tiễn. Trước hết Nghị quyết xác định rõ những xu thế chủ yếu
trong quan hệ quốc tế.
Một là, các dân tộc nâng cao ý thức độc lập tự chủ, tự học tự cường, đấu tranh
chống lại sự áp đặt và can thiệp của nước ngoài, đặc biệt là của chủ nghĩa đế quốc
để giữ vững hoà bình, bảo vệ độc lập và phát triển. Xu hướng này nổi lên ngày
càng rõ nét.
Hai là, các nước xã hội chủ nghĩa, các Đảng Cộng sản và công nhân, các lực
lượng cách mạng khác trên thế giới kiên trì đi theo lý tưởng xã hội chủ nghĩa đấu
tranh chống chủ nghĩa đế quốc và các thế lực phản động quốc tế, phấn đấu vì một
xã hội mới tốt đẹp: độc lập, tự do, ấm no, hạnh phúc.
Ba là, các nước đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại, vừa
cải thiện quan hệ đối ngoại vừa hợp tác liên kết các nước trong khu vực.
Bốn là, các nước có chế độ chính trị - xã hội khác nhau vừa hợp tác vừa đấu
tranh trong cùng tồn tại hoà bình.
Đây là những căn cứ quan trọng để hoạch định đường lối, chính sách đối ngoại
của Đảng ta. Nghị quyết chỉ rõ tư tưởng và phương châm chỉ đạo của Đảng trong
công tác đối ngoại thời gian tới là: giữ vững nguyên tắc độc lập, thống nhất và chủ
nghĩa xã hội; đồng thời phải rất năng động sáng tạo, linh hoạt, phù hợp với vị trí,
điều kiện và hoàn cảnh cụ thể của nước ta cũng như diễn biến của tình hình thế
giới và khu vực, phù hợp với đặc điểm từng đối tượng ta có quan hệ.
Rõ ràng, ở thời điểm này vấn đề "độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội" là
vấn đề hết sức nhạy cảm đối với nước ta. Vì vậy, phải xác định rõ vấn đề có tính
nguyên tắc này, bởi "độc lập, thống nhất và chủ nghĩa xã hội" là vấn đề thuộc về
mục tiêu lý tưởng của Đảng, của cách mạng Việt Nam; đây cũng là thành quả cách
mạng mà biết bao nhiêu thế hệ người Việt Nam đã hy sinh xương máu mới có

được; đồng thời đây cũng là mục tiêu chống phá điên cuồng của các thế lực thù
địch. Do vậy, kiên định mục tiêu trên là nguyên tắc bất di bất dịch, xuyên suốt mọi
chủ trương, chính sách và hoạt động đối ngoại. Mặt khác, trong tình hình quốc tế
có nhiều phức tạp, thuận lợi, khó khăn; thời cơ, thách thức, vừa hợp tác, vừa đấu
tranh... đan xen nên đòi hỏi Đảng ta vừa phải giữ vững nguyên tắc, nhưng phải
năng động, linh hoạt và sáng tạo trong xử lý các mối quan hệ quốc tế. Phải căn cứ
vào tình hình cụ thể, những điều kiện lịch sử cụ thể mà xác lập mối quan hệ với
các đối tượng với nội dung, hình thức và mức độ phù hợp. Trong giải quyết song
phương, đa phương phải khéo léo, uyển chuyển, không vì những mâu thuẫn nhỏ,


những khó khăn trước mắt mà hy sinh lợi ích lâu dài, không vì cục bộ, mà hy sinh
toàn cục. Trong các mối quan hệ phải luôn luôn đặt lợi ích của Đảng, của dân tộc
lên trên hết thảy mọi lợi ích khác. Có như vậy hoạt động đối ngoại mới mang lại
hiệu quả. Nếu xa rời nguyên tắc sẽ dẫn tới chệch hướng, nếu giáo điều, máy móc
sẽ không mang lại hiệu quả, thậm chí còn gây nên những hậu quả khó lường.
Cùng với việc xác định tư tưởng chỉ đạo chính sách đối ngoại, Nghị quyết còn
chỉ ra phương châm chỉ đạo công tác đối ngoại bao gồm: vận dụng sáng tạo chủ
nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh; nắm vững ngọn cờ độc lập dân tộc và
chủ nghĩa xã hội, bảo đảm lợi ích dân tộc chân chính, kết hợp nhuần nhuyễn chủ
nghĩa yêu nước với chủ nghĩa quốc tế của giai cấp công nhân; giữ vững độc lập tự
chủ, tự lực tự cường, đẩy mạnh đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại;
nắm vững hai mặt hợp tác và đấu tranh trong quan hệ quốc tế; tích cực tham gia
hợp tác khu vực, đồng thời mở rộng quan hệ với tất cả các nước.
Nhằm cụ thể mục tiêu, tư tưởng chỉ đạo và phương châm xử lý các mối quan hệ
quốc tế, Nghị quyết Trung ương 3 khoá VII (6/1992) đã nêu lên một số chính sách
đối ngoại của Đảng và Nhà nước ta với một số đối tượng cụ thể, đặc biệt chú ý đến
vai trò của các nước trong khu vực Đông Nam Á, với Trung Quốc và các nước lớn,
đồng thời đề cập đến các mối quan hệ khác trên thế giới. Những chính sách đó đã
nhanh chóng đi vào cuộc sống và phát huy hiệu quả. Quan hệ quốc tế của Đảng và

Nhà nước được mở rộng, từng bước phá thế bao vây, cấm vận của các thế lực thù
địch, uy tín và vị thế của Đảng, của cách mạng Việt Nam ngày càng nâng cao trên
trường quốc tế.
Những quyết sách đúng đắn về đối ngoại của Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương lần thứ 3 (khoá VII) càng khẳng định bản lĩnh chính trị vững vàng, tư duy
đối ngoại năng động, sắc sảo và nhạy bén của Đảng ta trong những thời điểm thử
thách, trong những bước ngoặt của cách mạng.
Tiếp theo Hôi nghị Trung ương lần thứ 3 (khoá VII) là Hội nghị đại biểu toàn
quốc giữa nhiệm kỳ (01/1994), các nội dung chính sách đối ngoại của Đại hội VII
và Nghị quyết Trung ương lần thứ 3 (khoá VII) tiếp tục được khẳng định. Hội nghị
nhấn mạnh: "Phải thấy rõ khó khăn và thách thức, cũng như những thuận lợi và cơ
hội của nước ta, theo dõi sát diễn biến phức tạp trong quan hệ quốc tế để có chủ
trương thích hợp, giữ vững nguyên tắc nhưng năng động, linh hoạt". Để thực hiện
chính sách đối ngoại, Hội nghị đề ra nhiệm vụ: Tăng cường sự lãnh đạo của Đảng,
quản lý của Nhà nước, tăng cường công tác nắm tình hình, dự báo chiến lược để
kịp thời ứng phó với tình huống phức tạp xảy ra. Đẩy mạnh hoạt động thông tin


đối ngoại phù hợp với tình hình, phối hợp có hiệu quả giữa các ngành, các cấp
trong hoạt động ngoại giao, chú trọng bồi dưỡng, đào tạo cán bộ có đủ phẩm chất,
năng lực chuyên môn nhằm đáp ứng kịp thời nhu cầu công tác đối ngoại (kể cả
kinh tế đối ngoại) trong thời gian tới.
Như vậy, Đảng ta vẫn kiên trì đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ trên nền tảng
lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh, giữ vững mục
tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, thực hiện chính sách đối ngoại rộng mở,
đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối ngoại. Hội nghị cũng chỉ ra 4 nguy cơ mà
ngành ngoại giao cũng phải quán triệt, vận dụng để cùng toàn Đảng, toàn dân từng
bước đẩy lùi nguy cơ đó, đó là: nguy cơ tụt hậu xa hơn về kinh tế; nguy cơ chệch
hướng xã hội chủ nghĩa; nguy cơ của tệ tham nhũng, quan liêu và suy thoái về
phẩm chất, đạo đức của một bộ phận cán bộ, đảng viên; nguy cơ "diễn biến hoà

bình" của chủ nghĩa đế quốc.
Trong giai đoạn 1991 - 1996: cách mạng Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng
vẫn gặp nhiều khó khăn chồng chất, đất nước chưa ra khỏi khủng hoảng kinh tế xã hội, đời sống nhân dân tuy có được cải thiện nhưng vẫn còn rất khó khăn..., lại
ảnh hưởng nặng nề từ sự sụp đổ của các nước xã hội chủ nghĩa ở Đông Âu và Liên
Xô... nhưng với đường lối đổi mới đúng đắn, chúng ta đã giành được những thành
tựu bước đầu rất quan trọng. Đại hội VIII của Đảng đã khẳng định: chúng ta đã đẩy
nhanh nhịp độ phát triển kinh tế (GDP bình quân 1991 - 1995 tăng 8,2%), hoàn
thành nhiều mục tiêu chủ yếu của kế hoạch 5 năm; tạo được một số chuyển biến
tích cực về mặt xã hội; giữ vững ổn định chính trị, củng cố quốc phòng - an ninh;
thực hiện có kết quả một số đổi mới quan trọng về hệ thống chính trị...
Về quan hệ đối ngoại, thực hiện đường lối đối ngoại rộng mở, đa dạng hoá, đa
phương hoá quan hệ đối ngoại. Chúng ta đã phá được thế bị bao vây, cấm vận, đã
khôi phục và mở rộng quan hệ bình thường với Trung Quốc (11/1991); phát triển
quan hệ với các nước trong khu vực, trở thành thành viên đầy đủ của ASEAN
(28/7/1995); củng cố và đổi mới quan hệ truyền thống với Liên Bang Nga và các
nước Đông Âu; bình thường hoá quan hệ về ngoại giao với Mỹ (11.7.1995). Nhiều
chính phủ và tổ chức quốc tế viện trợ hoặc cho ta vay... quan hệ đoàn kết với các
Đảng Cộng sản và công nhân, các phong trào độc lập dân tộc tiếp tục phát triển,
quan hệ với các đảng cầm quyền một số nước được thiết lập... Những thành tựu đó
góp phần đưa nước ta bước vào một thời kỳ mới, thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá,
hiện đại hoá đất nước.
1.2.3. Tiếp tục đẩy mạnh hội nhập, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệ đối
ngoại, giai đoạn 1996 - 2001


Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII Đảng Cộng sản Việt Nam (6/1996) diễn
ra trong bối cảnh đất nước sau 10 năm đổi mới đã giành được những thành tựu to
lớn, có ý nghĩa rất quan trọng. Nhiệm vụ do Đại hội VII đề ra cho 5 năm 1991 1995 đã được hoàn thành về cơ bản; tình trạng đình đốn trong sản xuất, rối ren
trong lưu thông được khắc phục. Kinh tế tăng trưởng nhanh, nhịp độ tăng tổng sản
phẩm trong nước (GDP) bình quân hàng năm thời kỳ 1991 - 1995 đạt 8,2%. Lạm

phát bị đẩy lùi; quan hệ sản xuất được điều chỉnh phù hợp hơn với tính chất, trình
độ và yêu cầu phát triển của sức sản xuất; ổn định chính trị được giữ vững. Quốc
phòng - an ninh được củng cố. Quan hệ đối ngoại phát triển mạnh mẽ; phá được
thế bị bao vây, cô lập; mở rộng hợp tác và tham gia tích cực đời sống cộng đồng
quốc tế... Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi nhiều mặt chúng ta vẫn đứng trước
nhiều khó khăn, thách thức; 4 nguy cơ mà Hội nghị đại biểu giữa nhiệm kỳ
(01/1994) đến nay vẫn là những thách thức lớn, các nguy cơ ấy có mối liên hệ tác
động lẫn nhau và đều nguy hiểm không thể xem nhẹ nguy cơ nào.
Cơ hội và thách thức đan xen nhau đòi hỏi sự nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân,
của mọi ngành, mọi cấp phải chủ động, nắm bắt thời cơ, vươn lên phát triển nhanh
và vững chắc tạo ra thế và lực mới cho đất nước. Đại hội đề ra nhiệm vụ trong thời
gian tới là: "Củng cố môi trường hoà bình và tạo điều kiện quốc tế thuận lợi hơn
nữa để đẩy mạnh phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất
nước, phục vụ sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, góp phần tích cực vào cuộc
đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hoà bình, độc lập dân tộc và tiến bộ xã
hội" [22, tr.120].
Mục tiêu của chúng ta là đưa quan hệ đối ngoại lên một tầm cao mới, chú trọng
quan hệ hợp tác láng giềng và các nước trong khu vực vừa phù hợp với đặc điểm
địa lý, tập quán, vừa tranh thủ thu hút vốn, đầu tư công nghệ mới, đồng thời là
phương sách hữu hiệu để củng cố quốc phòng, giữ gìn an ninh quốc gia. Quan hệ
với các nước lớn, các trung tâm kinh tế - chính trị với chính sách cân bằng, không
coi trọng nước này, xem nhẹ nước kia làm ảnh hưởng đến các mối quan hệ, ảnh
hưởng đến việc khai thác vốn đầu tư và các lợi thế khác, cần đánh giá đúng ý đồ và
hành động của các nước lớn và phải giữ vững lập trường, nguyên tắc: "Tôn trọng
độc lập chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ của nhau, không can thiệp vào công việc nội
bộ của nhau, bình đẳng, cùng có lợi, giải quyết các vấn đề tồn tại và các tranh chấp
bằng thương lượng". Từ thực tiễn của hoạt động đối ngoại trong những năm đổi
mới và trước yêu cầu mới của tình hình thế giới và trong nước, Đảng ta quyết định
chính sách đối ngoại trong thời gian tới là: "Ra sức tăng cường quan hệ với các
nước láng giềng và các nước trong tổ chức ASEAN, không ngừng củng cố quan hệ

với các nước bạn bè truyền thống, coi trọng quan hệ với các nước phát triển và các


×