Tải bản đầy đủ (.doc) (12 trang)

Tiểu luận HCM người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với CNXH, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ tự lực tự cường, đổi mới và sáng tạo (4)

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (130.86 KB, 12 trang )

Đề bài:
Trong diễn văn tại lễ kỉ niệm 105 năm ngày sinh của Chủ tịch Hồ Chí Minh:
"Người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lâp gắn liền với chủ nghĩa xã
hội, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự cường, đổi mới và sáng tạo."
Hãy phân tích và chứng minh nhận định trên. Liên hệ với thực tiễn Việt Nam
hiện nay.

Bài làm:
I. Đặt vấn đề:
Chủ tịch Hồ Chí Minh, lãnh tụ kính yêu của dân tộc ta, đã hiến dâng tất cả
tình cảm, trí tuệ và cuộc đời cho sự nghiệp cách mạng của Đảng và nhân dân ta.
Người đã để lại tài sản vô giá là tư tưởng và tấm gương mẫu mực, cao đẹp, kết
tinh những giá trị truyền thống của dân tộc, của nhân loại và thời đại. Bác chẳng
những là người quan tâm đến độc lập của dân tộc,đến sự tự chủ, tự lực, tự cường
mà chính người là hiện thân sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với
chủ nghĩa xã hội, là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự cường, đổi
mới và sáng tạo.
Hồ Chí Minh là nhà chiến lược thiên tài, đồng thời là nhà tổ chức vĩ đại,
người đã có nhiều hoài bão, lý tưởng đối với vận mệnh dân tộc,nhân loại, loài
người tiến bộ và biến hoài bão thành hiện thực. Ở Hồ Chí Minh luôn có sự thống
nhất giữa tư tưởng và hoạt động thực tiễn, giữa lời nói và việc làm, đồng thời
Người nghiêm khắc đòi hỏi cán bộ, đảng viên phải thực hiện yêu cầu đó. Tư
tưởng Hồ Chí Minh đã từng bước tỏa sáng trong trái tim, khối óc của mỗi người
Việt Nam, hướng về cội nguồn dân tộc, trân trọng, tự hào và giữ gìn các giá trị
văn hóa, đạo đức truyền thống mà Bác Hồ là biểu tượng và mẫu mực của sự kết
tinh các giá trị phương Ðông và giá trị nhân loại. Học tập, nghiên cứu tư tưởng
Hồ Chí Minh là dịp để mỗi người Việt Nam tự nhìn nhận lại chính mình, theo
tinh thần Bác Hồ đã dặn: Học để hành, để làm người, để phụng sự Tổ quốc,
phụng sự nhân dân, phụng sự giai cấp và nhân loại. Với ý nghĩa đó, tư tưởng Hồ
Chí Minh đã tiếp tục khơi gợi tinh thần độc lập tự chủ, đổi mới và sáng tạo để
nhìn nhận các vấn đề của dân tộc và thời đại sâu sắc hơn, tỉnh táo hơn, bản lĩnh


hơn, trong mỗi chúng ta.

1


II. Giải quyết vấn đề:
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc
của Hồ Chí Minh. Người đã vượt qua giới hạn của những nhà yêu nước đương
thời và phát hiện ra con đường cứu dân, cứu nước.Trong tư tưởng Hồ Chí Minh,
độc lập dân tộc bao gồm cả nội dung dân tộc dân chủ. Không phải bất kỳ độc lập
dân tộc nào cũng tạo cơ sở, tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Theo Hồ Chí Minh,
để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, cuộc cách mạng dân tộc dân
chủ nhân dân phải được thực hiện một cách triệt để, "đến nơi". Đó là một nền độc
lập thực sự, độc lập hoàn toàn không lệ thuộc vào bất cứ lực lượng nào cả về đối
nội, lẫn đối ngoại. Hồ Chí Minh nhiều lần phê phán sự lệ thuộc về mọi mặt của
những chính quyền do thực dân cũ và mới lập nên ở Việt Nam. Người gọi đó là
độc lập giả hiệu, độc lập kiểu Mỹ.
Để tạo cơ sở, tiền đề cho việc tiến lên chủ nghĩa xã hội, đối với Việt Nam, một
đòi hỏi có ý nghĩa sống còn là độc lập dân tộc phải gắn liền với thống nhất chủ
quyền và toàn vẹn lãnh thổ của đất nước. Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam
là một, Bắc - Trung - Nam là một khối thống nhất không thể phân chia, đồng bào
Kinh, Mường, Thái, Êdê, Bana… đều là con dân nước Việt, là con Rồng cháu Tiên.
Đó là quan điểm nhất quán, mang tính nguyên tắc của Hồ Chí Minh. Không duy trì
và phát triển được khối thống nhất đó thì không thể có độc lập dân tộc, càng không
thể nói đến việc tạo cơ sở tiền đề để tiến lên chủ nghĩa xã hội. Để tiến lên chủ
nghĩa xã hội đòi hỏi độc lập dân tộc phải đi đôi với tự do hạnh phúc của nhân
dân. Theo Hồ Chí Minh "nếu nước được độc lập mà người dân không được
hưởng hạnh phúc tự do, thì độc lập chẳng có ý nghĩa gì".
Độc lập dân tộc tiến lên chủ nghĩa xã hội thể hiện mối quan hệ giữa mục tiêu
trước mắt và mục tiêu lâu dài. Theo lôgíc của sự phát triển, hai mục tiêu ấy quan

hệ chặt chẽ với nhau. Không thể đi đến mục tiêu cuối cùng nếu không thực hiện
được mục tiêu trước mắt. Chỉ thực hiện được mục tiêu cuối cùng mới bảo vệ và
phát triển được những thành quả của mục tiêu trước mắt. Vì vậy, nếu độc lập
2


dân tộc tạo cơ sở, tiền đề để đi lên chủ nghĩa xã hội là con đường tốt nhất để giữ
vững và phát triển lên một tầm cao mới - thành quả của độc lập dân tộc.
Theo Hồ Chí Minh, chủ nghĩa xã hội là làm cho dân giàu, nước mạnh, ai cũng
có công ăn, việc làm, được ăn no, mặc ấm, được học hành, các dân tộc trong
nước bình đẳng đoàn kết, giúp đỡ lẫn nhau. Về mặt phân phối sản phẩm lao
động thì chủ nghĩa xã hội là ai làm nhiều hưởng nhiều, ai làm ít hưởng ít, ai có sức
lao động mà không làm thì không hưởng, những người già, đau yếu, tàn tật và trẻ
em thì xã hội và cộng đồng có trách nhiệm chăm sóc nuôi dưỡng. Trong chủ nghĩa
xã hội, văn hóa, khoa học kỹ thuật, chính trị và kinh tế, đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân được quan tâm và ngày một nâng cao. Về mặt đối ngoại, chủ
nghĩa xã hội là hòa bình, hữu nghị, làm bạn với tất cả các nước. Chủ nghĩa xã hội
với những đặc trưng đó không chỉ bảo vệ những thành quả của độc lập dân tộc mà
cơ bản tạo nên sự phát triển mới vế chất. Hồ Chí Minh khẳng định chỉ có chủ nghĩa
xã hội, chủ nghĩa cộng sản mới bảo đảm cho một nền độc lập dân tộc chân
chính, mới giải phóng các dân tộc một cách thực sự, hoàn toàn.
Hồ Chí Minh cho rằng cách mạng, cả cách mạng giải phóng dân tộc và cách
mạng xã hội chủ nghĩa là việc khó, là cuộc đấu tranh gay go, ác liệt, lâu dài.
Giành độc lập dân tộc đã khó, xây dựng chủ nghĩa xã hội còn khó khăn hơn. Hồ
Chí Minh so sánh: thắng đế quốc phong kiến là tương đối dễ, thắng bần cùng lạc
hậu khó khăn hơn. Hồ Chí Minh nhấn mạnh: "Đánh đổ giai cấp địch đã khó, đấu
tranh xây dựng chủ nghĩa xã hội còn gian khổ, khó khăn hơn nhiều". Từ những
khó khăn gian khổ ấy, Hồ Chí Minh luôn đòi hỏi Đảng, Nhà nước và mỗi người
dân phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. Chỉ với chủ nghĩa
xã hội, độc lập dân tộc mới đạt tới mục tiêu phục vụ lợi ích và quyền lực của

mọi người lao động, làm cho mọi thành viên của cộng đồng dân tộc trở thành
người chủ thực sự, có cuộc sống vật chất ngày càng đầy đủ và đời sống tinh thần
ngày càng phong phú. Nó cũng bảo đảm cho dân tộc vượt qua tình trạng đói
nghèo, lạc hậu và tụt hậu trong tương quan với các dân tộc khác trong thế giới
và ngày càng phát triển mạnh mẽ hơn để đạt tới sự bình đẳng trong các mối
3


quan hệ giữa con người với con người, giữa cộng đồng dân tộc này với cộng
đồng dân tộc khác. Toàn bộ khả năng và điều kiện bảo đảm chỉ có thể được tìm
thấy và giải quyết bằng con đường phát triển chủ nghĩa xã hội


Sự thể hiện trên thực tế tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền

với chủ nghĩa xã hội
Tư tưởng Hồ Chí Minh về độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội xuất
hiện từ năm 1920, khi Người bắt gặp chủ nghĩa Mác-Lênin, và nó được thể hiện
rõ nét từ năm 1930
Từ năm 1930 – 1945: Tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội
của Hồ Chí Minh thời kỳ này thể hiện rõ trong những Văn kiện do Hồ Chí Minh
soạn thảo được Hội nghị hợp nhất thông qua. Chánh cương vắn tắt của Đảng chỉ
rõ Đảng chủ trương "làm tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để
đi tới xã hội xã hội cộng sản". Hồ Chí Minh khẳng định sự nghiệp giải phóng
dân tộc ở Việt Nam được thực hiện bằng con đường cách mạng vô sản: "Muốn
cứu nước và giải phóng dân tộc không có con đường nào khác con đường cách
mạng vô sản".
Từ năm 1945 – 1954: Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội ở thời kỳ
này được thể hiện ở những chủ trương, đường lối chiến lược do Hồ Chí Minh
khởi xướng "vừa kháng chiến, vừa kiến quốc", "kháng chiến đi đôi với kiến

quốc", "kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến". Kháng chiến tức là
bảo vệ nền độc lập dân tộc, chống sự xâm lược lần thứ hai của thực dân Pháp theo
phương châm trường kỳ kháng chiến nhất định thắng lợi. Kiến quốc theo Hồ Chí
Minh là xây dựng, củng cố Nhà nước dân chủ nhân dân đầu tiên ở Đông Nam Á,
xây dựng đời sống mới, xây dựng những cơ sở đầu tiên của chủ nghĩa xã hội.
Từ năm 1954 – 1969: Ở thời kỳ này độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã
hội trong tư tưởng Hồ Chí Minh thể hiện qua chủ trương: một Đảng Cộng sản
lãnh đạo thực hiện đồng thời hai nhiệm vụ chiến lược ở hai miền: xây dựng chủ
nghĩa xã hội ở miền Bắc, hoàn thành cách mạng dân tộc dân chủ ở miền Nam,

4


tiến tới thống nhất Tổ quốc, đưa cả nước tiến lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một
sáng tạo lý luận của Hồ Chí Minh.
.

Và cho đến nay độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội vẫn luôn là xu

thế phát triển của xã hội Việt Nam phù hợp với xu thế chung của lịch sử, của
thời đại ngày nay . Đó là sự lựa chọn của Hồ Chí Minh, của nhân dân Việt Nam
và của chính lịch sử cách mạng Việt Nam. Xuất phát từ đặc điểm của thực tiễn
xã hội Việt Nam, một nước nông nghiệp lạc hậu, thuộc địa, nửa phong kiến bỏ
qua chế độ tư bản chủ nghĩa, quá độ lên chủ nghĩa xã hội, nên trong quan niệm
về chủ nghĩa xã hội của Người không phải là đưa ra những ý tưởng cao xa, mà
là đề cập đến những lợi ích rất cụ thể thiết thực, gần gũi với những nhu cầu đời
thường của nhân dân lao động.Người giải thích rõ : “Chủ nghĩa xã hội là làm sao
cho nhân dân đủ ăn, đủ mặc, ngày càng sung sướng, ai nấy được đi học, ốm đau
có thuốc, già không lao động được thì nghỉ, những phong tục tập quán không tốt
dần dần được xóa bỏ. Tóm lại, xã hội ngày càng tiến, vật chất ngày càng tăng,

tinh thần ngày càng tốt, đó là chủ nghĩa xã hội”.
Độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, với Việt Nam không chỉ là mục tiêu, là
nhu cầu, là cương lĩnh hành động, là ngọn cờ hiệu triệu, mà còn là động lực, là
niềm tin sắt son của dân tộc Việt Nam ta. Độc lập dân tộc gắn với chủ nghĩa xã
hội là sự gắn kết hai sức mạnh thành một sức bật mới; là cội nguồn thắng lợi của
cách mạng Việt Nam hôm qua, hôm nay và mai sau.Thế kỷ XXI mở đầu thiên
niên kỷ thứ ba của một thế giới đầy biến động, cũng đồng thời mở ra một kỷ
nguyên hội nhập, đua tranh gay gắt của cộng đồng quốc tế, các thế lực thù địch
vẫn đang ráo riết thực hiện âm mưu “diễn biến hòa bình”, gây bạo lọan lật đổ, sử
dụng các chiêu bài “dân chủ”, “nhân quyền”, “dân tộc”, “tôn giáo” hòng làm
thay đổi chế độ chính trị ở nước ta. Hơn nữa, ngay một bộ phận nhân dân ta,
trong đó có cả những cán bộ, đảng viên đã một thời không tiếc máu xương cho
sự nghiệp giải phóng dân tộc, nhưng đứng trước những khó khăn trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội, những tác động tiêu cực của cơ chế thị trường kết
hợp với sự chống phá quyết liệt của kẻ thù, đã mất phương hướng chính trị, dao
5


động về lập trường tư tưởng. Thậm chí có người phủ nhận những thành quả cách
mạng mà nhân dân ta giành được, cho rằng chúng ta tiến hành kháng chiến
chống Pháp và chống Mỹ là sai lầm, gây nên sự mất mát hy sinh không cần
thiết… Trong điều kiện nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần và cơ chế thị
trường ở nước ta hiện nay, một số người còn cho rằng đã là nền kinh tế hàng hóa
nhiều thành phần thì phải tự do hóa, chế độ một đảng lãnh đạo là không tương
dung với kinh tế nhiều thành phần, hoặc đã chấp nhận kinh tế thị trường thì
đừng nói đến định hướng xã hội chủ nghĩa. Từ đó, họ khuyên chúng ta không
nên tiếp tục con đường xã hội chủ nghĩa mà nên đi theo chủ nghĩa xã hội dân
chủ hay dừng lại ở chế độ dân chủ nhân dân, củng cố chế độ dân chủ nhân dân
đến khi nào chuẩn bị đầy đủ các yếu tố hãy đi lên chủ nghĩa xã hội cũng chưa
muộn, v.v…Những diễn biến của tình hình trên đây, rõ ràng đều nhắm tới mục

tiêu, ý đồ đen tối là phủ định tư tưởng xuyên suốt trong di sản Hồ Chí Minh đối
với cách mạng nước ta, mong muốn lật đổ chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Tuy nhiên dù thời cuộc biến đổi xoay vần ra sao, dù phải đối mặt với tình
hình nào thì hệ giá trị độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội, trong ý thức và trong
hành động vẫn là mục tiêu, lý tưởng, là quốc bảo phù hợp với xu thế thời đại; sẽ
đưa nhân dân ta tiếp tục giành thêm nhiều thắng lợi to lớn hơn nữa trong sự
nghiệp đổi mới, đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá, xây dựng chủ nghĩa xã
hội và bảo vệ vững chắc Tổ Quốc, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, xã hội công
bằng, dân chủ, văn minh, đưa đất nước ta sánh vai cùng các nước trong khu vực
và trên thế giới.
Từ những phân tích trên đây chúng ta có thể khẳng định Người là hiện thân
sáng chói của tư tưởng độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội. Nhưng bên
cạnh đó Người còn là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực, tự
cường, đổi mới và sáng tạo. Điều đó sẽ được làm rõ ngay sau đây.
Vấn đề nổi bật xuyên suốt, nhất quán trong tư duy lý luận và hoạt động thực
tiễn của Chủ tịch Hồ Chí Minh là chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, là ý chí "không

6


có gì quý hơn độc lập tự do", là tinh thần độc lập, tự chủ, tự lực tự cường và
sáng tạo, thể hiện trước hết trong việc hoạch định đường lối, chính sách, phương
pháp, bước đi của con đường cách mạng nước ta. Từ khi ra đi tìm đường cứu
nước, ngay đầu những năm 20 của thế kỷ XX, trên đất Pháp, Người đã nói "Tổ
tiên đã treo bao tấm gương đạo đức và dũng cảm, chí khí và tự tôn"; về sau
Người lại khẳng định Việt Nam là "một dân tộc đã tự cường, tự lập".
Hơn sáu mươi năm hoạt động cách mạng sôi nổi và sáng tạo, Người đã tiếp
thụ chủ nghĩa Mác - Lê-nin kết hợp với truyền thống yêu nước Việt Nam, tinh
thần độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường dân tộc, tìm thấy con đường cứu nước và
giải phóng dân tộc duy nhất đúng đắn là: độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa

xã hội. Con đường đó đã được vạch ra từ mùa xuân năm 1930, trong những văn
kiện do Người soạn thảo được Hội nghị hợp nhất ba tổ chức cộng sản thông qua,
trở thành Cương lĩnh đầu tiên của Đảng. Với Cương lĩnh đó, những nét lớn
trong Tư tưởng Hồ Chí Minh đã hình thành và con đường cứu nước của Việt
Nam đã được khẳng định. Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là sự
thể hiện rõ nét nhất tinh thần độc lập, tự chủ, sáng tạo của Tư tưởng Hồ Chí
Minh.
Trong khi giải quyết những vấn đề của cách mạng Việt Nam, Chủ tịch Hồ
Chí Minh đã góp phần phát triển chủ nghĩa Mác - Lê-nin trên nhiều vấn đề quan
trọng, đặc biệt là lý luận về cách mạng giải phóng dân tộc và tiến lên chủ nghĩa
xã hội ở các nước thuộc địa và phụ thuộc. Trong Điều lệ tạm thời của Hội Liên
hiệp công nhân quốc tế năm 1864 do Mác khởi thảo, một tư tưởng cơ bản được
nêu lên là: "Sự giải phóng của giai cấp công nhân phải do bản thân giai cấp công
nhân tự giành lấy". Hơn sáu mươi năm sau, trong Tuyên ngôn của Hội Liên hiệp
thuộc địa, Hồ Chí Minh viết: "Vận dụng công thức của Các Mác, chúng tôi xin
nói với anh em rằng, công cuộc giải phóng anh em chỉ có thể thực hiện được
bằng sự nỗ lực của bản thân anh em". Người vạch rõ tính chủ động của cách
mạng thuộc địa đối với cách mạng chính quốc: "Ngày mà hàng trăm triệu nhân
dân châu Á bị tàn sát và áp bức thức tỉnh để gạt bỏ sự bóc lột đê tiện của một
7


bọn thực dân lòng tham không đáy, họ sẽ hình thành một lực lượng khổng lồ, và
trong khi thủ tiêu một trong những điều kiện tồn tại của chủ nghĩa tư bản là chủ
nghĩa đế quốc, họ có thể giúp đỡ những người anh em mình ở phương Tây trong
nhiệm vụ giải phóng hoàn toàn". Người đã chỉ ra để mỗi người Việt Nam hiểu
rằng ta phải tự lực, chủ động làm cách mạng giải phóng mình, không nên chỉ
trông chờ "công nông Pháp cách mệnh thành công thì nhân dân Việt Nam sẽ
được tự do" mà cần chủ động "An Nam dân tộc cách mệnh thành công, thì tư
bản Pháp yếu, tư bản Pháp yếu thì công nông Pháp làm giai cấp cách mệnh cũng

dễ". Chính những luận điểm sáng tạo, mới mẻ đó đã dẫn Hồ Chí Minh đến
những quyết định lịch sử. Tháng 8-1945, khi thời cơ xuất hiện, Người ra lời kêu
gọi "Giờ quyết định cho vận mệnh dân tộc ta đã đến. Toàn quốc đồng bào hãy
đứng dậy, đem sức ta mà tự giải phóng cho ta". Thắng lợi của Cách mạng Tháng
Tám là thắng lợi của tinh thần độc lập tự chủ, tự lực tự cường và sáng tạo của
Tư tưởng Hồ Chí Minh.
Trong những năm kháng chiến chống xâm lược, Hồ Chí Minh luôn nêu cao
tinh thần "dựa vào sức mình là chính". Nếu như trong đấu tranh giành chính
quyền, Người đòi hỏi phải "đem sức ta mà tự giải phóng cho ta thì những năm
kháng chiến chống xâm lược, tư tưởng ấy của Người là "Dân ta phải giữ nước
ta". Khi miền bắc bước vào thời kỳ xây dựng chủ nghĩa xã hội, Người chỉ rõ:
"Trước đây, nhân dân ta đã nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, trường kỳ kháng
chiến, thì ngày nay chúng ta càng phải nêu cao tinh thần tự lực cánh sinh, cần
kiệm xây dựng nước nhà". Nhân dân Việt Nam và tất cả những người yêu
chuộng hòa bình trên thế giới đều biết đến câu nói mang tính thời đại của Hồ
Chí Minh: "Không có gì quý hơn độc lập, tự do". Người nhấn mạnh: "Mỗi một
người dân phải hiểu: có tự lập mới độc lập, có tự cường mới tự do". Với Chủ
tịch Hồ Chí Minh, trong tư duy lý luận và hoạt động thực tiễn, độc lập tự chủ
không có nghĩa là biệt lập, đứng một mình. Ngay từ năm 1947, Người đã chủ
trương: "Làm bạn với tất cả mọi nước dân chủ và không gây thù oán với một

8


ai". Người đề cao việc học tập, tiếp thu sáng tạo kinh nghiệm của các đảng anh
em, đồng thời phê phán mọi sự sao chép, giáo điều.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là mẫu mực của tinh thần độc lập tự chủ, đổi mới và
sáng tạo. Trung thành và vận dụng sáng tạo Tư tưởng Hồ Chí Minh trong sự
nghiệp đổi mới, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân vượt qua những thử thách to lớn,
đặc biệt là vào thời điểm chế độ xã hội chủ nghĩa ở Liên Xô và Đông Âu sụp đổ.

Đảng và nhân dân ta luôn kiên định con đường độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã
hội ngay trong lúc sóng to gió cả; nghiêm túc học tập bạn bè, những nước đi
trước, những kinh nghiệm hay và phù hợp nhưng không sao chép, dập khuôn; đã
xác định đường lối đổi mới với các bước đi thích hợp. Thắng lợi của 17 năm đổi
mới là thắng lợi của việc vận dụng sáng tạo và phát triển Tư tưởng Hồ Chí
Minh, trước hết trong việc xác định đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng,
trong giáo dục và rèn luyện cán bộ, đảng viên.


Thực tiễn Việt Nam hiện nay trong việc thực hiện theo tinh thần độc lập

tự chủ, tự lực, tự cường, đổi mới và sáng tạo của Bác Hồ:
Trong những năm qua, giữa bộn bề khó khăn, thách thức, lo toan, việc nghiên
cứu, tuyên truyền, giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh trong toàn Ðảng, toàn quân,
toàn dân ta tất nhiên khó tránh khỏi những hạn chế, thiếu sót. Ðiều dễ nhận thấy
là còn ít các công trình nghiên cứu khoa học, các tác phẩm văn học, nghệ thuật,
báo chí ngang tầm với tư tưởng và sự nghiệp của Bác và đòi hỏi của thực tiễn
hiện nay. Tinh thần độc lập tự chủ, đổi mới và sáng tạo của Hồ Chí Minh chưa
được nghiên cứu đầy đủ sâu sắc. Tư tưởng của Người chưa được vận dụng một
cách toàn diện và gắn chặt với những lĩnh vực cụ thể của từng cấp, từng ngành,
từng tổ chức, đơn vị. Việc tuyên truyền, giáo dục tư tưởng của Người được tổ
chức trên diện rộng nhưng chưa thật sâu; lan tỏa song chưa tạo được sự chuyển
biến thật sự trong hành động của cán bộ, đảng viên và nhân dân. Phải chăng vì
nội dung nghiên cứu, tuyên truyền, giáo dục chưa được chuẩn bị thật công phu
từ cơ sở; hình thức và phương pháp tuyên truyền, giáo dục ở nhiều nơi còn đơn
giản, xuôi chiều. Tính khoa học, tính chiến đấu trong tuyên truyền, giáo dục
9


chưa thật sâu sắc. Một bộ phận cán bộ làm công tác nghiên cứu, tuyên truyền,

giáo dục tư tưởng Hồ Chí Minh, nhất là ở cơ sở, chất lượng còn hạn chế, chưa
ngang tầm với yêu cầu nhiệm vụ.
Hơn nữa trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và trước tình
hình thế giới diễn biến phức tạp, nhanh chóng như hiện nay trên cơ sở những
quan điểm có tính nguyên tắc, toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta hơn bao giờ
hết, càng phải phát huy cao độ tinh thần độc lập, tự chủ, đổi mới và sáng tạo của
Tư tưởng Hồ Chí Minh. Việt Nam sẵn sàng là bạn, là đối tác tin cậy của các
nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấu vì hòa bình, độc lập và phát triển. Thực
hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, rộng mở, đa phương hóa, đa
dạng hóa các mối quan hệ quốc tế, chúng ta đang tận dụng mọi khả năng để thu
hút ngày một nhiều hơn các nguồn lực bên ngoài, nhưng cần khẳng định rằng
công nghiệp hóa, hiện đại hóa trước hết là sự nghiệp của bản thân nhân dân ta,
do trí tuệ và sức lực của dân ta. Văn kiện Đại hội IX viết: "Công nghiệp hóa,
hiện đại hóa phải bảo đảm xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ, trước hết là độc
lập tự chủ về đường lối, chính sách... Xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ phải
đi đôi với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, mở rộng và nâng cao hiệu quả kinh
tế đối ngoại, kết hợp nội lực với ngoại lực thành nguồn lực tổng hợp để phát
triển đất nước".

10


III.Kết thúc vấn đề:
Chủ tịch Hồ Chí Minh vị lãnh tụ cách mạng vĩ đại, người cộng sản, người
thầy của cách mạng Việt Nam, anh hùng giải phóng dân tộc, danh nhân văn hoá
thế giới đã đi xa nhưng để lại cho chúng ta di sản tinh thần to lớn; trong di sản
Người để lại cho toàn Đảng, toàn dân nhiều tác phẩm, bài nói, bài viết cả cuộc
đời và sự nghiệp của Người là tấm gương ngời sáng cho toàn Đảng, toàn dân ta
học tập và rèn luyện phấn đấu suốt đời noi theo.
Độc lập dân tộc gắn liền với chủ nghĩa xã hội là tư tưởng chính trị đặc sắc,

là sợi chỉ đỏ xuyên suốt và bao trùm trong di sản tư tưởng Hồ Chí Minh. Tư
tưởng đặc sắc ấy thể hiện nhất quán mục tiêu của con đường cách mạng mà
Người đã lựa chọn, nó vừa đáp ứng được yêu cầu bức xúc của dân tộc và khát
vọng của quần chúng nhân dân giành lấy độc lập, tự do, ấm no và hạnh phúc,
giải phóng cuộc đời lầm than, đói khổ dưới ách thống trị tàn bạo của chủ nghĩa
thực dân, đế quốc và bè lũ tay sai. Tư tưởng ấy đã đưa dân tộc ta đến độc lập, tự
do, nước nhà Bắc – Nam thống nhất và ngày nay, đó là nguồn sức mạnh trong
sự nghiệp xây dựng một xã hội Việt Nam mới xã hội chủ nghĩa: dân giàu, nước
mạnh, công bằng, dân chủ, văn minh. Nó không chỉ phản ánh mục tiêu, lý
tưởng, bản chất sứ mệnh lịch sử của giai cấp công nhân Việt Nam mà còn thể
hiện tính nhân đạo, nhân văn sâu sắc _ một chủ nghĩa xã hội tất cả vì con người
và do con người. Trung thành với con đường đã chọn, suốt cuộc đời Hồ Chí
Minh đã phấn đấu không mệt mỏi cho sự nghiệp giải phóng dân tộc, giải phóng
giai cấp, giải phóng xã hội và giải phóng con người, vì một xã hội xã hội chủ
nghĩa hiện thực trên đất nước Việt Nam.
Tư tưởng Hồ Chí Minh là một hệ thống quan điểm toàn diện và sâu sắc về
những vấn đề cơ bản của cách mạng Việt Nam, là kết quả của sự vận dụng và
phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lê-nin vào điều kiện cụ thể của nước ta, kế
thừa và phát triển các giá trị truyền thống tốt đẹp của dân tộc, tiếp thu tinh hoa
văn hóa nhân loại". Và kế thừa tư tưởng đó của Người chúng ta cũng nhận ra
11


sáng tạo và linh hoạt trong tư duy cũng như trong hành động phải là phẩm chất
hàng đầu của con người Việt Nam đang sống trong thế kỷ XXI. Để có được
phẩm chất đó, đòi hỏi phải có “sự nhận thức mới, không phải về lý tưởng mà về
lý luận cách mạng, thực tiễn hoạt động và thực tế đời sống”. Để làm được điều
đó, phải biết khai thác cái lợi thế vô song của chúng ta, đó là uy tín của tên tuổi
và sự nghiệp của Chủ tịch Hồ Chí Minh – anh hùng giải phóng dân tộc và danh
nhân văn hoá mà thế giới từng biết và đã tỏ lòng ngưỡng mộ


12



×