Tải bản đầy đủ (.doc) (25 trang)

TIỂU LUẬN mối QUAN hệ GIỮA sự PHÁT TRIỂN KHOA học CÔNG NGHỆ với sự PHÁT TRIỂN GIÁO dục đào tạo THEO TINH THẦN NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG 2 KHÓA VIII

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (203.5 KB, 25 trang )

1

MỐI QUAN HỆ GIỮA SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THEO TINH THẦN
NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG HAI KHOÁ VIII
MỞ ĐẦU

Toàn cầu hoá là xu thế tất yếu của thế giới xuất hiện vào những
năm cuối của thế kỷ XX. Toàn cầu hoá là quá trình diễn ra do sự thay
đổi về công nghệ, tăng trưởng dài hạn liên tục về đầu tư nước ngoài và
nguồn lực quốc tế và sự hình thành trên phạm vi rộng lớn với quy mô
toàn cầu những hình thức về các mối liên kết quốc tế giữa các công ty và
các quốc gia. Sự liên kết này làm tăng quá trình hội nhập giữa các quốc
gia và thay đổi bản chất của cạnh tranh toàn cầu.
Về mặt khoa học kỹ thuật, công nghệ, toàn cầu hoá là kết quả phát triển
nhanh chóng của khoa học kỹ thuật và công nghệ, đặc biệt là công nghệ thông
tin và viễn thông toàn cầu. Khoảng cách về không gian và thời gian là không
còn ý nghĩa với các hoạt động của con người và các tổ chức.
Ngày nay, các quốc gia đều tiến hành xây dựng chiến lược phát triển
dựa trên cơ sở huy động tối đa năng lực nội sinh, tạo được những khả năng
cảm nhận (yếu tố tri thức, trí tuệ) và khả năng phản ứng thích nghi (yếu tố cơ
cấu và tổ chức xã hội) với môi trường toàn cầu hoá đầy biến động. Trong khi
khoa học và công nghệ có những bước phát triển nhảy vọt, khối lượng tri thức
nhân loại ngày càng lớn, đòi hỏi giáo dục phải thường xuyên cập nhật các
thành tựu mới đồng thời phải chuyển dần từ việc học để tiếp nhận tri thức
sang học để biết cách tìm kiếm và tích luỹ tri thức một cách nhanh chóng
nhất, chính xác nhất và hiệu quả nhất. Hiện nay nhiều nước trên thế giới đang
có xu hướng chuyển dịch sang nền kinh tế tri thức - nền kinh tế mà các sản
phẩm của nó đều chứa đựng một hàm lượng chất xám cao. Muốn xây dựng
nền kinh tế tri thức phải dựa vào tiền đề phát triển giáo dục. Vì vậy, hầu hết



2

các nước đều ở trong cao trào đổi mới, canh tân, cải cách hoặc tiến hành
những điều chỉnh cho phù hợp với xu thế phát triển chung. Như vậy, tiềm lực
khoa học và công nghệ và nguồn nhân lực được đào tạo có tri thức sẽ là thế
mạnh không gì thay thế được, góp phần quyết định tạo dựng sức mạnh tổng
hợp và năng lực cạnh tranh của quốc gia trong tiến trình hội nhập quốc tế. Do
đó, đầu tư cho phát triển nguồn nhân lực khoa học và công nghệ, cũng như cho
giáo dục và đào tạo có ý nghĩa quyết định đối với việc bảo đảm khả năng cạnh
tranh của một nước. Đó cũng chính là sự biện chứng của mối quan hệ giữa
khoa học kỹ thuật và công nghệ - giáo dục và đào tạo - kinh tế. Nói về mối
quan hệ này, người Hàn quốc trong những năm 80 của thế kỷ XX cho rằng:
“Cạnh tranh giữa các nước về sức mạnh kinh tế thực chất là cuộc đua tranh về
giáo dục chất lượng cao trong khoa học và công nghệ”. Hay R.Reagan lúc
đương nhiệm Tổng thống nước Mỹ đã từng lo lắng: “Mỹ có nguy cơ trở thành
cường quốc hạng hai về kinh tế nếu như Mỹ cho phép mình làm mất đi vai trò
dẫn đầu về công nghệ kỹ thuật do tình trạng giáo dục yếu kém”.
Mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nhằm đưa nước ta ra khỏi tình trạng
kém phát triển vào năm 2010 và trở thành một nước công nghiệp vào năm
2020 đòi hỏi giáo dục phải phát triển mạnh mẽ để góp phần thúc đẩy công
nghiệp hoá, hiện đại hoá. Việc chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng
xã hội chủ nghĩa; sự phát triển nhanh chóng của khoa học và công nghệ ; xu
thế toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế làm nhu cầu học tập ngày càng
tăng của nhân dân vừa là thời cơ vừa tạo ra thách thức to lớn đối với giáo dục
nước ta. Nhận thức sâu sắc vấn đề này Văn kiện Nghị quyết Đại hội Đảng toàn
quốc lần thứ VIII chỉ rõ: “Cùng với khoa học và công nghệ, giáo dục và đào tạo
là quốc sách hàng đầu, nhằm nâng cao dân trí , đào tạo nhân lực bồi dưỡng nhân
tài”1. Nghị quyết Hội nghị lần thứ Hai BCHTƯ Đảng (khoá VIII) về định hướng
1


Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII, Nxb Chính trị quốc gia,

1996, tr. 107, Hà Nội.


3

chiến lược phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại
hoá tiếp tục khẳng định: “Thực sự coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu.
Nhận thức sâu sắc giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân
tố quyết định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục đào tạo là đầu tư phát triển”2.
Đảng ta đã khẳng định giáo dục có vai trò quyết định trong sự phát triển
trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đồng thời trước hết bản
thân giáo dục cũng phải được “Hiện đại hoá”; Giáo dục cần hiện đại hoá về mục
tiêu, về chương trình giáo dục, về đội ngũ, về cơ sở vật chất - sư phạm, vì
không thể có một nền giáo dục vừa là mục tiêu vừa là sức mạnh của nền kinh
tế, đưa đất nước vào công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nếu bản thân nó không
được đầu tư thích đáng, không được hiện đại hoá.
Như vậy, khoa học và công nghệ với giáo dục - đào tạo có mối quan
hệ khăng khít với nhau biện chứng với nhau và chế ước lẫn nhau, vừa là
nội dung vừa là hình thức của nhau trong việc góp phần thúc đẩy sự phát
triển đất nước nhanh và bền vững.
NỘI DUNG
I. TỔNG QUAN VỀ CÔNG NGHỆ GIÁO DỤC

Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại, coi như khởi đầu
vào giữa thế kỷ 20, đang phát triển mạnh mẽ, thúc đẩy nhiều lĩnh vực có
những bước tiến vượt bậc và đang mở ra những triển vọng hết sức lớn
lao trong thế kỷ 21 này.

Nếu như thuật ngữ “Công nghệ giáo dục”, “Công nghệ quản lý”...chưa
được quen dùng trước đây thì những năm 60 của thế kỷ 20 trở lại đây những
thuật ngữ này đã trở nên rất quen thuộc với mọi người. Khái niệm “công nghệ

Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghi lần thứ hai BCHTƯ khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà Nội
1997, tr.28-31
2


4

giáo dục” ngày càng được sử dụng rộng rãi với nhiều nội dung mới mẻ góp
phần thúc đẩy sự phát triển lĩnh vực này.
* Công nghệ giáo dục nghĩa hẹp và công nghệ giáo dục nghĩa rộng
Có nhiều cách tiếp cận và quan niệm khác nhau về khái niệm công nghệ
giáo dục. Tuy nhiên chúng ta có thể hiểu công nghệ giáo dục theo hai nghĩa:
“công nghệ giáo dục” theo nghĩa hẹp và “công nghệ giáo dục” theo nghĩa rộng.
- Công nghệ giáo dục theo nghĩa hẹp
Những định nghĩa thuộc nhóm này chứa đựng một yếu tố cơ bản là
đồng nhất công nghệ giáo dục với việc sử dụng trong giáo dục những phát
minh, những sản phẩm công nghiệp hiện đại về thông tin và các phương tiện
nghe - nhìn. Hiệu quả giáo dục được nâng cao thông qua việc sử dụng tổ hợp
trong dạy học, phương tiện giao lưu đa dạng (multimedia).
Có thể kể đến một vài đại diện cho nhóm định nghĩa này:
+ Collier (1971) và nhiều cộng tác viên: “Công nghệ giáo dục với
nghĩa là áp dụng các hệ thống kỹ thuật và phương tiện hỗ trợ để cải tiến quá
trình học nghề của con người”.
+ Gass (1971) “công nghệ giáo dục là sự quan niệm và áp dụng có tổ
chức các hệ thống học nghề có lợi dụng những kỳ diệu của phương tiện hiện
đại trong thông tin. Các phương tiện nghe - nhìn, các phương pháp về tổ chức

và giảng dạy của nhà trường”.
+ Davis (1971) : “Nhìn thấy trong công nghệ giáo dục hai công nghệ:
một là yếu tố vật chất và một là các phương tiện giảng dạy”.
- Công nghệ giáo dục nghĩa rộng
Từ những năm 1967 trở về đây, các nhà khoa học nghiên cứu vấn đề
này đã lần lượt đưa ra nhiều định nghĩa (hoặc quan điểm) với những thuộc


5

tính bản chất của khái niệm không chỉ đơn thuần là yếu tố phương tiện kỹ
thuật mà được mở rộng hơn nhiều và cũng rất đa dạng - Với lẽ đó đã xuất
hiện khái niệm công nghệ giáo dục nghĩa rộng. Một số đại diện của nhóm này
là:
+ Hội đồng quốc gia về công nghệ giáo dục - Anh (1967): Công nghệ
giáo dục là sự phát triển, ứng dụng và đánh giá các hệ thống kỹ thuật và hỗ
trợ nhằm cải thiện quá trình học tập của con người.
+ Báo cáo của CERI Pháp (1971): Dựa trên công việc của trung tâm
nghiên cứu và cải cách giáo dục thì “công nghệ giáo dục phải được hiểu như
một phần tích hợp của một hoạt động thường xuyên và tổ hợp nhằm làm xích
lại gần nhau một cách có kết quả giữa người dạy - người học và các phương
tiện kỹ thuật”.
+ Januszkiewiez - Balan (1971): “Công nghệ dạy học là hệ thống các
chỉ dẫn sử dụng các phương pháp, phương tiện hiện đại, kết quả phải đào tạo
được người tốt nghiệp theo mong muốn trong thời gian có thể ngắn nhất với
sự chi phí phương tiện một cách tối ưu”.
+ Hội thảo ở Genève (10-16/5/1970), của tổ chức giáo dục UNESCO
định nghĩa: “Công nghệ giáo dục là khoa học về giáo dục xác lập các nguyên
tắc hợp lý của công tác dạy học và những điều kiện thuận lợi nhất để tiến
hành quá trình giáo dục cũng như các phương pháp và phương tiện có kết quả

nhất để đạt được mục đích đào tạo đề ra, với sự tiết kiệm sức lực của thầy và
trò”.
- Một số thuộc tính bản chất điển hình của khái niệm công nghệ giáo dục
Theo nghĩa hẹp (1960 - 1970):
Sử dụng trong lĩnh vực, quá trình giáo dục các phát minh, các sản phẩm
công nghiệp hiện đại của kỹ thuật thông tin và các phương tiện nghe - nhìn.


6

Theo nghĩa rộng (1970 - 1987) :
Sử dụng trong lĩnh vực, quá trình giáo dục các phát minh, các sản phẩm
công nghiệp hiện đại của kỹ thuật thông tin và các phương tiện nghe - nhìn.
Sử dụng tích hợp - tổ hợp các hoạt động làm xích lại gần nhau giữa
thầy trò - phương tiện:
+ Cá biệt hoá học sinh, tăng cường bình đẳng trong giáo dục, tăng
cường hiệu quả giáo dục...
+ Hiện đại và tối ưu hoá nội dung, áp dụng phương tiện kỹ thuật, đánh
giá kết quả...
+ Lặp lại kết quả đào tạo, chi phí tối ưu...
Một cách tổng quan khác về công nghệ giáo dục là xem xét những quan
niệm khung và sự phát triển có tính lịch sử như trong “Từ điển bách khoa
quốc tế về giáo dục” là: Coi công nghệ giáo dục như một khái niệm công cụ
của giáo viên; công nghệ giáo dục như một khái niệm hệ thống; công nghệ
giáo dục như một khái niệm về truyền thông đại chúng.
* Quan niệm về công nghệ giáo dục của một số nhà khoa học, quản lý
giáo dục ở Việt Nam
Phó giáo sư Lê Khánh Bằng đã phát biểu về bản chất của công nghệ
đào tạo: Công nghệ giáo dục là một khoa học giáo dục về con người. Dựa trên
cơ sở tổng hợp những thành tựu của nhân loại từ trước tới nay, đặc biệt những

thành tựu hiện đại của các khoa học giáo dục và các khoa học liên quan như
sinh học, tâm lý học, điều khiển học, lý thuyết tổ chức, logic học, kinh tế giáo
dục học...Công nghệ giáo dục tổ chức một cách khoa học quá trình đào tạo
con người bằng cách xác định một cách chính xác và sử dụng một cách tối ưu
đầu ra (mục tiêu giáo dục), đầu vào (học sinh), nội dung dạy học, các điều
kiện và phương tiện kỹ thuật dạy học, các tiêu chuẩn đánh giá, hệ phương
pháp tích cực hóa, chương trình hóa, qui trình hóa và cá thể hóa quá trình dạy


7

học, nhằm đạt được mục đích giáo dục với sự chi phí tối ưu thời gian, sức lực,
tiền của của giáo viên, học sinh, nhân dân và Nhà nước, nhằm đáp ứng kịp
thời những yêu cầu của thời đại.
Tác giả Nguyễn Đức viết: Khảo sát hiện trạng, nguồn gốc hình thành,
qui luật vận động và xu thế phát triển của công nghệ giáo dục, cho phép đi
đến nhận thức bản chất của nó như sau: công nghệ giáo dục xuất hiện và hình
thành trên cơ sở tích hợp những thành quả tiên tiến của các khoa học giáo dục
với những khoa học khác như: thông tin, tâm lý, ngôn ngữ học...xác lập nên
các nguyên tắc hợp lý cho việc tổ chức khoa học quá trình đào tạo, trong đó
sử dụng rộng rãi các phương tiện kỹ thuật dạy học hiện đại, tích hợp tối ưu và
hiện đại hóa nội dung đào tạo, thay đổi hệ phương pháp chuyển từ hệ thông
tin sang hệ phương pháp luận và tạo nên những định chuẩn đánh giá chính
xác kết quả đào tạo (từng phần và toàn bộ), điều chỉnh, điều khiển kịp thời,
lặp lại kết quả trong đào tạo, theo mục tiêu đã định.
Giáo sư Hồ Ngọc Đại nghiên cứu và thực nghiệm nhiều năm về giáo
dục bậc tiểu học, đã quan niệm về công nghệ giáo dục (được viết là CGD)
theo một số ý sau, có thể là quan trọng nhất, trong khi tác giả chưa đưa ra một
định nghĩa về công nghệ giáo dục:
- Tâm lý học hiện đại coi hoạt động tinh thần và hoạt động vật chất là

giống nhau về nguyên tắc; đó là gốc lý luận của CGD.
- Sản phẩm của CGD trước hết là khái niệm. CGD trước hết phải kiểm
soát được quá trình hình thành khái niệm.
- Lõi của CGD, cốt “vật chất” của nhân cách, cái khung thép của toà
nhà cuộc đời cá nhân, là hệ thống khái niệm khoa học hiện đại. CGD sẽ dựng
lên cái lõi, cái cốt vật chất cái khung ấy. CGD cũng như công nghệ sản xuất
đều có lõi là một chuỗi thao tác sắp xếp tuyến tính trong thời gian.


8

Giáo sư Trần Hồng Quân, cho rằng trong bất cứ lao động nào của con
người, cũng có một công nghệ, dù tự giác hay không thự giác. Không có công
nghệ thì không tác động vào đối tượng được. Chỉ có đơn giản hoặc phức tạp,
khoa học hoặc không khoa học, chứ không thể không có công nghệ. Tương tự
như vậy đối với giáo dục, cũng có công nghệ giáo dục. Công nghệ giáo dục là
một phương tiện hoạt động có công cụ và đối tượng lao động. Theo quan
niệm mới các em học sinh vừa là đối tượng lao động vừa là người lao động,
nghĩa là người tự đào tạo. Các em đóng hai khâu trong qui trình lao động: vừa
là đối tượng lao động, vừa là khâu chiếm lĩnh của từng người trong quá trình
lao động. Nói công nghệ giáo dục không phải phủ nhận vai trò của các em.
Tinh thần của công nghệ giáo dục mới là đề cao vai trò của học sinh, là việc
đi tìm phương pháp thích hợp để học sinh là trung tâm trong quá trình đào
tạo. Cái sáng tạo của người làm giáo dục là sáng tạo về phương pháp, sáng
tạo về công nghệ. Còn sự sáng tạo trong nội dung, là sự biết lựa chọn, biết kế
thừa những tri thức về khoa học tự nhiên, khoa học xã hội, các giá trị về đạo
đức. Xét cho cùng việc lựa chọn nội dung cũng nằm trong phạm trù phương
pháp.
Từ những cách tiếp cận trên chúng ta có thể quan niệm: Công nghệ
giáo dục là tập hợp những quá trình ổn định bao gồm các hoạt động, các thao

tác có thể kiểm soát được để đưa quá trình giáo dục đạt tới mục tiêu. Có nghĩa
là sử dụng các thiết bị kỹ thuật và các qui trình chặt chẽ về nội dung, về
phương pháp đảm bảo cho quá trình giáo dục đạt tới độ tin cậy khách quan.
Cấu trúc của công nghệ giáo dục vẫn gồm hai phần: phần cứng là phần
kỹ thuật (phương tiện, thiết bị dạy học…); Phần phương pháp là phần mềm
(thông tin, con người, quản lý…).


9

Mục đích công nghệ giáo dục là nghiên cứu chuyển hoá vào thực tiễn
giáo dục những thành tựu mới nhất của khoa học kỹ thuật và khoa học giáo
dục nhằm thiết kế được những hệ dạy học và giáo dục tối ưu vận hành theo
nguyên lý mới đó là hướng vào việc phân hoá, cá thể hoá theo nhịp độ riêng
của từng đối tượng giáo dục.
* Đặc trưng của công nghệ giáo dục:
Thứ nhất, công nghệ giáo dục phải định lượng hoá được mục tiêu giáo
dục, biến mục tiêu giáo dục thành đối tượng có thể đo lường được. Mục tiêu giáo
dục nào được xác định đủ rõ để chỉ đạo được việc tổ chức quá trình đào tạo
thành qui trình ổn định và để làm chuẩn đo được kết quả đào tạo, qua đó đánh
giá được hiệu quả đào tạo, thì mục tiêu đó thường là lượng hoá được, đo đạc
được, quan sát được, và do đó có khả năng xây dựng được công nghệ giáo dục.
Những mục tiêu có thể lượng hoá được, đo đạc được, quan sát được,
thường là những mục tiêu thể hiện yêu cầu về kiến thức, về kỹ năng, về thái
độ; cũng nên chú ý là không phải mọi yêu cầu về những mặt này đều đo đạc
được, quan sát được.
Để hình thành công nghệ giáo dục ổn định, có thể kiểm soát được,
chuyển giao được, đảm bảo thực hiện mục tiêu, cần có ba điều kiện tối thiểu là:
- Mục tiêu được xác định rõ, tức là làm được hai chức năng: chỉ đạo tổ
chức quá trình đào tạo và làm chuẩn đo kết quả đào tạo (tức là lượng hoá

được, đo đạc được, quan sát được). Mục tiêu này là yêu cầu đối với từng
người học (với cá nhân).
- Quá trình đào tạo, nhằm vào mục tiêu, phải được tổ chức thành
những qui trình cụ thể, bao gồm những thao tác, bố trí thành những hành
động, hợp thành những công đoạn…có thể có sự hỗ trợ của những phương
tiện kỹ thuật, sắp xếp thành trật tự trước sau theo thời gian; quá trình này là sự
kết hợp của các nhân tố: nội dung, phương pháp, phương tiện, hình thức…


10

giáo dục nhằm vào mục tiêu đào tạo. Những qui trình này là những qui trình
dạy và những qui trình học, phải hướng vào người học, và giúp cho người học
tự giác thực hiện; người học bằng chính hoạt động của mình mà chiếm lĩnh
kiến thức, kỹ năng, thái độ và có năng lực lựa chọn, quyết định, có cơ sở (tư
tưởng về “học sinh là trung tâm của giáo dục”).
- Quá trình đánh giá, phải được tổ chức thành qui trình đánh giá. Mỗi
qui trình gồm những yếu tố: chuẩn, tiêu chí đáng giá (suy từ mục tiêu đào
tạo), nội dung đánh giá (suy từ nội dung đào tạo), phương pháp đánh giá (suy
từ phương pháp đào tạo), phương tiện đánh giá.. Qui trình đánh giá phải bám
sát qui trình dạy - học ( tránh tình trạng dạy theo một kiểu, lại đánh giá theo
một kiểu khác). Có những đánh giá mang tính kiểm tra để uốn nắn cách dạy
học; có những đánh giá mang tính tổng kết về mức độ đạt yêu cầu để xác
nhận trình độ, cấp văn bằng, chứng chỉ. Trong qui trình đánh giá, về mặt xã
hội (tránh tiêu cực). Có thể xây dựng qui trình tự đánh giá.
Nếu mục tiêu mang tính định tính thì phải xây dựng các chỉ số, các tiêu
chí để chuyển thành định lượng được.
Thứ hai, những qui trình giáo dục có thể kiểm soát được, chuyển giao
được. Phải thực hiện đúng qui trình thì mới chuyển giao được và ai cũng làm
được.

Thứ ba, nội dung giáo dục có thể lắp ghép được. Nội dung giáo dục
được phân chia thành những bộ phận vừa tuân theo hệ thống logic vừa có tính
độc lập tương đối, có thể lắp ghép cơ động dọc hoặc ngang theo tình huống cụ
thể.
Thứ tư, sử dụng các phương pháp, hình thức giáo dục tiên tiến theo
hướng phân hoá, cá thể hoá phát triển năng lực sáng tạo của người học.
Từ những vấn đề cơ bản của “Công nghệ giáo dục” cho chúng ta thấy
công nghệ giáo dục là một hướng cơ bản nâng cao hiệu quả giáo dục trên


11

những quan niệm cơ bản là: Tổ chức khoa học quá trình giáo dục; sử dụng
hợp lý các phương tiện kỹ thuật trong quá trình giáo dục; Coi người học là
chủ thể, tích cực chủ động và sáng tạo thực hiện qui trình giáo dục dưới sự
hướng dẫn, cố vấn, trọng tài của người thầy…
Công nghệ giáo dục còn đang là một hướng mới còn nhiều vấn đề về
lý luận và thực tiễn chưa được giải quyết, cần được khai phá, nhưng dù sao
cũng là hướng tích cực trong cuộc cách mạng khoa học và công nghệ đang
xâm nhập vào mọi lĩnh vực, cần được khuyến khích ở ước ta, trong phạm
trù “cải cách mục tiêu, nội dung, phương pháp giáo dục”. Đó là một phạm
trù hiện đại của giáo dục.
II. MỐI QUAN HỆ GIỮA SỰ PHÁT TRIỂN KHOA HỌC VÀ CÔNG NGHỆ
VỚI SỰ PHÁT TRIỂN GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO THEO TINH THẦN
NGHỊ QUYẾT TRUNG ƯƠNG HAI KHOÁ VIII

Để thực hiện Nghị quyết Đại hội VIII, Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp
hành Trung ương khoá VIII đã quyết định và định hướng chiến lược, mục
tiêu, nhiệm vụ của nước ta trên hai lĩnh vực có ý nghĩa hết sức quan trọng
trước mắt cũng như lâu dài là giáo dục, đào tạo và khoa học, công nghệ.

1. Định hướng chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Phân tích thực trạng nền giáo dục Việt Nam và xu thế phát triển của thời đại
Đảng ta đã đề ra những tư tưởng chỉ đạo phát triển giáo dục - đào tạo trong thời kỳ
công nghiệp hoá, hiện đại hoá là :
- Nhiệm vụ và mục tiêu cơ bản của giáo dục là nhằm xây dựng những
con người và thế hệ thiết tha gắn bó với lý tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa
xã hội, có đạo đức trong sáng, có ý chí kiên cường xây dựng và bảo vệ Tổ
quốc; công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước; giữ gìn và phát huy các giá trị
văn hoá của dân tộc, có năng lực tiếp thu tinh hoa văn hoá nhân loại; phát huy
tiềm năng của dân tộc và con người Việt Nam, có ý thức cộng đồng và phát


12

huy tính tích cực của cá nhân, làm chủ tri thức khoa học và công nghệ hiện
đại, có tư duy sáng tạo, có kỹ năng thực hành giỏi, có tác phong công nghiệp,
có tính tổ chức và kỷ luật; có sức khoẻ, là những người thừa kế xây dựng chủ
nghĩa xã hội vừa “hồng” vừa “chuyên” như lời căn dặn của Bác Hồ.
- Giữ vững mục tiêu xã hội chủ nghĩa trong nội dung, phương pháp
giáo dục - đào tạo, trong các chính sách, nhất là chính sách công bằng xã
hội. Phát huy ảnh hưởng tích cực, hạn chế ảnh hưởng tiêu cực của cơ chế
thị trường đối với giáo dục - đào tạo. Chống khuynh hướng “thương mại
hoá”, đề phòng khuynh hướng phi chính trị hoá giáo dục - đào tạo. Không
truyền bá tôn giáo trong trường học.
- Thực sự coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhận thức
sâu sắc giáo dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết
định tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục - đào tạo
là đầu tư phát triển. Thực hiện các chính sách ưu tiên ưu đãi đối với giáo
dục - đào tạo, đặc biệt là chính sách đầu tư và chính sách tiền lương. Có

các giải pháp mạnh mẽ để phát triển giáo dục.
- Giáo dục - đào tạo là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của
toàn dân. Mọi người đi học, học thường xuyên, học suốt đời. Phê phán thói
lười học. Mọi người chăm lo cho giáo dục. Các cấp uỷ và tổ chức đảng, các
cấp chính quyền, các đoàn thể nhân dân, các tổ chức kinh tế xã hội, các gia
đình và các cá nhân đều có trách nhiệm tích cực góp phần phát triển sự nghiệp
giáo dục - đào tạo, đóng góp trí tuệ, nhân lực, vật lực, tài lực cho giáo dục đào tạo. Kết hợp giáo dục nhà trường, giáo dục gia đình và giáo dục xã hội,
tạo nên môi trường giáo dục lành mạnh ở mọi nơi, trong từng cộng đồng, từng tập
thể.
- Phát triển giáo dục - đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, những tiến bộ khoa học - công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh. Coi


13

trọng cả ba mặt; mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát triển hiệu quả. Thực
hiện giáo dục kết hợp với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, lý luận gắn với
thực tế, học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội.
Thực hiện công bằng xã hội trong giáo dục - đào tạo. Tạo điều kiện để
ai cũng được học hành. Người nghèo được Nhà nước và cộng đồng giúp đỡ để
học tập. Bảo đảm điều kiện cho những người học giỏi phát triển tài năng.
- Giữ vai trò nòng cốt của các trường công lập đi đôi với đa dạng hoá
các loại hình giáo dục - đào tạo, trên cơ sở Nhà nước thống nhất quản lý, từ
nội dung chương trình, quy chế học, thi cử, văn bằng, tiêu chuẩn giáo viên,
tạo cơ hội cho mọi người có thể lựa chọn cách học phù hợp với nhu cầu và
hoàn cảnh của mình. Phát triển các trường bán công, dân lập ở những nơi có
điều kiện, từng bước mở các trường tư thục ở một số bậc học như: mầm non,
phổ thông trung học (cấp III), trung học chuyên nghiệp, dạy nghề, đại học.
Mở rộng các hình thức đào tạo không tập trung, đào tạo từ xa, từng bước hiện
đại hoá hình thức giáo dục”.3

2. Về định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ trong
thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá
Những thành tựu to lớn của cuộc cách mạng khoa học và công nghệ hiện đại
đã và đang đẩy nhanh sự phát triển của lực lượng sản xuất, nâng cao năng suất lao
động, làm chuyển biến mạnh mẽ cơ cấu kinh tế của các quốc gia và làm thay đổi
sâu sắc mọi mặt đời sống xã hội loài người.
Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng đã khẳng định
từ nay đến năm 2020 phải phấn đấu để xây dựng nước ta cơ bản trở thành một nước
công nghiệp ; khoa học và công nghệ phải trở thành nền tảng và động lực cho công
nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Từ phân tích thực trạng khoa học và công nghệ
Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Hội nghi lần thứ hai BCHTƯ khoá VIII, Nxb Chính trị Quốc gia, Hà
Nội 1997, tr.28-31
3


14

và tình hình thực tiễn ở nước ta, từ xu thế phát triển khoa học và công nghệ của thế
giới. Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương khoá VIII quyết định
định hướng chiến lược phát triển khoa học và công nghệ đến năm 2020 là:
- Vận dụng sáng tạo và phát triển chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, kế thừa những giá trị văn hoá truyền thống của dân tộc, tiếp thu
tinh hoa trí tuệ của nhân loại, đi sâu điều tra, nghiên cứu thực tế, tổng kết sâu
sắc quá trình đổi mới đất nước. Xây dựng, không ngừng phát triển và hoàn
thiện hệ thống lý luận về con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam;
cung cấp luận cứ khoa học cho việc tiếp tục bổ sung, hoàn thiện đường lối,
chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước nhằm xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc xã hội chủ nghĩa.
- Đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học và công nghệ
trong tất cả các ngành sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, quản lý và quốc phòng an ninh, nhanh chóng nâng cao trình độ công nghệ của đất nước. Coi trọng

nghiên cứu cơ bản, làm chủ và cải tiến các công nghệ nhập từ bên ngoài, tiến
tới sáng tạo ngày càng nhiều công nghệ mới ở những khâu quyết định đối với
sự phát triển của đất nước trong thế kỷ 21.
- Nâng cao năng lực nội sinh, xây dựng, phát triển tiềm lực khoa học và
công nghệ của nước nhà: đào tạo, bồi dưỡng, sử dụng đội ngũ cán bộ khoa
học và công nhân lành nghề, trẻ hoá và phát triển đội ngũ cán bộ khoa học và
công nghệ, kiện toàn hệ thống tổ chức, tăng cường cơ sở vật chất - kỹ thuật,
mở rộng các nguồn cung cấp thông tin, từng bước hình thành một nền khoa
học và công nghệ hiện đại của Việt Nam.
* Nhiệm vụ của các lĩnh vực khoa học và công nghệ:
- Khoa học xã hội và nhân văn: Vận dụng sáng tạo lý luận, phương
pháp luận của chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh để nghiên cứu
phát triển chủ nghĩa xã hội khoa học; nghiên cứu sâu sắc chủ nghĩa tư bản
hiện đại, những biến đổi trong các quan hệ quốc tế; dự báo xu hướng phát


15

triển của thế giới, khu vực và đất nước. Xây dựng lý luận về chủ nghĩa xã hội
và con đường đi lên chủ nghĩa xã hội của Việt Nam.
Nghiên cứu sự biến đổi cơ cấu xã hội - giai cấp. Nghiên cứu lý luận và
chính sách quản lý kinh tế - xã hội trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại
hoá, đổi mới tổ chức và phương thức hoạt động của hệ thống chính trị; nghiên
cứu vấn đề đảng cầm quyền và xây dựng đảng trong điều kiện nền kinh tế
nhiều thành phần và cơ chế thị trường theo con đường xã hội chủ nghĩa.
Tổng kết thực tiễn sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước, tham khảo
kinh nghiệm phát triển của thế giới, đề xuất luận cứ khoa học về mô hình và
các giải pháp của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá ở nước ta.
Tiếp tục nghiên cứu, tổng kết kinh nghiệm các cuộc chiến tranh cứu
nước, giữ nước trong lịch sử dân tộc; xây dựng, phát triển khoa học và nghệ

thuật quân sự Việt Nam trong điều kiện mới.
- Khoa học tự nhiên: Nghiên cứu cơ bản có định hướng, có trọng điểm
các lĩnh vực khoa học tự nhiên (toán học, tin học, cơ học, vật lý, hoá học, sinh
học, các khoa học về trái đất và biển...) nhằm tạo cơ sở khoa học cho việc sử
dụng hợp lý và bảo vệ tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi trường sinh thái,
phòng chống, hạn chế hậu quả thiên tai và nhằm xây dựng năng lực khoa học
cho việc làm chủ các công nghệ tiên tiến được chuyển giao từ nước ngoài và
sáng tạo ra công nghệ mới.
- Khoa học kỹ thuật và công nghệ: Đến năm 2020 đạt trình độ công
nghệ tiên tiến trong khu vực ở các ngành kinh tế trọng điểm như công nghệ
sinh học, sản xuất lương thực, chế biến nông - lâm - hải sản, cơ khí điện tử,
công nghệ thông tin, bưu chính - viễn thông, khai thác và chế biến dầu khí,
giao thông vận tải, xây dựng, vật liệu cơ bản, sản xuất và sử dụng năng lượng,
y dược. Phát triển một số ngành công nghiệp biển.
- Tiềm lực khoa học và công nghệ: Nâng cao năng lực nội sinh về khoa
học và công nghệ để có khả năng tiếp thu các tri thức mới của thế giới, thích


16

nghi, làm chủ các công nghệ tiên tiến từ nước ngoài; nghiên cứu giải quyết
các vấn đề khoa học và công nghệ do thực tiễn đặt ra trong quá trình phát
triển; bảo đảm căn cứ khoa học cho các quy hoạch, kế hoạch phát triển.
Để thực hiện các mục tiêu và nhiệm vụ chiến lược trên, cần quán triệt
các quan điểm chỉ đạo sau đây:
Một là, cùng với giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là quốc sách
hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế - xã hội, là điều kiện cần thiết để giữ
vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước phải bằng và dựa vào khoa học và công nghệ.
Hai là, khoa học và công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt

động của tất cả các ngành, các cấp, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng
kinh tế và củng cố quốc phòng - an ninh. Khoa học và công nghệ gắn với giáo
dục và đào tạo, khoa học tự nhiên và kỹ thuật gắn với khoa học xã hội và nhân
văn.
Ba là, phát triển khoa học và công nghệ là sự nghiệp cách mạng của toàn
dân. Phát huy cao độ khả năng sáng tạo của quần chúng, của các tập thể khoa
học và công nghệ, của các doanh nghiệp, các thành phần kinh tế, các tổ chức
chính trị - xã hội và của mỗi công dân trong hoạt động khoa học, công nghệ.
Bốn là, phát huy năng lực nội sinh về khoa học và công nghệ kết hợp
với tiếp thu thành tựu khoa học, công nghệ thế giới.
Năm là, phát triển khoa học, công nghệ gắn liền với bảo vệ và cải thiện
môi trường sinh thái, bảo đảm phát triển kinh tế - xã hội nhanh và bền vững.
Nghị quyết cũng xác định những giải pháp chủ yếu cho phát triển khoa
học công nghệ, bao gồm:
- Tạo lập thị trường cho khoa học và công nghệ;
- Chính sách đối với cán bộ khoa học và công nghệ;
- Phát động phong trào quần chúng tiến quân vào khoa học phát huy
sáng kiến, cải tiến kỹ thuật;


17

- Tăng đầu tư cho phát triển khoa học và công nghệ từ nhiều nguồn;
- Hợp tác quốc tế về khoa học và công nghệ;
- Tăng cường kiểm soát, giám định công nghệ và chất lượng sản phẩm;
- Đổi mới hệ thống tổ chức quản lý hoạt động khoa học và công nghệ;
- Đẩy mạnh các hoạt động thông tin, tuyên truyền, phổ cập kiến thức
khoa học và công nghệ.
3. Mối quan hệ giữa sự phát triển khoa học và công nghệ với sự
phát triển giáo dục và đào tạo

* Cách mạng khoa học và công nghệ
Khoa học là hệ thống tri thức về các hiện tượng, sự vật, quy luật của tự
nhiên, xã hội và tư duy;
Công nghệ là tập hợp các phương pháp, quy trình, kỹ năng, bí quyết, công
cụ, phương tiện dùng để biến đổi các nguồn lực thành sản phẩm;
Hoạt động khoa học và công nghệ bao gồm nghiên cứu khoa học,
nghiên cứu và phát triển công nghệ, dịch vụ khoa học và công nghệ, hoạt
động phát huy sáng kiến, cải tiến kỹ thuật, hợp lý hoá sản xuất và các hoạt
động khác nhằm phát triển khoa học và công nghệ;
Nghiên cứu khoa học là hoạt động phát hiện, tìm hiểu các hiện tượng,
sự vật, quy luật của tự nhiên, xã hội và tư duy; sáng tạo các giải pháp nhằm
ứng dụng vào thực tiễn. Nghiên cứu khoa học bao gồm nghiên cứu cơ bản,
nghiên cứu ứng dụng;
Phát triển công nghệ là hoạt động nhằm tạo ra và hoàn thiện công
nghệ mới, sản phẩm mới. Phát triển công nghệ bao gồm triển khai thực
nghiệm và sản xuất thử nghiệm;
Bản chất của cách mạng khoa học và công nghệ là bước nhảy vọt về sự
phát triển của lực lượng sản xuất dựa trên những tiến bộ trong hệ thống tri thức
khoa học, đó là một quá trình xã hội - những tri thức khoa học hiện đại thâm nhập


18

vào thực tiễn trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp làm cho năng suất và hiệu
quả lao động tăng cao, làm thay đổi tính chất, hình thức lao động, thay đổi
phương thức tổ chức quản lý và phân công lao động.
Mục tiêu của hoạt động khoa học và công nghệ là xây dựng nền khoa
học và công nghệ tiên tiến, hiện đại để phát triển lực lượng sản xuất, nâng
cao trình độ quản lý; sử dụng hợp lý tài nguyên thiên nhiên, bảo vệ môi
trường; đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá; xây dựng nền văn hoá tiên

tiến, đậm đà bản sắc dân tộc; xây dựng con người mới Việt Nam; góp phần
phát triển nhanh, bền vững kinh tế - xã hội, nâng cao chất lượng cuộc sống
của nhân dân, bảo đảm quốc phòng, an ninh.

* Mối quan hệ giữa sự phát triển khoa học và công nghệ với sự phát
triển giáo dục và đào tạo
Từ tổng quan về “Công nghệ giáo dục”, bản chất của cách mạng
khoa học và công nghệ , chúng ta thấy được mối quan hệ mật thiết giữa khoa
học và công nghệ, giữa khoa học và công nghệ với các lĩnh vực của đời sống
kinh tế - xã hội đặc biệt sự tác động biện chứng giữa sự phát triển khoa học
và công nghệ với giáo dục và đào tạo đó là:

- Sự kết hợp gắn bó giữa khoa học và công nghệ ngày càng cao. Sự
liên kết khoa học và công nghệ đã tác động đến nhiều ngành, làm thay đổi cả
phương thức, cả con người đặc biệt là chất xám, tức là làm cho vai trò chất
xám phát triển cao (biểu hiện là hàm lượng chất xám ngày càng tăng cao
trong các sản phẩm lao động), tri thức khoa học được khẳng định. Điều đó đòi
hỏi giáo dục phải đặt mục tiêu phát triển trí tuệ con người, vì vậy phải đào tạo
nguồn lực lao động chất lượng cao, đào tạo nhân tài, phải tạo sự gắn bó khoa
học và công nghệ trong giáo dục. Khoa học công nghệ làm cho công nghệ
giáo dục phát triển, công nghệ giáo dục phát triển lại thúc đẩy khoa học và
công nghệ phát triển, đó là tác động biện chứng.


19

- Khoa học và công nghệ phát triển tách con người ra khỏi máy móc.
Giai đoạn công nghệ mới phát triển cao tách con người ra khỏi máy móc thì
xuất hiện nhiều xí nghiệp, nhà máy ít công nhân, vai trò con người có khác đó
là chỉ điều khiển, tổ chức trong quá trình sản xuất và đối với giáo dục thì

trong mục tiêu, mô hình giáo dục cũng phải hướng tới giáo dục con người có
năng lực tổ chức, quản lý, điều khiển máy móc, tức là có trình độ chuyên môn
nghiệp vụ, kỹ năng, kỹ xảo cao làm chủ được trang bị máy móc kỹ thuật và
công nghệ, đối với giáo viên có thể dạy học mà không trực tiếp tiếp xúc với
học sinh, giáo viên tách khỏi lớp...
- Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại tác động toàn diện các lĩnh
vực : chính trị, kinh tế, văn hoá, xã hội, quân sự, ngoại giao...mà trước hết và sâu
sắc nhất là tác động đến lực lượng sản xuất ; tổng sản phẩm của cả thế giới. Vì vậy,
bắt buộc các lĩnh vực phải rà soát lại, chuyển đổi hoạt động của mình cho phù hợp
với xu thế phát triển của khoa học và công nghệ. Đối với giáo dục phải rà soát lại
mục tiêu, nội dung, phương thức giáo dục, phải liên kết giáo dục với các loại hoạt
động khác (ví dụ như hoạt động dạy học "phân tán tương tác" ...)
- Cạnh tranh ngày càng tăng, tốc độ quốc tế hoá nhanh hơn làm xuất
hiện các giá trị quốc tế trong các quốc gia. Cạnh tranh trong giáo dục và đào
tạo đó là hình thành các nhà trường xuyên quốc gia, nhà trường siêu quốc gia,
giáo dục không biên giới...
Trong lĩnh vực văn hoá, giáo dục toàn cầu hoá là sự hội nhập và
kết tinh của nhiều nền văn hoá, giáo dục khác nhau qua mạng viễn thông
và công nghệ thông tin toàn cầu, qua sự lan rộng của các quảng cáo tìm
kiếm thị trường văn hoá, giáo dục mới.
Toàn cầu hoá là xu thế không thể đảo ngược. Trong quá trình đó
không có chuyện đương nhiên nước lên thì thuyền lên. Ngược lại đó là
sự hợp tác trong cạnh tranh quyết liệt. Điều kiện cần để nước ta thành
công trong cuộc đấu tranh này là phải có một đội ngũ nhân lực đủ sức


20

đương đầu với cạnh tranh và hợp tác. Nền giáo dục nước ta có sứ mệnh
đào tạo ra những người lao động có khả năng thích ứng với những thay

đổi công nghệ, những biến động của việc làm, sự dịch chuyển cơ cấu kinh
tế, sự giao lưu văn hoá, sự chuyển đổi giá trị trong phạm vi khu vực và
thế giới mà vẫn giữ được bản sắc văn hoá dân tộc và cá tính. Giáo dục đào
tạo phải cung cấp một nền tảng tri thức và giá trị rộng. Toàn cầu hoá và
sự phát triển của khoa học và công nghệ tạo ra cơ hội cho giáo dục - đào tạo
nước ta hội nhập với giáo dục - đào tạo thế giới, bắt kịp với giáo dục - đào tạo
các nước tiên tiến hơn và cơ hội sử dụng kho tàng tri thức nhân loại, nhưng
toàn cầu hoá và sự phát triển của khoa học và công nghệ cũng tạo ra nguy cơ
mai một nền văn hoá dân tộc, những bản sắc văn hoá giáo dục có từ ngàn xưa.
- Cách mạng khoa học công nghệ làm thay đổi cơ cấu kinh tế thế giới,
làm tăng nhanh đầu tư khu vực 2 và khu vực 3 (khu vực chế biến và dịch vụ) ;
tỷ lệ tăng dân số giảm. Đối với giáo dục cũng thay đổi từ giáo dục hàn lâm (cơ
bản dài hạn) chuyển sang giáo dục mang tính thực tiễn, thực hành nhiều hơn.
Cơ chế quản lý giáo dục cũng chuyển từ bao cấp sang hạch toán, tăng cường
quyền tự chủ cho các nhà trường ; chuyển phương pháp dạy học nặng về tính
cơ bản sang dạy học ứng biến trong các tình huống, trong một xã hội đang
ngày một biến động mau lẹ.
- Cách mạng khoa học hiện đại làm thay đổi quy trình lao động sản xuất,
hình thành con người lao động kiểu mới. Toàn cầu hoá và sự phát triển của
khoa học và công nghệ cũng tạo ra sự di chuyển lao động tự do. Khi nền giáo
dục - đào tạo có chuẩn mực thấp, nhân lực đào tạo sẽ khó cạnh tranh trên thị
trường lao động với nhân lực các nước có chuẩn mực đào tạo cao hơn. Do sự
thấp kém về chất lượng và sự chênh lệch về chuẩn mực, giáo dục - đào tạo của
nước ta sẽ gặp những khó khăn rất lớn trong quá trình toàn cầu hoá và sự phát
triển của khoa học và công nghệ. Điều này đặt ra cho giáo dục và đào tạo phải
đào tạo ra một nguồn nhân lực năng động, tự chủ trong hoạt động của mình;


21


quy trình đào tạo, mô hình đào tạo con người cũng phải thay đổi. Nhiệm vụ đặt
ra cho giáo dục - đào tạo là phải nhanh chóng đạt chuẩn khu vực và quốc tế để
không những tăng cường lao động cho thị trường trong nước mà còn tạo ra khả
năng cạnh tranh ở thị trường nước ngoài.
Sau 10 năm đổi mới đất nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, trước
sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật và công nghệ, sự toàn cầu hoá và
hội hập kinh tế thế giới. Nhận thức sâu sắc mối quan hệ biện chứng, chế ước
lẫn nhau giữa sự phát triển của khoa học và công nghệ với sự phát triển của
giáo dục và đào tạo nên Đảng cộng sản Việt Nam đã kịp thời đưa ra hai nghị
quyết định hướng chiến lược trên hai lĩnh vực có ý nghĩa hết sức quan trọng
là giáo dục và đào tạo; khoa học và công nghệ như đã nêu trên. Về lĩnh vực giáo
dục - đào tạo một trong những quan điểm định hướng của Đảng ta là: Thực sự
coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo dục đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tăng trưởng
kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục - đào tạo là đầu tư phát triển;
Phát triển giáo dục - đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã hội, những
tiến bộ khoa học - công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh. Coi trọng cả ba
mặt; mở rộng quy mô, nâng cao chất lượng và phát triển hiệu quả. Thực hiện giáo
dục kết hợp với lao động sản xuất, nghiên cứu khoa học, lý luận gắn với thực tế,
học đi đôi với hành, nhà trường gắn liền với gia đình và xã hội. Đảng ta coi gắn kết
giữa giáo dục - đào tạo với khoa học và công nghệ là phương châm giáo dục của
nền giáo dục Việt Nam. Còn trong quan điểm định hướng chiến lược phát triển
khoa học và công nghệ là: cùng với giáo dục - đào tạo, khoa học và công nghệ là
quốc sách hàng đầu, là động lực phát triển kinh tế xã hội, là điều kiện cần thiết để
giữ vững độc lập dân tộc và xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội. Công nghiệp
hoá, hiện đại hoá đất nước phải bằng và dựa vào khoa học và công nghệ.
Khoa học và công nghệ là nội dung then chốt trong mọi hoạt động của tất cả


22


các ngành, các cấp, là nhân tố chủ yếu thúc đẩy tăng trưởng kinh tế và củng
cố quốc phòng - an ninh. Khoa học và công nghệ gắn với giáo dục và đào tạo,
khoa học tự nhiên và kỹ thuật gắn với khoa học xã hội và nhân văn.
Từ vai trò quan trọng của mối quan hệ sự phát triển của khoa học và
công nghệ với giáo dục - đào tạo đã phân tích trên chúng ta nhận thức rằng:
Cuộc cách mạng khoa học công nghệ hiện đại là đòn bẩy tác động đến
mọi quốc gia, cộng đồng thế giới, mọi lĩnh vực của đời sống xã hội, là đặc
điểm là nhân tố phát triển của thời đại, là động lực bên trong thúc đẩy xã hội
loài người phát triển. Vì vậy, phải gắn bó chặt chẽ giữa phát triển khoa học và
công nghệ với phát triển giáo dục và đào tạo, hai lĩnh vực này vừa là nội
dung vừa là hình thức của nhau.
Tích cực nghiên cứu và nhận thức đúng đắn về sự tác động của
cuộc cách mạng khoa học công nghệ đến sự phát triển xã hội; coi trọng
đúng mức sự phát triển của khoa học công nghệ từ đó không ngừng nâng
cao chất lượng giáo dục - đào tạo, nghiên cứu khoa học trong tình hình
hiện nay đáp ứng yêu cầu của thời đại.
Gắn bó chặt chẽ sự phát triển của khoa học và công nghệ với quốc
phòng an ninh với sự nghiệp xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam xã
hội chủ nghĩa xây dựng Quân đội “Cách mạng, chính quy, tinh nhuệ và
từng bước hiện đại”. Tứ đó, xác định, trách nhiệm của nhà trường quân sự
đối với sự nghiệp giáo dục và đào tạo, xây dựng các nguồn nhân lực cho
đất nước và quân đội khi khoa học và công nghệ phát triển.
Toàn cầu hoá và sự phát triển của khoa học và công nghệ tác động
sâu sắc đến mọi lĩnh vực đời sống xã hội nhưng không thể thay thế được
con người trong cuộc đấu tranh giai cấp và cách mạng xã hội trong tình
hình phức tạp hiện nay. Đói với giáo dục cho dù công nghệ giáo dục phát
triển như thế nào cũng không thể thay thế nhân tố con người, không thể


23


thay thế người thầy được đặc biệt trong lĩnh vực khoa học xã hội và nhân
văn. Vì vậy, người sỹ quan quân đội nhân dân Việt Nam phải học tập
chuyên môn nghiệp vụ, rèn đức, luyện tài, không thể rèn luyện bản lĩnh
ở khoa học và công nghệ được.
Cách mạng khoa học và công nghệ vừa là cơ sở của phát triển giáo
dục - đào tạo vừa đặt ra những yêu cầu mới của giáo dục - đào tạo vì vậy
phải gắn phát triển khoa học và công nghệ với đổi mới, nâng cao chất
lượng giáo dục và đào tạo một cách thường xuyên, liên tục.
KẾT LUẬN

Cách mạng khoa học công nghệ hiện đại mà hiện nay thường được gọi
là cách mạng tri thức đang tạo ra những thay đổi to lớn, sâu sắc trong cách
sản xuất kinh doanh, trong tiêu thụ, lối sống, cách tổ chức quản lý và mọi mặt
đời sống xã hội. Đó không chỉ là một cuộc cách mạng trong khoa học công
nghệ, trong kinh tế mà còn là cách mạng trong tư duy, trong khái niệm. Cái
khác biệt trong thời đại cách mạng tri thức ngày nay là tri thức đã trở thành
một yếu tố của sản xuất, quan trọng hơn cả tài nguyên và vốn. Tri thức cần
cho một xã hội tri thức có ý nghĩa rộng hơn là tri thức công nghệ, bao gồm cả
tri thức về văn hoá, về xã hội, về quản lý...trong một xã hội tri thức, thông tin
và tri thức là nguồn vốn cơ bản của quá trình tái sản xuất xã hội. Nền kinh tế
tri thức có những đặc trưng cơ bản như: công nghệ thông tin, công nghệ cao
giữ vai trò quan trọng hàng đầu; khoa học trở thành lực lượng sản xuất trực
tiếp; quá trình công nghiệp hoá được rút ngắn; cơ cấu kinh tế, hình thức tổ
chức xã hội thay đổi cơ bản và nguồn nhân lực trong xã hội nhanh chóng
được tri thức hoá, đây là một đặc trưng rất quan trọng, trong đó con người
phải làm việc bằng năng lực trí tuệ là chính, mà không chỉ là năng lực thể
chất, cơ cấu lao động xã hội thay đổi căn bản: nhân lực trong các ngành dịch



24

vụ, đặc biệt là dịch vụ xử lý thông tin và dịch vụ tri thức tăng nhanh; sự cách
biệt giàu nghèo về thực chất là sự cách biệt về tri thức và năng lực tạo ra tri
thức. Các nước đang phát triển chỉ có thể bằng con đường phát triển khoa học
và công nghệ, giáo dục và đào tạo nhằm tăng nhanh vốn tri thức mới có thể
rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển.
Cuộc cách mạng khoa học và công nghệ trên thế giới dang diễn ra
mạnh mẽ. Khoa học đã trở thành lực lượng sản xuất rực tiếp như Mác
dự đoán, còn công nghệ được đổi mới hết sức nhanh chóng. Trình độ
dân trí và tiềm lực khoa học, công nghệ đã trở thành nhân tố quyết định
sức mạnh và vị thế của mỗi quốc gia trên thế giới. Đảng ta nhận định :
cuộc cách mạng khoa học, công nghệ hiện đại, cùng với xu thế quốc tế
hoá đời sông kinh tế thế giới là thời cơ thuận lợi để phát triển, đồng
thời cũng là một thách thức gay gắt đối với các nước, nhất là những
nước còn chậm phát triển kinh tế như nước ta. Vì vậy, cùng với việc
nâng cao nhận thức đối với giáo dục, đào tạo, chúng ta cần phải hiểu
sâu sắc vai trò của khoa học và công nghệ trong việc phát huy nhân tố
con người.
Như vậy, ngày nay thời đại đang bước vào kỷ nguyên toàn cầu
hoá, kinh tế tri thức, hội nhập quốc tế. Giáo dục đang giữ vai trò đặc biệt
quan trọng cho sự phát triển xã hội, sự phát triển cá nhân, động lực của
sự phát triển kinh tế xã hội, Đầu tư cho giáo dục từ chỗ được xem là
phúc lợi xã hội chuyển sang đầu tư cho sự phát triển. Vì vậy các quốc
gia, từ những nước đang phát triển đến những nước phát triển đều nhận
thức được vai trò và vị trí hàng đầu của giáo dục, đều phải đổi mới giáo
dục kết hợp với kinh tế để có thể đáp ứng một cách năng động hơn, hiệu
quả hơn, trực tiếp hơn những nhu cầu của sự phát triển đất nước.



25

Từ những quan điểm của Đảng cho chúng ta thấy nền giáo dục nước
ta đã nhận thức được cơ hội và những thách thức của vấn đề toàn cầu
hoá và sự phát triển của giáo dục và đào tạo đang đặt ra cho sự phát triển
của mình. Nhận thức được mối quan hệ biện chứng của sự phát triển
khoa học và công nghệ với sự phát triển của giáo dục và đào tạo trong điều
kiện toàn cầu hoá hiện nay là xu thế tất yếu không thể đảo ngược, nếu
chúng ta không năng động, không “dẫn mình” vào toàn cầu hoá thì
chúng ta sẽ bị đào thải. Tuy nhiên, đi vào “cuộc chơi này” nếu chúng ta
không tỉnh táo, kiên định định hướng xã hội chủ nghĩa thì sẽ rơi vào tình
trạng tụt hậu vì tiếp thu công nghệ lạc hậu; công nghệ không phù hợp
với thực tiễn nền giáo dục nước ta hoặc bị hoà tan, đánh mất bản sắc văn
hoá dân tộc hoặc chệch hướng xã hội chủ nghĩa.
Phát triển giáo dục - đào tạo gắn với nhu cầu phát triển kinh tế - xã
hội, những tiến bộ khoa học - công nghệ và củng cố quốc phòng, an ninh
là sự nghiệp của toàn Đảng, của Nhà nước và của toàn dân.


×