1
BỘ GIÁO DỤC & ĐÀO TẠO
TRƯỜNG ĐẠI HỌC VINH
Đặng Hữu Trình
NÂNG CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ
CHO ĐỘI NGŨ CÁN BỘ TUYÊN GIÁO CẤP HUYỆN Ở
TỈNH HÀ TĨNH TRONG GIAI ĐOẠN HIỆN NAY
Chuyên ngành: Chính trị học
Mã số: 60.31.02.01
LUẬN VĂN THẠC SỸ KHOA HỌC CHÍNH TRỊ
Người hướng dẫn khoa học: PGS.TS Nguyễn Thái Sơn
Vinh, năm 2014
2
LỜI CẢM ƠN
Để hoàn thành chương trình cao học và viết luận văn này, tôi đã nhận
được sự hướng dẫn, giúp đỡ và góp ý nhiệt tình của quý thầy cô Phòng Sau
đại học Trường Đại học Vinh, Khoa Giáo dục Chính trị; các giảng viên đã
trực tiếp giảng dạy và giúp đỡ tôi trong quá trình học tập củng như hoàn
thành luận văn thạc sỹ. Đặc biệt tôi xin được bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc đối
với PGS.TS Nguyễn Thái Sơn, người đã hết sức quan tâm, tận tình hướng
dẫn, giúp đỡ tôi hoàn thành luận văn tốt nghiệp.
Xin chân thành cảm ơn Lãnh đạo Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hà Tĩnh đã
tạo điều kiện, thời gian để tôi học tập và hoàn thành chương trình khóa học.
Đồng thời, tôi cũng xin cảm ơn các anh, chị và lãnh đạo Ban Tuyên giáo các
huyện, thành, thị ủy, đảng ủy trực thuộc đã tạo điều kiện cho tôi điều tra,
khảo sát để có dữ liệu thực tiễn minh chứng cho luận văn.
Xin cảm ơn, bạn bè và các đồng nghiệp đã động viên, quan tâm giúp
đỡ tôi trong quá trình học tập và thực hiện đề tài
Trong suốt quá trình nghiên cứu, thực hiện luận văn này bản thân rất
tâm huyết và cố gắng, song chắc chắn không thể tránh khỏi những thiếu sót,
khiếm khuyết. Rất mong nhận được nhiều sự góp ý, chỉ dẫn của quý thầy cô
giáo, bạn bè, đồng nghiệp để đề tài được hoàn thiện hơn.
Nghệ An, tháng 10 năm 2014
Tác giả
Đặng Hữu Trình
3
MỤC LỤC
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Tình hình nghiên cứu
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của luận văn
Trang
7
7
9
11
3.1. Mục đích
11
3.2. Nhiệm vụ
11
4. Đối tượng phạm vi nghiên cứu
11
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
12
6. Đóng góp của luận văn
12
7. Kết cấu của Luận văn
12
B. NỘI DUNG
Chương 1
Lý luận chính trị và sự cần thiết cử việc nâng cao trình độ lý
14
luận chính trị cho cán bộ tuyên giáo cấp huyện
1.1. Những vấn đề chung về lý luận chính trị
1.1.1. Khái niệm lý luận, chính trị và lý luận chính trị
1.1.2. Khái niệm trình độ lý luận chính trị và trình độ lý luận của đội
14
14
ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
21
26
và Đảng Cộng sản Việt Nam về trình độ lý luận chính trị của đội ngũ
cán bộ tuyên giáo cấp huyện
1.3. Yêu cầu, nội dung về nâng cao trình độ lý luận chính trị của đội
ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện
1.3.1. Yêu cầu về trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ tuyên
giáo cấp huyện
1.3.2. Nội dung việc nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ
tuyên giáo cấp huyện
1.4. Sự cần thiết của việc nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội
ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện
1.4.1. Sự tác động khách quan của việc nâng cao trình độ lý luận
33
34
36
38
38
4
chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện
1.4.2. Đáp ứng yêu cầu nội dung của công tác tuyên giáo trong giai
đoạn hiện nay.
1.4.3. Đáp ứng yêu cầu của sự nghệp CNH - HĐH đất nước; âm
mưu diễn biến hòa bình và sự xuyên tạc chống phá của các thế lực
40
41
thù địch
Kết luận chương 1
Chương 2
43
Thực trạng trình độ lý luận chính trị và nâng cao trình độ chính trị
44
cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Hà Tĩnh
2.1. Vài nét về đặc điểm tình hình tỉnh Hà Tĩnh
2.1.1. Điều kiện tự nhiên tỉnh Hà Tĩnh
2.1.2. Về tình hình kinh tế, chính trị, xã hội của tỉnh Hà Tĩnh
2.2. Đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện và thực trạng trình độ lý
44
44
45
luận chính trị của đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Hà
47
Tĩnh hiện nay
2.2.1. Đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Hà Tĩnh
2.2.2. Trình độ của đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Hà
47
Tĩnh hiện nay
2.2.3. Đánh giá những ưu điểm và những hạn chế của đội ngũ cán bộ
tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay
2.2.4. Nguyên nhân của những ưu điểm và những hạn chế của của
đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay
Kết luận chương 2
Chương 3
Quan điểm và những giải pháp nâng cao trình độ lý luận chính
trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Hà Tĩnh
3.1. Quan điểm về nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ
tuyên giáo cấp huyện
3.2. Những giải pháp nhằm nâng cao trình độ lí luận cho đội ngũ cán
bộ tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Hà Tĩnh hiện nay
3.2.1. Nhóm giải pháp đối với cá nhân cán bộ tuyên giáo cấp huyện
ở tỉnh Hà Tĩnh
3.2.2. Nhóm giải pháp đối với tổ chức, cấp ủy về nâng cao trình độ
49
56
67
72
73
73
78
78
93
5
lý luận chính trị cho cán bộ tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Hà Tĩnh
Kết luận chương 3
C. KẾT LUẬN
D. TÀI LIỆU THAM KHẢO
DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT
TT
1
2
3
4
5
Chữ cái viết tắt
BTGTU
BTGHU
BCH
CNH,HĐH
TTBDCT
Ý nghĩa
Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy
Ban Tuyên giáo Huyện ủy
Ban Chấp hành
Công nghiệp hóa, hiện đại hóa
Trung tâm Bồi dưỡng chính trị
102
103
105
6
A. MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Sự nghiệp đổi mới toàn diện đất nước do Đảng ta khởi xướng và lãnh
đạo sau 28 năm thực hiện đã đạt được những thành tựu to lớn và quan trọng
trên tất cả các lĩnh vực đời sống xã hội, tạo nên những tiền đề, điều kiện thuận
lợi để đẩy nhanh quá trình công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Những
thành công đó là kết quả của sự nỗ lực cố gắng của toàn Đảng, toàn dân và
toàn quân. Trong đó có sự đóng góp quan trọng của đội ngũ những người làm
công tác tư tưởng trên các lĩnh vực, các ngành, các cấp nói chung, đặc biệt là
cán bộ tuyên giáo cấp huyện.
Trong hệ thống hành chính 4 cấp ở nước ta hiện nay, cấp huyện là đơn
vị hành chính trung gian, là cầu nối giữa cấp Trung ương, tỉnh, thành với cơ
sở. Trong hệ thống tổ chức Đảng cấp huyện, Ban Tuyên giáo cấp huyện có
vai trò hết sức quan trọng trong việc tham mưu, chỉ đạo và kiểm tra giúp cấp
ủy triển khai thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật
của Nhà nước trên địa bàn, Ban Tuyên giáo cấp huyện và đội ngũ cán bộ làm
7
công tác tuyên giáo thực sự đã trở thành “cánh tay nối dài” trên mặt trận
tuyên truyền tư tưởng - văn hóa của Đảng.
Trong giai đoạn hiện nay, bên cạnh những thuận lợi, đội ngũ những
người làm công tác tuyên giáo cũng gặp không ít khó khăn, thách thức. Trên
thế giới, cuộc khủng hoảng kinh tế, nhất là vấn đề nợ công ở một số nước châu
Âu có nguy cơ làm đổ vỡ nhiều nền kinh tế. Xung đột vũ trang, chiến tranh sắc
tộc, tôn giáo còn xẩy ra ở nhiều nơi. Tình hình tranh chấp lãnh thổ, biển đảo diễn
biến phức tạp làm ảnh hưởng đến môi trường hòa bình thế giới. Các thế lực thù
địch lợi dụng chiêu bài dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để xuyên tạc, kích động,
gây chia rẽ khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thực hiện âm mưu “diễn biến hoà
bình”, thúc đẩy “tự diễn biến”, “tự chuyển hoá” trong nội bộ ta, nhằm xoá bỏ vai
trò lãnh đạo của Đảng Cộng sản và chế độ Xã hội chủ nghĩa mà nhân dân ta
đang xây dựng. Trong nước, tình hình kinh tế - xã hội đã có những dấu hiệu
phục hồi, phát triển, nhưng hậu quả của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới đang
tác động nhiều tiêu cực đến nước ta. Đời sống của nhân dân vùng sâu, vùng xa,
vùng thường xuyên bị thiên tai còn khó khăn. Công tác xây dựng Đảng và các tổ
chức trong hệ thống chính trị tuy đạt được kết quả quan trọng nhưng vẫn còn hạn
chế nhất định. Một bộ phận cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị,
đạo đức, lối sống như Nghị quyết Trung ương 4 (khoá XI) đã nêu đang làm giảm
lòng tin của nhân dân đối với Đảng, Nhà nước và chế độ Xã hội chủ nghĩa.
Trước yêu cầu đó việc nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ
tuyên giáo là vấn đề cấp thiết. Nhằm tạo ra đội ngũ cán bộ tuyên giáo có bản lĩnh
chính trị vững vàng, kiên định mục tiêu lý tưởng của đảng, có đạo đức trong
sáng, trí tuệ uyên thâm, sắc bén về lý luận sẵn sàng chiến đấu, đập tan mọi luận
điệu xuyên tạc của kẻ thù trên mặt trận văn hóa, tư tưởng, đáp ứng yêu cầu
nhiệm vụ trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước.
Hà Tĩnh là một tỉnh nằm ở phía Bắc Trung bộ, trình độ phát triển kinh
tế xã hội còn thấp so với các tỉnh trong khu vực và thấp hơn so với bình quân
8
chung của cả nước. Sau gần 30 năm cùng cả nước thực hiện đường lối đổi mới,
hơn 20 năm thực hiện cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ (nhất
là sau 23 năm tái lập tỉnh), đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên giáo từ tỉnh đến
cơ sở, đặc biệt là đội ngũ cán bộ tuyên giáo các huyện đã có bước trưởng
thành, tích lũy được nhiều kinh nghiệm trong hoạt động thực tiễn. Cán bộ
tuyên giáo cấp huyện đã tham mưu, chỉ đạo, tổ chức thực hiện thắng lợi các
chủ trương, nghị quyết của Trung ương, của Tỉnh ủy, của cấp ủy địa phương về
phát triển kinh tế - xã hội, an ninh - quốc phòng và công tác xây dựng Đảng.
Đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện đã có nhiều cố gắng vươn lên, cơ bản đáp
ứng được yêu cầu nhiệm vụ đặt ra. Trình độ lý luận chính trị của cán bộ tuyên
giáo đã được nâng lên một bước, thể hiện rõ trong việc đề ra định hướng công
tác tư tưởng, hướng dẫn, triển khai các hoạt động tuyên truyền và được thể hiện
thông qua việc kiểm tra, đánh giá hiệu quả công tác tư tưởng, trong việc giúp
đỡ các lực lượng tuyên truyền trên địa bàn...
Bên cạnh những kết quả đạt được, cán bộ tuyên giáo cấp huyện còn bộc
lộ một số hạn chế nhất định thể hiện trong triển khai thực hiện nhiệm vụ còn
rập khuôn, chưa vận dụng sáng tạo các chủ trương, chính sách của Trung ương,
của tỉnh vào điều kiện cụ thể của địa phương mình; một số còn thụ động, ỷ lại,
chưa năng động trong quá trình tổ chức thực hiện nhiệm vụ; tư tưởng đề cao
kinh nghiệm, hạn chế đi xuống cơ sở, làm việc theo lối hành chính quan liêu đã
làm ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động trên lĩnh vực công tác tư tưởng. Trên cơ
sở nghiên cứu và yêu cầu cấp bách của nhiệm vụ, tôi lựa chọn đề tài "Nâng
cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện ở
tỉnh Hà Tĩnh hiện nay" làm luận văn tốt nghiệp Thạc sỹ khoa học chuyên
ngành Chính trị học.
2. Tình hình nghiên cứu
Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp
huyện đã thu hút sự quan tâm nghiên cứu của nhiều nhà khoa học. Đến nay,
9
đã có nhiều bài viết của nhiều tác giả đăng trên một số tạp chí, sách, báo.
Một số công trình có liên quan trực tiếp đến vấn đề này như: "Đổi mới tư duy
về công tác cán bộ tuyên giáo" của Tiến sĩ Lương Khắc Hiếu và Tiến sĩ
Nguyễn Viết Thông, Tạp chí Tư tưởng - Văn hóa, số 2/2002; "Nguyên tắc
thống nhất giữa lý luận và thực tiễn với việc nâng cao năng lực tư duy lý luận
cho giảng viên Mác - Lênin ở các trường chính trị tỉnh" của Nguyễn Đình
Trãi, Tạp chí Triết học số 1/1993; "Vai trò giáo dục lý luận chính trị trong
việc nâng cao năng lực tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ cơ sở ở tỉnh Lạng
Sơn hiện nay" luận văn thạc sĩ Chính trị của Lăng Văn Thăng, năm 2004;
“Nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ chủ chốt cấp huyện tại tỉnh
Hà Tĩnh” luận văn Thạc sỹ Chính trị học của Nguyễn Hùng Sơn, năm 2012.
Các công trình: Nâng cao trình độ tư duy lý luận cho đội ngũ cán bộ
chủ chốt cấp xã miền núi hiện nay, Luận án thạc sỹ, Đỗ Cao Quang, Học
viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, năm 1996.
Đổi mới công tác giáo dục chính trị tư tưởng cho cán bộ cơ sở, của Vũ
Ngọc Am Nxb Chính trị quốc gia năm 2003.
Một số vấn đề về đổi mới phương pháp giáo dục lý luận chính trị, của
Vũ Ngọc Am, Nxb Thông tấn 2009.
Chương trình bồi dưỡng chuyên đề: Phương pháp giảng dạy lý luận
chính trị dành cho giáo viên giảng dạy lý luận chính trị tại Trung tâm bồi
dưỡng chính trị cấp huyện, do Ban Tuyên giáo TW biên soạn, Nxb Lao động
xã hội, năm 2008.
Ở Hà Tĩnh có công trình: Giải pháp nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ
cấp huyện thuộc diện Tỉnh uỷ quản lý trong thời kỳ phát triển mới của tỉnh
Hà Tĩnh. Cơ quan Chủ trì đề tài: Ban Tuyên giáo Tỉnh uỷ, chủ biên: Nguyễn
Thiện - Trưởng Ban Tuyên giáo Tỉnh ủy Hà Tĩnh, tháng 6/2006.
Mặc dù đã có nhiều công trình nghiên cứu, đặt ra những vấn đề rất cơ
bản cả về lý luận lẫn thực tiễn, đề ra những phương hướng và giải pháp để
10
nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo, quản lý ở các cấp. Tuy nhiên,
cho tới nay chưa có công trình nghiên cứu một cách chi tiết, đầy đủ, có hệ
thống và chuyên sâu về thực trạng cũng như nêu ra những chủ trương, giải
pháp để nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ những người làm công
tác tuyên giáo ở cấp huyện. Mỗi công trình nghiên cứu đề cấp một khía cạnh
của vấn đề, giải quyết vấn đề đó trong từng địa phương riêng biệt. Các đề tài
lớn cấp Nhà nước đang dừng lại phân tích, đánh giá về mặt nội dung của công
tác chuyên môn, nghiệp vụ mà chưa đi sâu vào nghiên cứu, đánh giá thực
trạng vấn đề nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán bộ làm công tác tuyên
giáo cấp huyên, từ đó đề ra các giải pháp thiết thực để giải quyết thực trạng
trên. Vì vậy, nghiên cứu đề tài này sẽ góp phần tích cực vào việc nâng cao
trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện trong sự
nghiệp đổi mới ở Hà Tĩnh nói riêng và là cơ sở tiếp cận cho các địa
phương khác trong vấn đề nâng cao chất lượng công tác tuyên giáo.
3. Mục đích và nhiệm vụ của luận văn
3.1. Mục đích
Trên cơ sở vận dụng lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin, Tư tưởng Hồ
Chí Minh và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam, nhằm đánh giá
đúng thực trạng trình độ lý luận chính trị của cán bộ ban tuyên giáo cấp
huyện.
Luận văn vận dụng các quan điểm về nâng cao trình độ lý luận
chính trị cho cán bộ của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam. Trên cơ sở đó Đảng bộ tỉnh
Hà Tĩnh xây dựng quan điểm nâng cao trình độ lý luận chính trị cho cán
bộ tuyên giáo cấp huyện trên địa bàn tỉnh Hà Tỉnh.
Luận văn đề xuất các giải pháp khả thi để nâng cao trình độ lý
luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Hà Tĩnh
trong giai đoạn hiện nay.
11
Góp phần vào việc tăng cường nhận thức và nâng cao trình độ lý
luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện ở Hà Tĩnh hiện
nay.
3.2. Nhiệm vụ
- Phân tích, làm rõ bản chất đặc trưng của lý luận chính trị, tầm
quan trọng và yêu cầu của việc nâng cao trình độ lý luận chính cho đội
ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện hiện nay.
- Đánh giá đúng thực trạng trình độ lý luận chính trị, quá trình bồi
dưỡng trình độ lý luận chính trị cho cán bộ làm tuyên giáo ở tỉnh Hà
Tĩnh và nguyên nhân của thực trạng đó.
- Đề xuất một số giải pháp khả thi phù hợp với điều kiện thực tế
nhằm nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo
cấp huyện ở Hà Tĩnh giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
- Đối tượng nghiên cứu: Nâng cao trình độ lý luận chính trị đội ngũ
cán bộ tuyên giáo cấp huyện trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh.
- Phạm vi nghiên cứu: Luận văn tập trung nghiên cứu trình độ lý
luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh
trong giai đoạn hiện nay. Tìm hiểu nguyên nhân và đề ra những giải
pháp trong việc nâng cao trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ
tuyên giáo cấp huyện.
5. Cơ sở lý luận và phương pháp nghiên cứu
Luận văn vận dụng lý luận Chủ nghĩa Mác - Lênin và Tư tưởng Hồ
Chí Minh, các quan điểm của Đảng ta về đào tạo, bồi dưỡng lý luận
chính trị cho cán bộ.
Quá trình nghiên cứu luận văn dựa trên phương pháp luận của chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử cùng với những
12
phương pháp nghiên cứu khoa học cụ thể: phân tích, tổng hợp, thống kê,
lịch sử, lôgic, điều tra xã hội học.v.v…
6. Đóng góp của luận văn
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần nâng cao chất lượng nói
chung, trình độ lý luận chính trị nói riêng đối với đội ngũ cán bộ làm
công tác tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh Hà Tĩnh. Góp phần thể hiện yêu
cầu và những nội dung cần đạt trong việc đào tạo, bồi dưỡng đội ngũ
cán bộ làm công tác tuyên giáo hiện nay ở cấp huyện để đáp ứng yêu
cầu nhiệm vụ.
7. Kết cấu của luận văn
Ngoài phần mở đầu, kết luận và tài liệu tham khảo, đề tài có cấu
trúc gồm 3 chương.
Chương 1: Lý luận chính trị và sự cần thiết của việc nâng cao trình
độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện
Chương 2: Thực trạng trình độ lí luận chính trị và việc nâng cao
trình độ lý luận chính trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện ở tỉnh
Hà Tĩnh hiện nay
Chương 3: Quan điểm và giải pháp nâng cao trình độ lý luận chính
trị cho đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện ở Hà Tĩnh
13
B. NỘI DUNG
Chương 1
LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ VÀ SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC NÂNG
CAO TRÌNH ĐỘ LÝ LUẬN CHÍNH TRỊ CHO CÁN BỘ TUYÊN GIÁO
CẤP HUYỆN
1.1. Những vấn đề chung về lý luận chính trị
1.1.1. Khái niệm về lý luận, chính trị và lý luận chính trị
1.1.1.1. Khái niệm lý luận
Lý luận là một phạm trù khoa học phản ánh hiện thực khách quan, tồn tại
và phát triển cùng với sự phát triển của trí tuệ loài người trên mọi lĩnh vực tự
nhiên và xã hội, tư duy. Lý luận là sự tổng hợp về những tri thức tự nhiên và
xã hội được tích lũy trong quá trình lịch sử nhân loại. Hồ Chí Minh cho rằng:
“Lý luận là sự tổng kết những kinh nghiệm của loài người, là tổng hợp những
tri thức về tự nhiên và xã hội tích trữ lại trong quá trình lịch sử” [26;497].
Mọi lĩnh vực đời sống tự nhiên, xã hội, tư duy khi đã trở thành đối tượng
nghiên cứu của con người thì kết quả của quá trình nghiên cứu ấy đều được
thể hiện dưới hình thức tri thức lý luận với trình độ khái quát hóa nhất định.
14
“Lý luận hiểu theo nghĩa chung nhất là các khái niệm, phạm trù, quy luật
được khái quát từ nghiên cứu khoa học và hoạt động thực tiễn của con người.
Lý luận là kết quả nhận thức chủ quan của con người về những hiện
tượng khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy” [1;183].
Lý luận xuất phát từ thực tiễn và có vai trò định hướng, soi đường
cho hoạt động thực tiễn có hiệu quả hơn. Theo Từ điển tiếng Việt: Lý luận là
tổng kết có hệ thống những kinh nghiệm của loài người phát sinh từ thực tiễn
để chi phối và cải tạo thực tiễn. Như vậy, lý luận được hiểu là hệ thống tri
thức được khái quát từ thực tiễn khách quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy
của con người, được biểu đạt dưới dạng các khái niệm, phạm trù, quy luật, tư
tưởng, quan điểm,...nhằm giúp con người chi phối và cải tạo thực tiễn.
Để hiểu rõ nội hàm và ngoại diên của khái niệm lý luận chúng ta cần
phải tìm hiểu mục đích hoạt động của con người và hoạt động bản năng của
con vật. Hoạt động thực tiễn của con người là quá trình đúc rút kinh
nghiệm xây dựng lý luận khác xa với con vật làm việc theo bản năng. Vì
thế con người làm việc gì cũng phải có ý thức, có sự suy tính, định hướng
trước, cao hơn nữa là phải có sự dẫn dắt của lý luận. Trong lao động sản
xuất cần có phương pháp cách thức để cải tạo thế giới tự nhiên theo chiều
hướng có lợi tức là hoạt động sản xuất ra của cải vật chất để đảm bảo cuộc
sống. Trong hoạt động xã hội, mục đích của con người là cải tạo xã hội,
thay thế xã hội cũ bằng một xã hội mới tiến bộ hơn quá trình đó gọi là cách
mạng. Trong hoạt động cách mạng là một loại hoạt động khó khăn phức
tạp, ở trình độ cao, cho nên lại càng cần phải có lý luận soi đường V.I. Lênin khẳng định: "Không có lý luận cách mạng thì không thể có phong trào
cách mạng", "chỉ đảng nào được một lý luận tiên phong hướng dẫn thì mới
có khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong" [39;53] Hồ Chí Minh nói:
“Đảng mà không có lý luận dẫn đường thì cũng như người không có trí
khôn, tàu không có bàn chỉ nam" [22;79]
15
Tuy nhiên, chủ nghĩa Mác - Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh cũng chỉ
ra rằng, mọi lý luận chân chính đều bắt nguồn từ thực tiễn, phản ánh đúng
thực tiễn và trở lại phục vụ thực tiễn. Lý luận, xét tới cùng, là từ thực tiễn mà
đúc kết, khái quát lên. Không có thực tiễn thì không có lý luận. Lý luận và
thực tiễn có mối quan hệ hữu cơ biện chứng, luôn luôn gắn bó với nhau và
thường xuyên tác động qua lại lẫn nhau, trong đó thực tiễn đóng vai trò là cơ
sở. Bởi vì, thực tiễn, hiểu một cách khái quát nhất, đó là hoạt động của con
người nhằm bảo đảm cho xã hội tồn tại và phát triển; đó là quá trình khách
quan của hoạt động sản xuất vật chất với tính cách là cơ sở của đời sống con
người, đồng thời đó cũng là hoạt động cải tạo - cách mạng của các lực lượng
xã hội nhằm làm biến đổi thế giới.
Còn lý luận là cái phản ánh thực tiễn; lý luận được thể hiện dưới dạng
hệ thống những tri thức đã được khái quát, tạo ra những quan niệm tương đối
hoàn chỉnh về các mối liên hệ cơ bản và các quy luật của hiện thực khách
quan. Nói cách khác, lý luận là kinh nghiệm thực tiễn đã được khái quát trong
ý thức của con người, là hệ thống tương đối độc lập của các tri thức có tác
dụng tái hiện trong lôgíc của các khái niệm cái lôgíc khách quan của hiện
thực mà nó phản ánh.
Thực tiễn còn là tiêu chuẩn của chân lý, là căn cứ để kiểm chứng tính
đúng đắn của lý luận. Mọi lý luận rốt cuộc đều phải đối diện với thực tiễn và
được kiểm chứng trong thực tiễn. Tác dụng và sức sống của lý luận phụ thuộc
vào khả năng của chính nó trong việc khái quát bản chất của hiện thực khách
quan từ vô số các hiện tượng cụ thể; phụ thuộc vào chỗ nó tạo ra sự tiến bộ
của lịch sử, sự phát triển kinh tế, chính trị, văn hóa, xã hội, và tựu trung lại là
để tạo ra cuộc sống tốt đẹp hơn cho con người.
Lý luận phản ánh hiện thực khách quan và được nẫy sinh trong những
điều kiện lịch sử nhất định, cho nên các khái niệm, các phạm trù lý luận đều
mang tính lịch sử; sự phát triển của hiện thực và sự thay đổi của điều kiện lịch
16
sử tất yếu đòi hỏi lý luận cũng cần được bổ sung và phát triển theo; và nhờ thế
mà lý luận khoa học sẽ ngày càng trở nên phong phú hơn, chính xác hơn.
Không nên biến các nguyên lý lý luận thành các giáo điều khô cứng, máy
móc; điều cơ bản nhất là rút ra từ đó những giá trị về phương pháp luận. Nếu
coi những khái niệm, những mệnh đề lý luận là khuôn mẫu của mọi hiện thực
để từ đó bắt hiện thực phải vận động theo một cách máy móc thì sẽ phạm
những sai lầm tai hại. Nó không những chỉ làm cho lý luận bị thui chột, trở
nên khô héo mà có khi còn kìm hãm, thậm chí kéo lùi sự tiến bộ của lịch sử.
Căn cứ để xây dựng và phát triển lý luận chính là thực tiễn, phải tìm trong
thực tiễn và thường xuyên tổng kết thực tiễn. Hồ Chí Minh nói: "Thực tiễn
mà không có lý luận hướng dẫn thì thành thực tiễn mù quáng. Lý luận mà
không liên hệ với thực tiễn là lý luận suông" [25;268]
Theo Hồ Chí Minh: hoạt động lý luận của người cán bộ đều phải đáp
ứng nhu cầu của cách mạng; đồng thời phải vận dụng lý luận đó một cách
sáng tạo trước mọi biến đổi của cách mạng, không nên rập khuôn, máy móc.
1.1.1.2. Khái niệm chính trị
Thuật ngữ “chính trị” được nhắc đến lần đầu tiên trong lịch sử nhân loại
bởi Aristole – một triết gia Hy Lạp cổ đại. Tuy nhiên, từ “chính trị” và các vấn
đề chính trị cơ bản như quyền lực và tổ chức nhà nước đã được các triết gia
khác tiếp cận như Khổng Tử, Plato, JhonLoke… Dù Aristole đã khẳng định
con người là động vật chính trị, mọi công dân có đạo đức (không phải là nô lệ
hay phụ nữ) đều có quyền tham gia chính trị, nhưng một điểm chung lớn trong
lý luận của các triết gia cổ đại này là quyền lực chính trị tốt nhất nên được
nắm giữ bởi những ông Vua thông thái. Vì thế, chính trị có nghĩa là nghệ
thuật cai trị, và quản lý thành bang của một nhà lãnh đạo lỗi lạc, xuất chúng
hay là khoa học giành và nắm giữ vương quyền trong thiên hạ.
Khi nền văn minh nhân loại đã bước qua một gia đoạn mới hoàn toàn
khác, cùng với sự ra đời của nhiều luận thuyết cổ vũ cho chủ nghĩa tự do.
17
Mà một sự cổ vũ to lớn cho lý tưởng này là sự ra đời của một nhà nước
hiến pháp đầu tiên trên thế giới. Từ đây cả thế giới làm quen với một lý
thuyết mới hoàn toàn về nguồn gốc và bản chất của Nhà nước, nhà nước
không phải là một thế lực thống trị xã hội mà chính là một tổ chức quyền
lực công, được người dân trao cho quyền lực để đổi lại họ được sống dưới
sự bảo vệ của Nhà nước và một trật tự pháp luật do Nhà nước ban hành
(luật pháp không trái với đạo đức và luận lý); và rừng quyền lực chính trị
đó không phải là tuyệt đối “vì quyền lực có xu hướng tha hóa, quyền lực
tuyệt đối dẫn đến tha hóa tuyệt đối” [38;234].
Dưới nhãn quan triết học, quyền lực chính trị xuất phát từ dân chúng,
nó được tạo lập để phục vụ xã hội. Chính trị là nghệ thuật hay khoa học về
vận hành và quản lý xã hội bằng quyền lực nhà nước nhưng nó phải bị hạn
chế bằng pháp luật và được giám sát bởi người dân thông qua các tổ chức xã
hội nghề nghiệp, tôn giáo. Như vậy, mọi người trong xã hội có đủ tư cách
pháp nhân theo quy định của pháp luật đủ tư cách để tham gia gián tiếp vào
nền chính trị quốc gia bằng những hoạt động xã hội cụ thể của mình; quyền tự
do báo chí cho phép người dân phát biểu quan điểm của mình, nhưng phải
trong khuôn khổ pháp luật và phải chịu trách nhiệm trước pháp luật về nội
dung nói, viết của mình, hơn nữa mọi công dân đủ tiêu chuẩn pháp quy đều có
khả năng tham gia vào hoạt động quản lý nhà nước một cách trực tiếp. Với
hình thức tổ chức này chính trị chẳng còn là vương quyền cha truyền con nối,
củng chẳng còn là đặc quyền của những người thuộc tầng lớp quý tộc.
Hiện nay trên thế giới đã hình thành bốn cách hiểu khác nhau về chính
trị: Nghệ thuật của phép cai trị; Những công việc của chung; Sự thỏa hiệp và
đồng thuận; Quyền lực và cách phân phối tài nguyên hay lợi ích.
Chính trị theo nghĩa rộng hơn là hoạt động của con người nhằm làm ra,
gìn giữ và điều chỉnh những luật lệ chung mà những luật lệ này tác động trực
18
tiếp lên cuộc sống của những người góp phần làm ra, gìn giữ và điều chỉnh
những luật lệ chung đó.
1.1.1.3. Khái niệm lý luận chính trị
Lý luận chính trị là bộ phận quan trọng trong kho tàng lý luận của nhân
loại giới hạn trong lĩnh vực chính trị, phản ánh mối quan hệ của các giai cấp
trong việc giành và giữ chính quyền. Nói cách khác, lý luận chính trị là hệ
thống tri thức về lĩnh vực chính trị thể hiện thái độ và lợi ích giai cấp đối với
quyền lực nhà nước trong xã hội có giai cấp, là kết quả của hoạt động nghiên
cứu khoa học và thực tiễn chính trị của nhiều người, qua nhiều thế hệ.
Về nguồn gốc, Lý luận chính trị là sản phẩm của hoạt động nghiên cứu
về lý luận và thực tiễn chính trị của giai cấp trong việc đấu tranh giành, giữ và
xây dựng chính quyền nhà nước.
Về bản chất, lý luận chính trị phản ánh tính quy luật của các quan hệ
kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội, thể hiện lợi ích và thái độ của giai cấp
đối với quyền lực nhà nước.
Về mục đích, lý luận chính trị nhằm trang bị thế giới quan và thúc đẩy
hành vi thực hiện mục tiêu, lý tưởng chính trị của giai cấp.
Lý luận chính trị của giai cấp vô sản là sự khái quát tri thức nhân loại và
tổng kết kinh nghiệm của phong trào công nhân thế giới làm công cụ đắc lực
cho việc giành và giữ chính quyền của giai cấp công nhân ở mỗi quốc gia, dân
tộc. Theo Lênin, lý luận có vai trò hết sức quan trọng trong sự nghiệp cách
mạng: “Không có lý luận cách mạng thì cũng không thể có phong trào cách
mạng” và “chỉ đảng nào được một lý luận tiền phong hướng dẫn thì mới có
khả năng làm tròn vai trò chiến sĩ tiên phong”[ 24;30] Hồ Chí Minh cũng cho
rằng: “Đảng không có chủ nghĩa cũng như người không có trí khôn, tàu
không có bàn chỉ nam” [24;268]
Lý luận chính trị ở Việt Nam hiện nay là hệ thống những nguyên lý của
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, đường lối, quan điểm của
19
Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước cùng những tinh hoa tư tưởng
chính trị của dân tộc và nhân loại. Nó phản ánh tính quy luật của các quan hệ
kinh tế - chính trị - xã hội, thể hiện lợi ích và thái độ của giai cấp công nhân
và nhân dân lao động đối với việc xây dựng nhà nước pháp quyền xã hội chủ
nghĩa, là công cụ quan trọng cho việc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc Việt Nam
xã hội chủ nghĩa.
Chủ nghĩa Mác - Lênin cùng với tư tưởng Hồ Chí Minh là hệ thống lý
luận không thể tách rời, khẳng định bản chất cách mạng và khoa học trong
quá trình cách mạng Việt Nam, nhất là trong quá trình đổi mới vừa qua. Đại
hội lần thứ VII của Đảng ta lần đầu tiên đã chính thức khẳng định sự song
hành gắn kết giữa chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh tạo thành
nền tảng tư tưởng vững chắc: “Đảng lấy chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng
Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng, kim chỉ nam cho hành động” [12;127]
Nghị quyết số 09 của Bộ Chính trị (khóa VII) tiếp tục khẳng định: “Chủ nghĩa
Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là nền tảng tư tưởng và kim chỉ nam cho
hành động của Đảng ta và cho cách mạng Việt Nam” [13;35]. Bởi vì, Đảng ta
là đại diện cho lợi ích quốc gia, dân tộc và có vai trò lãnh đạo cách mạng bảo
vệ lợi ích thiêng liêng đó.
Đại hội lần thứ IX của Đảng tiếp tục khẳng định nước ta kiên trì đi lên
con đường xã hội chủ nghĩa dựa trên nền tảng tư tưởng của chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh: “Đảng và nhân dân ta quyết tâm xây dựng đất
nước Việt Nam theo con đường xã hội chủ nghĩa trên nền tảng chủ nghĩa Mác
- Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh” [16;93]. Có thể nói, chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là sợi chỉ đỏ xuyên suốt chiều dài lịch sử cách
mạng Việt Nam. Thực tế cách mạng Việt Nam củng chứng minh rằng, khi
nào chúng ta vận dụng nhuần nhuyễn và sáng tạo hệ thống lý luận này thì gặt
hái được nhiều thành quả, và ngược lại. Trong cách mạng dân tộc, dân chủ
nhờ vận dụng sáng tạo lý luận này mà chúng ta đã đánh bại các thế lực thực
20
dân, đế quốc và bè lũ tay sai; từ một nước thuộc địa bị xâm chiếm, chia cắt trở
thành một quốc gia độc lập, thống nhất đang trên đà phát triển. Trong tiến
trình lịch sử cách mạng của Việt Nam, đã có lúc chúng ta vận dụng chưa đúng
chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm ảnh hưởng đến qua trình
phát triển kinh tế xã hội của đất nước, phát huy dân chủ xã hội chủ nghĩa, từ
đó làm cho người dân giảm sút lòng tin vào vị trí, vai trò lãnh đạo của đảng
làm cho tình trang kinh tế nước nhà què quặt, nghèo nàn, lạc hậu nguy có tụt
hậu là rất lớn. Trước tình hình đó, Đảng ta đã đúc rút bài học kinh nghiệm qua
các kỳ đại hội đã nhận thức đúng đắn về vai trò nền tảng của lý luận này và
vận dụng sáng tạo nó trong thực tiễn mà chúng ta đã đưa đất nước thoát khỏi
khủng hoảng và từng bước phát triển vững chắc.
Lý luận chính trị bao gồm những tri thức tổng hợp, liên ngành mang tính
đảng, tính giai cấp rõ rệt, đồng thời có tính khái quát hóa, trừu tượng hóa và
tính dự báo khoa học cao. Điều này khẳng định vai trò và tầm quan trọng to
lớn của nó đối với nhận thức và hành động của từng cá nhân nói riêng và sự
phát triển của toàn xã hội nói chung, đồng thời cho thấy sự khó khăn, phức
tạp của quá trình sáng tạo, nhận thức và vận dụng lý luận chính trị
1.1.2. Khái niệm trình độ lý luận chính trị và trình độ lý luận chính
trị của đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp huyện
1.1.2.1. Trình độ lý luận chính trị
Lý luận được hiểu là hệ thống tri thức được khái quát từ thực tiễn khách
quan trong tự nhiên, xã hội và tư duy của con người, được biểu đạt dưới dạng
các khái niệm, phạm trù, quy luật, tư tưởng, quan điểm,...Nhằm giúp con
người chi phối và cải tạo thực tiễn.
Như vậy, trình độ lý luận chính trị là sự kết tinh về trí tuệ lý luận của
nhân loại giới hạn trong lĩnh vực chính trị của từng cá nhân hay chủ thể được
đánh giá, phản ánh ý chí và nguyện vọng của các giai cấp trong việc giành và giữ
chính quyền. Nói cách khác, trình độ lý luận chính trị là hệ thống tri thức về lĩnh
21
vực chính trị thể hiện thái độ của từng cá nhân, tập thể, giai cấp quan tâm về lợi
ích đối với quyền lực nhà nước trong xã hội có giai cấp, là sự kết tinh trí tuệ của
hoạt động nghiên cứu khoa học và thực tiễn chính trị của nhiều người, qua nhiều
thế hệ.
Trình độ lý luận chính trị là sản phẩm của hoạt động nghiên cứu về lý luận
và thực tiễn chính trị của giai cấp trong việc đấu tranh giành, giữ và xây dựng
chính quyền nhà nước nhưng được kết tinh trong từng cá nhân riêng biệt.
Xét về bản chất, trình độ lý luận chính trị phản ánh tính quy luật của các
quan hệ kinh tế - chính trị - văn hóa - xã hội, thể hiện lợi ích và thái độ của cá
nhân đối với quyền lực nhà nước.
Người có trình độ lý luận chính trị xem đó là phương tiện cho các chủ
thể xây dựng phương pháp, động cơ phấn đấu thúc đẩy hành vi thực hiện mục
tiêu, lý tưởng chính trị của từng cá nhân và mục tiêu của giai cấp.
Trình độ lý luận của cán bộ, đảng viên là sự khái quát tri thức nhân loại
và tổng kết kinh nghiệm của phong trào công nhân thế giới làm công cụ đắc
lực cho việc giành và giữ chính quyền của giai cấp công nhân ở mỗi quốc gia,
dân tộc được đúc kết trong mỗi con người cụ thể.
Nếu xem xét trình độ lý luận chính trị trên cơ sở để đánh giá cá nhân đạt
đến một trình độ nhất định thì phải tuân thủ theo ba cấp độ đó là: Trình độ cao
cấp lý luận chính trị, trình độ trung cấp lý luận chính trị và trình độ sơ cấp lý
luận chính trị được quy định tại Quy định số 256 - QĐ/TW, ngày 16/9/2009
của Ban Bí Thư Trung ương Đảng về việc xác định trình độ lý luận chính trị
đối với cán bộ, đảng viên.
1.1.2.2. Trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán bộ tuyên giáo cấp
huyện
Trình độ lý luận chính trị của cán bộ tuyên giáo cấp huyện là tổng hợp
năng lực trí tuệ, đạo đức, tác phong tư cách làm việc, lập trường chính trị...
được đúc kết trong một cá nhân tham gia làm công tác tuyên giáo của Đảng.
22
Bất cứ một nghề nghiệp nào củng cần có những yêu cầu quy định về
năng lực chuyên môn và đạo đức nghề nghiệp, cán bộ làm việc ở lĩnh vực
chính trị phải có nhãn quan chính trị có tầm nhìn chiến lược, có bản lĩnh chính
trị vững vàng, đạo đức trong sáng, đấu tranh phục vụ lợi ích cho một giai cấp
nhất định. Đối với lĩnh vực nghệ thuật phải có năng khiếu nghệ thuật thể hiện
rõ trình độ vượt trội của mình về lĩnh vực đó, có đạo đức nghề nghiệp trong
sáng... Đối với cán bộ tuyên giáo, lực lượng trực tiếp tuyên truyền chủ trương,
nghị quyết của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân,
phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, đạo đức trong sáng, uyên thâm về trí tuệ,
sắc bén về lý luận, có năng lực thuyết trình, định hướng tốt dư luận xã hội.
Trình độ lý luận chính trị của cán bộ tuyên giáo cấp huyện phải đảm
bảo các chuẩn mực cơ bản sau:
Thứ nhất, cán bộ ngành Tuyên giáo cấp huyện phải có bản lĩnh chính trị
vững vàng. Nghị quyết Hội nghị lần thứ 5, Ban Chấp hành Trung ương Đảng
(khoá X) về “Công tác tư tưởng, lý luận và báo chí trước yêu cầu mới” đã
khẳng định: “Công tác tư tưởng là công tác đối với con người, phải kết hợp
yêu cầu định hướng tư tưởng với sự tự nguyện, giữa lý trí với tình cảm, giữa
lời nói và việc làm, giữa xây và chống, lấy xây làm chính, lấy tích cực đẩy lùi
tiêu cực” [41;153]. Vì vậy, để đáp ứng yêu cầu của công việc, yêu cầu đầu
tiên là người cán bộ tuyên giáo phải có bản lĩnh chính trị. Đó là kiên định mục
tiêu, lý tưởng cách mạng đã lựa chọn; trong bất cứ tình huống nào cũng không
dao động, giảm sút niềm tin và ý chí chiến đấu; có năng lực làm chủ trong mọi
hoàn cảnh, vượt qua khó khăn, thách thức để hoàn thành nhiệm vụ.
Thứ hai, cán bộ ngành Tuyên giáo phải nói đúng, hay và thuyết phục;
viết thạo, tốt và sắc sảo. Theo đó, nói và viết là hai kỹ năng đặc thù của cán bộ
làm công tác tuyên giáo, là thước đo chất lượng chuyên môn tốt hay kém, là
tiêu chí đánh giá mức độ tinh thông nghề nghiệp. Trong mọi thời điểm, nói
trước hết phải đúng: đúng chủ trương, đường lối của Đảng, chính sách, pháp
23
luật của Nhà nước và đúng với thực tiễn. Nói phải hay: dễ nghe, lưu loát và
truyền cảm. Nói phải thuyết phục: gây được ảnh hưởng tích cực tới người
nghe và thu hút sự hợp tác của họ để góp phần nâng cao nhận thức, chuyển
biến hành vi, thúc đẩy hành động vì mục tiêu. Người cán bộ tuyên giáo phải
viết thạo, đó là viết luôn chính xác, đúng và thành thực. Viết tốt và sắc sảo là
viết có chất lượng, sâu sắc, có tính chiến đấu và hiệu quả cao.
Thứ ba, cán bộ tuyên giáo phải có phong cách công tác dân chủ, khoa
học và sự thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm. Trong đó,
phong cách dân chủ hay “cách làm việc dân chủ” là nội dung quan trọng hàng
đầu trong tư tưởng Hồ Chí Minh về phong cách công tác. Hồ Chí Minh luôn
khẳng định chế độ ta “Dân là chủ” thì cách lãnh đạo cũng phải dân chủ. Mỗi
người phải biết cách tập hợp được tài năng, trí tuệ của nhiều người để phấn
đấu cho mục tiêu chung, mà muốn làm được như vậy, phải tạo ra được không
khí dân chủ thực sự trong nội bộ. “Dân chủ, sáng kiến, hăng hái” - ba điều đó
có quan hệ với nhau. Tuy nhiên, phong cách dân chủ không nghĩa là mạnh ai
nấy làm, mà phải tuân thủ nguyên tắc: tập thể lãnh đạo, cá nhân phụ trách hay
còn gọi là nguyên tắc tập trung dân chủ. Đối lập với phong cách dân chủ là
phong cách quan liêu, độc đoán, chuyên quyền...
Phong cách khoa học còn gọi là cách làm việc khoa học. Phong cách
này đòi hỏi người cán bộ nói chung và cán bộ tuyên giáo nói riêng, trước khi
làm việc gì cũng phải có kế hoạch và có mục đích rõ ràng. Để vạch kế hoạch
một cách thực sự khoa học, phải xét kỹ hoàn cảnh mà xếp đặt công việc cho
đúng. Việc chính, việc gấp thì làm trước. Không có kế hoạch, gặp việc nào
làm việc nấy, thành thử việc nào cũng là việc chính nên lộn xộn, không ngăn
nắp, vì thế, công việc nhiều khi “không chạy”. Một việc chính có thể có nhiều
cách thực hiện và phải nhiều nỗ lực mới hoàn thành được. Với ý nghĩa đó, Hồ
Chí Minh luôn yêu cầu: “Chủ trương 1, biện pháp phải 10, quyết tâm phải 20,
30”. Nói quyết tâm phải 20, 30, tức là người yêu cầu cán bộ sau khi đã có kế
24
hoạch phải có quyết tâm thực hiện và phải thực hiện đến nơi đến chốn, không
được “đánh trông bỏ dùi” [23;281]
Phong cách khoa học còn đòi hỏi người cán bộ tuyên giáo sau mỗi một
việc cần phải rút kinh nghiệm tận gốc, xem vì đâu mà đạt kết quả, vì sao mà
thất bại, rồi phổ biến những kinh nghiệm đó cho tất cả mọi người, để cùng
biết. Từ đó, phát huy ưu điểm, khắc phục nhược điểm.
Thống nhất giữa lý luận với thực tiễn, nói đi đôi với làm: Là cán bộ dứt
khoát phải có trình độ lý luận, nhất là cán bộ làm công tác tuyên giáo. Dẫn lời
Lênin, Hồ Chí Minh chỉ rõ: “Không có lý luận cách mạng thì không có phong
trào cách mạng” [23;233]. Vì vậy, mỗi người cán bộ phải không ngừng trau
dồi lý luận, gắn học tập nghiên cứu lý luận với công việc thực tế của mình, vì
“lý luận như cái mũi tên, thực hành cũng như cái đích để bắn, có tên mà
không bắn hoặc bắn lung tung, cũng như không có tên” [23;235].
Sức thuyết phục, sự lôi cuốn của cán bộ tuyên giáo với cấp dưới và với
nhân dân còn ở phong cách “lời nói đi đôi với việc làm”, “nói là phải làm”.
Nói đi đôi với làm, không chỉ là một chuẩn mực hành vi đạo đức truyền thống
của dân tộc ta mà còn là một nguyên tắc thực hành đạo đức cách mạng của
người cán bộ, đảng viên theo nguyên lý cơ bản của học thuyết Mác - Lênin và
tư tưởng Hồ Chí Minh. Nói đi đôi với làm vừa là phong cách công tác, vừa là
phương pháp hữu hiệu của người cán bộ cách mạng, giúp cán bộ, nhất là cán
bộ tuyên giáo làm tốt nhiệm vụ của công tác tư tưởng. Hồ Chí Minh đặc biệt
lưu ý rằng: đối với nhân dân không thể chỉ nói lý luận suông, chính trị suông;
nhân dân luôn đòi hỏi và rất cần nhìn thấy lợi ích thiết thực từ những tấm
gương sáng, những việc làm mẫu mực của cán bộ, đảng viên, để hướng đến
tin tưởng và làm theo.
Thứ tư, cán bộ tuyên giáo phải chủ động tham mưu đúng, dự báo giỏi.
Để thực hiện và hoàn thành tốt một trong những chức năng cơ bản của ngành
tuyên giáo, cán bộ tuyên giáo phải chủ động tham mưu đề xuất cho đúng, cho
25
trúng, không thụ động ngồi chờ chỉ đạo của cấp trên. Đồng thời, muốn dự báo
giỏi cần phải nắm được dư luận xã hội, nắm được xu hướng diễn biến tư
tưởng của các đối tượng để có thể tham mưu xử lý, tác chiến đúng hướng và
hiệu quả.
Thứ năm, cán bộ tuyên giáo phải có nhân cách trong sáng, tận tụy yêu
nghề. Nhân cách của người làm công tác tuyên giáo liên quan tới sự tin cậy
của công chúng và sức thuyết phục của lý lẽ, nên đó là yêu cầu cần và đủ. Còn
tận tụy yêu nghề là hết lòng hết sức với trách nhiệm nghề nghiệp, không ngại
khó, ngại khổ, gắn bó và tâm huyết với ngành tuyên giáo.
1.2. Quan điểm của chủ nghĩa Mác – Lê nin, tư tưởng Hồ Chí Minh
và Đảng Cộng sản Việt Nam về trình độ lý luận chính trị của đội ngũ cán
bộ tuyên giáo cấp huyện
C.Mác cho rằng “Vũ khí của sự phê phán không thể thay thế được sự
phê phán bằng vũ khí, lực lượng vật chất chỉ có thể đánh đổ bằng lực lượng
vật chất, nhưng lý luận cũng sẽ trở thành lực lượng vật chất khi nó xâm nhập
vào quần chúng” [2;232].Thấm nhuần quan điểm của Lênin: “Không thể là
một nhà lãnh đạo tư tưởng mà lại không làm công tác lý luận..., cũng như
không thể là một nhà lãnh đạo tư tưởng mà lại không hướng công tác đó theo
những nhu cầu của sự nghiệp, mà lại không tuyên truyền trong công nhân
những kết luận của lý luận đó và không giúp đỡ họ tổ chức nhau lại”[39;382],
hơn nữa, “tư tưởng căn bản không thể thực hiện tốt được cái gì hết. Muốn
thực hiện tư tưởng thì cần có những con người sử dụng lực lượng thực tiễn”
[2;181] và “phải làm sao để những tư tưởng đó bắt rễ sâu hơn vào một giới
được rèn luyện hơn, và phải làm cho đội tiên phong ấy... thấm nhuần những tư
tưởng đó” [39;559].
Kế thừa và phát huy quan điểm đó, trong tác phẩm Đường kách mệnh
của Nguyễn Ái Quốc - Hồ Chí Minh, xuất bản 1927 tại Quảng Châu, Trung