Tải bản đầy đủ (.doc) (22 trang)

Tư tưởng hồ chí minh về triết lý dĩ bất biến ứng, vạn biến trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc việt nam xã hội chủ nghĩa

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (143.81 KB, 22 trang )

MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là một nội dung cơ bản của phương pháp
biện chứng cách mạng được Hồ Chí Minh quán triệt trong suốt đời hoạt
động cách mạng của mình. Hồ Chí Minh đã không nói cụ thể “dĩ bất biến,
ứng vạn biến” là gì, song chính bằng thực tiễn hoạt động cách mạng của
Người là câu trả lời sinh động và đầy thuyết phục cho phương pháp đó. Đối
với thực tiễn cách mạng, đó là sự kết hợp giữa tính kiên định về nguyên
tắc, lập trường quan điểm với sự linh hoạt về phương pháp và cách xử trí
trước mọi tình huống. Phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” được xem
là phương kế giữ nước hiệu quả nhất, có sức tác động mạnh mẽ nhất kể cả
ở thời bình cũng như khi thế nước “ngàn cân treo sợi tóc”.
Trong quá trình xây dựng và bảo vệ Tổ quốc, trước muôn vàn khó
khăn, thử thách, vận dụng phương châm “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Hồ
chủ tịch, Đảng và Nhà nước ta đã lãnh đạo nhân dân vượt qua mọi trở ngại,
nhìn rõ sai lầm, khuyết điểm, đưa đất nước vào thời kỳ đổi mới và tiến
bước theo con đường xã hội chủ nghĩa, xây dựng một đất nước Việt Nam
dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ văn minh. Cũng theo
phương châm này, Đảng ta kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc gắn với chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí
Minh, dựa vào dân, phát huy vai trò chủ động, sáng tạo của nhân dân, kết
hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại trong điều kiện mới, chủ động
và tích cực hội nhập quốc tế, phát triển nhanh và bền vững để đến năm
2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại.
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” là triết lý có ý nghĩa vô cùng to lớn và
quan trọng trong sự nghiệp cách mạng, xây dựng và bảo vệ Tổ quốc mà
Chủ tịch Hồ Chí Minh đã để lại trong hệ thống lý luận cho toàn Đảng, toàn
dân, toàn quân ta. Vì vậy, chúng ta cần phải luôn gắn lý luận với thực tiễn,
từ phương châm đi đến hành động theo tấm gương Hồ Chí Minh, vị lãnh tụ
1



vĩ đại của dân tộc ta. Từ đó vận dụng triết lý này một cách phù hợp vào
điều kiện, hoàn cảnh của đất nước ta.
Từ những nhận định trên tôi quyết định lựa chọn đề tài nghiên cứu là
“Tư tưởng Hồ Chí Minh về triết lý Dĩ bất biến ứng, vạn biến trong sự
nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa”
2. Tình hình nghiên cứu đề tài
Triết lý “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh đã có nhiều tác
giả quan tâm nghiên cứu, có thể kể tên một số công trình như sau:
- Thành Duy: “Một số vấn đề cơ bản về triết lý phát triển trong tư
tưởng Hồ Chí Minh”, Nxb Khoa học xã hội, HN – 2010.
- GS. TS Nguyễn Hùng Hậu: “Triết lý Dĩ bất biến, ứng vạn biến”
trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nxb Chính trị quốc gia, HN – 2012.
- Phạm Xuân Nam: “Triết lý phát triển ở Việt Nam, mấy vấn đề cốt
yếu”, Nxb Khoa học xã hội, HN – 2008.
- PGS. TS Bùi Đình Phong: “Triết lý Hồ Chí Minh về phát triển Việt
Nam”, Nxb Thanh niên, HN – 2010.
3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu đề tài
- Mục đích: phân tích, đánh giá về triết lý “dĩ bất biến, ứng vạn biến”
trong tư tưởng của Hồ Chí Minh để thấy được ý nghĩa, vai trò của triết lý
đó trong sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc và việc vận dụng vào thực
tiễn cách mạng và trong công cuộc đổi mới, hội nhập quốc tế hiện nay của
đất nước ta.
- Nhiệm vụ: tập trung làm rõ những nội dung sau
+ Lý luận chung về triết lý “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng
Hồ Chí Minh
+ Vận dụng triết lý “dĩ bất biến, ứng vạn biến” vào thực tiễn ở Việt Nam
4. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu đề tài
Làm rõ triết lý “dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong tư tưởng Hồ Chí
Minh và việc vận dụng triết lý đó vào thực tiễn ở nước ta.

2


5. Phương pháp nghiên cứu
- Phương pháp luận: tác giả sử dụng phương pháp luận macxit là chủ
nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử của chủ nghĩa MácLênin.
- Phương pháp chung: loogic – lịch sử, phân tích hệ thống
- Phương pháp cụ thể: tổng hợp, đánh giá...
6. Kết cấu tiểu luận
Tiểu luận gồm phần mở đầu, nội dung và kết luận
Phần nội dung gồm 2 chương 4 tiết và phần danh mục tài liệu tham
khảo.

3


NỘI DUNG
Chương 1
LÝ LUẬN CHUNG VỀ TRIẾT LÝ DĨ BẤT BIẾN ỨNG VẠN BIẾN
TRONG TƯ TƯỞNG HỒ CHÍ MINH
1.1 Quan điểm về triết lý “Dĩ bất biến ứng vạn biến”
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến” - là câu nói nổi tiếng của Hồ Chí Minh
vào thời điểm ngày 31 tháng 5 năm 1946 khi chính quyền cách mạng non
trẻ vừa mới ra đời đã phải đối mặt với thù trong giặc ngoài. Trước khi lên
đường sang nước Pháp để cứu vãn nền hòa bình, Người giao cho cụ Huỳnh
Thúc Kháng đảm trách quyền chủ tịch nước với lời dặn dò: “mong cụ ở
nhà: dĩ bất biến, ứng vạn biến”. Có thể nói rằng: cái gọi là thế giới quan và
phép biện chứng của Hồ Chí Minh quy tụ ở câu nói nổi tiếng trên đã trở
thành nguyên tắc chỉ đạo tư tưởng và phương châm ứng xử trong hành
động của Người cũng như các thế hệ cách mạng sau này.

Cái bất biến ở Hồ Chí Minh tập trung ở bốn yếu tố liên hệ mật thiết
với nhau, không tách rời nhau, đó là độc lập, tự do, hạnh phúc và dân chủ.
Trước hết là độc lập, bởi lẽ nếu không có độc lập, tức bị vong quốc, mất
nước, đất nước trong cảnh nô lệ lầm than thì làm gì có tự do, lấy đâu ra tự
do, hạnh phúc, dân chủ. Chính vì vậy, nước bị mất độc lập thì việc đầu tiên
là phải giành cho bằng được độc lập, và trong hoàn cảnh như vậy, độc lập
cho đất nước là cái bất biến số một hàng đầu. Theo nghĩa này, Chủ tịch Hồ
Chí Minh tuyên bố: cái mà tôi cần nhất là Tổ quốc tôi được độc lập. Có độc
lập rồi thì mới nói đến tự do, tự do gắn liền với độc lập, nước có được độc
lập thì dân mới được tự do. Với lý do đó mà Bác luôn nhắc nhở: trước hết
là phải giành cho kỳ được độc lập; tất cả cho độc lập; không có gì quý hơn
độc lập, tự do. Mặt khác, độc lập còn gắn liền với dân chủ. Có độc lập rồi
thì mới nói đến chuyện dân làm chủ; còn nếu không có độc lập thì cũng
không thể có dân chủ. Có độc lập chúng ta phải lập tức xây dựng một nhà
4


nước mà dân làm chủ, có nghĩa là bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu
quyền hạn đều của dân, tóm lại, quyền hành và lực lượng đều ở nơi dân. Có
như vậy mới đem lại được tự do, hạnh phúc cho dân. Điều này thể hiện rõ
trong câu đầu tiên trên mọi văn bản từ khi lập quốc: Việt Nam Dân chủ
Cộng hòa, Độc lập - Tự do - Hạnh phúc. Nước Việt Nam là một nước dân
chủ, nước độc lập, mọi người được tự do, hạnh phúc. Theo Người, có độc
lập mà dân không được hưởng tự do, hạnh phúc thì độc lập cũng
chẳng để làm gì. Ngược lại, muốn có cái thứ hai thì đầu tiên, trước hết
phải có cái thứ nhất. Cái thứ nhất là tiền đề không thể thiếu được,
nhưng cái thứ hai mới là mục đích cuối cùng. Người cho rằng thắng đế
quốc, phong kiến còn tương đối dễ, nhưng thắng bần cùng, nghèo nàn
lạc hậu còn khó hơn nhiều. Từ đó, Người cho rằng đã hy sinh làm cách
mạng, thì nên làm cho đến nơi để khỏi phải hy sinh nhiều lần, để dân

chúng được hạnh phúc. Lô-gíc đó tất yếu dẫn đến tư tưởng của Người
là gắn giải phóng dân tộc (nước độc lập) với chủ nghĩa xã hội (dân
được hưởng tự do, hạnh phúc, dân chủ) - tư tưởng trung tâm, cốt lõi
của Người.
Cái vạn biến ở Hồ Chí Minh vô cùng phong phú, đa dạng, muôn hình
muôn vẻ, đó là toàn bộ sự nghiệp cách mạng của toàn Đảng, toàn dân, toàn
quân. Trừ những cái bất biến nói trên, còn tất cả là cái vạn biến. Cái vạn biến
này phản ánh sự phong phú đa dạng của thực tiễn cách mạng đang biến đổi
từng giây, từng phút, từng ngày, từng tháng. Đó còn là đường lối, sách lược
cụ thể cho từng thời kỳ, từng giai đoạn. Trong cái vạn biến đó lại xuất hiện
những cái bất biến ở cấp, mức độ thấp hơn, ở phạm vi hẹp hơn, nhưng tất cả
những cái bất biến ở cấp thấp hơn này đều phải hướng đến bốn cái bất biến
lớn nhất được chỉ ra ở trên. Ví dụ, trong mỗi lĩnh vực kinh tế, quân sự, chính
trị, ngoại giao...trong mỗi thời kỳ cụ thể lại có những cái bất biến của nó.
Những cái bất biến này là bất biến trong một lĩnh vực cụ thể ở mỗi giai đoạn
nhất định, nhưng lại là cái vạn biến so với bốn cái bất biến nói trên.
5


Như vậy, triết lý "dĩ bất biến, ứng vạn biến" có nghĩa là lấy cái
bất biến (cái không thay đổi) ứng phó với cái vạn biến (cái thay đổi),
ứng phó với cái vạn biến nhưng không xa rời, vứt bỏ, đánh mất cái bất
biến, tuyệt đối không thể đem cái bất biến ấy ra mua bán, đổi chác.
Hoàn cảnh luôn thay đổi, cuộc sống cũng như sự nghiệp cách mạng
luôn thay đổi, phát triển, bởi vậy, sách lược trong từng lĩnh vực cụ thể
cũng phải mềm dẻo, uyển chuyển, thay đổi (cái vạn biến). Nhưng dù có
mềm dẻo, uyển chuyển, thay đổi như thế nào đi chăng nữa cũng không
được quên mục đích cuối cùng (cái bất biến).
“Dĩ bất biến ứng vạn biến” là một “cẩm nang”, là sự kết tinh lý luận
và phương pháp biện chứng của Hồ Chí Minh, là một bước triển khai sâu

sắc quan điểm “thiên biến vạn hoá” và “tuỳ cơ ứng biến”. Để hiểu được
quan điểm này, cần đặt nó trong quan hệ với các quan điểm “thiên biến vạn
hoá” và “tuỳ cơ ứng biến”. “Vạn biến” là đặc tính của thế giới bên ngoài.
“Bất biến” trước hết cũng là đặc tính của thế giới bên ngoài. Đây là hai mặt
đối lập cấu thành một chỉnh thể và nếu diễn đạt theo ngôn ngữ của phép
biện chứng hiện đại, thì đó là đặc tính “vận động có quy luật nội tại” của
hiện thực khách quan. Chủ thể “dĩ bất biến ứng vạn biến” tức là nắm lấy
quy luật, nắm lấy cái “bất biến” mà ung dung ứng xử với mọi tình huống
biến đổi. “Bất biến” không phải là không làm gì. Bất biến cũng là vạn biến,
cũng là thiên biến vạn hoá, cũng là tuỳ cơ ứng biến, nhưng là cái vạn biến,
cái thiên biến vạn hoá, cái tuỳ cơ ứng biến phù hợp với quy luật đã được
nhận thức. Đây là một quan điểm biện chứng sâu sắc. Với tư cách là một
quan điểm, “dĩ bất biến ứng vạn biến” đồng thời còn vai trò làm hoàn thiện
lý luận biện chứng cũng như hệ quan điểm biện chứng của Hồ Chí Minh.
Cái “bất biến” cùng với cái “vạn biến” cấu thành bản chất cố hữu của thế
giới - bản chất biện chứng - và với tư cách là một quan điểm, nó cấu thành
hạt nhân của phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh. Xuyên qua mọi biến
động thăng trầm của lịch sử dân tộc, trong muôn vàn những biến đổi phức
6


tạp của xã hội Việt Nam dưới chế độ thuộc địa, Hồ Chí Minh đã thấy ra và
nắm được cái “bất biến”, đó là “chủ nghĩa dân tộc”, là động lực vĩ đại và
duy nhất của toàn bộ sự vận động của xã hội Việt Nam. Nắm được chủ
nghĩa dân tộc là nắm được cái “bất biến” trong cái “vạn biến”. Phát huy và
phát triển chủ nghĩa dân tộc để giành độc lập dân tộc và xây dựng chủ
nghĩa xã hội chính là “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Cả cuộc đời, Hồ Chí Minh
luôn hành xử theo quan điểm “dĩ bất biến ứng vạn biến”. Là người góp
phần làm nên nhiều biến chuyển của thời đại, song Hồ Chí Minh chỉ có một
“sự ham muốn, ham muốn tột bậc”, đó là độc lập cho dân tộc, tự do và

hạnh phúc cho nhân dân. Cái “một” ấy là “bất biến” ở Hồ Chí Minh.
Những lúc Người phải ẩn nấp nơi núi non, hay ra vào chốn tù tội, là “một
chiến sĩ vâng mệnh lệnh quốc dân ra trước mặt trận” hay “Chủ tịch nước
Việt Nam Dân chủ Cộng hòa”, là người lãnh đạo hay là người đầy tớ thật
trung thành của nhân dân...thì cũng đều vì cái “một”, cái “bất biến” ấy. Sự
kiên định lập trường, mục tiêu, lý tưởng xuyên qua cuộc đời đầy sự kiện
sinh động của Hồ Chí Minh chính là sự thể hiện quan điểm “dĩ bất biến,
ứng vạn biến”. “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” thực sự là một hạt ngọc quý
khảm trong tư tưởng Hồ Chí Minh nói chung, trong lý luận và phương
pháp biện chứng của Hồ Chí Minh nói riêng. Tóm lại, “biến” là phạm trù
triết học có vị trí đặc biệt quan trọng trong tư tưởng Hồ Chí Minh và có nội
hàm rất phong phú, vừa bao hàm phương diện khách quan (biến đổi), vừa
bao hàm phương diện chủ quan (tích cực hành động, cải tạo). Sự triển khai
phạm trù “biến” thành bộ ba “thiên biến vạn hoá” - “tuỳ cơ ứng biến” - “dĩ
bất biến, ứng vạn biến” đã cấu thành những nội dung quan trọng trong
phương pháp luận triết học của Hồ Chí Minh. Đặc điểm của cơ bản của
toàn bộ phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh chính là nhận thức “biến”,
chế ngự “biến” và thúc đẩy “biến”, hay nói theo ngôn ngữ của phép biện
chứng duy vật là nhận thức đối tượng (tự nhiên, xã hội và con người) trong
trạng thái vận động theo quy luật nội tại, từ đó điều chỉnh hoạt động nhận
7


thức và hoạt động thực tiễn của chủ thể, thúc đẩy quá trình biến đổi của đối
tượng phù hợp với quy luật nội tại của nó như đã được nhận thức. Xuyên
qua toàn bộ các quan điểm biện chứng nói trên là sự khẳng định và đề cao
tính chủ thể năng động của con người. Được thể hiện dưới hình thức ngôn
ngữ triết học truyền thống phương Đông, song trong các quan điểm quan
trọng nói trên, ta thấy rõ sự kết hợp giữa “chất” biện chứng duy vật của chủ
nghĩa Mác, “chất” biện chứng nhân văn của triết học truyền thống phương

Đông, và đặc biệt là phong cách tư duy biện chứng của Hồ Chí Minh trên cơ
sở biện chứng khách quan của dân tộc và thời đại. Chính phương pháp
phương pháp luận triết học với sự đề cao tính năng động của chủ thể như trên
đã góp phần quan trọng vào quá trình hình thành nên hệ thống tư tưởng Hồ
Chí Minh, vào những thắng lợi của cách mạng Việt Nam theo tư tưởng Hồ
Chí Minh và đến nay vẫn còn giữ nguyên giá trị, cần học tập và vận dụng.
Triết lý "dĩ bất biến, ứng vạn biến" còn một khía cạnh nhận thức
luận khá quan trọng mà ít người bàn tới. Cái bất biến trong nhận thức
chính là cái tâm bình tĩnh, tỉnh táo, trong sáng, sáng suốt, minh mẫn.
Với cái tâm này (bất biến) thì có thể ứng với cái vạn biến, tức nhìn
nhận sự vật hiện tượng biến đổi bên ngoài rõ ràng hơn, khách quan
hơn, đúng đắn hơn. Không thể nhìn vạn vật một cách chính xác, khách
quan khi cái tâm đầy dục vọng, tham vọng đen tối, đầy cá nhân ích kỷ.
Với tinh thần "dĩ bất biến, ứng vạn biến" đó, Hồ Chí Minh đã
nhiều lần giáo dục cán bộ, đảng viên rằng, muốn đánh thắng kẻ địch
bên ngoài thì trước hết phải đánh thắng kẻ địch bên trong là chủ nghĩa
cá nhân, muốn cải tạo thế giới thì trước hết phải cải tạo bản thân
mình, một dân tộc, một đảng viên và mỗi con người ngày hôm qua là vĩ
đại, có sức hấp dẫn lớn không nhất định ngày hôm nay và ngày mai
vẫn được mọi người yêu mến và ca ngợi, nếu lòng dạ không trong sáng,
nếu sa vào chủ nghĩa cá nhân. Như vậy, với cái tâm bình tĩnh, tỉnh táo,
sáng suốt, minh mẫn, với lòng dạ trong sáng (cái bất biến), chúng ta
8


không những nhìn sự vật, hiện tượng biến đổi bên ngoài (cái vạn biến)
một cách rõ ràng, khách quan, mà còn tránh được bệnh chủ quan duy
ý chí.
Tóm lại, ở Hồ Chí Minh, từ triết lý:" dĩ bất biến, ứng vạn biến"
dẫn đến triết lý hành động, triết lý sống "dĩ chúng tâm vi kỷ tâm", hai

cái đó quyện chặt vào nhau, gắn liền mật thiết, chặt chẽ với nhau,
không tách rời nhau, triết lý hướng đến hành động, hành động nói lên
triết lý, trong triết lý đã bao hàm xu thế hành động, trong hành động
có triết lý, triết lý và hành động gắn chặt với nhau tạo nên triết lý hành
động Hồ Chí Minh mà không phải vĩ nhân nào cũng có được.
Ý nghĩa sâu xa của triết lý này là trong cuộc sống nên nắm giữ
cái lớn lao, đừng có sa vào những cái vụn vặt nhất thời, nên đứng ở
chốt (cái bất biến) mà quan sát, từ đó dung hòa, quân bình vạn vật.
Những bậc thánh nhân luôn đứng ở cái bất biến mà quan sát cái vạn
biến, dùng bất biến ứng phó với vạn biến, do đó mà thánh nhân trường
cửu (bất biến). Không nắm được cái bất biến mà suốt đời cứ chạy theo
cái vạn biến thì cả đời mỏi mệt. Nói cụ thể, trong cuộc đời mỗi người nên
nhìn ra cái lớn, chứ đừng nên sa vào những cái vụn vặt, tầm thường; phải
nhận ra đâu là bản thể trong cái hiện tượng, đâu là cái vĩnh hằng trong cái
tạm thời, đâu là cái không thay đổi trong cái thay đổi, đâu là cái toàn thể
trong cái cục bộ, đâu là cái bất biến trong cái vạn biến, còn nếu không,
ta rất dễ lạc vào cái mê cung, lạc vào rừng rậm của những sự kiện lẻ tẻ,
vụn vặt mà không biết đường ra.
1.2 Tiếp cận tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Hồ Chí Minh
dưới góc độ triết học
Có thể nói, cái cốt lõi của tư tưởng Hồ Chí Minh là sự vận dụng sáng
tạo và phát triển chủ nghĩa Mác-Lênin thích ứng với thực tiễn cách mạng
nước ta và bối cảnh quốc tế. Tư tưởng của Người về “dĩ bất biến, ứng vạn
biến” có thể hiểu lấy cái bất biến - cái không thay đổi, để ứng phó với cái
9


vạn biến - cái thay đổi nhưng không được xa rời cái bất biến. Nói một cách
cụ thể hơn đó là sự kết hợp một cách nhuần nhuyễn giữa tính nguyên tắc,
tính kiên định, tính vững chắc với tính linh hoạt, tính uyển chuyển của sách

lược trong từng thời kỳ cụ thể; giữa đường lối cách mạng và phương pháp
cách mạng. Trung thành với nguyên tắc cũng chính là trung thành với mục
tiêu, lý tưởng đã vạch ra. Đó là cái bất biến, để thực hiện được cái bất biến
ấy, trong những tình thế đầy hiểm nghèo, đầy gian nan thử thách, người
cách mạng phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, dũng cảm, sáng suốt và
mưu lược để áp dụng muôn vàn cái vạn biến trong đường đi nước bước mà
hoàn cảnh đặt ra và đỏi hỏi phải giải quyết. Hồ Chí Minh là một con người
như thế, “Người là nhà mácxit sáng tạo mà trong những phương diện sáng
tạo đặc sắc của Hồ Chí Minh là thực hành phép biện chứng. Tư tưởng lớn
của Hồ Chí Minh có ngọn nguồn sinh động trong trường đời hoạt động
phong phú đa dạng của Người, để rồi trong sự chín muồi, trong sự trưởng
thành của thực tiễn mà Người đạt được sự nhảy vọt của tư tưởng lý luận
như một sự thăng hoa của trí tuệ, của tư duy độc lập, sáng tạo”.
Vậy dưới góc độ triết học, tư tưởng "dĩ bất biến, ứng vạn biến” của
Người có thể hiểu là sự thống nhất và đấu tranh của các mặt đối lập giữa
cái “bất biến” - “vạn biến”, đó là sự ra đời của cái mới trên cơ sở kế thừa
yếu tố hợp lý, tiến bộ của cái cũ, giữa kế thừa và đổi mới, đó còn là sự nắm
bắt thời cơ để nhanh chóng chuyển từ những thay đổi về lượng sang những
thay đổi về chất, chuyển những thay đổi mang tính tiến hóa sang những
thay đổi có tính cách mạng, đó còn là sự vận dụng một cách sáng tạo
phương pháp luận mácxit vào điều kiện Việt Nam. “Sự thống nhất” theo tư
tưởng Hồ Chí Minh ở đây chính là “độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội” đó là cái bất biến mà Bác Hồ, Đảng và nhân dân ta đã chọn. Tuy nhiên để
đạt được “cái bất biến” đó là cả một quá trình “đấu tranh” trong muôn vàn
“cái vạn biến” nhưng cần phải có sách lược đúng, trúng và hiệu quả trong
mỗi bước đi để chuyển dần từ những thay đổi mang tính tiến hóa sang
10


những thay đổi có tính cách mạng, cùng nhau xây dựng một nước Việt
Nam “sánh vai với các cường quốc năm châu” như tâm nguyện của Người.

Mối quan hệ giữa bất biến và vạn biến, giữa cái không thay đổi và
cái thay đổi, giữa bản thể và hiện tượng, giữa cái nhất và cái đa...là vấn đề
trung tâm của triết học xuyên suốt từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Ý
nghĩa triết lý trên là ở chỗ dù mọi sự vật thay đổi khôn lường nhưng đều
xoay quanh trục của nó (cái bất biến), cái mà Trang Tử gọi là "Chết của
đạo", còn trong triết học gọi là bản thể hay qui luật. Trong mối quan hệ đó,
bản thể hay qui luật là bất biến, không sinh không diệt, còn các hiện tượng
biến chuyển không ngừng, nay còn mai mất mà Phật giáo gọi là trong cái
“vô thường”. Trong mỗi nền triết học, cái bất biến là bản thể hay qui luật
không thêm không bớt được gọi bằng những cái tên khác nhau. Chẳng hạn
như Brahman trong triết học Ấn Độ, “Đạo” trong học thuyết Lão Trang,
“Thái cực” trong Kinh dịch, “logos” trong triết học Hêraclit, “nguyên tử”
trong triết học của Đêmôcrít, “ý niệm” trong triết học của Platon, “ý niệm
tuyệt đối” trong triết học Hêghen, “vật chất” trong chủ nghĩa duy vật biện
chứng mácxít…
Hồ Chí Minh tiếp thu phép biện chứng mácxít, đồng thời chịu ảnh
hưởng của tư duy biện chứng phương Đông. Người thường bắt đầu từ cái
bất biến để đi tới cái khả biến, vạn biến của xã hội và con người. Ví dụ,
Người đã từng nói: “tuy phong tục mỗi dân mỗi khác, nhưng có một điều
dân nào cũng giống nhau ấy là dân nào cũng ưa sự lành, ghét sự dữ”. Cũng
xuất phát từ phép biện chứng Đông - Tây kết hợp này, chúng ta thấy Hồ
Chí Minh đã giải quyết rất thành công, vừa khoa học, vừa nhuần nhuyễn
các mối quan hệ biện chứng giữa truyền thống và hiện đại, kế thừa và đổi
mới, dân tộc và giai cấp, nội lực và ngoại lực, lực - thế, thời - thế…Về bản
chất, đó là phương pháp biện chứng duy vật mácxít được vận dụng vào
hoàn cảnh Việt Nam, có sự kết hợp với tư duy biện chứng phương Đông, in
đậm dấu ấn phương Đông và Việt Nam, nổi bật lên trong đó là sự kết hợp
11



tính cương nghị về nguyên tắc với tính mềm dẻo, linh hoạt về sách lược,
lấy cái đại đồng để khắc phục cái tiểu dị, đi từ dân tộc đến giai cấp, nhằm
mục tiêu đại đoàn kết dân tộc, phân hoá và cô lập kẻ thù chính, giành thắng
lợi cho độc lập dân tộc để từng bước đi lên Chủ nghĩa xã hội. Và, cả cuộc
đời của Người là cả một quá trình phấn đấu không mệt mỏi để thực hiện
được cái lý tưởng lớn lao đó.
Ý nghĩa nhân sinh sâu xa của triết lý này còn là ở chỗ trong cuộc
sống nên nắm giữ nắm lấy cái đại cục, cái lớn lao, nên đứng ở cái bất biến
mà quan sát cái vạn biến; từ đó dung hòa, quân bình vạn vật. Nói theo
Vedanta, “phải nhận ra đâu là bản thể trong cái hiện tượng, đâu là cái vĩnh
hằng trong cái tạm thời, đâu là cái không thay đổi trong cái thay đổi, đâu là
cái toàn thể trong cái cục bộ, đâu là cái bất biến trong cái vạn biến”.
Thật vậy, cuộc sống luôn thay đổi cũng như sự nghiệp cách mạng
từng bước phát triển, bởi vậy sách lược trong từng thời kỳ cụ thể cũng
phải mềm dẻo, uyển chuyển (cái vạn biến). Nhưng dù có mềm dẻo, uyển
chuyển như thế nào đi chăng nữa cũng không được quên mục đích cuối
cùng (cái bất biến). Như vậy, Hồ Chí Minh dù không có ý định trở thành
nhà triết học, nhưng một trong những giá trị mà Người để lại cho nhân
loại là tư tưởng về “dĩ bất biến, ứng vạn biến” đã thấm đượm và toát lên
một triết lý hành động sâu sắc, trở thành kim chỉ nam dẫn đường cho các
thế hệ sau này.

12


Chương 2
VẬN DỤNG TRIẾT LÝ DĨ BẤT BIẾN ỨNG VẠN BIẾN VÀO THỰC
TIỄN Ở VIỆT NAM
2.1 Sự vận dụng triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong thực tiễn cách
mạng Việt Nam

Hồ Chí Minh đã từng nói: “không có lực lượng gì ngăn cản được mặt
trời mọc. Không có lực lượng gì ngăn cản được lịch sử loài người tiến lên.
Cũng không có lực lượng gì ngăn trở được chủ nghĩa xã hội”. Đó chính là
quá trình lịch sử - tự nhiên theo những quy luật khách quan vốn có của sự
sinh tồn và phát triển của thế giới tự nhiên và xã hội loài người. Do đó, tư
tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” luôn trong quá trình vận động - “vạn biến”
và xoay quanh cái trục “bất biến” của nó. Với Người mối quan hệ biện
chứng giữa “bất biến” và “vạn biến” đã được Người nhận thức và giải quyết
triệt để, nhất quán và đầy sáng tạo trong các giai đoạn lịch sử cách mạng
khác nhau. Người chỉ rõ cách mạng Việt Nam phải trải qua hai giai đoạn:
cách mạng giải phóng dân tộc và cách mạng xã hội chủ nghĩa do Đảng Cộng
sản lãnh đạo. Mục tiêu chiến lược là bất di bất dịch; nhưng tùy hoàn cảnh cụ
thể ở trong nước và quốc tế, tùy từng giai đoạn lịch sử mà đề ra những sách
lược uyển chuyển, phù hợp. Không giải phóng dân tộc, không giành lấy độc
lập, tự do cho dân tộc thì mục đích giải phóng giai cấp sao thực hiện được.
Ngược lại, không đi tới chủ nghĩa xã hội cũng không có nhân tố đảm bảo
vững chắc và triệt để cho độc lập dân tộc. Để giành lấy độc lập dân tộc,
Người chủ trương phải làm cách mạng cho đến nơi, đến chốn, thành công rồi
giao chính quyền vào tay nhân dân, đảm bảo quyền lực thực sự thuộc về
nhân dân. Đảng cách mạng do Người sáng lập; chính cương, sách lược và
chương trình hành động của Đảng do Người soạn thảo đều nhằm hết vào
mục đích ấy. Thực tiễn lịch sử đã chứng minh điều đó.
13


Sau khi Cách mạng Tháng Tám thành công, nước ta đứng trước thực
trạng “ngàn cân treo sợi tóc”: nạn đói hoành hành, tài chính kiệt quệ, ngân
khố rỗng không, chính quyền còn non trẻ lại phải cùng một lúc đương đầu
với thù trong, giặc ngoài. Nhận rõ mâu thuẫn giữa hai tập đoàn đế quốc Anh
- Pháp và Mỹ - Tưởng trong vấn đề Đông Dương và căn cứ vào âm mưu và

hành động cụ thể của từng tên đối với chính quyền cách mạng, Đảng và Bác
chủ trương thực hiện sách lược hòa với Tưởng để kháng chiến chống Pháp.
Về phía ta, đồng ý cho một số tên tay sai của Tưởng tham gia chính phủ liên
hiệp lâm thời và sau đó mặc dù bọn Quốc Dân Đảng không cử người ra ứng
cử Quốc hội, nhưng ta vẫn nhường cho chúng 72 ghế trong Quốc hội đầu
tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Đây là giải pháp thêm bạn bớt
thù có lợi cho cách mạng, là sự “ứng vạn biến” trong tình thế đất nước đang
lâm nguy, là sự tích lũy dần dần về “lượng” để đạt đến “bước nhảy” đưa đất
nước thoát khỏi vòng vây của kẻ thù, tiến lên chủ nghĩa xã hội. Và sau ngày
ta giành chính quyền về tay nhân dân, một bộ phận đáng kể trong tầng lớp
trung gian, tầng lớp trên, tầng lớp trí thức còn chưa hiểu và e ngại Đảng
Cộng sản. Để thu phục nhân tâm, đoàn kết toàn dân, tháng 11 năm 1945
Đảng ta tuyên bố "tự giải tán", nhưng sự thật là Đảng rút vào hoạt động bí
mật. Và dù là bí mật, Đảng vẫn lãnh đạo chính quyền và nhân dân. Đó là cái
“bất biến” trong cái “vạn biến”.
Cho đến Đại hội Đảng lần thứ II (tháng 2-1951), khi cuộc kháng chiến
của nhân dân ta ngày càng lớn mạnh, tình hình quốc tế có nhiều thuận lợi,
Đảng và Bác chủ trương đưa Đảng ra hoạt động công khai với tên mới Đảng
Lao Động Việt Nam. Như vậy, dù hoạt động bí mật hay công khai, dù mang
tên Đảng Cộng sản, Đảng Lao động hay Đảng nhân dân cách mạng, dù "vạn
biến" như thế nào, nhưng bản chất "bất biến" là Đảng ta vẫn là Đảng của giai
cấp công nhân Việt Nam trực tiếp lãnh đạo cách mạng nước ta, lấy chủ
14


nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh làm nền tảng tư tưởng làm kim
chỉ nam cho mọi hoạt động.
Trong quá tình kháng chiến chống thực dân Pháp, đế quốc Mỹ xâm
lược, Người luôn khẳng định chân lý: không có gì quý hơn độc lập tự do chân lý đó ngàn đời “bất biến”. Đó là thời điểm giữa những năm 60, giặc
Mỹ leo thang gây chiến tranh phá hoại ra miền bắc để ngăn chặn chi viện

cho cách mạng giải phóng miền Nam. Nhận thức được âm mưu của chúng,
Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định rằng, miền Nam là máu thịt làm
nên “cơ thể” Việt Nam. Sông có thể cạn, núi có thể mòn nhưng chân lý ấy
không bao giờ thay đổi. Với lập trường và quyết tâm đó, dù Người đã đi xa
nhưng tư tưởng “dĩ bất biến, ứng vạn biến” của Người là một trong những
phương châm trong tư tưởng và hành động của các thế hệ cách mạng kế
tiếp. Dưới sự lãnh đạo của Đảng, phát huy được sức mạnh nội lực và được
sự giúp đỡ của nhân dân yêu chuộng hòa bình trên thế giới; chúng ta đã đánh
thắng thù trong, giặc ngoài dành chính quyền về tay nhân dân. Kiên định
theo mục tiêu đã chọn, dù tình thế có sự thay đổi; nhưng với tư tưởng “ứng
vạn biến”, Đảng ta đã lãnh đạo nhân dân vượt qua được những thăng trầm
đưa đất nước vững bước theo con đường mà Bác Hồ, Đảng ta và nhân dân ta
đã chọn. Nhất là trước sự sụp đổ của mô hình chủ nghĩa xã hội ở Liên Xô và
Đông Âu, Đảng ta đã đưa ra “cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ
quá độ lên chủ nghĩa xã hội”, được thông qua tại Đại hội VII năm 1991 đã
tiếp tục khẳng định những nguyên tắc đã định trên con đường đổi mới, xây
dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên chủ nghĩa xã hội. Đây là một đảm
bảo rất quan trọng vừa kiên định được mục tiêu đã chọn (cái bất biến) vừa
phù hợp với tình hình của đất nước ta và bối cảnh quốc tế, phấn đấu xây
dựng một Việt Nam “dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dân chủ, văn
minh”.
15


Và hiện nay trước xu thế toàn cầu hóa, tình hình trong nước cũng như trên
thế giới có những vận động nhanh chóng, phức tạp, khó lường (cái vạn
biến), để thực hiện được hai nhiệm vụ chiến lược xây dựng thành công chủ
nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa (cái
bất biến) cần nhận thức sâu sắc tất cả các yếu tố tác động đến mục tiêu đã
định mà có ứng phó kịp thời. Đổi mới, mở cửa, hợp tác liên quốc gia, liên

khu vực…là một xu thế tất yếu, trong đó các đối tác vừa hợp tác vừa cạnh
tranh với nhau một cách gay gắt. Các thế lực thù địch trong và ngoài nước
không từ bỏ âm mưu “diễn biến hòa bình” nhằm xóa bỏ chủ nghĩa xã hội đối
với đất nước ta thông qua kinh tế thị trường và trao đổi giao lưu văn hóa.
Trong điều kiện đó, làm sao để phát triển kinh tế mà vẫn giữ được độc lập,
không đi chệch mục tiêu, bản chất chủ nghĩa xã hội? Muốn thế, chúng ta
phải tạo ra được năng lực nội sinh làm nền tảng cho sự phát triển của đất
nước trên cơ sở kiên định chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh là
kim chỉ nam cho hành động.
Như vậy, qua tìm hiểu tư tưởng của Hồ Chí Minh về “dĩ bất biến, ứng
vạn biến” chúng ta không chỉ thấy được những giá trị nhiều mặt của nó: một
triết lý hành động, một phương pháp biện chứng và là một triết lý nhân sinh
sâu sắc, mà còn thấy được một con người “Người vượt lên nhiều người
đương thời để trở thành người kế tục hiếm hoi những nhà sáng lập chủ nghĩa
duy vật biện chứng trong thời đại mới, trước một phương Đông đầy những
mâu thuẫn, đầy biến cố phức tạp”. Một con người mà “bất kỳ bao giờ, bất kỳ
ở đâu, tôi chỉ theo đuổi một mục đích làm cho ích quốc lợi nhà”. Đặc biệt
qua thực tiễn cách mạng Việt Nam, chúng ta thấy tư tưởng “dĩ bất biến, ứng
vạn biến” của Người đã, đang và sẽ mãi trở thành hành trang trong nhận
thức và hành động của các thế hệ hôm nay và mai sau.

16


2.2 “Dĩ bất biến, ứng vạn biến” trong công cuộc đổi mới và hội nhập
quốc tế hiện nay
Trong quá trình đổi mới phải kiên trì mục tiêu độc lập dân tộc và chủ
nghĩa xã hội trên nền tảng chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh.
Đổi mới là yêu cầu bức thiết, quá trình tất yếu có ý nghĩa sống còn đối với
cách mạng Việt Nam., được đánh dấu bằng những mốc quan trọng đó là Hội

nghị trung ương 6 khóa IV, Hội nghị trung ương 8 khóa V, Đại hội VI của
Đảng, Đại hội Đảng lần thứ VII, VIII, IX, X. Đổi mới không phải là từ bỏ
mục tiêu chủ nghĩa xã hội, mà làm cho chủ nghĩa xã hội được nhận thức
đúng đắn hơn và được xây dựng có hiệu quả hơn. Đổi mới không phải là xa
rời chủ nghĩa Mác - Lênin và tư tưởng Hồ Chí Minh, mà là nhận thức đúng,
vận dụng sáng tạo và phát triển học thuyết, tư tưởng đó, lấy đó làm nền tảng
và kim chỉ nam cho hành động. Để có đường lối đổi mới đúng đắn, cần nắm
vững, vận dụng và phát triển sáng tạo chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ
Chí Minh, dùng lý luận, tư tưởng đó là cơ sở phương pháp luận để phân tích
tình hình, nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật, lấy đó làm cơ sở
xuất phát để hoạch định và hoàn thiện đường lối đổi mới. Chủ nghĩa Mác Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh đóng vai trò phương pháp luận cho công cuộc
đổi mới ở chỗ nó đòi hỏi đổi mới phải toàn diện, có kế thừa, phải vì dân, phù
hợp với thực tiễn, khai thác mọi sức mạnh, mọi tiềm năng của đất nước. Đổi
mới không phải phủ định sạch trơn những thành tựu và cách làm trước đây
mà khẳng định những gì đã hiểu đúng, làm đúng, loại bỏ những gì hiểu sai,
làm sai, hoặc những gì trước kia đúng nhưng nay không còn phù hợp, bổ
sung nhận thức mới, cách làm mới, đáp ứng yêu cầu của tình hình mới.
Hội nhập nhưng không hòa tan, hội nhập nhưng vẫn giữ vững độc lập
tự chủ. Xu thế mở cửa hội nhập là xu thế tất yếu khách quan. Thế giới hiện
nay như một hệ thống thống nhất, trong đó mọi yếu tố, bộ phận đều tác động
17


liên hệ mật thiết với nhau, không tách rời nhau. Do đó không thể có một
quốc gia nào đứng riêng tách rời mà có thể phát triển được. Độc lập tự chủ
hiện nay không phải là đóng cửa, khép kín như trước kia, mà là tạo nên sự
phụ thuộc lẫn nhau, càng phụ thuộc đa dạng bao nhiêu thì càng độc lập bấy
nhiêu. Như vậy bài toán đặt ra cho nước ta là hội nhập như thế nào để không
dẫn đến hòa tan, hội nhập như thế nào để vừa khai thác sức mạnh tối ưu từ
bên ngoài, vừa phát huy hết mọi tiềm năng bên trong để phát triển, hội nhập

mà vẫn giữ được độc lập tự chủ. Trong thời gian hội nhập vừa qua, tuy còn
một số mặt cần bổ sung hoàn thiện, phát triển nhưng nhìn chung chúng ta đã
làm tốt vấn đề này. Khi tham gia hội nhập quốc tế ta mới thấy rõ mặt mạnh
cũng như mặt yếu của ta, từ đó xuất hiện nhiều cơ hội, thời cơ, nhưng đồng
thời cũng xuất hiện những nguy cơ, thách thức mới buộc chúng ta phải vượt
qua ví dụ như khi chúng ta gia nhập WTO.
Phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Đây là
mô hình kinh tế mới mẻ chưa từng có trong lịch sử nhân loại. Nhận thức và
lựa chọn mô hình kinh tế đó không phải là sự gán ghép chủ quan kinh tế thị
trường với chủ nghĩa xã hội, mà là kết quả sáng tạo của Đảng ta trong việc
vận dụng chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quy luật phát
triển. Đó là kết quả của cả một quá trình tìm tòi, thử nghiệm, suy tư, đấu
tranh tư tưởng gian khổ, kết tinh trí tuệ và công sức của toàn Đảng, toàn dân
ta trong nhiều thập kỷ. Đồng thời, nó là kết quả của sự nắm bắt và nhận thức
đúng quy luật phát triển, tính thời đại, có sự khái quát, đúc kết kinh nghiệm
phát triển kinh tế thị trường trên thế giới. đặc biệt là thực tiễn cải cách và
xây dựng chủ nghĩa xã hội ở Việt Nam và Trung Quốc, Có thể nói, sự
nghiệp đổi mới trong hơn 20 năm qua đánh dấu giai đoạn phát triển mới về
trình độ phát triển tư duy lý luận của Đảng ta và khẳng định được con đường

18


và mục tiêu đi lên chủ nghĩa xã hội trong tình hình quốc tế diễn biến hết sức
phức tạp và có nhiều bất lợi.
Như vậy, cái bất biến lâu dài là tiến tới xây dựng cho được một xã hội
dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh. Đây là cái bất biến
mang tính mục đích. Nhưng để tiến tới cái bất biến này thì chúng ta phải
thực hiện tốt những cái bất biến mà ta đã phân tích ở trên, chẳng hạn như giữ
vững độc lập tự chủ, xây dựng thành công nền kinh tế thị trường định hướng

xã hội chủ nghĩa, hội nhập chứ không hòa tan, và cuối cùng là xây dựng
thành công chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta.

19


KẾT LUẬN
Quan điểm “dĩ bất biến ứng vạn biến” khẳng định “bất biến” và
“vạn biến” là những đặc tính phổ quát của hiện thực khách quan, chủ thể
hành động muốn đạt được hiệu quả trong bối cảnh và trước đối tượng
luôn luôn biến đổi thì phải nhận thức và nắm chắc quy luật bất biến để
kiên định lập trường, mục tiêu, lý tưởng của mình, có như vậy mới có thể
ứng biến hiệu quả.
Quán triệt sâu sắc tư tưởng Hồ Chí Minh “dĩ bất biến ứng vạn biến”,
kết hợp nhuần nhuyễn, khôn khéo và thông minh tính kiên định về nguyên
tắc và mục tiêu không thay đổi với đầu óc uyển chuyển, tinh thần và khả
năng thường xuyên đổi mới, sáng tạo phù hợp, đáp ứng tình hình quốc tế và
đất nước giai đoạn đầy biến động nhanh và khôn lường hiện nay - đó là bí
quyết thành công trong sự nghiệp cách mạng vĩ đại của Đảng ta và dân tộc
ta. Trong Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng đã khẳng định: “Đi
lên chủ nghĩa xã hội là khát vọng của nhân dân ta, là sự lựa chọn đúng đắn
của Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh, phù hợp với xu thế
phát triển của lịch sử”.
Kết luận là tất cả những cái bất biến đã phân tích ở trên đều dẫn đến
mục đích cuối cùng là chúng ta xây dựng thành công chủ nghĩa xã hội, xây
dựng cho được một xã hội dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn
minh, nhân dân có đời sống ấm no, hạnh phúc.

20



DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
1.Thành Duy: “Một số vấn đề cơ bản về triết lý phát triển trong tư
tưởng Hồ Chí Minh”, Nxb Khoa học xã hội, HN – 2010.
2.GS.TS Nguyễn Hùng Hậu: Triết lý “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”
trong phương châm xử thế và hành động của Hồ Chí Minh. Tạp chí lý luận
chính trị, số 5 – 2005.
3.GS. TS Nguyễn Hùng Hậu: “Triết lý Dĩ bất biến, ứng vạn biến”
trong tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nxb Chính trị quốc gia, HN – 2012.
4. Phạm Xuân Nam: “Triết lý phát triển ở Việt Nam, mấy vấn đề cốt
yếu”, Nxb Khoa học xã hội, HN – 2008.
5. PGS. TS Bùi Đình Phong: “Triết lý Hồ Chí Minh về phát triển Việt
Nam”, Nxb Thanh niên, HN – 2010.
6. Trần Văn Riễn: “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”- nét đặc sắc trong
phương pháp biện chứng Hồ Chí Minh. Tạp chí giáo dục lý luận,
số 8 – 2004.

21


MỤC LỤC

22



×