Tải bản đầy đủ (.doc) (90 trang)

khóa luận tốt nghiệp Việc làm cho lao động nông thôn hà tĩnh

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.33 MB, 90 trang )

PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
Vấn đề việc làm luôn là một trong những vấn đề được quan tâm hàng
đầu trong các quyết sách phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia để
hướng tới sự phát triển bền vững. Có việc làm vừa giúp bản thân người lao
động có thu nhập, vừa tạo điều kiện để phát triển nhân cách và lành mạnh hóa
các quan hệ xã hội.
Ở Việt Nam, với đặc điểm dân số đông, trẻ, nên có nguồn lao động
phong phú, dồi dào. Đặc điểm đó là thế mạnh trong phát triển kinh tế - xã hội
của chúng ta, song đồng thời nó cũng luôn tạo ra sức ép về việc làm cho toàn
xã hội. Vì vậy, quan tâm giải quyết việc làm, ổn định việc làm cho người lao
động luôn là một trong những giải pháp về phát triển xã hội và là chỉ tiêu
định hướng phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng ta đã đề ra.
Đặc biệt, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xu
thế chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, lao động Việt Nam có
nhiều cơ hội để tìm kiếm việc làm. Người lao động có thể vươn lên nắm bắt
tri thức và tự do làm giàu bằng tri thức của mình. Tuy nhiên, bên cạnh đó
cũng có những thách thức đặt ra cho người lao động Việt Nam: đó là yêu cầu
về chất lượng nguồn lao động. Người lao động không biết nghề, hoặc biết
không đến nơi đến chốn thì rất khó tìm được việc làm. Mặt khác, kinh
nghiệm các nước cho thấy, khi hội nhập WTO, ngành dễ bị tổn thương nhất
là nông nghiệp, nhóm dân cư dễ bị tổn thương nhất là nông dân. Chính vì
vậy, quan tâm đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn
vẫn luôn là vấn đề mang tính cấp bách.
ở Hà Tĩnh hiện nay, số người thất nghiệp còn đông, nhất là ở khu vực
nông thôn. Năm 2007, tỷ lệ thời gian lao động được sử dụng của lực lượng
lao động ở khu vực nông thôn là 75,33%. Năm 2008, Đại hội tỉnh Đảng bộ
Khóa luận tốt nghiệp Đại học

1



Hà Tĩnh đã nhận định: "tỷ lệ người lao động thiếu việc làm còn cao so với
mức bình quân chung của cả nước". Do vậy, vấn đề tạo việc làm và ổn định
việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà Tĩnh là vấn đề có ý nghĩa chiến
lược trong phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh.
Chính vì vậy, vấn đề "Việc làm cho lao động nông thôn Hà Tĩnh" được
lựa chọn để nghiên cứu làm khóa luận tốt nghiệp đại học, với hy vọng đưa ra
những giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà
Tĩnh, đáp ứng phần nào nhu cầu đòi hỏi của địa phương và trên phạm vi cả nước.
Vấn đề việc làm luôn là một trong những vấn đề được quan tâm hàng
đầu trong các quyết sách phát triển kinh tế - xã hội của mỗi quốc gia để
hướng tới sự phát triển bền vững. Có việc làm vừa giúp bản thân người lao
động có thu nhập, vừa tạo điều kiện để phát triển nhân cách và lành mạnh hóa
các quan hệ xã hội.
Ở Việt Nam, với đặc điểm dân số đông, trẻ, nên có nguồn lao động
phong phú, dồi dào. Đặc điểm đó là thế mạnh trong phát triển kinh tế - xã hội
của chúng ta, song đồng thời nó cũng luôn tạo ra sức ép về việc làm cho toàn
xã hội. Vì vậy, quan tâm giải quyết việc làm, ổn định việc làm cho người lao
động luôn là một trong những giải pháp về phát triển xã hội và là chỉ tiêu
định hướng phát triển kinh tế - xã hội mà Đảng ta đã đề ra.
Đặc biệt, trong thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa và xu
thế chủ động hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, lao động Việt Nam có
nhiều cơ hội để tìm kiếm việc làm. Người lao động có thể vươn lên nắm bắt
tri thức và tự do làm giàu bằng tri thức của mình. Tuy nhiên, bên cạnh đó
cũng có những thách thức đặt ra cho người lao động Việt Nam: đó là yêu cầu
về chất lượng nguồn lao động. Người lao động không biết nghề, hoặc biết
không đến nơi đến chốn thì rất khó tìm được việc làm. Mặt khác, kinh
nghiệm các nước cho thấy, khi hội nhập WTO, ngành dễ bị tổn thương nhất
là nông nghiệp, nhóm dân cư dễ bị tổn thương nhất là nông dân. Chính vì


Khóa luận tốt nghiệp Đại học

2


vậy, quan tâm đến vấn đề giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn
vẫn luôn là vấn đề mang tính cấp bách.
Chính vì vậy, vấn đề "Việc làm cho lao động nông thôn Hà Tĩnh" được
lựa chọn để nghiên cứu làm khóa luận tốt nghiệp đại học, với hy vọng đưa ra
những giải pháp nhằm giải quyết việc làm cho người lao động ở nông thôn Hà
Tĩnh, đáp ứng phần nào nhu cầu đòi hỏi của địa phương và trên phạm vi cả nước.
2. Mục đích và nhiệm vụ của đề tài
2.1. Mục đích
Mục đích làm rõ thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho người
lao động ở nông thôn tỉnh Hà Tĩnh giai đoạn 2006-2010 . Từ đó đưa ra một
số giải pháp nhằm giải quyết có hiệu quả vấn đề việc làm cho người lao động
ở nông thôn tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới.
2.2. Nhiệm vụ:
- Hệ thống hóa các vấn đề lý luận và thực tiễn về việc làm cho lao
động ở nông thôn.
- Phân tích, đánh giá thực trạng việc làm và giải quyết việc làm cho
người lao động ở nông thôn tỉnh Hà Tĩnh trong khoảng thời gian gần đây.
- Đưa ra một số giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết có hiệu quả vấn đề
việc làm cho người lao động ở nông thôn tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới.
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu
3.1. Đối tượng
Đối tượng nghiên cứu của đề tài là vấn đề giải quyết việc làm cho
người lao động ở tỉnh Hà Tĩnh .
3.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài tập trung nghiên cứu thực trạng việc làm và giải quyết việc làm

cho người lao động ở nông thôn trên địa bàn tỉnh Hà Tĩnh trong khoảng thời
gian 2006 -2010; đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm giải quyết việc làm
cho người lao động ở nông thôn tỉnh Hà Tĩnh trong thời gian tới.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học

3


4. Phương pháp nghiên cứu.
Đề tài được nghiên cứu dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác –
Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và các quan điểm của Đảng Cộng sản Việt
Nam trong các văn kiện Đại hội Đảng và Hội nghị Ban Chấp hành Trung
ương các khóa. Đồng thời, đề tài cũng kế thừa và sử dụng có chọn lọc một số
đề xuất và các số liệu thống kê trong một số công trình nghiên cứu có liên
quan của các tác giả trong nước.
Đề tài sử dụng phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng,
duy vật lịch sử để nghiên cứu. Ngoài ra, còn sử dụng một số phương pháp
nghiên cứu cụ thể như: hệ thống, tổng hợp, so sánh, đối chiếu, phân tích, để
làm sáng tỏ vấn đề.
5. Kết cấu đề tài.
Ngoài phần mở đầu, kết luận, danh mục tài liệu tham khảo, khóa luận
có kết cấu gồm 3 chương, 8 tiết.

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

4


PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1: MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ

LAO ĐỘNG, VIỆC LÀM, GIẢI QUYẾT VIỆC LÀM Ở NÔNG
THÔN TRONG QUÁ TRÌNH ĐÔ THỊ HÓA.
1.1. Một số vấn đề chung về lao động, việc làm và giải quyết việc
làm
1.1.1. Quan niệm về lao động
Nói một cách cụ thể: Lao động là hoạt động có mục đích và ý thức của
con người tác động vào thế giới tự nhiên nhằm cải biến những vật tự nhiên
thành các sản phẩm phục vụ cho nhu cầu đời sống con người. Vì vậy, lao
động là một hoạt động đặc thù riêng có của con người, phân biệt giữa con
người với các loài động vật; trong quá trình lao động sản xuất, con người
không những tạo ra của cải, mà tạo ra cho mình phát triển cả về thể lực và trí
lực và chủ nghĩa Mác – Lênin cũng đã đề cập nhiều đến phạm trù lao động,
theo C.Mác: “Lao động trước hết là một quá trình diễn ra giữa con người và
tự nhiên, một quá trình trong đó, bằng hoạt động chính của mình, con người
làm trung gian điều tiết và kiểm tra sự trao đổi chất giữa họ và tự nhiên. Lao
động là một điều kiện tồn tại của con người không phụ thuộc vào hình thái xã
hội nào, là một yếu tố tự nhiên vĩnh cửu làm môi giới cho sự trao đổi chất giữa
con người với tự nhiên, tức là bản thân sự sống của con người” [24, tr 61].
Trong nghiên cứu của mình Ph.Ăngghen viết:
Các nhà kinh tế chính trị khẳng định rằng lao động là nguồn gốc
của mọi của cải. Lao động đúng là như vậy, khi đi đôi với giới tự nhiên
là giới cung cấp những vật liệu cho lao động đem biến thành của cải.
Nhưng lao động còn là một cái gì vô cùng lớn lao hơn thế nữa. Lao
Khóa luận tốt nghiệp Đại học

5


động là điều kiện cơ bản đầu tiên của toàn bộ đời sống loài người, và
như thế đến một mức mà trên một ý nghĩa nào đó, chúng ta phải nói:

Lao động đã sáng tạo ra bản thân con người [27, tr 641].
Lao động là hoạt động riêng có ở con người, khác với hoạt động theo
bản năng của loài vật C.Mác viết:
Con nhện làm những động tác giống như động tác của người thợ
dệt, và bằng việc xây dựng những ngăn tổ sáp của mình, con ong làm
cho một số nhà kiến trúc phải hổ thẹn. Nhưng điều ngay từ đầu phân
biệt nhà kiến trúc tồi nhất với con ong giỏi nhất là trước khi xây dựng
những ngăn tổ bằng sáp, nhà kiến trúc đã xây dựng chúng ở trong đầu
óc của mình rồi[27, tr 266].
Trong bất kỳ nền sản xuất nào, kể cả nền sản xuất hiện đại, lao động
bao gồm giờ cũng là nhân tố cơ bản, là điều kiện không thể thiếu của sự tồn
tại và phát triển đời sống xã hội loài người. Từ khi hình thành con người
muốn tồn tại thì phải được đáp ứng các nhu cầu cơ bản như: ăn, mặc, ở, đi
lại,… muốn như vậy phải lao động sản xuất và sản xuất đó không ngừng
được phát triển với quy mô ngày càng lớn. Một phát minh vĩ đại của C.Mác –
Ph.Ăngghen khám phá là: sản xuất vật chất là cơ sở tồn tại và phát triển của
con người và xã hội loài người.
Trong tiến trình phát triển của nhân loại từ trước đến nay lao động là
phương tiện để sinh sống, là nguồn gốc chính của thu nhập bảo đảm sự tồn
tại và phát triển của mỗi thành viên trong xã hội. Từ những căn cứ trên theo
chúng tôi những quan niệm về lao động là: Lao động là hoạt động có mục
đích, có ý thức của con người tác động vào thế giới tự nhiên nhằm cải biến
những vật tự nhiên thành các sản phẩm phục vụ đời sống của con người.
1.1.2. Quan niệm về việc làm
1.1.2.1. Khái quát về việc làm và vai trò của việc làm
Hoạt động lao động sản xuất là hoạt động gắn liền với con người và xã
hội loài người. Từ xa xưa con người đã biết làm lụng, tìm kiếm trong thế giới
Khóa luận tốt nghiệp Đại học

6



xung quanh những sản phẩm để phục vụ nhu cầu cho bản thân mình. Khi
phân công lao động xã hội phát triển, thì mỗi người tham gia lao động sản
xuất với một việc làm cụ thể nhằm tạo ra thu nhập nuôi sống bản thân và
đóng góp cho xã hội.
Việc làm trước hết là hoạt động lao động sản xuất của con người, là
hoạt động lao động cụ thể của mỗi người lao động cụ thể trong quá trình lao
động sản xuất của xã hội. Giống như lao động, việc làm cũng phản ánh mối
quan hệ giữa người lao động với giới tự nhiên, vì vậy việc làm cũng chịu tác
động bởi những quy luật và điều kiện tự nhiên.
Mặt khác, khi nói đến việc làm là nói đến tính chủ động, sáng tạo của
lao động. Người lao động với kỹ năng của mình, kết hợp với tư liệu sản xuất,
hoạt động trong một lĩnh vực nhất định của cơ cấu kinh tế xã hội, để tạo ra
của cải vật chất (tức là đang làm việc) – họ có quan hệ với nhau, quan hệ xã
hội. Vì vậy, việc làm cũng chịu tác động của các quy luật kinh tế, xã hội.
Như vậy, việc làm và lao động có quan hệ chặt chẽ với nhau. Việc làm
là cái vỏ xã hội, là cái khung pháp lý trong đó lao động diễn ra. Nếu lao động
là phạm trù vĩnh viễn, thì việc làm không phải như vậy. Xét trên tổng thể có
những nơi, những lúc có hiện tượng người lao động không có việc làm trong
khi hoạt động lao động sản xuất của con người không bao giờ ngừng lại. Việc
làm nói lên mối quan hệ của con người với không gian, trung gian, quan hệ
và những giới hạn xã hội cần thiết mà trong đó một quá trình lao động cụ thể
được diễn ra. Nói đến việc làm là nói đến công việc của người lao động với
những ngành nghề, công việc cụ thể; là những hoạt động cụ thể của người lao
động, đáp ứng nhu cầu xã hội, nhu cầu cá nhân của người lao động nó có tính
cụ thể, tường minh.
Tóm lại, có thể nói lao động là cái chung và việc làm là cái riêng. Việc
làm là phạm trù tổng hợp, liên kết các quá trình kinh tế xã hội. Trên khía
cạnh xã hội, việc làm phản ánh mối quan hệ giữa con người với con người

trong những giới hạn nhất định, trong đó quá trình lao động được diễn ra, là
Khóa luận tốt nghiệp Đại học

7


cơ sở để các mối quan hệ xã hội tồn tại trong mối liên hệ đan xen, liên kết với
nhau phát triển theo hướng lành mạnh.
Là một vấn đề kinh tế xã hội phức tạp, việc làm gắn cá nhân với xã hội
– nó không những đem lại thu nhập cho người lao động để nuôi sống bản
thân họ mà còn tạo ra một lượng của cải cho xã hội. C.Mác đã nói: “Với
những điều kiện khác không thay đổi thì khối lượng và giá trị của sản phẩm
tăng lên tỷ lệ thuận với số lượng lao động được sử dụng” [26, tr 75].
Việc làm là một vấn đề có ý nghĩa kinh tế xã hội và chính trị quan
trọng của một quốc gia. Hiện nay đảm bảo an toàn việc làm là một trong
những yếu tố cơ bản của sự phát triển bền vững. Thời kỳ đẩy mạnh CNH,
HĐH và xu thế chủ động hội nhập kinh tế thế giới ở nước ta hiện nay đang
tạo ra những cơ hội và thách thức về lao động, việc làm cho người lao động.
Chính vì nhận thức đúng đắn về việc làm là vấn đề quan trọng tạo cơ sở lý
luận để đưa ra những giải pháp tích cực giải quyết việc làm, phát huy nguồn
lực lao động của xã hội.
1.1.2.2. Một số đặc trưng của việc làm:
- Những quan niệm khác nhau về việc làm:
Quan niệm về việc làm không cố định mà nó được xem xét trên nền
tảng của một chế độ chính trị, gắn với trình độ phát triển kinh tế, chính trị,
văn hóa, xã hội của mỗi quốc gia, mỗi thời đại. Khi trình độ phát triển mọi
mặt, đặc biệt là định hướng chính trị của một quốc gia thay đổi, quan niệm về
việc làm cũng biến đổi. Trong lịch sử cho thấy việc thay đổi những quan
điểm về tương lai trực tiếp ảnh hưởng tới số lượng việc làm chứ không chỉ
định hướng việc làm.

Có quan niệm cho rằng, tất cả hoạt động, hành vi mang lại thu nhập để
đảm bảo cuộc sống cho mọi người đều được gọi đó là việc làm. Quan điểm
này đã không tính đến tính pháp lý của việc làm, đã đồng nhất việc làm hợp
pháp và bất hợp pháp. Trong điều kiện nền kinh tế thị trường hiện nay không
thể chấp nhận được quan điểm này, bởi khi các quan hệ thị trường ngày càng
Khóa luận tốt nghiệp Đại học

8


phát sinh cả những mặt tích cực và tiêu cực, nhiều nguồn thu nhập không
chính đáng đang làm gia tăng các tệ nạn xã hội, kìm hãm sự tăng trưởng, phát
triển của nền kinh tế đất nước.
Quan điểm thứ ba lại cho rằng: “Việc làm có thể được định nghĩa như
một tình trạng trong đó có sự trả công bằng tiền bạc hoặc hiện vật, do đó có
sự tham gia tích cực có tính cá nhân và trực tiếp vào nổ lực sản xuất”.
So với quan niệm trên quan niệm này phát triển hơn, khái quát hơn hai
quan niệm trên. Tuy nhiên nếu chỉ có những hoạt động được trả công bằng
tiền hoặc hiện vật mới được coi là việc làm thì chưa thỏa đáng. Những người
nằm trong lực lượng lao động nhưng làm công việc nội trợ, bản thân họ
không nhận được tiền công, tiền lương bằng tiền hay hiện vật từ xã hội, từ
người sử dụng lao động mà chỉ nhận được sự phân phối lại trực tiếp thu nhập
từ các thành viên trong gia đình. Họ không trực tiếp mà gián tiếp tạo ra thu
nhập trực tiếp, họ nhận được thu nhập gián tiếp thông qua điều tiết thu nhập
từ các thành viên trong gia đình có việc làm hưởng tiền lương trong xã hội.
Vậy, họ là những người có việc làm, đảm nhận một chức năng trong guồng
máy chỉ đạo xã hội – nghề nội trợ.
Tại Hội nghị quốc tế lần thứ 13 năm 1983, Tổ chức Lao động quốc tế
(ILO) đã đưa ra quan niệm: “Người có việc làm là những người làm một việc
gì đó, có được trả tiền công, lợi nhuận hoặc những người tham gia vào các

hoạt động mang tính chất tự tạo việc làm vì lợi ích hay vì thu nhập gia đình,
không nhận được tiền công hay hiện vật”
Trước đây, trong cơ chế cũ việc làm của người lao động thường do
Nhà nước giải quyết với chế độ “biên chế” suốt đời. Người lao động có việc
làm được xã hội tôn trọng và thừa nhận là những người làm việc trong các cơ
quan hành chính sự nghiệp của nhà nước, các đơn vị kinh tế quốc doanh, với
quan niệm Nhà nước bố trí việc làm cho người lao động. Chính vì vậy, xã hội
không thừa nhận hiện tượng thất nghiệp, thiếu việc làm hay việc làm không

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

9


đẩy đủ. Quan điểm đó tạo ra tâm lý ỷ lại vào Nhà nước ở người lao động khi
họ cần việc làm.
Khi chuyển sang cơ chế thị trường định hướng XHCN, quan niệm trên
về việc làm đã thay đổi. Quan niệm mới về việc làm được thể hiện ở Luật lao
động của Nước Cộng hòa XHCN Việt Nam sửa đổi bổ sung năm 2002. Điều
13 chương 2 (Việc làm) của Luật quy định: “Mọi hoạt động lao động tạo ra
nguồn thu nhập không bị pháp luật cấm đều được thừa nhận là việc làm”.
Từ quy định trên chúng ta có thể đưa ra khái niệm về việc làm: việc
làm là những hoạt động lao động sản xuất trong tất cả các lĩnh vực của đời
sống xã hội mang lại thu nhập cho người lao động mà không bị pháp luật
ngăn cấm.
Quan niệm trên về việc làm hoàn toàn phù hợp với điều kiện kinh tế,
xã hội ở Việt Nam hiện nay. Trong nền kinh tế thị trường định hướng XHCN,
người lao động có thể làm bất cứ việc gì, ở bất cứ đâu, miễn là không vi
phạm pháp luật để mang lại thu nhập và thu nhập cao hơn cho bản thân. Quan
niệm trên đã mở ra một hướng mới cho vấn đề giải quyết việc làm, mở ra một

thị trường việc làm phong phú và đa dạng, thu hút nhiều lao động, thực hiện
mục tiêu giải phóng triệt để sức lao động và tiềm năng toàn xã hội.
Qua phân tích ở trên cho chúng ta thấy đặc trưng chung của việc
làm là:
Về mặt pháp lý: việc làm phải hợp pháp, phải chịu sự điều chỉnh của
pháp luật về độ tuổi, về những ngành nghề được làm và không được làm.
Về mặt kinh tế: nó phải đáp ứng lợi ích kinh tế của người lao động như
thu nhập, bình đẳng, tăng trưởng và phát triển quốc tế.
Về chính trị: việc làm thể hiện rõ những quan điểm, đường lối lãnh đạo
của giai cấp cầm quyền.
Về mặt xã hội: việc làm phải phù hợp với truyền thống văn hóa, đạo
đức, phong tục tập quán, công bằng xã hội.

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

10


Về mặt cá thể: việc làm thể hiện những tri thức, năng lực, phẩm chất
của người lao động khi tham gia việc làm ở những ngành nghề cụ thể.
Như vậy, việc làm là một phạm trù kinh tế - xã hội, việc làm chịu sự
chi phối của nhiều mối quan hệ. Quan niệm đúng về việc làm là cơ sở khoa
học cho giải quyết việc làm.
1.1.3. Quan niệm về giải quyết việc làm
Nghiên cứu việc làm có quan hệ chặt chẽ với vấn đề giải quyết việc
làm. Giải quyết việc làm có nhiều quan niệm khác nhau, có người cho rằng:
việc làm được tự do lựa chọn là sự đáp ứng tối ưu nhất nhu cầu về việc làm
cho người lao động, nó không những đưa lại thu nhập cao cho người lao động
mà còn đưa lại năng suất lao động cao cho xã hội. Việc làm được tự do lựa
chọn là sự kết hợp tối ưu sức lao động với các yếu tố khác nhau của sản xuất.

Người lao động có thể lựa chọn công việc phù hợp với nhu cầu vật chất, cũng
như năng lực sở trường để vừa đảm bảo thu nhập vừa có điều kiện phát triển
phong phú đời sống tinh thần.
Quan niệm này cho rằng: Mục tiêu của giải quyết việc làm là phải tạo
ra việc làm đầy đủ cho người lao động và phải cao hơn, đó là tạo ra tự do
trong lựa chọn việc làm để triệt để giải quyết việc làm là trách nhiệm của
toàn xã hội và người lao động nhằm cân bằng thị trường lao động, giúp người
lao động có việc làm, có thu nhập ổn định đáp ứng nhu cầu sinh tồn và phát
triển của người lao động, gia đình và xã hội. Quan niệm này cũng có sự đồng
nhất với quan niệm trên về vai trò, mục tiêu giải quyết việc làm, nhưng nó chỉ
ra rõ hơn chủ thể giải quyết việc làm và mục tiêu cụ thể của giải quyết việc
làm không chỉ là lợi ích của người lao động mà là cả lợi ích xã hội.
Như vậy, giải quyết việc làm thực chất là quá trình tác động có chủ
đích của chủ thể xã hội và người lao động nhằm giúp người lao động có việc
làm, việc làm đầy đủ có thu nhập và phải hướng tới không ngừng nâng cao

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

11


chất lượng việc làm, thu nhập cao, ổn định để người lao động có cuộc sống
vật chất và tinh thần ngày càng cao.
Giải quyết việc làm không chỉ là vấn đề kinh tế mà là vấn đề xã hội
vì có liên quan đến công bằng xã hội và tiến bộ xã hội; nó không chỉ là sự
quan tâm của người lao động, gia đình, mỗi quốc gia mà là vấn đề có tính
chất toàn cầu.
Giải quyết việc làm là một trong những mục tiêu và thước đo quan
trọng nhất để đánh giá tính ưu việt của một chế độ xã hội, trình độ văn minh
của nhân loại.

Ở nước ta, Đảng và Nhà nước luôn coi con người là trung tâm, vừa là
mục tiêu, vừa là động lực của sự phát triển bền vững. Chính vì vậy, vấn đề
giải quyết việc làm cho người lao động, đặc biệt là lao động nông thôn luôn
luôn là một trong những định hướng cơ bản phát triển kinh tế - xã hội.
Mục tiêu của chính sách lao động và giải quyết việc làm của Đảng và
Nhà nước ta hướng vào giải phóng sức sản xuất, giải phóng và phát huy mọi
tiềm năng sức lao động, khơi dậy tiềm năng của mọi người và toàn xã hội,
coi trọng giá trị sức lao động, mở rộng cơ hội cho mọi người đều phát triển.
Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X nhấn mạnh:
Ưu tiên dành vốn đầu tư của Nhà nước và huy động vốn của toàn xã
hội để giải quyết việc làm, giảm tỷ lệ thất nghiệp. Khuyến khích người
lao động tự tạo việc làm, phát triển nhanh các loại hình doanh nghiệp
để thu hút nhiều lao động. Chú trọng đào tạo nghề, tạo việc làm cho
nông dân, nhất là những nơi đất nông nghiệp bị chuyển đổi đô thị hóa
và công nghiệp hóa. Phát triển các dịch vụ phục vụ đời sống của người
lao động ở các khu công nghiệp. Tiếp tục thực hiện chương trình xuất
khẩu lao động đã qua đào tạo, quản lý chặt chẽ và bảo vệ quyền lợi
chính đáng của người lao động[14, tr 213].
1.2. Quá trình đô thị hóa nông thôn và tác động của tới việc làm
1.2.1. Khái niệm đô thị hóa
Khóa luận tốt nghiệp Đại học

12


- Có nhiều cách hiểu khác nhau về đô thị hóa. Theo cách tiếp cận của
nhân khẩu học về địa lý kinh tế thì đô thị hóa chính là sự di cư từ nông thôn
vào thành thị, sự tập trung ngày càng nhiều dân cư sống trong lãnh thổ địa lý
hạn chế được gọi là các đô thị. Đó là quá trình gia tăng tỷ lệ dân cư đô thị
trong tổng dân cư của một quốc gia.Theo cách tiếp cận này thì chỉ tiêu tỷ lệ

phần trăm dân số đô thị trên tổng số dân dường như là chỉ tiêu duy nhất đo
lường mức độ đô thị hóa. Vì thế nó không giải thích được tầm quan trọng và
vai trò của đô thị hóa đối với sự phát triển kinh tế xã hội hiện đại.
Theo cách tiếp cận xã hội học, đô thị hóa được hiểu rộng hơn, đó là
quá trình tổ chức lại môi trường cư trú của nhân loại, là sự thay đổi những
phương thức hay hình thức cư trú của nhân loại. Theo cách hiểu này đô thị
hóa không chỉ thay đổi phương thức sản xuất, tiến hành các hoạt động kinh tế
mà còn là sự thay đổi lớn trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội và cá
nhân trong đó các quan hệ xã hội các mô hình hành vi và ứng xử tương ứng
với điều kiện công nghiệp hóa, hiện đại hóa và đô thị hóa.
Theo quan điểm một vùng, đô thị hóa là quá trình hình thành phát triển
các hình thức và điều kiện sống theo kiểu đô thị.
Theo quan điểm nền kinh tế quốc dân, đô thị hóa là quá trình biến đổi
về sự phân bố các yếu tố lực lượng sản xuất, bố trí dân cư những vùng không
phải là đô thị thành đô thị. Ngày nay khi mà đô thị hóa luôn gắn liền với công
nghiệp hóa đang diễn ra mạnh mẽ và phổ biến trên thế giới thì cách hiểu về
đô thị hóa cũng có sự thay đổi, cách hiểu được nhiều người tiếp cận thì đô thị
hóa là quá trình mang tính quy luật gắn liền với sự chuyển dịch cơ cấu kinh
tế và cơ cấu xã hội từ nông nghiệp – nông thôn – nông dân sang công nghiệp
– thị dân – đô thị với những đặc trưng sau:
Một là: đô thị hóa không phải là kết quả mà là một quá trình lâu dài
diễn ra trên môt không gian lãnh thổ rộng lớn.
Hai là: tiền đề cơ bản của đô thị hóa là sự phát triển công nghiệp hay
CNH, HĐH. Trong quá trình đô thị hóa có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ
Khóa luận tốt nghiệp Đại học

13


dựa vào nông nghiệp là chủ yếu sang sản xuất công nghiệp, thương mại và

dịch vụ.
Ba là: đô thị hóa là quá trình hình thành, nâng cấp và mở rộng quy mô
đô thị với cơ sở hạ tầng hiện đại.
Bốn là: các làn sóng di cư từ nông thôn đến thành thị làm tăng nhanh
quy mô dân số đô thị, tạo sự chuyển dịch từ lối sống phân tán, mật độ dân số
thưa thớt sang lối sống tập trung, mật độ dân số cao. Điều đó dẫn đến sự bố
trí lại dân cư, thay đổi cơ cấu giai cấp, phân tầng xã hội.
Năm là: không gian đô thị ngày càng mở rộng cùng với nó là sự thu
hẹp đất nông nghiệp để phát triển các khu đô thị mới, khu công nghiệp,
thương mại, dịch vụ, du lịch.
Sáu là: tốc độ và quy mô hội tụ kinh tế đô thị ngày càng tăng cao, thể
hiện ở sự gia tăng của quy mô và tốc độ thu hút vốn, gia tăng số lượng và quy
mô các các đơn vị kinh tế.
Bảy là: chuyển từ lối sống nông thôn sang lối sống đô thị, từ văn
hóa làng xã sang văn hóa đô thị, từ văn minh nông nghiệp sang văn minh
công nghiệp.
Tám là: cùng với quá trình đô thị hóa là sự thay đổi về cơ chế, chính
sách phát triển và quản lý đô thị.
Ngoài những đặc trưng chung trên, đô thị hóa của Việt Nam còn có đặc
trưng riêng gắn liền với đặc điểm của nước nông nghiệp truyền thống, đó là
đô thị hóa có tính chất điển hình. Tính chất không điển hình có nguồn gốc từ
sự tồn tại đan xen, hòa trộn giữa nông thôn và thành thị ở mọi phương diện,
từ không gian địa lý, cơ sở hạ tầng, dân cư, tôn giáo, văn hóa cho đến các
hoạt động kinh tế. Làng trong phố, phường, cư dân nông thôn hoạt động nông
nghiệp với nếp sống làng, xã truyền thống vẫn còn đang hiện hữu ngay trong
hầu hết các đô thị ở Việt Nam.
- Mức độ đô thị hóa (hay còn gọi là trình độ đô thị hóa) gắn liền với
quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động. Mức độ đô thị hóa
Khóa luận tốt nghiệp Đại học


14


thường đươc đo bằng các tiêu chí sau: Mức độ tập trung dân số: mật độ dân
số, quy mô dân số và tỷ trọng dân số trong khu vực đô thị; tỷ lệ % lực lượng
lao động phi nông nghiệp; mức độ hiện đại của cơ sở hạ tầng; tỷ lệ % kinh tế
phi nông nghiệp trong cơ cấu kinh tế đô thị; vai trò của trung tâm hành chính,
văn hóa, chính trị, kinh tế của đô thị,…
Ở nước ta hiện nay, do nhiều nguyên nhân nên việc phân loại đô thị
chủ yếu dựa vào tiêu chí về quy mô và mật độ dân số đô thị. Theo quyết định
số 132/HĐBT ngày 5/5/1990 của Hội đồng Bộ trưởng về việc phân loại và
phân cấp quản lý đô thị thì đô thị hóa ở nước ta chia thành 5 loại.
- Quá trình đô thị hóa là quá trình phát triển KT – XH gắn liền với sự
phát triển của khoa học – công nghệ, sự phát triển của các ngành nghề mới.
Ở các nước đang phát triển nói chung, trong đó có Việt Nam, đặc trưng
của đô thị hóa là sự tăng nhanh dân số đô thị không hoàn toàn dựa trên cơ sở
phát triển công nghiệp. Hiện tượng bùng nổ dân số bên cạnh sự phát triển yếu
kém của công nghiệp đã làm cho quá trình đô thị hóa và công nghiệp hóa mất
cân đối, sự mâu thuẫn giữa đô thị và nông thôn tăng lên. Sự chênh lệch đó đã
thúc đẩy sự dịch chuyển dân cư nông thôn ra đô thị một cách ồ ạt, không
kiểm soát được, gây rất nhiều hậu quả nặng nề, trong đó có vấn đề việc làm,
thất nghiệp.
1.2.2. Tác động của đô thị hóa tới việc làm của lao động nông thôn
Tác động tích cực:
- Tác động đầu tiên chúng ta nhận thấy là đô thị hóa tạo ra nhiều việc
làm mới:
+ Đô thị hóa tạo ra nhiều việc làm mới trong các lĩnh vực công nghiệp,
xây dựng, thương mại và dịch vụ. Để tiến hành đô thị hóa đòi hỏi phải thúc
đẩy xây dựng, cải tạo, phát triển cơ sở hạ tầng kỹ thuật với việc hình thành
các khu công nghiệp, khu du lịch, thương mại, khu đô thị mới ngày càng hiện

đại. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật hiện đại sẽ kích thích gia tăng sự hội tụ các nguồn
đầu tư cho sản xuất thúc đẩy các hoạt động kinh tế phi nông nghiệp diễn ra
Khóa luận tốt nghiệp Đại học

15


ngày càng sôi động, đa dạng hóa và phát triển các nghành nghề công nghiệp,
xây dựng, thương mại và dịch vụ…đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế
theo hướng công nghiệp hóa, đô thị hóa từ đó tạo nhiều việc làm mới trong
công nghiệp, xây dựng, thương mại và dịch vụ.
+ Đô thị hóa tạo nhiều việc làm trong khu vực kinh tế không chính
thức. Đô thị hóa thúc đẩy tăng trưởng kinh tế, nâng cao thu nhập và mức
sống của dân cư đô thị làm nảy sinh các nhu cầu ngày càng cao về vật chất và
tinh thần. Để đáp ứng được các đòi hỏi sản xuất và dịch vụ phải được mở
rộng kéo theo sự phát triển đa dạng các nghành nghề, tạo nhiều việc làm mới.
Trong đó đáng chú ý là sự hình thành và phát triển một cách tự phát khu vực
kinh tế không chính thức với những hoạt động kinh tế quy mô nhỏ, không
đăng ký, không đòi hỏi trình độ chuyên môn kỹ thuật như bán hàng rong, các
dịch vụ, buôn bán nhỏ tại nhà, trên vỉa hè, giúp việc gia đình, lao động tự
do…sự phát triển các khu vực kinh tế không chính thức tạo ra nhiều việc làm,
góp phần giải quyết việc làm cho một lực lượng lao động không nhỏ, không
có tay nghề, lao động nhập cư, lao động nông nghiệp thuộc diện thu hồi đất
sản xuất, lao động dôi dư do sắp xếp lại các đơn vi kinh tế.
+ Đô thị hóa làm tăng việc làm tạm do quy hoạch mở rộng không gian
đô thị, cải tạo, nâng cấp, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế. Để tiến hành đô thị
hóa đòi hỏi quy hoạch mở rộng không gian đô thị, cải tạo, nâng cấp, xây
dựng cơ sở hạ tầng kinh tế. Theo đó, nhiều việc làm tạm thời trong lĩnh vực
xây dựng và dịch vụ nhỏ được tạo ra như phụ hồ, công nhân cầu đường, xe
thồ,…với sự xuất hiện của những việc làm tạm thời này sẽ góp phần giải

quyết việc làm cho những lao động chân tay, không có trình độ chuyên môn
kỹ thuật. Ngoài ra đô thị hóa còn thúc đẩy thực hiện các chương trình CNH,
HĐH ở khu vực nông thôn đặc biệt là sự phát triển công nghiệp chế biến và
đa dạng hóa các ngành nghề tiểu thủ công nghiệp. Từ đó, thu hút một bộ
phận lao động nông nhàn, lao động dư thừa từ nông nghiệp (do không còn đất

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

16


nông nghiệp để sản xuất) vào làm việc và tăng thời gian làm việc ở khu vực
nông thôn.
- Đô thị hóa làm thay đổi cơ cấu việc làm:
Trong quá trình đô thị hóa do có sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế dựa vào
nông nghiệp là chủ yếu sang công nghiệp, thương mại và dịch vụ mà cơ cấu
việc làm thay đổi mạnh mẽ. Cùng với sự phát triển kinh tế đô thị, cơ cấu việc
làm thay đổi theo các xu hướng khách quan sau:
+ Tăng việc làm trong lĩnh vực công nghiệp, xây dựng, dịch vụ, giảm
việc làm trong lĩnh vực nông nghiệp.
+ Tăng việc làm đòi hỏi trình độ lao động cao, giảm việc làm đòi hỏi
trình độ lao động thấp, nhất là lao động phổ thông.
+ Tăng việc làm có năng suất, thu nhập cao, giảm việc làm có năng
suất, thu nhập thấp.
Sự thay đổi cơ cấu việc làm trong quá trình đô thị hóa theo các xu
hướng trên đây xuất phát từ sự gia tăng hội tụ các hoạt động kinh tế phi nông
nghiệp ở đô thị khi mà những lợi thế và các nguồn lực dồi dào ở đô thị ngày
càng được tận dụng khai thác tối đa như: chi phí giao dịch thấp, giao thông
vận tải thuận lợi, cơ sở hạ tầng hiện đại, nguồn vốn đầu tư cho sản xuất phi
nông nghiệp hội tụ ngày càng nhiều, thông tin, tiến bộ của khoa học công

nghệ…ở khía cạnh khác việc tiến hành các nội dung để đẩy mạnh đô thị hóa
như quy hoạch mở rộng không gian đô thị, cải tạo và nâng cấp cơ sở hạ tầng
kỹ thuật các khu công nghiệp, đường sá, xây dựng các khu thương mại, dịch
vụ tập trung, thực hiện thay thế lao động thủ công bằng cơ khí, tăng cường áp
dụng các tiến bộ của khoa học kỹ thuật vào sản xuất, phát triển tự động hóa
nhiều lĩnh vực, ngành nghề…cũng là tác nhân trực tiếp làm thay đổi cơ cấu
việc làm.
- Đô thị hóa làm tăng khả năng tự tạo việc làm và tìm kiếm việc làm
của người lao động.
+ Do trình độ người lao động tăng lên.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học

17


Trước yêu cầu trình độ lao động ngày càng cao và áp lực về việc làm
do gia tăng dân số, lao động hội tụ ngày càng cao ở đô thị theo xu hướng đô
thị hóa, một bộ phận người lao động nhất là lao động trẻ buộc phải tự trang bị
cho mình trình độ chuyên môn kỹ thuật nhất định. Do đó, trong quá trình đô
thị hóa tự phát sẽ hướng một bộ phận lao động tham gia vào các chương trình
giáo dục, đào tạo. Đồng thời cùng với quá trình đô thị là việc chuyển biến
nhận thức về dân số và kế hoạch hóa gia đình. Sự chuyển biến này thể hiện
qua việc chuyển từ mô hình đại gia đình nhiều thế hệ, đông con của xã hội
nông thôn truyền thống sang mô hình gia đình ít con theo kiểu đô thị. Vì vậy,
những người lao động và những người thân trong gia đình có điều kiện thuận
lợi về thời gian, tiền bạc, công sức…để ưu tiên đầu tư cho giáo dục, đào tạo,
nâng cao trình độ lao động, vừa làm giảm áp lực về nhu cầu phải giải quyết
việc làm hiện tại ở đô thị vừa nâng cao khả năng tự tạo việc làm hoặc tìm
kiếm việc làm trong tương lai cho bản thân và con em họ.
+ Do thị trường sức lao động hoạt động sôi nổi hơn.

Tốc độ đô thị hóa càng cao thì tốc độ tăng trưởng việc làm và tốc độ
hội tụ dân số và lao động ở đô thị có quy mô càng lớn. Sự gia tăng về cả hai
phía cung và cầu lao động cùng với môi trường kinh tế năng động như đô thị
chính là những điều kiện cơ bản để phát triển mạnh mẽ các hoạt động tư vấn,
giới thiệu việc làm, giáo dục, đào tạo nghề, dịch vụ thông tin sức lao động…
Vì vậy người lao động có điều kiện thuận lợi để tiếp cận các dịch vụ việc
làm, thiết lập, mở rộng các mối quan hệ làm ăn và thực hiện các giao dịch
trên thị trường sức lao động.
Tất cả những điều đó đã tạo ra cơ hội chuyển đổi việc làm cho lao
động nông nghiệp. Họ có thể chuyển sang làm việc ở các lĩnh vực kinh tế
khác. Đây cũng là vấn đề có tính quy luật. Chính quá trình công nghiệp hóa,
đô thị hóa sẽ thúc đẩy chuyển dịch cơ cấu lao động theo hướng tiến bộ, giảm
tỷ trọng lao động nông nghiệp, tăng tỷ trong lao động công nghiệp và dịch
vụ. Để biến cơ hội này thành hiện thực không chỉ đòi hỏi nỗ lực của bản thân
Khóa luận tốt nghiệp Đại học

18


người nông dân, mà điều quan trọng hơn là nhà nước phải có quy hoạch, kế
hoạch và tổ chức hiệu quả quá trình này.
Tác động tiêu cực:
Bên cạnh những tác động tích cực do đô thị hóa đem lại thì trong quá
trình tiến lên đô thị hóa vẫn còn một số tác động tiêu cực như:
- Đô thị hóa làm giảm việc làm của lao động nông nghiệp.
Đô thị hóa làm giảm diện tích đất nông nghiệp và do đó giảm việc làm
của lao động nông nghiệp.
VD: ở Việt Nam từ năm 1990 đến năm 2005, cả nước đã thu hồi hơn
600 nghìn ha đất nông nghiệp để chuyển đổi sang mục đích sử dụng khác.
Riêng trong năm năm 2001 – 2005 đã thu hồi 366,4 nghìn ha, trong đó

nhiều địa phương thu hồi với diện tích lớn như Tiền Giang 20.308ha, Đồng
Nai 19.752ha, Bình Dương 16.627ha, Quảng Nam 11.812ha, Cà Mau
13.242ha, Hà Nội 7.776ha, Vĩnh Phúc 5.573ha…Theo tính toán của Bộ Lao
động Thương binh và Xã hội trung bình thu hồi 1ha đất nông nghiệp sẽ gây
ảnh hưởng đến việc làm của 10 – 13 lao động (riêng ở vùng Đồng bằng
Sông Hồng ảnh hưởng từ 15 - 18 lao động). Như vậy, tính riêng trong năm
năm từ 2001 – 2005, việc thu hồi đất nông nghiệp đã gây ảnh hưởng đến
việc làm của khoảng 950 nghìn lao động 1 . Trong đó có nhiều lao động bị
mất việc làm.
+ Đô thị hóa làm gia tăng sức ép tìm kiếm việc làm, nhất là đối với lao
động nông nghiệp.
Chẳng hạn, ở nước ta, thập niên 90 của thế kỷ XX, bình quân mỗi năm
có khoảng 1,8 triệu trẻ em bước vào độ tuổi lao động trong khi đó có khoảng
50 – 60 vạn người bước ra khỏi độ tuổi lao động. Như vậy số lao động mới
bổ sung hàng năm khoảng 1,2 triệu lao động (đại bộ phận này tham gia ở khu
vực nông nghiệp nông thôn). Mấy năm gần đây, con số này giảm xuống còn
khoảng trên dưới 1 triệu. Nhưng do tốc độ đô thị hóa tăng lên làm cho sức
1

Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn: Báo cáo tình hình thu hồi đất của hộ nông dân thực hiện CNH,
HĐH, tháng 7 năm 2007

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

19


ép tìm kiếm việc làm cũng tăng lên khá cao, đặc biệt là đối với lao động
nông nghiệp.
+ Đô thị làm tăng nguy cơ thất nghiệp cho lao động nông nghiệp.

Nguy cơ mất việc làm của lao động nông nghiệp không chỉ do họ mất
đất canh tác (chuyển đổi mục đích sử dụng đất), mà còn do chất lượng cung
lao động nông nghiệp nông nghiệp thấp.
Với những người nông dân, đất đai là tư liệu sản xuất chủ yếu. Với họ
không có đất đai gần như đồng nghĩa với không có việc làm. Thêm vào đó,
do họ phần lớn không có chuyên môn kỹ thuật nên dù các doanh nghiệp có
ưu tiên tuyển dụng thì họ cũng không đủ điều kiện đáp ứng. Họ phần lớn có
trình độ học vấn thấp, từ tiểu học trở xuống nên việc học nghề rất khó khăn.
Nhìn chung họ chưa thích nghi hoặc chưa kịp thích ứng với lao động sản xuất
mang tính công nghiệp. Tất cả những điều đó làm tăng nguy cơ thất nghiệp
cho lao động nông nghiệp.
- Đô thị hóa làm gia tăng thất nghiệp ở một vài bộ phận lao động.
+ Bộ phận lao động bị thu hồi đất.
Quy hoạch sử dụng đất theo hướng chuyển đổi mục đích sử dụng từ
phục vụ sản xuất nông nghiệp sang phục vụ sản xuất công nghiệp, thương
mại, dịch vụ và quy hoạch chỉnh trang đô thị trong quá trình đô thị hóa sẽ làm
xuất hiện một bộ phận không nhỏ những người lao động diện thu hồi đất sản
xuất (đất sản xuất nông nghiệp và mặt bằng sản xuất, kinh doanh các nghành
nghề phi nông nghiệp), mất việc làm hoặc buộc phải chuyển đổi việc làm.
Đối với nông dân bị thu hồi đất để xây dựng các khu công nghiệp, khu
thương mại, du lịch, các khu đô thị mới thì coi như mất tư liệu sản xuất,
không còn kế sinh nhai. Đại đa số họ có trình độ học vấn thấp, không có tay
nghề, không có vốn để tự tổ chức việc làm. Hơn nữa, do cách nghĩ, cách làm,
lối sống của họ còn mang nặng sắc thái văn hóa nông thôn làng xã truyền
thống nên rất hạn chế trong khả năng thiết lập các mối quan hệ công ăn, việc
làm, khả năng tiếp cận các dịch vụ việc làm, khả năng hội nhập với cuộc sống
Khóa luận tốt nghiệp Đại học

20



đô thị, khả năng thích ứng kịp thời với sự biến đổi nhanh chóng của quá trình
đô thị hóa, khi mà bỗng chốc họ đã trở thành những cư dân đô thị sau những
quyết định hành chính mở rộng ranh giới, không gian đô thị. Những vấn đề
trên đây đã cản trở nhóm dân cư này trong việc tìm kiếm các cơ hội chuyển
đổi việc làm mới, biến họ trở thành những người thất nghiệp.
+ Bộ phận lao động bị di dời khỏi nơi cư trú.
Đô thị hóa làm thay đổi chức năng của nhà ở. Ở đô thị, nhà ở là tài sản
giá trị nhất của người dân. Nó không chỉ có chức năng để ở, cư trú mà còn có
chức năng kinh tế rất quan trọng. Đối với cư dân đô thị nhà ở được dùng để
làm cửa hàng, nơi buôn bán, nhà xưởng sản xuất hoặc cho thuê…Tuy nhiên,
nếu nhà ở của họ thuộc diện giải tỏa thì đồng nghĩa với việc họ mất việc làm,
mất nguồn thu nhập từ nhà ở của mình.
+ Bộ phận lao động ở các doanh nghiệp nhà nước buộc phải sắp xếp
lại, cổ phần hóa.
Đô thị hóa thúc đẩy quá trình sắp xếp cơ cấu lại các đơn vị kinh tế, các
doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp nhà nước và thực hiện thay thế lao
động thủ công bằng lao động cơ khí, phát triển tự động hóa ở nhiêu lĩnh vực,
ngành nghề, làm giảm việc làm có yêu cầu trình độ lao động thấp, do đó xuất
hiện một bộ phận không nhỏ lao động dôi dư không đáp ứng được yêu cầu
của sản xuất sẽ bị mất việc. Những người này đa số đã lớn tuổi hoặc trình độ
lao động thấp không còn phù hợp với sự đổi mới của doanh nghiệp hoặc
không đủ điều kiện về sức khỏe…khả năng đào tạo lại và chuyển đổi nghề
nghiệp của họ là rất thấp. Đây là hiện tượng thể hiện một mâu thuẫn kinh tế xã hội gay gắt trong quá trình đô thị hóa, nó diễn ra dưới nhiều hình thức,
mức độ khác nhau và rất phổ biến ở các đô thị - nơi tập trung cao độ các hoạt
động lao động công nhiệp. Hiện nay ở hầu hết các đô thị lớn ở nước ta có nhu
cầu về lao động có trình độ cao rất nhiều, nhưng số người thất nghiệp cũng
rất lớn do nguồn lao động không thể đáp ứng một cách thỏa đáng yêu cầu của
những việc làm đó.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học


21


1.3. Kinh nghiệm giải quyết việc làm cho lao động nông thôn ở một
số địa phương và bài học rút ra cho Hà Tĩnh.
1.3.1. Kinh nghiệm Thái Bình.
Thái Bình là một tỉnh thuần nông, hiện nay có trên một triệu lao động
tập trung ở nông thôn hơn 90%. Thời gian sử dụng lao động trong nông
nghiệp thấp, dưới 75% và tỷ lệ lao động qua đào tạo nghề chỉ có 16%. Cũng
như nhiều địa phương khác, hiện nay, cơ cấu lao động có trình độ kỹ thuật ở
Thái Bình đang mất cân đối so với yêu cầu của sự phát triển. Tỷ lệ lao động
trí óc thấp, nhất là ở khu vực nông thôn, chỉ chiếm dưới 5%. Ngành nông,
ngư nghiệp chiếm trên 90% lao động trong tỉnh nhưng chỉ có khoảng 15%
lao động kỹ thuật tập trung ở khu vực quản lý Nhà nước, các cơ quan nghiên
cứu đào tạo, còn khu vực sản xuất chỉ chiếm số lượng nhỏ. Các khu vực công
nghiệp, khu chế xuất vừa hình thành cũng đang trong tình trạng thiếu trầm
trọng lao động kỹ thuật. Sự thiếu vắng đội ngũ lao động có trình độ đã hạn
chế khả năng tạo việc làm và chuyển đổi cơ cấu lao động, tiếp nhận chuyển
giao khoa học công nghệ để có thể thúc đẩy kinh tế nông thôn.
Mục tiêu của tỉnh Thái Bình trong năm 2008 là nâng cao tỷ lệ sử dụng
thời gian lao động ở nông thôn lên 78%, nâng tỷ lệ lao động qua đào tạo lên
30% và lao động đào tạo nghề lên 18%, tạo việc làm mới cho 20.000 người.
Để đạt được mục tiêu này, Thái Bình đã và đang thực hiện một số biện pháp
như: từng bước chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi theo hướng sản xuất
hàng hóa, đẩy mạnh nâng cao chất lượng, mở rộng quy mô đào tạo và tăng
cường cơ sở vật chất cho các trường, các cơ sở dạy nghề,…
Từ thực tế tạo việc làm ở Thái Bình cho thấy con đường để giải quyết
việc làm có hiệu quả, đó là dạy nghề cho nông dân. Đây là một việc làm hết
sức cần thiết, góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, cơ cấu lao động, là một

trong những biện pháp xóa đói giảm nghèo do giải quyết được việc làm cho
số lao động dôi dư trong nông thôn, hơn nữa còn tạo ra nhiều sản phẩm mới
chưa đáp ứng nhu cầu tiêu dùng trong xã hội.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học

22


1.3.2. Kinh nghiệm của Nghệ An
Nghệ An là một tỉnh có diện tích tự nhiên là 16 487,29km 2 dân số là
3.003.000 người. Trong đó lực lượng lao động từ 15 tuổi trở lên là 1.477.687
người, đa số là lao động ở khu vực nông thôn với 1.335.743 người chiếm hơn
90% lực lượng lao động của tỉnh.
Trong quá trình phát triển kinh tế xã hội, tỉnh Nghệ An luôn xác định
công tác giải quyết việc làm cho người lao động nói chung và việc làm cho
người lao động ở nông thôn nói riêng là một trong những nội dung quan
trọng, góp phần tích cực vào sự phát triển kinh tế - xã hội, nâng cao chất
lượng nguồn nhân lực phục vụ sự nghiệp công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước và
địa phương.
Để thực hiện mục tiêu đó Sở Lao động thương binh và xã hội đã tham
mưu tập trung xây dựng các chương trình, đề án, chính sách và giải quyết
việc làm, được UBND tỉnh Nghệ An phê duyệt và phối hợp chỉ đạo đạt kết
quả tốt. Từ năm 2006 - 2010, thông qua các chương trình phát triển kinh tế xã hội chuyển dịch cơ cấu kinh tế lồng ghép các chương trình dự án đầu tư,
phát triển các loại hình doanh nghiệp, phát triển công nghiệp, tiểu thủ công
nghiệp, các làng nghề, trang trại, các tổng đội thanh niên xung phong xây
dựng kinh tế. Nghệ An đã tạo thêm việc làm cho trên 130.000 lao động (trung
bình mỗi năm giải quyết việc làm cho 2,6 đến 2,7 vạn người, trong đó tạo
việc làm mới tập trung cho trên 30.000 lao động) và nâng tỉ lệ sử dụng thời
gian lao động ở khu vực nông thôn từ 73,93% năm 2006 lên 77,71% năm
2010. Để đạt kết quả đó, tỉnh Nghệ An đã thực hiện đồng bộ các chủ trương

và biện pháp như sau:
- Công tác giải quyết việc làm đã được toàn tỉnh xác định là một trong
những nội dung chiến lược quan trọng trong phát triển kinh tế - xã hội, được
các cấp các ngành quan tâm, chỉ đạo thực hiện nghiêm túc và được sự đồng
tình ủng hộ của các tầng lớp nhân dân.

Khóa luận tốt nghiệp Đại học

23


- Nhận thức và trách nhiệm của các cấp ủy đảng, chính quyền, các cơ
quan đoàn thể và các tầng lớp nhân nhân về lĩnh vực lao động việc làm, dạy
nghề và xóa đói giảm nghèo có nhiều chuyển biến sâu sắc phù hợp với cơ chế
thị trường và đáp ứng phần nào yêu cầu của sự nghiệp CNH, HĐH quê
hương toàn tỉnh đã quán triệt và thực hiện tốt hơn chủ trương phát triển kinh
tế gắn liền với giải quyết việc làm, dạy nghề và xóa đói giảm nghèo trước yêu
cầu hội nhập và phát triển kinh tế - xã hội.
- Tập trung nghiên cứu, tổng kết thực tiễn các phong trào, xây dựng
phát triển các mô hình, cách làm hiệu quả trong công tác giải quyết việc làm;
Có nhiều cơ chế chính sách thông thoáng khuyến khích thu hút các nhà đầu
tư, các chủ doanh nghiệp trong và ngoài nước đến Nghệ An; Đồng thời xúc
tiến đẩy nhanh tiến độ dạy nghề và xuất khẩu lao động, nâng cao chất lượng
đội ngũ cán bộ, công chức trong công tác giải quyết việc làm.
- Cụ thể, trong những năm qua Nghệ An đã thực hiện tốt công tác giải
quyết việc làm cho người lao động nhất là cho người lao động ở nông thôn
trong các lĩnh vực sau:
+ Trong nông nghiệp tỉnh đã tiến hành chuyển dịch cơ cấu cây trồng
vật nuôi, đầu tư thâm canh, phát triển các vùng chuyên canh nguyên vật liệu
cho công nghiệp chế biến như: dứa, sắn, mía, chè công nghiệp cây ăn quả...

Phát triển các hình thức kinh tế trang trại, tổng đội thanh niên xung phong
kinh tế hợp tác, kinh tế hộ gia đình để thu hút lao động, tạo nhiều việc làm.
Bên cạnh đó tỉnh đã đầu tư phát triển nuôi trồng, đánh bắt, chế biến và xuất
khẩu thủy hải sản, dịch vụ, du lịch phát triển vùng kinh tế ven biển giải quyết
nhiều việc làm cho người lao động ở khu vực này.
+ Khuyến khích, thu hút đầu tư tạo điều kiện thuận lợi về vốn, địa
điểm, thủ tục đăng ký để thúc đẩy các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển có
chính sách khuyến khích, ưu tiên thu hút các doanh nghiệp lớn, có chất lượng
cao đầu tư vào Nghệ An. Hiện nay tỉnh đã thu hút đầu tư và phát triển trên
1.800 doanh nghiệp, tạo việc làm cho gần 15.000 lao động.
Khóa luận tốt nghiệp Đại học

24


+ Trợ giúp về nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm để mở rộng ngành nghề
tiểu thủ công nghiệp, phát triển làng nghề, tạo việc làm cho người lao động ở
nông thôn. Hiện nay cả tỉnh có trên 100 làng nghề và 12 đơn vị được UBND
tỉnh quyết định công nhận làng nghề, tạo việc làm thường xuyên cho khoảng
4.000 lao động. Cơ cấu lao động của tỉnh đã được chuyển dịch theo hướng
giảm lao động ở khu vực nông thôn, tăng lao động làm việc trong công
nghiệp và dịch vụ. Năm 2006 tỉ lệ lao động làm việc trong khu vực nông lâm
ngư nghiệp là 77% đến năm 2010 đã giảm xuống còn 67,45%; Lao động trong
công nghiệp và xây dựng cơ bản từ 9% năm 2006 tăng lên 12,5% năm 2010 và
lao động trong lĩnh vực dịch vụ đã tăng từ 14% năm 2006 lên 16,,8% năm 2010.
+ Tạo việc làm qua quĩ quốc gia hỗ trợ việc làm: Bằng nguồn vốn
chương trình mục tiêu quốc gia, từ năm 2006 đến 2010, mỗi năm tỉnh đã triển
khai trên 100 dự án cho vay giải quyết việc làm với số tiền trên 40 tỷ đồng,
giải quyết việc làm ổn định cho khoảng 30.000 lao động [40, tr.3].
+ Công tác xuất khẩu lao động được chỉ đạo triển khai có hiệu quả.

Bên cạnh việc áp dụng chính sách hỗ trợ kinh phí đào tạo ngoại ngữ, giáo
dục, định hướng cho vay vốn tín dụng, thực các chính sách khuyến khích, thu
hút các đơn vị xuất khẩu lao động, tỉnh đã chỉ đạo các huyện, thành thị, xây
dựng được nhiều mô hình liên kết xuất khẩu lao động có hiệu quả giữa chính
quyền xã phường, thị trấn với các doanh nghiệp và đơn vị cung ứng xuất
khẩu lao động. Tính đến ngày 31 tháng 12 năm 2007 trên địa bàn tỉnh đã có
38 đơn vị xuất khẩu lao động, gần 20.000 lao động đang làm việc có thời hạn
ở nước ngoài. Thành quả do xuất khẩu lao động mang cho các gia đình lao
động ở nông thôn ở Nghệ An nói riêng và cho toàn tỉnh nói chung là vô cùng
to lớn, góp phần giải quyết việc làm và đưa lại nguồn thu nhập từ ngoại tệ
cho tỉnh.
+ Đẩy mạnh công tác đào tạo nghề, nhất là đào tạo nghề cho lao động
nông nghiệp nông thôn, miền núi. Hiện nay tỉnh đã có 13 trường, 24 trung
tâm dạy nghề công lập và 9 cơ sở dạy nghề ngoài công lập với cơ cấu ngành
Khóa luận tốt nghiệp Đại học

25


×