Tải bản đầy đủ (.doc) (30 trang)

TIỂU LUẬN xã hội hóa GIÁO dục và xây DỰNG xã hội học tập SUỐT đời ở nước TA

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (209.8 KB, 30 trang )

1

XÃ HỘI HÓA GIÁO DỤC VÀ XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP
HỌC TẬP SUỐT ĐỜI Ở NƯỚC TA

Giáo dục là hiện tượng xã hội đặc biệt và cũng là chức năng xã hội. Giáo
dục là một hệ thống lớn trong hệ thống xã hội, có liên quan mật thiết đến việc
hình thành và phát triển con người, nhân tố quyết định sự phát triển của xã hội
loài người. Loài người muốn duy trì và phát triển phải tuân thủ quy luật: Thế
hệ người đi trước phải truyền lại toàn bộ kinh nghiệm sống cho thế hệ đi sau.
Lớp sau tiếp thu lấy những kinh nghiệm đó biến thành tài sản của mình, làm
phong phú thêm chúng, để tham gia vào mọi hoạt động xã hội. Vai trò của
giáo dục nổi bật ở các chức năng xã hội của giáo dục, đó là các chức năng
kinh tế sản xuất, chức năng chính trị xã hội và chức năng tư tưởng văn hố.
Vì vậy, quốc gia nào, dân tộc nào cũng đều hết sức quan tâm đến giáo dục.
Đảng ta khẳng định “Giáo dục là quốc sách hàng đầu”; Trong nghị
quyết Đại hội IX của Đảng chỉ rõ: “Phát triển giáo dục và đào tạo là một trong
những động lực quan trọng thúc đẩy sự nghiệp cơng nghiệp hố, hiện đại hố,
là điều kiện để phát huy nguồn lực con người - yếu tố cơ bản để phát triển xã
hội, tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững. Tiếp tục nâng cao chất lượng
giáo dục toàn diện, đổi mới nội dung, phương pháp dạy và học, hệ thống
trường lớp và hệ thống quản lý giáo dục; thực hiện “chuẩn hoá, hiện đại hoá,
xã hội hoá”. Phát huy tinh thần độc lập suy nghĩ và sáng tạo của học sinh,
sinh viên, đề cao năng lực tự học, tự hoàn thiện học vấn và tay nghề, đẩy
mạnh phong trào học tập trong nhân dân bằng những hình thức giáo dục chính
quy và khơng chính quy, thực hiện “giáo dục cho mọi người”, “cả nước trở
thành một xã hội học tập”. Thực hiện phương châm “học đi đôi với hành, giáo
dục kết hợp với lao động sản xuất, nhà trường gắn với xã hội” 1. Như vậy
Đảng ta cũng rất coi trọng vấn đề nâng cao chất lượng giáo dục - đào tạo, xây
. Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đại hội đại biểu tồn quốc lần thứ IX, Nxb Chính trị Quốc gia , Hà Nội
2001, tr.108.


1


2

dựng một xã hội học tập và đặt vấn đề này trong chiến lược phát triển bền
vững đất nước.
Vấn đề là làm thế nào để quốc sách giáo dục đi vào cuộc sống và thực
sự góp phần vào phát triển xã hội công bằng, dân chủ văn minh? nhiều bộ
môn khoa học như kinh tế học, giáo dục học, tâm lý học tham gia trả lời câu
hỏi này. Nhiều nhà nghiên cứu đã nói đến sự “ chấn hưng”, và “cải cách toàn
diện” đối với giáo dục. Các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định chính sách và
các nhà quản lý đã xây dựng chiến lược phát triển giáo dục. Các nhà làm luật
đã soạn thảo và không ngừng sửa đổi, bổ sung các văn bản pháp luật, các thày
cô giáo và các em học sinh đã ra sức dạy và học, kẻ cả “dạy thêm, học thêm”.
Các gia đình đã liên tục quan tâm tới việc học tập của con em mình kể cả tiếp
sức cho họ trên đường chạy đua vào đại học ngay từ những bước đầu tiên
chập chững đến trường. Có thể nói, hiện nay đâu đâu cũng nghe thấy các ý
kiến bàn về giáo dục. Nhưng cịn q ít, q hiếm những cơng trình nghiên
cứu xã hội học về giáo dục ở Việt Nam.
Trước tình hình đó, tác giả Lê Ngọc Hùng đã viết cuốn sách “Xã hội
học giáo dục”. Mục đích cuốn sách là trình bày một cách hệ thống những vấn
đề lý luận và thực tiễn của xã hội học giáo dục; làm sáng tỏ mối quan hệ giữa
giáo dục và xã hội, giáo dục và con người trong bối cảnh đất nước ta đang đẩy
mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Mối quan hệ song trùng này với các đặc
điểm và tính chất phức tạp của nó được xem xét thơng qua các khái niệm cơ
bản của xã hội học. Một số vấn đề thời sự của giáo dục được phân tích một
cách có chọn lọc để làm sáng rõ những giả thuyết khoa học về mối tương tác
của các yếu tố xã hội với giáo dục.
Nội dung cuốn sách được cấu trúc một cách đặc biệt gồm: Lời nói đầu;

chín chương; danh mục tài liệu tham khảo. Đặc biệt, sau mỗi chương tác giả
đưa ra những “câu hỏi cùng suy nghĩ”. Điều này có thể tạo ra tình huống thảo
luận ngay trong sách và qua đó tác giả có điều kiện cùng trao đổi cùng bạn
đọc quan tâm tìm hiểu giáo dục với tư cách là một hiện tượng xã hội.


3

Trong khuôn khổ thu hoạch chúng tôi chỉ nêu một cách khái lược nhất những
vấn đề tác giả đã nêu trong các chương, đi sâu làm rõ hơn nội dung “Xã hội
hóa giáo dục và xây dựng xã hội học tập, học tập suốt đời ở nước ta”.
NỘI DUNG
PHẦN THỨ NHẤT
KHÁI LƯỢC NHỮNG NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA TÁC PHẨM

I. Chương 1. Những cơ sở nghiên cứu xã hội học
Trong chương này tác giả trình bày những cơ sở nghiên cứu xã hội làm
tiền đề cho việc nghiên cứu đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu của xã hội học
giáo dục phần sau. Tác giả đi từ khái niệm xã hội học; lược sử xã hội học, trả
lời câu hỏi xã hội học ra đời khi nào? và tại sao xã hội học ra đời, phát triển ở
phương Tây? và rút ra bài học lịch sử xã hội học là sự phát triển khoa học nói
chung và xã hội học nói riêng ln gắn liền với sự biến đổi xã hội và hướng
vào phục vụ sự tiến bộ xã hội. Chỉ trong bối cảnh lịch sử xã hội cụ thể và với
nỗ lực nghiên cứu của các nhà khoa học đầy tài năng thì xã hội học mới có thể
phát triển mạnh và tạo ra những đóng góp nhất định vào công cuộc đổi mới
kinh tế xã hội đất nước theo hướng cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Tác giả
cũng đã nêu sơ lược các chủ thuyết xã hội học hiện đại; Nhưng cơng trình
nghiên cứu xã hội học nổi tiếng, các tác giả tiêu biểu. Tác giả phấn tích cơ cấu
ngành và cấp độ nghiên cứu xã hội học. Tóm lại, các nhà xã hội học đều nỗ
lực tìm câu trả lời cho những câu hỏi như con người có vị trí vai trị như thế

nào trong xã hội? Con người tác động như thế nào tới xã hội? Xã hội ảnh
hưởng như thế nào tới con người? Điều gì làm cho con người vừa tự do hành
động vừa có trách nhiệm đóng góp cho lợi ích chung của xã hội? Tất cả
những dạng câu hỏi như vậy đều xoay quanh vấn đề cơ bản là mối quan hệ
giữa con người và xã hội. Các lý thuyết, các trường phái, các chuyên ngành


4

xã hội học rất phong phú và đa dạng, nhưng đều thống nhất với nhau ở đối
tượng nghiên cứu là các quy luật của mối quan hệ giữa con người và xã hội.
II. Chương 2. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu xã hội học giáo dục
Ở chương 2, tác giả đưa ra khái niệm xã hội học giáo dục, và nêu lên
hàng loạt vấn đề được cho là đối tượng nghiên cứu của xã hội học giáo dục
được cụ thể hóa qua các câu hỏi và vấn đề nghiên cứu nhất định. Tác giả cũng
đã lược sử xã hội học giáo dục từ nửa cuối thế kỷ 19 đến đầu thế kỷ 21; làm
rõ nhiệm vụ nghiên cứu và phương pháp nghiên cứu xã hội học giáo dục.
Đồng thời tác giả rút ra kết luận: Giáo dục và đào tạo của Việt Nam còn cố
nhiều vấn đề như hiện nay một phần là do các nghiên cứu khoa học về giáo
dục, trong dó có giáo dục học và xã hội học giáo dục, chưa phát triển ngang
tầm với yêu cầu của xã hội. Giáo dục học có xu thế là tập trung vào những
vấn đề thuộc phạm vi nội bộ của giáo dục nhưng có thể xem nhẹ những vấn
đề nằm ngoài phạm vi hệ thống giáo dục. Xã hội học giáo dục có thế mạnh là
ln xem xét giáo dục trong mối liên hệ với xã hội có thể bổ sung tri thức cho
khoa học về giáo dục. Điều quan trọng là khoa học, nhất là đối với giáo dục
học và xã hội học giáo dục, không theo đi sự phát triển, mà phải phân tích
thực tế để có thể đa ra các dự báo khoa học. Về điều này, có thể nói, chất lượng, năng suất và hiệu quả nghiên cứu khoa học nói chung và xã hội học giáo
dục nói riêng phụ thuộc nhiều vào cách thức và phương pháp nghiên cứu cụ
thể. Vấn đề không chỉ là nghiên cứu cái gì, mà là nghiên cứu như thế nào, vận
dụng lý thuyết nào, sử dụng phương pháp tư duy nào, áp dụng phương pháp

và kỹ thuật nào để thu thập, xử lý phân tích thơng tin nhằm làm rõ mối quan
hệ giữa giáo dục với xã hội và con người. Trong quá trình tìm kiếm câu trả lời
cho những câu hỏi như vậy, xã hội học giáo dục góp phần thúc đẩy phát triển
khoa học xã hội học và các khoa học lân cận về giáo dục.
III. Chương 3. Vị trí và vai trị của xã hội học giáo dục


5

Trong chương này Tác giả Lê Ngọc Hùng đã phân tích vị tí và vai trị
của xã hội học giáo dục trong hệ thống các khoa học xã hội và nhân văn như:
Xã hội học và giáo dục học; quan hệ của xã hội học giáo dục với tâm lý học
và tâm lý học giáo dục; quan hệ của xã hội học giáo dục với kinh tế học.
Đồng thới tác giả làm rõ vai trò, đặc trưng của nghiên cứu xã hội học giáo dục.
Các nghiên cứu xã hội học về giáo dục có thể khác nhau về cơ sở lý thuyết,
cách tiếp cận và cấp độ phân tích. Nhưng các nghiên cứu xã hội học giáo dục
đều giống nhau, thống nhất với nhau ở chỗ cùng hướng tới làm sáng tỏ mối
quan hệ giữa giáo dục với xã hội và giáo dục với con người. Có thể nói, tất cả
những nghiên cứu nào sử dụng lý thuyết, phạm trù, khái niệm và phương pháp
luận, phương pháp khoa học vào tìm hiểu mối quan hệ xã hội - giáo dục - con
người thì đều thuộc về lĩnh vực xã hội học giáo dục. Tác giả rút ra kết luận về
tính độc lập tương đối của xã hội học giáo dục. Là một chuyên ngành, xã hội
học giáo dục có vị trí tương đối độc lập trong hệ thống các bộ môn khoa học xã
hội và nhân văn. Nhờ vậy mà xã hội học giáo dục có mối liên hệ mật thiết với
các bộ môn khoa học khác như giáo dục học, tâm lý học, kinh tế học. Trong
mối quan hệ như vậy xã hội học giáo dục học tập được nhiều khái niệm, phạm
trù và phương pháp nghiên cứu cần thiết để áp dụng vào tìm hiểu những vấn đề
xã hội của giáo dục. Hội nhập nhưng khơng hồ tan, nghiên cứu xã hội học
giáo dục đặc trưng bởi các khái niệm, phạm trù, lý thuyết và phương pháp tiếp
cận riêng để làm rõ mối quan hệ giữa giáo dục và xã hội, giáo dục và con

người.
IV. Chương 4. Hệ thống xã hội và hệ thống giáo dục
Ở chương này tác giả đã giới thiệu cách tiếp cận hệ thống xã hội và xem
xét hệ thống giáo dục trong bối cảnh lịch sử và những vấn đề của hệ thống
giáo dục Việt Nam. Từ việc phân tích khái niệm xã hội, hệ thống xã hội, hệ
thống giáo dục; lược sử hệ thống giáo dục Việt Nam trong thời kỳ Bắc thuộc,
trong thời kỳ phong kiến Việt Nam, trong thời kỳ Pháp thuộc đến làm rõ


6

những vấn đề của hệ thống giáo dục quốc dân hiện nay đồng thời tác giả cũng
đã đưa ra một số vấn đề hệ thống giáo dục quốc dân. Trong đó xã hội học
giáo dục chủ yếu quan tâm phát hiện những vấn đề thuộc về hệ thống giáo
dục, những vấn đề đang là “lỗ hổng” của hệ thống giáo dục như: Vấn đề thứ
nhất là vị trí và vai trò của hệ thống giáo dục chưa ngang tầm với những yêu
cầu đặt ra từ sự phát triển của xã hội, mà cụ thể ở đây là vấn đề phổ cập giáo
dục. Hệ thống giáo dục quốc dân, về mặt lý thuyết, có khả năng tạo ra các cơ
hội học tập liên tục cho tất cả trẻ em gái và trẻ em trai, phụ nữ và nam giới, góp
phần tạo nên một xã hội học tập và một nền kinh tế tri thức. Trên thực tế, do hệ
thống giáo dục được thiết kế một cách thiếu tầm nhìn xa, thiếu tầm chiến lược
nên giáo dục chậm rãi tiến từng bước một, đầu tiên là phổ cập tiểu học, tiếp đến
là phổ cập trung học cơ sở, rồi mới đến phổ cập trung học phổ thông và cuối
cùng mới phổ cập đại học. Trong khi đó hệ thống giáo dục hoạt động với một
động lực, một động cơ đầu tư của các hộ gia đình hướng vào trung học phổ
thơng và nhất là nhằm vào đại học. Có thể nói, các gia đình Việt Nam ln kỳ
vọng vào việc con cháu họ được vào đại học chứ không phải học đến một mức
nào đó thì phân luồng vào học nghề hoặc bỏ học... Việc khơng đáp ứng được
nhu cầu nào có thể gọi là một lỗ hổng của hệ thống giáo dục. Vấn đề thứ hai
của hệ thống giáo dục, do vậy, là sự hạn chế của các cơ hội tiếp cận giáo dục

đại học và giáo dục nghề nghiệp ở trình độ cao đẳng, đại học. Theo thuật ngữ
chun mơn, đây là vấn đề của hệ thống giáo dục "tinh hoa" khi chỉ một bộ
phận học sinh được học lên cao và được vào đại học. Trong khi đó, nền kinh tế
cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa và nhất là kinh tế tri thức đòi hỏi phải thiết lập
hệ thống giáo dục phổ cập trung học phổ thông, phổ cập giáo dục đại học.
Tác giả cho rằng: Vấn đề tư duy về hệ thống giáo dục chậm đổi mới
liên quan tới sự chậm trễ trong việc phát hiện và giải quyết những lỗ hổng của
hệ thống giáo dục do sự va chạm với hệ thống kinh tế thị trường gây ra. Trong
khi rất nhiều các câu hỏi về cải cách giáo dục cịn đang chờ câu trả lời thì một


7

điều rõ ràng ở đây là: sự phát triển xã hội cơng bằng, dân chủ và văn minh
đang địi hịi hệ thống giáo dục nói chung và nhà trường nói riêng phải là nơi
giáo dục, dạy học, đào tạo và tự đào tạo năng lực thực hiện mục tiêu phát triển
xã hội công bằng, dân chủ và văn minh. Là một hệ thống trong xã hội, giáo
dục phải thực hiện các yêu cầu thuộc về chức năng của hệ thống là nâng cao
dân trí, đào tạo nguồn nhân lực, bồi dưỡng nhân tài theo các ngun tắc cơng
bằng, bình đẳng xã hội, tự do, dân chủ và văn minh. Đồng thời, hệ thống giáo
dục cần phải được đầu tư phát triển để có thể khơng những đáp ứng được các
nhu cầu học tập của xã hội, mà cịn có thể vừa định hướng, vừa kéo theo sự
phát triển của xã hội. Giáo dục là quốc sách hàng đầu có nghĩa là sự phát triển
vượt trước của hệ thống giáo dục là động lực có khả năng đẩy nhanh sự tăng
trưởng kinh tế và sự phát triển bền vững của toàn bộ hệ thống xã hội. Muốn
vậy, các vấn đề thuộc về các lỗi hệ thống của giáo dục cần được phát hiện,
nghiên cứu để có thể tìm ra các biện pháp khắc phục nhằm đảm bảo cho hệ
thống giáo dục có khả năng hồn thành được các chức năng xã hội của nó.
V. Chương 5. Cấu trúc xã hội và giáo dục
Tác giả đã trình bày trong chương này các mối quan hệ giữa cấu trúc xã

hội với giáo dục, qua đó đặt cơ sở cho việc nghiên cứu thiết chế giáo dục và
vấn đề bình đẳng xã hội trong giáo dục. Quan hệ của cấu trúc xã hội và giáo
dục là quan hệ biện chứng. Khái niệm cấu trúc xã hội có thể được sử dụng
một cách "vạn năng", rất linh hoạt và năng động, chứng tỏ đây là một khái
niệm có nội dung rất phong phú, đa dạng và do vậy rất khó nắm bắt. Có thể
tóm tắt các quan niệm khác nhau về cấu trúc xã hội và giáo dục thành ba cách
tiếp cận lý thuyết chính như sau:
Thuyết mâu thuẫn dựa trên nền tảng chủ nghĩa duy vật lịch sử khẳng
định rằng cấu trúc xã hội phụ thuộc vào cấu trúc hạ tầng cơ sở gồm các điều
kiện kinh tế, các phương thức sản xuất và trao đổi của xã hội. Cấu trúc xã hội
phản ánh phương thức sản xuất của xã hội. Cấu trúc kinh tế chứa đựng yếu tố


8

mâu thuẫn về mặt lợi ích kinh tế thì cấu trúc xã hội phản ánh mối quan hệ
mâu thuẫn đó giữa các giai tầng xã hội.
Thuyết chức năng cho rằng cấu trúc xã hội là một hệ thống xã hội trong
đó các thành phần có mối liên hệ chức năng phụ thuộc lẫn nhau tạo thành một
chỉnh thể xã hội tương đối ổn định, độc lập. Nếu thuyết mâu thuẫn nhấn mạnh
mối quan hệ mâu thuẫn thậm chí đối kháng, xung đột nhau giữa các thành tố
tạo nên cấu trúc xã hội thì thuyết chức năng nhấn mạnh mối quan hệ hợp tác
giữa các thành tố của cấu trúc xã hội. Giáo dục có chức năng xã hội hóa nhằm
duy trì sự ổn định, trật tự của cấu trúc xã hội. Nền kinh tế có nhiều thành phần
trong đó có thành phần kinh tế có vốn đầu tư nước ngồi. Tương tự, trong hệ
thống giáo dục quốc dân có loại trường có vốn đầu tư nước ngồi và thu hút
những người thuộc tầng lớp giàu có trong xã hội. Thuyết tương tác cho rằng
cấu trúc xã hội là kiểu tương tác xã hội giữa các cá nhân và các nhóm người.
Các thành tố tạo nên cấu trúc xã hội ở đây là các mối tương tác mặt - đối mặt giữa các cá nhân, là các hành vi tương tác và các mối liên hệ giữa các cá
nhân. Do đó, cấu - trúc xã hội phụ thuộc vào đặc điểm cá nhân và vị thế, vai

trò của mỗi cá nhân trong xã hội. Toàn bộ cấu trúc giáo dục xoay quanh một
trục quan hệ thày - trị. Đến lượt nó, cấu trúc của giáo dục phụ thuộc vào cấu
trúc xã hội mà nó chỉ là một thành tố.
Mối quan hệ biện chứng giữa cấu trúc xã hội và giáo dục đặt ra nhiều
vấn đề cần nghiên cứu như vấn đề nguồn gốc bất bình đẳng xã hội trong giáo
dục, vấn đề chức năng của giáo dục trong duy trì trật tự và sự thống nhất xã
hội, và vấn đề chức năng của giáo dục trong tái tạo và biến đổi cấu trúc xã
hội.
VI. Chương 6. Phân hóa xã hội và bình đẳng xã hội trong giáo dục
Trong chương này tác giả đã xem xét mối quan hệ giữa thiết chế giáo
dục với một số thiết chế cơ bản của xã hội như kinh tế, pháp luật và văn hóa.
Từ khái niệm phân hóa xã hội, phân tầng xã hội; các cơ chế và các yếu tố tác


9

động tới phân hóa xã hội và phân tầng xã hội; vấn đề cơng bằng xã hội, bình
đẳng xã hội đến vấn đề cơng bằng xã hội và bình đẳng xã hội trong giáo dục;
một số hình thức bất bình đẳng xã hội trong giáo dục và những nguyên nhân
của nó...Tác giả đã tóm tắt phân tích vấn đề phân hóa và bất bình đẳng xã hội
trong giáo dục bắt đầu từ công cuộc đổi mới đất nước, công cuộc đổi mới
kinh tế đã làm xuất hiện những thành phần mới trong cấu trúc xã hội và làm
tăng sự phân hóa xã hội, phân tầng xã hội trong điều kiện kinh tế thị trường.
Giáo dục đang được định hướng vào hình thành những hệ giá trị mới như coi
trọng sự làm giàu chính đáng, phát triển tính năng động - sáng tạo, tinh thần
cởi mở, nguyên tắc phát triển - cơng bằng - bình đẳng, tự do, dân chủ - văn
minh. Tuy nhiên, hiện tượng bất bình đẳng xã hội vẫn tồn tại và thậm chí cịn
tăng lên với nhiều hình thức khác nhau, mà nổi bật nhất là sự phân hóa giàu
nghèo làm chỗ dựa cho những bất bình đẳng xã hội trong giáo dục. Các nhà
nghiên cứu sử dụng nhiều thước đo và chỉ ra những biểu hiện của sự bất bình

đẳng xã hội trong giáo dục. Cần đặc biệt chú ý tới những hiện tượng bất bình
đẳng như: số năm đi học bình quân của nữ thấp hơn nam, tỉ lệ đi học của trẻ
em dân tộc thiểu số thấp hơn dân tộc Kinh, tỉ lệ đi học trung học phổ thông và
nhất là cao đẳng, đại học của nhóm dân nghèo nhất rất thấp so với nhóm dân
giàu nhất. Những bất bình đẳng xã hội trong giáo dục thể hiện khơng chỉ ở
nhóm học sinh, sinh viên mà ở hệ thống trường giữa các khu vực công và tư
và giữa các vùng miền. Những vùng nông thơn, vùng sâu, vùng xa thường có
ít trường, ít lớp với chất lượng cơ sở và trang thiết bị dạy học yếu kém hơn
nhiều so với những vùng đồng bằng và vùng thành thị. Sự bất bình đẳng xã
hội trong giáo dục cịn biểu hiện ở khả năng tìm kiếm việc làm và sự thăng
tiến nghề nghiệp của học sinh, sinh viên xuất thân từ những nhóm gia đình
giàu nghèo khác nhau và tốt nghiệp từ những trường ở những nơi giàu nghèo
khác nhau. Các nghiên cứu về phân hóa xã hội và bình đẳng xã hội trong giáo
dục là rất quan trọng và cần thiết để cung cấp thông tin và gợi ra những suy


10

nghĩ về giải pháp đổi mới tư duy và chính sách đầu tư cho giáo dục. Nhà nước
cần tiếp tục tăng cường hỗ trợ cho các vùng nghèo, trợ cấp chi phí học tập cho
người nghèo và đồng bào dân tộc thiểu số, đồng thời quan tâm tới đầu tư giáo
dục trẻ em gái và phụ nữ, tăng cường lồng ghép giới trong giáo dục.
Tác giả khẳng định: Đây là cơ chế, chính sách thể hiện rõ vai trị chủ
đạo của Nhà nước trong thực hiện công bằng xã hội và bình đẳng xã hội trong
giáo dục nhằm đem lại lợi ích cho cả người nghèo và người giàu, phụ nữ và
nam giới, tăng trưởng kinh tế và phát triển xã hội bền vững.
VII. Chương 7. Mối quan hệ của thiết chế giáo dục với kinh tế, pháp
luật và văn hóa
Trong chương này, tác giả tập trung nghiên cứu vấn đề thiết chế xã hội,
phân loại, đặc điểm, tính chất và chức năng của thiết chế xã hội; thiết chế giáo

dục; phân tích làm rõ mối quan hệ của thiết chế giáo dục với kinh tế, văn hóa
và pháp luật. Tác giả khẳng định: Giáo dục là một thiết chế xã hội. Thiết chế
giáo dục có mối quan hệ mật thiết với các thiết chế xã hội như thiết chế kinh
tế, chính trị, pháp luật và văn hóa. Thiết chế kinh tế thị trường đòi hỏi giáo
dục phải quan tâm tới năng suất, chất lượng và hiệu quả. Dưới tác động của
kinh tế thị trường, các cá nhân, các gia đình, các tổ chức và nhất là các cán bộ
lãnh đạo quản lý giáo dục phải tính đến các quy luật kinh tế thị trường và phải
áp dụng cách phân tích kinh tế để ra các quyết định giáo dục tối ưu. Đồng thời
sự đầu tư phát triển giáo dục trong thời đại ngày nay đang tỏ ra là một hướng
đầu tư đúng đắn đem lại lợi ích lâu dài cho tăng trưởng kinh tế và phát triển
xã hội công bằng, dân chủ, văn minh. Giáo dục tuân theo chế độ chính trị,
pháp luật và dựa vào văn hóa - nền tảng tinh thần của xã hội. Trong mối quan
hệ nhiều chiều này giáo dục khơng chỉ duy trì, củng cố mà cịn góp phần phát
triển các thiết chế của xã hội và toàn bộ xã hội.
VIII. Chương 8. Dân số, gia đình và nhà trường


11

Tác giả phân tích vị trí, vai trị của giáo dục nhà trường trong mối quan
hệ với dân số và gia đình. Là một thiết chế xã hội, giáo dục rất nhạy cảm với
bất kỳ một sự biến đổi nào của quy mơ, cơ cấu và q trình dân số. Dân số
đông và trẻ sẽ tạo ra áp lực lớn đối hệ thống giáo dục. Truyền thống hiếu học
của các thế hệ ông bà, cha mẹ sẽ là một tiềm năng lớn đối với việc đưa trẻ em
tới trường. Việc các gia đình sẵn sàng đóng góp các nguồn lực để trẻ em đi
học là một động lực cho sự phát triển nền giáo dục trong xã hội còn nghèo.
Giáo dục gia đình và giáo dục nhà trường trước yêu cầu nâng cao chất lượng
dân số là rất quan trọng. Gia đình là một thiết chế cơ bản của xã hội. Trước
khi có nhà trường thì gia đình đã thực hiện chức năng giáo dục trẻ em qua đó
truyền đạt toàn bộ kinh nghiệm lịch sử xã hội từ thế hệ này sang thế hệ khác.

Từ khi xuất hiện nhà trường đến nay, giáo dục gia đình trở thành một trong
những bộ phận giáo dục quan trọng nhất của xã hội. Trước khi đến với nhà
trường, trẻ em được giáo dục trong gia đình và được gia đình tiếp tục giáo dục
cùng với nhà trường và xã hội. Gia đình đóng vai trị vơ cùng quan trọng và
khơng thể thiếu đối với sự phát triển toàn diện nhân cách con người. Giáo dục
gia đình khác với giáo dục nhà trường trên nhiều phương diện từ mục tiêu đến
nội dung và phương pháp giáo dục. Sự khác nhau đó tạo ra sự cần thiết phải
tăng cường phối hợp giáo dục gia đình với giáo dục nhà trường. Dưới áp lực
của sự gia tăng dân số và yêu cầu về nâng cao chất lượng dân số, gia dình
Việt Nam biến đổi khơng ngừng đã kéo theo sự biến đổi trong giáo dục gia
đình và quan hệ giữa gia đình với nhà trường. Trong kinh tế thị trường, gia
đình càng chủ động và tích cực đầu tư vào giáo dục để phát triển. Điều này
địi hỏi các nhà giáo dục phải tìm cách đáp ứng nhu cầu học tập từ phía gia
đình trong việc nâng cao quy mô, chất lượng và hiệu quả giáo dục nhà trường.
Đồng thời giáo dục dân số và phát triển trở thành những nội dung của giáo
dục nhà trường và giáo dục gia đình.
PHẦN THỨ HAI


12

GIÁO DỤC VÀ XÃ HỘI HÓA - XÂY DỰNG XÃ HỘI HỌC TẬP

I. Xã hội hóa cá nhân và xã hội hóa xã hội
Xã hội hóa là khái niệm được sử dụng rộng rãi trong các bộ môn khoa
học như tâm lý học, giáo dục học, kinh tế học và xã hội học. Tuy nhiên, cùng
sử dụng một thuật ngữ nhưng một số tác giả này nhấn mạnh nội dung xã hội
hóa cá nhân và một số tác giả khác nhấn mạnh nội dung xã hội hóa các hoạt
động hay sự kiện nhất định của xã hội. Để tránh sự nhầm lẫn khơng cần thiết
về thuật ngữ, có thể sử dụng một cách phân biệt hai khái niệm: "xã hội hóa cá

nhân" và "xã hội hóa xã hội".
Xã hội hóa cá nhân là quá trình biến cá thể người thành cá nhân và
thành nhân cách. Với nội dung này, xã hội hóa cá nhân bao gồm cả giáo dục
và các q trình học tập.
Xã hội hóa xã hội là q trình biến những hành vi, hoạt động có tính đơn lẻ,
khu biệt của cá thể, tư nhân hay nhân, tổ chức xã hột thành nnhững hành vi, hoạt
động có tính xã hội với sự tham gia rộng rãi của các thành phần xã hội khác nhau.
Hai nội dung khái niệm nêu trên có thể được xem xét tương ứng trên hai
cấp độ xã hội hóa. Xã hội hóa cá nhân thuộc cấp độ vi mơ và xã hội hóa xã hội
thuộc cấp độ vĩ mô. Sự cần thiết phải phân biệt hai khái niệm xã hội hóa nêu
trên đã được tác giả phân tích cụ thể về cả vấn đề lý luận và thực tiễn.
Ở Việt Nam, từ sau khi đổi mới năm 1986 đến nay, khái niệm xã hội
hóa (xã hội) được chính thức sử dụng trong các văn bản chính sách, chương
trình, dự án phát triển kinh tế - xã hội. Các nhà hoạch định chính sách, các
nhà quản lý và các hoạt động thực tiễn mỗi khi nói đến xã hội hóa là nói đến
xã hội hóa xã hội, ví dụ như xã hội hóa y tế, xã hội hóa thể thao và nhất là xã
hội hóa giáo dục. Xã hội hóa trở thành một phương châm lãnh đạo quản lý.
Đồng thời, nhiều cơng trình nghiên cứu khoa học bắt đầu tập trung vào phân
tích thực trạng và xu hướng xã hội hóa những hoạt động, những lĩnh vực nhất
định của đời sống xã hội.


13

II. Các giai đoạn xã hội hóa cá nhân
Xã hội hóa là q trình chuẩn bị cho mỗi một người trở thành một
thành viên của xã hội bằng cách trang bị cho họ những tri thức, những năng
lực và những phẩm chất nhất định mà xã hội cần ở họ. Q trình xã hội hóa
diễn ra theo nhiều giai đoạn, trong đó giáo dục chỉ là một giai đoạn cơ bản và
quan trọng trong nhiều giai đoạn. Dựa vào loại hoạt động chính mà cá nhân

thực hiện, có thể phân biệt các giai đoạn chính của q trình xã hội hóa như
sau:
Giai đoạn trước khi tới trường. Trong xã hội hiện đại, đây là giai đoạn
xã hội hóa với nội dung chủ yếu là hình thành những hiểu biết, những năng
lực và kỹ năng cơ bản cần thiết để trẻ em có thể đến trường học tập. Giai đoạn
xã hội hóa này chủ yếu diễn ra trong gia đình từ lúc trẻ lọt lòng cho đến lúc
trẻ đi học nhà trẻ, mẫu giáo. Với sự ni dưỡng, chăm sóc và dạy dỗ trực tiếp
của ngời mẹ, người cha và các thành viên khác của gia đình, trẻ em được xã
hội hóa tức là được hình thành và phát triển những năng lực, những phẩm
chất và những kỹ năng cần thiết của con người.
Giai đoạn đi học. Giai đoạn xã hội hóa này chủ yếu diễn ra trong nhà
trường. Giáo dục nhà trường đóng vai trị chủ yếu đối với xã hội hóa các năng
lực, phẩm chất của thế hệ trẻ ở lứa tuổi đi học. Giai đoạn xã hội hóa này kéo
dài từ lúc vào học lớp một (6 tuổi) đến lúc hồn thành chương trình phổ cập
tiểu học (11tuổi) hoặc chương trình phổ cập trung học cơ sở (đến 15 tuổi). Cả
hai giai đoạn trên được gọi chung là giai đoạn chuẩn bị lao động.
Giai đoạn lao động. Giai đoạn này kéo dài suốt tuổi lao động (theo luật
hiện hành, từ 15 tuổi đến 55 tuổi đối với nữ và từ 15 tuổi đến 60 tuổi đối với
nam). Xã hội hóa trong giai đoạn này chủ yếu diễn ra ở nơi làm việc dư ới tác
động trực tiếp của các yếu tố môi trường lao động. Giai đoạn sau lao động.
Giai đoạn này bắt đầu từ lúc cá nhân nghỉ hưu (vào lúc 55 tuổi đối với nữ và


14

60 tuổi đối với nam) và kéo dài cho đến lúc nào tuổi thọ cho phép. Xã hội hóa
trong giai đoạn này chủ yếu diễn ra trong mơi trường ngồi cấu trúc lao động
nghề nghiệp chính thức. Các cá nhân học hỏi và thích nghi với điều kiện sống
của một người đã rời bỏ những vị thế và vai trò lao động mà họ đã từng nắm
giữ và thực hiện trong suốt lứa tuổi lao động.

III. Một số vấn đề về chức năng xã hội hóa giáo dục
Chủ thể xã hội hóa cá nhân trong phạm vi giáo dục là nhà trường mà cụ
thể và trực tiếp nhất là các thày cô giáo cùng các cán bộ nhân viên của cơ sở
giáo dục. Khách thể của quá trình xã hội hóa trong phạm vi giáo dục là học
sinh các cấp học, là sinh viên các trường cao đẳng, đại học và người học ở các
cơ sở giáo dục khác nhau. Đối tượng xã hội hóa là nhận thức, thái độ, hành vi
và các phẩm chất, năng lực của con người. Nội dung xã hội hóa cá nhân là hệ
thống các kiến thức khoa học, các năng lực và các kỹ năng hoạt động mà xã
hội mong chờ, đòi hỏi phải phát triển ở người học. Nhà trường giúp người học
tiếp biến văn hóa, lĩnh hội các giá trị chuẩn mực xã hội và chuẩn bị cho việc
đóng các vai xã hội với tư cách là một thành viên của xã hội. Nhà trường cũng
là nơi người học làm quen với đời sống xã hội thông qua tương tác với bạn bè
cùng lớp, cùng trường, các thày cô giáo và những người khác. Người học tham
gia vào các nhóm chính thức và phi chính thức trong q trình học tập ở nhà
trường. Nhờ vậy mà hình thành được thế giới nội tâm, niềm tin, thái độ, tình
cảm và “cái tơi” ở mỗi học sinh cũng như phát triển kỹ năng, kỹ xảo và kinh
nghiệm sống bổ sung cho vốn kiến thức khoa học và năng lực hoạt động do
nhà trường tạo ra. Các nghiên cứu xã hội học giáo dục đều cho thấy tác động to
lớn và sâu sắc của các trải nghiệm trong nhà trường đối với cuộc đời mỗi học
sinh.
IV. Tương tác xã hội và xã hội hóa cá nhân
Khái niệm tương tác xã hội được dùng để chỉ quá trình liên hệ và tác
động lẫn thau giữa hai hay nhiều hơn hai cá nhân. Dấu hiệu cơ bản chứng tỏ có


15

sự tương tác xã hội giữa hai cá nhân là sự thay đổi trong nhận thức, thái độ hay
hành vi của cả hai cá nhân khi họ thực hiện những hành vi, hoạt động nhất
định.

Như vậy là, khái niệm tương tác xã hội giúp ta hiểu rõ hơn về bản chất
của xã hội và bản chất của con người. Xã hội được tạo thành từ các mối liên
hệ, quan hệ và tương tác xã hội giữa các cá nhân, các nhóm. Các cá nhân chỉ
có thể bộc lộ và phát triển năng lực của mình thơng qua tương tác với người
khác, với xã hội. Tương tác xã hội là một trong hai mặt của mối quan hệ song
trùng tạo nên con người và xã hội. Mặt kia là hành động xã hội, là lao động, là
hoạt động tác động vào giới tự nhiên. Do vậy, qua phân tích khái niệm tương
tác xã hội, ta có thể hiểu rõ hơn bản chất và cơ chế xã hội hóa cá nhân. Tương
tác xã hội có thể diễn ra dưới hình thức các hành động xã hội của các cá nhân
đang hướng vào nhau. Trong trường hợp này, tương tác xã hội là hệ thống
hành động xã hội của hai hay nhiều hơn hai người. Hành động xã hội của một
cá nhân có thể khơng phải tương tác xã hội bởi vì hành động đó có thể chỉ
hướng vào những đồ vật, những đối tượng của lao động mà không phải hướng
vào một người nào khác.
Quá trình cá nhân chuẩn bị trở thành một thành viên chính thức của xã
hội gọi là quá trình xã hội hóa cá nhân. Đây là một q trình ln địi hỏi phải
có sự tương tác xã hội giữa các cá nhân, thơng qua đó mỗi cá nhân học hỏi,
tiếp thu và bộc lộ những phẩm chất, năng lực người của mình. Nhà trường có
chức năng xã hội hóa cá nhân. Giáo dục nhà trường là một cách thức tốt nhất
để tạo ra sự tương tác xã hội có lợi nhất đối với xã hội hóa cá nhân. Muốn
vậy, tương tác xã hội trong nhà trường cần phải được tổ chức theo ngun tắc
cơng bằng và bình đẳng, tự do và trách nhiệm, hợp tác và cạnh tranh, tôn
trọng lẫn nhau trước hết là giữa thày cô giáo và học sinh, sinh viên, tiếp đến
và đồng thời là giữa các cá nhân, các nhóm, các tổ chức trong hệ thống giáo
dục.


16

V. Xã hội hóa giáo dục và xây dựng xã hội học tập

Xã hội hóa giáo dục là một bộ phận của khái niệm xã hội hóa xã hội.
Đây là một khái niệm hồn tồn khác với xã hội hóa cá nhân như đã trình bày
ở trên. Xã hội hóa giáo dục là q trình xã hội vĩ mơ với nghĩa là đối tượng,
nội dung và cơ chế vận hành của nó bao quát cả một lĩnh vực hoạt động của
toàn xã hội, cả một hệ thống giáo dục quốc dân chứ không chỉ diễn ra trên cấp
độ cá nhân, nhóm nhỏ hay một cộng đồng xã hội riêng lẻ. Hiện nay, khi nói
đến xã hội hóa giáo dục là nói đến sự tham gia của xã hội vào lĩnh vực giáo
dục. Giáo dục khơng cịn là một lĩnh vực độc quyền của nhà nước mà là sự
nghiệp của toàn dân, toàn xã hội với sự tham gia của các cá nhân, các tổ chức
xã hội . Như vậy thực chất xã hội hóa ở đây là một q trình tham gia rộng rãi
của các tổ chức xã hội, gia đình và cá nhân vào thực hiện một hoạt động nhất
định nào đó mà hoạt động này trước khi bị xã hội hóa chỉ có một loại chủ thể.
Cần phân biệt xã hội hóa với tư nhân hóa. Q trình biến sở hữu nhà nước
thành sở hữu tư nhân là q trình tư nhân hóa. Khác với tư nhân hóa, xã hội
hóa nói tới q trình tham gia, q trình chia sẻ trách nhiệm và quyền lợi, chi
phí và lợi ích của tất cả các cá nhân và tổ chức xã hội vào thực hiện những
mục tiêu nhất định của xã hội.
*Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục
Khái niệm xã hội hóa giáo dục được chính thức sử dụng và đưa vào thực
tiễn ở nước ta sau khi công cuộc đổi mới kinh tế - xã hội được chính thức khởi
xướng năm 1986. Trong ngôn ngữ pháp luật "xã hội hóa giáo dục" được gọi là
"xã hội hóa sự nghiệp giáo dục" và đã được thể chế thành điều 11 của Luật
Giáo dục năm 1998 và điều 12 của Luật Giáo dục năm 2005. Cụ thể như sau:
"Điều 12. Xã hội hóa sự nghiệp giáo dục. Phát triển giáo dục, xây dựng xã hội
học tập là sự nghiệp của Nhà nước và tồn dân. Nhà nước giữ vai trị chủ đạo
trong phát triển sự nghiệp giáo dục; thực hiện đa dạng hóa các loại hình trường
và các hình thức giáo dục; khuyến khích, huy động và tạo điều kiện để tổ chức,


17


cá nhân tham gia phát triển sự nghiệp giáo dục. Mọi tổ chức, gia đình và cơng
dân có trách nhiệm chăm lo sự nghiệp giáo dục, phối hợp với nhà trường thực
hiện mục tiêu giáo dục, xây dựng môi trường giáo dục lành mạnh, an toàn"2
Như vậy là, theo quy định pháp luật, Nhà nước đóng vai trị chủ đạo
trong q trình xã hội hóa giáo dục nhằm thực hiện mục tiêu giáo dục, phát
triển giáo dục, xây dựng xã hội học tập. Xã hội hóa là q trình tham gia, phối
hợp của tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội, tổ chức chính trị - xã hội nghề nghiệp, tổ chức xã hội, tổ chức xã hội - nghề nghiệp, tổ chức nghề
nghiệp, tổ chức kinh tế, đơn vị vũ trang nhân dân và công dân Việt Nam. Xã
hội hóa giáo dục là một q trình dân chủ hóa theo phương châm "Đảng lãnh
đạo, Nhà nước quản lý, nhân dân làm chủ”. Xã hội hóa cũng phát triển từ tự
phát lên tự giác, từ thụ động lên chủ động, từ đơn giản lên phức tạp. Các tổ
chức, gia đình và cá nhân tham gia vào quá trình xã hội hóa sự nghiệp giáo
dục dưới các hình thức rất phong phú, đa dạng và với mức độ từ thấp đến cao
thông qua sự chia sẻ thông tin công khai và minh bạch, qua sự bàn bạc, thảo
luận và đóng góp ý kiến, qua việc thực hiện các chính sách giáo dục, cùng ra
quyết định và triển khai thực hiện lập kế hoạch, qua kiểm tra, giám sát, điều
chỉnh, sửa đổi và giải quyết những vấn đề nảy sinh trong sự nghiệp giáo dục.
Đối với quản lý giáo dục, xã hội hóa sự nghiệp giáo dục thể hiện rõ
nhất qua việc thực hiện cơ chế dân chủ cơ sở, quy chế dân chủ cơ sở và qua
việc hình thành phương pháp quản lý dựa vào cộng đồng. Việc nhân dân đóng
góp lao động và các nguồn lực vật chất như tiền, nguyên vật liệu là những
biểu hiện cụ thể và quan trọng của xã hội hóa giáo dục. Điều quan trọng hơn
nữa là các tổ chức, gia đình và công dân trực tiếp tham gia, chia sẻ trách
nhiệm và chi phí trong q trình ra quyết định, tổ chức triển khai và kiểm tra,
giám sát việc thực hiện các mục tiêu giáo dục.

2

Luật giáo dục và các văn bản hướng dẫn thi hành. Nxb Thống kê. Hà Nội, 2006. Tr. 12.



18

Đối với cả hệ thống giáo dục quốc dân, xã hội hóa sự nghiệp giáo dục
biểu hiện ở q trình đa dạng hóa các loại hình nhà trường cơng lập và ngồi
cơng lập và đa dạng hóa các hình thức giáo dục thường xuyên và học tập suốt
đời. Đối với cơ cấu đầu tư giáo dục, xã hội hóa giáo dục biểu hiện ở sự đa
dạng hóa các nguồn đầu tư của nhà nước, tư nhân, gia đình, các tổ chức và cá
nhân vào giáo dục. Việc thành lập các quỹ khuyến học, quỹ bảo trợ giáo dục
theo quy định của pháp luật cũng là những biểu hiện sinh động của xã hội hóa
giáo dục. Xã hội hóa giáo dục trong lĩnh vực tài chính sẽ dẫn đến sự cơ cấu lại
đầu tư của nhà nước, ví dụ như thay vì đầu tư một cách dàn trải cho giáo dục,
nhà nước sẽ tập trung vào đầu tư cho giáo dục phổ thơng. Xã hội hóa giáo dục
đại học cũng dẫn đến sự cơ cấu lại đầu tư của nhà nước theo hướng tập trung
vào những loại trường hay loại ngành đào tạo nhất định. Sự đa dạng hóa các
nguồn đầu tư giáo dục sẽ tạo điều kiện huy động nguồn lực cần thiết để phát
triển giáo dục. Đồng thời với sự đóng góp về tài chính cho giáo dục, các nhà
đầu tư sẽ có trách nhiệm kiểm tra, giám sát có hiệu quả hơn đối với các hoạt
động diễn ra trong nhà trường. Như vậy, không những quy mô giáo dục sẽ
tăng lên nhờ huy động thêm các nguồn đầu tư mà chất lượng giáo dục cũng sẽ
được cải thiện nhờ tăng cường sự kiểm sốt từ phía xã hội đối với các hoạt
động của nhà trường.
Trên cấp độ vĩ mơ, xã hội hóa thể hiện việc mở rộng hợp tác quốc tế về
giáo dục theo các nguyên tắc tôn trọng độc lập, chủ quyền quốc gia, bình
đẳng, các bên cùng có lợi. Xã hội hóa giáo dục trên cấp độ vĩ mơ biểu hiện ra
ở sự đa dạng hóa các hình thức tham gia của các tổ chức, cá nhân nước ngoài
và người Việt Nam định cư ở nước ngoài vào đầu tư, tài trợ giáo dục hoặc
trực tiếp dạy học, nghiên cứu khoa học trong các cơ sở giáo dục ở Việt Nam.
Đồng thời, người Việt Nam được khuyến khích và tạo điều kiện đi học tập,

nghiên cứu, giảng dạy ở nước ngồi.
Xã hội hóa giáo dục là một sự nghiệp rộng lớn, đầy trách nhiệm và sự
quan tâm của Đảng, Nhà nước và các cơ quan, đoàn thể, các tổ chức kinh tế,


19

xã hội và toàn dân chăm lo phát triển giáo dục và đào tạo không những chỉ
đối với thế hệ trẻ mà đối với tất cả mọi công dân Việt Nam không phân biệt
già, trẻ, nam, nữ, giàu, nghèo, dân tộc, cương vị, vị trí xã hội và dù ở đâu
(thành thị, nông thôn, vùng núi, hải đảo, các vùng khó khăn xa xơi hẻo lánh...)
ai ai muốn học, muốn học gì, muốn học bằng các nào, học như thế nào phù
hợp với hồn cảnh, năng lực của mình nhất cũng được tạo điều kiện tốt nhất
có được để học. Xã hội hóa giáo dục nhằm xây dựng một xã hội mà trong đó
mọi người dân đều được hưởng sự cơng bằng, bình đẳng, cơng khai, dân chủ
thực sự trong học tập thơng qua xã hội hóa giáo dục để xây dựng một xã hội
học tập suốt đời. Mục tiêu quan trọng và cuối cùng của xã hội hóa giáo dục
chính là xây dựng một nền giáo dục - đào tạo thực sự của dân do dân và vì
dân. Xây dựng xã hội học tập suốt đời phải là một trong những chiến lược
then chốt của giáo dục nước ta trên con đường đổi mới sự nghiệp giáo dục và
đào tạo do Đảng khởi xướng từ cuối thế kỷ trước và nó sẽ đóng vai trị rất
quan trọng trong thế kỷ XXI. Ngày nay, sự phát triển kinh tế - xã hội, công
nghệ, đặc biệt công nghệ thông tin, các điều kiện khác của xã hội là những
điều kiện hết sức thuận lợi để có thể thực hiện tốt xã hội hóa giáo dục, để góp
phần đưa sự nghiệp giáo dục - đào tạo nước ta chủ động hội nhập với khu vực
và quốc tế, đồng thời có điều kiện để truyền thống hiếu học, truyền thống tôn
sư trọng đạo khơng những được duy trì , bảo tồn và ngày càng phát triển.
Xã hội hóa giáo dục - đào tạo và học tập suốt đời gắn bó hữu cơ với
nhau và là một nhu cầu bức xúc của thị trường lao động đang biến động và
phát triển, trong đó sự trợ giúp hiệu quả của khoa học, kỹ thuật, công nghệ.

Xã hội hóa giáo dục - đào tạo và học tập suốt đời là một chiến lược quan
trọng để đạt được sự dân chủ và bình đẳng của mọi giai tầng xã hội. Nghị quyết
Hội nghị lần thứ hai Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá VIII đã chỉ rõ:
“Tạo điều kiện để ai cũng được học hành. Người nghèo được Nhà nước và
cộng đồng giúp đỡ để học tập. Bảo đảm cho những người học giỏi phát triển


20

tài năng”. Dưới sự lãnh đạo của Đảng và sự trợ giúp khuyến khích của Nhà
nước, sự ủng hộ của các tổ chức, đoàn thể và nhân dân trong cả nước trong
những năm gần đây, quy mô giáo dục - đào tạo ở nước ta đã tăng lên vượt bậc.
Số lượng dân cư Việt Nam được tiếp nhận giáo dục về các lĩnh vực chính trị,
kinh tế, văn hóa, khoa học kỹ thuật, công nghệ, kiến thức chuyên môn, kiến
thức xã hội,...đáp ứng mục tiêu nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực và bồi dưỡng
nhân tài ngày càng tăng đáng kể. Hiện nay, hơn lúc nào hết sự phát triển kinh
tế, xã hội của nước ta đang đặt ra yêu cầu ngày càng cao về số lượng và chất
lượng nguồn nhân lực trong tất cả các lĩnh vực ngành nghề. Sự chuyển dịch từ
yêu cầu số lượng sang chất lượng mà vẫn bảo đảm quy mô phát triển đáp ứng
nhu cầu học tập và đào tạo nguồn nhân lực cũng là một bài toán cần giải quyết.
Đồng thời mục tiêu phổ cập trung học cơ sở hoàn thành vào năm nay (2010)
bên cạnh việc bảo đảm cung ứng giáo dục cho các đối tượng trẻ em có hồn
cảnh khó khăn, trẻ em thiệt thòi và các đối tượng đặc biệt khác đặt ra yêu cầu
phải đẩy mạnh xã hội hóa giáo dục. Xã hội hóa giáo dục là một con đường tất
yếu để khắc phục những mâu thuẫn và đưa nền giáo dục nước ta vượt qua
những thách thức tiếp cận với trình độ giáo dục của các nước tiên tiến trên thế
giới.
* Các biện pháp tăng cường xã hội hóa giáo dục và xây dựng xã hội
học tập ở nước ta
Bản chất của xã hội hóa giáo dục là tăng cường sự tham gia của các cá

nhân, các gia đình, các nhóm, các tổ chức và cộng đồng xã hội vào thực hiện
mục tiêu phát triển giáo dục muốn vậy, cần phải tiến hành đồng bộ các giải
pháp, trong đó có các giải pháp cơ bản như sau:
Giải pháp quan trọng hàng đầu, là tuyên truyền giáo dục về luật pháp,
đường lối, chủ trương, chính sách giáo dục của Đảng và Nhà nước. Phát động
tuyên truyền sâu rộng trong toàn Đảng, toàn dân, toàn xã hội về tư tưởng học
tập suốt đời, không ngừng nâng cao nhận thức của các cấp ủy Đảng, chính


21

quyền, của nhân dân và cộng đồng về vị trí, vai trò to lớn của giáo dục - đào
tạo, thực sự coi giáo dục - đào tạo là quốc sách hàng đầu, coi đầu tư cho giáo
dục - đào tạo là đầu tư cho phát triển. Đây là điều kiện tiên quyết để thực hiện
tốt các chủ trương, chính sách liên quan đến xã hội học giáo dục - đào tạo.
Thứ hai, là đổi mới hệ thống thu thập, xử lý và phân tích thơng tin về
giáo dục. Hệ thống thơng tin về giáo dục nói chung và nhất là thông tin về số
lượng và chất lượng giáo dục Ở trong các nhà trường cịn rất yếu kém bởi vì
nhiều lý do trong đó cần kể tới căn bệnh thành tích trong giáo dục. Hệ thống
thống kê giáo dục chủ yếu thu thập thông tin về những học sinh, sinh viên đang
học tập trong nhà trường mà dường như bỏ quên một tỉ lệ lớn thanh thiếu niên
trong tuổi đi học nhưng không tới trường. Nguyên tắc "công khai", "minh
bạch" cần được tuân thủ nghiêm túc khi thực hiện các biện pháp này.
Thứ ba, là đổi mới cơ chế, chính sách quản lý nhà nước về giáo dục đào tạo; Ngành giáo dục và các ban, ngành liên quan sớm bổ sung và ban
hành các văn bản pháp quy có liên quan đến các nội dung cơ bản về xã hội
hóa giáo dục và xây dựng xã hội học tập phù hợp với hoàn cảnh và điều kiện
của các địa phương có các mức độ khó khăn khác nhau. Trước hết là các văn
bản liên quan đến thể chế và phân cấp quản lý, về tổ chức và huy động nguồn
lực cho các cơ sở giáo dục, đào tạo...phá bỏ nghững rào cản và trở ngại cả bên
trong và bên ngồi ngành Giáo dục. Đồng thời cần có những chính sách hỗ trợ

thích đáng để con em nhà nghèo, diện chính sách có đủ điều kiện tự chọn
cách học, ngành học, nơi học phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh của cá nhân.
Đa dạng hóa và tăng cường mọi nguồn lực cho giáo dục - đào tạo; có những
chính sách thu hút, khuyến khích để tất cả các tổ chức và thành phần kinh tế
trong, ngồi nước đóng góp xây dựng giáo dục trên cả hai phương diện: trách
nhiệm xã hội và sự ủng hộ hảo tâm.
Thứ tư, là nâng cao năng lực lãnh đạo, quản lý của các cơ quan nhà
nước và các tổ chức dân sự trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo. Năng lực


22

thơng tin, năng lực lựa chọn loại hình giáo dục - đào tạo tức là trường lớp,
ngành nghề đào tạo, năng lực ra quyết định, năng lực kiểm tra, năng lực giám
sát và nhiều năng lực khác rất cần được phát triển để thực hiện phương châm
"Nhà nước và nhân dân cùng làm" một cách thiết thực và có hiệu quả.
Nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên, giảng viên theo các tiêu chuẩn
chuẩn hóa, có những chính sách cụ thể để tạo động lực cho cả người dạy và cả
người học; Ngành giáo dục cần chủ động, tích cực thực hiện đổi mới về
chương trình, nội dung, phương pháp giảng dạy, học tập. Xây dựng kế hoạch
biên soạn các bộ chương trình và sách, tài liệu cho các loại hình phương thức
học tập khác nhau (bổ túc, tại chức, học từ xa, tự học...) để dáp ứng nhu cầu
cho người học.
Thứ năm, là tăng cường nghiên cứu khoa học về các vấn đề xã hội của
giáo dục và đào tạo để có thể cung cấp thơng tin và gợi mở suy nghĩ về cách
giải quyết những vấn đề đặt ra. Tạo điều kiện để các cá nhân, các gia đình,
các tổ chức có thể tham gia đóng góp ý kiến trong quá trình giáo dục và đào
tạo. Việc thường xun tìm hiểu nắm bắt ý kiến đóng góp của người dân là
cần thiết để có thể phát hiện ra những vấn đề mới và giải pháp mới đối với
giáo dục - đào tạo.

Giáo dục là một quá trình xã hội hóa cá nhân. Xã hội hóa giáo dục là
quá trình lịch sử xã hội tự nhiên địi hỏi phải được quản lý một cách khoa học
theo đúng quy luật khách quan. Cơng tác xã hội hóa giáo dục rất cần được
thực hiện trên cơ sở nhận thức khoa học về quy luật, tính quy luật, cơ chế và
điều kiện hình thành, vận động và biến đổi vị trí, vai trò của giáo dục trong xã
hội. Hiện nay, xã hội đang được đổi mới nhất là về mặt kinh tế thị trường. Do
vậy, giáo dục cũng cần được đổi mới, cơng tác xã hội hóa giáo dục cũng cần
phải được đổi mới một cách tương ứng. Việc nghiên cứu và vận dụng các quy
luật của kinh tế thị trường vào lĩnh vực giáo dục - đào tạo nói chung và xã hội
hóa giáo dục nói riêng là rất quan trọng và cần thiết. việc tăng cường học tập


23

các kinh nghiệm tốt nhất về giáo dục - đào tạo của các nước trên thế giới và
vận dụng một cách sáng tạo vào điều kiện ở Việt Nam cũng là biện pháp quan
trọng và cần thiết để phát huy nội lực của toàn xã hội vào phát triển sự nghiệp
giáo dục. Về điều này, cần khẳng định rằng truyền thống "hiếu học" là một
tiềm năng nội lực cực kỳ to lớn của dân tộc Việt Nam cần được phát huy
mạnh mẽ để phát triển xã hội bền vững.
Xã hội hóa giáo dục gắn với q trình tham gia rộng rãi của tồn xã hội
và q trình dân chủ hóa giáo dục. Do vậy, xã hội hóa giáo dục liên quan trực
tiếp tới vấn đề cấu trúc của quyền lực, vấn đề phân cấp, phân quyền trong quan
lý. Tuyên truyền, giáo dục và vận động chưa đủ mà cần thiết phải đổi mới và
phát triển thiết chế giáo dục để đảm bảo thực hiện có hiệu quả chủ trương và
các quy phạm pháp luật về xã hội hóa giáo dục. Thúc đẩy q trình xã hội hố
giáo dục theo quy luật khách quan mà khoa học phát hiện được sẽ có khả năng
kéo theo sự phát triển xã hội bền vững, công bằng, tự do, dân chủ, văn minh.
Ý NGHĨA CỦA TÁC PHẨM


Quán triệt các quan điểm, Nghị quyết của Đảng cộng sản Việt Nam
thực sự coi giáo dục - đào tạo, là quốc sách hàng đầu. Nhận thức sâu sắc giáo
dục - đào tạo cùng với khoa học và công nghệ là nhân tố quyết định tăng
trưởng kinh tế và phát triển xã hội, đầu tư cho giáo dục là đẩu tư phát triển.
Đất nước ta đang trong thời kỳ đổi mới đẩy mạnh cơng nghiệp hố, hiện
đại hố, giáo dục giữ một vị trí quan trọng trong việc nâng cao dân trí, đào tạo
nhân lực, bồi dưỡng nhân tài, góp phần vào việc xây dựng một nền kinh tế tri
thức. Cùng với quá trình phát triển về quy mơ và đa dạng hố các loại hình
giáo dục - đào tạo, chất lượng giáo dục - đào tạo, xây dựng xã hội học tập đã
và đang là mối quan tâm của toàn xã hội và đặt ra nhiều vấn đề cần nghiên cứu
giải quyết không chỉ ở phạm vi nhà trường, cơ sở đào tạo là nơi trực tiếp tạo ra
và chịu trách nhiệm về chất lượng đào tạo mà còn trong phạm vi cả nước, liên


24

quan đến vai trò chức năng cũng như nội dung phương pháp, cơ chế quản lý
nhà nước về chất lượng đào tạo của các cơ quan quản lý nhà nước về giáo dục
mà đặc biệt là các gia đình đã liên tục quan tâm tới việc học tập của con em
mình.
Đã có nhiều bộ mơn khoa học, các nhà lãnh đạo, các nhà hoạch định
chính sách và các nhà quản lý tham gia vào việc xây dựng chiến lược đổi mới,
phát triển nền giáo dục nước nhà để trả lời câu hỏi làm thế nào để quốc sách
giáo dục đi vào cuộc sống và thực sự góp phần vào phát triển xã hội. Nhưng
cịn q ít và q hiếm những cơng trình nghiên cứu xã hội học về giáo dục ở
nước ta. Tác giả Lê Ngọc Hùng là một nhà khoa học từ lâu tâm huyết và trăn
trở với nền giáo dục của nước nhà đã nắm bắt được xu thế chung của sự phát
triển xã hội và sự phụ thuộc ngày một rõ nét hơn, nhiều hơn của giáo dục vào
nó, đã cho xuất bản cuốn sách “Xã hội học giáo dục”. “Xã hội học giáo dục”
là một cuốn sách rất có giá trị về cả lý luận và thực tiễn, là kết quả nghiên cứu

và giảng dạy trong nhiều năm của tác giả về môn “Xã hội học đại cương” và
môn “Xã hội học giáo dục” cho các lớp cử nhân và cao học Quản lý giáo dục
của Khoa sư phạm Đại học Quốc gia Hà Nội và chuyên đề “Xã hội học giáo
dục” cho các lớp Cao học xã hội học của Viện Xã hội học và tâm lý lãnh đạo
quản lý, Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh. Cuốn sách đã trình bày
một cách hệ thống những vấn đề lý luận và thực tiễn của xã hội hóa giáo dục,
làm sáng tỏ mối quan hệ giữa giáo dục và xã hội, giáo dục và con người, một
vấn đề nhạy cảm và hết sức phức tạp trong bối cảnh đất nước ta đang đổi mới
đẩy mạnh cơng nghiệp hóa, hiện đại hóa. Một số vấn đề thời sự của giáo dục
được tác giả phân tích một cách có chọn lọc để làm rõ những giả thuyết khoa
học về mối tương tác của các yếu tố xã hội với giáo dục. Đồng thời trong từng
phần, sau từng nội dung tác giả đã đưa ra các giải pháp hoặc những định
hướng hết sức có giá trị và khả thi để các nhà lãnh đạo, các nhà khoa học, các
nhà hoạch định chiến lược giáo dục, các nhà quản lý tiếp tục nghiên cứu, phát


25

triển nhằm đưa nền giáo dục Việt Nam phát triển một cách vững chắc tiếp cận
với nền giáo dục của các nước tiên tiến trên thế giới để non sông Việt Nam
trở nên tươi đẹp, dân tộc Việt Nam bước tới đài vinh quang để sánh vai với
các cường quốc năm châu như Chủ tịch Hồ Chí Minh mong muốn.


×