Tải bản đầy đủ (.docx) (20 trang)

tìm hiểu chính quyền địa phương của Mỹ và bài học kinh nghiệm cho Việt Nam

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (171.6 KB, 20 trang )

I.

Quan niệm về chính quyền địa phương
Về mặt lý luận, nhìn chung chính quyền địa phương (CQĐP) thường được
hiểu là tập hợp các cơ quan thực thi quyền lực nhà nước ở địa phương nhưng
phạm vi của tập hợp này có thể rộng hay hẹp tùy theo cách quan niệm. Có tác
giả cho rằng, cơ quan chính quyền địa phương về nguyên tắc phải do nhân dân
địa phương trực tiếp bầu ra hoặc do cơ quan đại diện nhân dân ở địa phương đó
thành lập. Hiểu theo cách này CQĐP không bao gồm những cơ quan do cấp trên
bổ nhiệm hoặc chỉ định xuống.
Cách quan niệm rộng hơn thì cho rằng “CQĐP có thể chỉ là một cơ quan
hành chính được thiết lập bằng nhiều cách thức khác nhau, có thể do cơ quan
hành chính cấp trên quyết định thành lập, hay do HĐND cấp dưới bầu, hoặc
theo cách thức khác.
Ở Việt Nam, chúng ta thường tiếp cận khái niệm chính quyền địa phương
theo nghĩa hẹp, phần đông các học giả xác định chính quyền địa phương gồm
Hội đồng nhân dân và ủy ban nhân dân mà không bao gồm cơ quan xét xử và cơ
quan kiểm sát ở địa phương (song cũng có học giả cho rằng cần xem bản thân
nhân dân địa phương là một chủ thể quan trọng nhất của chính quyền địa
phương
Trong sách báo pháp lý nước ngoài do xuất phát từ nguyên tắc tổ chức
quản lý địa phương của các Nhà nước khác nhau, theo các mô hình khác nhau,
nên thường sử dụng các thuật ngữ như “quản lý địa phương”, “tự quản địa
phương” ở các nước TBCN, hoặc “Xô viết địa phương”, “các cơ quan quyền lực
và quản lý Nhà nước ở địa phương” ở Liên Xô (cũ) và các nước XHCN trước
đây. Tuy có sự khác nhau về nguyên tắc tổ chức, về cơ cấu, thẩm quyền và mối
quan hệ pháp lý giữa các cơ quan, tổ chức… trong việc thực hiện quản lý các
công việc ở địa phương của các Nhà nước là khác nhau, nhưng trong khoa học
pháp lý và thực tiễn pháp luật ở các nước khái niệm “quản lý địa phương”, “tự



quản địa phương”, “Xô viết địa phương”… ở cả các nước TBCN, cũng như các
nước XHCN đều không bao hàm tất cả các cơ quan Nhà nước được tổ chức và
hoạt động ở địa phương (ví dụ: các cơ quan tư pháp như tòa án, viện công tố
hoặc viện kiểm sát).
Nhưng khái niệm “quản lý địa phương”, “tự quản địa phương” ở Nhà nước
tư sản và khái niệm “chính quyền địa phương” ở nước ta là hoàn toàn khác nhau
về mặt nguyên tắc.
Vì khái niệm “quản lý địa phương” ở các nước TBCN được hiểu là một
dạng hoạt động hành chính được thực hiện bởi các cơ quan Nhà nước do chính
quyền cấp trên (Chính phủ) bổ nhiệm và các cơ quan tự quản địa phương do dân
chúng địa phương bầu ra.
Các cơ quan tự quản địa phương ở các nước TBCN bao gồm các cơ quan
dân cử (Hội đồng tự quản) và các cơ quan chấp hành của nó. Trong khoa học
pháp lý và thực tiễn pháp luật ở những nước này các cơ quan tự quản địa
phương không được coi là các cơ quan Nhà nước, không nằm trong hệ thống các
cơ quan quyền lực Nhà nước của Nhà nước tư sản. Những người làm việc trong
các cơ quan tự quản địa phương không được xếp vào đội ngũ công chức của Nhà
nước.
II. Tìm hiểu về chính quyền địa phương ở Hoa Kì

1. Cơ cấu tổ chức
Hiến pháp của mỗi bang quy định việc thành lập các thực thể chính quyền
địa phương. Ở tất cả các bang, những thực thể địa phương này bao gồm các
tỉnh1 và thành phố, nhưng đa số các bang cũng quy định các kiểu chính quyền


địa phương khác, bao gồm các phường, các khu vực trường học, các khu bảo
tồn, các thị trấn và các cơ quan phụ trách vận tải. Những kiểu chính quyền địa
phương đặc biệt này có cơ quan đề ra các luật lệ, cơ quan hành chính và cơ quan
thuế được quy định trong hiến pháp hoặc trong luật của bang.


Số lượng chính quyền ở Mỹ
LOẠI CHÍNH QUYỀN
Liên bang
Tiểu bang
Tỉnh
Thành phố
Thị trấn và làng
Đặc khu trường học
Các đặc khu khác

SỐ LƯỢNG
1
50
3041
19076
16734
14851
28588

1. Tự quản địa phương của Hoa Kỳ( Mỹ)

Theo Hiến pháp Mỹ năm 1787, hệ thống các cơ quan tự quản địa phương ở
Mỹ được thành lập trên cơ sở phân chia đơn vị hành chính lãnh thổ. Việc phân
chia đơn vị hành chính lãnh thổ và tổ chức các cơ quan tự quản địa phương là
những vẫn đề thuộc thẩm quyền của các Bang. Theo đó, Hiến pháp của 50 Bang
ở Mỹ đã xác định cơ cấu tổ chức hành chính đa dạng và tương ứng là những mô
hình tự quản địa phương khác nhau. Các Bang đều chia thành lãnh địa và dân cư
của các lãnh địa đó bầu ra Hội đồng lãnh địa, cơ quan quản lý và một số chức vụ
quản lý.

Mô hình tổ chức tự quản của các lãnh địa: Lãnh địa thường được chia
thành thành phố và thị xã. Bộ phận cấu thành nên thành phố là các Hội nghị dân


cư. Hội nghị dân cư bầu ra các Uỷ ban chấp hành từ 3 đến 5 thành viên để thực
hiện nhiệm vụ điều hành của thành phố. Đối với những thành phố và thị xã nhỏ,
hội nghị của toàn thể dân cư quyết định vấn đề tự quản của địa phương.
Mô hình tổ chức tự quản của các thành phố: Các thành phố được tách khỏi
các lãnh địa và hệ thống các cơ quan quản lý thành phố chủ yếu được xây dựng
theo 3 mô hình: Mô hình Thị trưởng – Hội đồng; Mô hình Hội đồng – nhà quản
lý; Mô hình Uỷ ban.
Theo Hiến pháp và các luật của Bang, hoạt động của các cơ quan tự quản
địa phương bao gồm:
- Về an ninh, trật tự xã hội: Thực hiện hoạt động tuyên truyền, phổ biến các
văn bản luật và các văn bản của các cơ quan nhà nước liên bang và của Bang
đến người dân; Lãnh đạo hoạt động của cảnh sát và các cơ quan tư pháp địa
phương; Báo cáo tình hình của địa phương lên cơ quan giám sát cấp trên.
- Về thuế và ngân sách: Cơ quan tự quản địa phương tự quyết định các
khoản thuế và các khoản thu khác của địa phương, thông qua ngân sách địa
phương.
-Về cung ứng dịch vụ công: Cơ quan tự quản địa phương có nhiệm vụ tổ
chức cung cấp các dịch vụ xã hội như: quản lý trường học, bảo trợ xã hội, chăm
sóc sức khoẻ, xây dựng nhà ở, xây dựng, sửa chữa, bảo trì các con đường ở địa
phương.
- Về quản lý tài sản địa phương: Cơ quan tự quản địa phương có quyền sở
hữu, quản lý xí nghiệp và một vài cơ sở kinh tế của địa phương.
2. Chính quyền địa phương của Hợp chủng quốc Hoa Kỳ (Mỹ)


Hệ thống chính quyền của nước Mỹ, được khởi đầu như một thử

nghiệm về tự do và dân chủ năm 1776, đã chứng tỏ là có khả năng phục hồi và
thích ứng khác thường.
Tuy thường được xếp loại như một chế độ dân chủ, Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ có thể được định nghĩa chính xác như một chính thể cộng hòa liên bang
lập hiến. Điều đó có nghĩa là gì? “Lập hiến” liên quan đến thực tế rằng chính
quyền Hoa Kỳ là chính quyền dựa trên Hiến pháp - luật tối cao của nước Mỹ.
Hiến pháp không chỉ tạo ra cơ cấu khung để thiết lập cấu trúc của Chính phủ
Liên bang và các chính quyền tiểu bang, mà còn đề ra những giới hạn đáng kể
đối với quyền hạn của các cơ quan đó. “Liên bang” có nghĩa là ở đây có cả
chính phủ quốc gia và các chính quyền của 50 tiểu bang.
2.1. Chính quyền liên bang và bang của Mỹ

Bộ máy nhà nước của Mỹ được tổ chức theo cơ chế phân quyền rất rõ
nét. Bên cạnh cơ quan thực thi quyền lập pháp và cơ quan thực thi quyền tư
pháp, cơ quan hành pháp có vai trò to lớn, trong đời sống chính trị của Mỹ. Theo
Hiến pháp và các quy định pháp luật khác, ngành hành pháp có những vai trò
chủ yếu sau:
Một là, quyền hành pháp sẽ giao cho Tổng thổng của Hợp chủng quốc
Hoa Kỳ. Như vậy Tổng thống là người đứng đầu cơ quan hành pháp, thực thi
trên thực tế các đạo luật, chính sách đã được Quốc hội thông qua.
Hai là, theo nguyên tắc phân quyền, ngành hành pháp vừa nằm trong
sự kiềm chế của ngành lập pháp, ngành tư pháp; ngược lại, ngành hành pháp
cũng có nhiềm vụ kiềm chế hoạt động của các thiết chế chính trị đó nhằm mục
đích ngăn chặn sự lạm dụng quyền lực quyền lực.


Ba là, ngành hành pháp Mỹ có nhiệm vụ tham gi vào quá trình hoạch
định chính sách.
Đứng đầu bộ máy hành pháp là Chính phủ liên bang, ngoài Tổng
thống còn có các bộ phận: nội các, các bộ, các trung tâm, các uỷ ban điều hành

độc lập, văn phòng điều hành của Tổng thống.
Cơ quan hành pháp của bang do Thống đốc bang đứng đầu. Ở các tiểu bang
khác nhau, thẩm quyền của Thống đốc là khác nhau. Thống đốc có nhiệm kỳ
ngắn (dưới 4 năm) có ít quyền hành hơn trong việc hoạch định ngân sách tiểu
bang và bổ nhiệm quan chức trong chính quyền tiểu bang. Thống đốc có nhiệm
kỳ 4 năm có quyền hành lớn hơn trong việc bổ nhiệm quan chức và sử dụng
ngân sách.
Quyền hạn, nhiệm vụ của Thống đốc bang:
- Kiểm soát cảnh sát và quân đội của bang.
- Chịu trách nhiệm thi hành một phần chứ không phải tất cả luật pháp của
bang.
- Có quyền phủ quyết từng phần dự luật ngân sách bang...
2.2. Chính quyền địa phương của Mỹ

Hiến pháp của mỗi bang quy định việc thành lập các thực thể chính
quyền địa phương. Ở tất cả các bang, những thực thể địa phương này bao gồm
các tỉnh và thành phố, nhưng đa số các bang cũng quy định các kiểu chính quyền
địa phương khác, bao gồm các phường, các khu vực trường học, các khu bảo
tồn, các thị trấn và các cơ quan phụ trách vận tải. Những kiểu chính quyền địa


phương đặc biệt này có cơ quan đề ra các luật lệ, cơ quan hành chính và cơ quan
thuế được quy định trong hiến pháp hoặc trong luật của bang.
Ở Mỹ có trên 500.000 quan chức được bầu. Trong số này dưới 8.500
người ở cấp quốc gia và cấp bang. Số còn lại là các quan chức của chính quyền
địa phương – các thành viên của hội đồng thành phố, các thành viên của ban
lãnh đạo các trường học, các thị trưởng, các quận trưởng cảnh sát và một loạt
các cá nhân khác phục vụ ở các vị trí khác nhau.
2.2.1. Chính quyền hạt


Các hạt là sự phân chia lãnh thổ cơ bản trong một bang với quy mô từ
dưới 100 km2 đến trên 200.000 km2. Trong 48 bang, các hạt còn là những thực
thể cai trị chủ yếu dưới chính quyền bang (các hạt ở Connecticut và Rhode
Island không có các chức năng của chính quyền).
Các chức năng chủ yếu của các chính quyền hạt gồm có việc ghi chép
hồ sơ (sự sinh đẻ, chết, chuyển nhượng đất v.v.) quản lý các cuộc bầu cử (bao
gồm cả việc đăng ký cử tri), xây dựng và bảo dưỡng đường xá ở địa phương và
nông thôn, quy vùng, kiến tạo việc thực thi các bộ luật và các luật (đặc biệt ở các
vùng nông thôn). Một số tỉnh còn chia sẻ trách nhiệm với bang để cung cấp
những lợi ích xã hội cho các cư dân có thu nhập thấp, giám sát và thi hành các
quy định về môi trường và xây dựng các bộ luật, theo dõi phúc lợi của trẻ em và
thực hiện các chức năng tố tụng. Ở một số bang, các hạt là các đơn vị địa lý đối
với các khu vực các trường học công, nhưng thường thì các trường có cơ cấu
hành chính riêng của mình.
Các hạt do các quan chức được dân bầu ra cai quản. Điển hình là có
một ban các giám sát viên hoặc một ủy ban của hạt, ủy ban này đề ra chính sách


và thường thì cũng thực hiện cả chức năng hành pháp. Các chức vụ được bầu
khác của tỉnh ngoài những chức vụ khác có thể còn có quận trưởng cảnh sát,
thẩm phán, thẩm phán hòa giải, kiểm tra y tế, trưởng ban quản trị, hội thẩm viên
hoặc công tố viên. Ngoài những quan chức được bầu này, nhiều hạt còn có
người quản trị chuyên nghiệp được thuê để quản lý các hoạt động chung của
chính quyền hạt.
2.2.2. Chính quyền tự trị

Các thành phố tự trị là các thành phố, thị xã hoặc làng hợp nhất trong
phạm vi hoặc độc lập của một hạt có cơ quan lãnh đạo và cơ quan thuế riêng.
Quy mô của các thành phố này gồm từ một số thị xã nhỏ với số dân dưới 100
người đến các thủ phủ lớn bao gồm một số tỉnh (như thành phố New York ).

Trách nhiệm của chính quyền tự trị gồm có an toàn công cộng, bảo
dưỡng các phố trong thành phố, các công viên và khu vui chơi, xử lý nước thải,
thu gom rác, quy vùng và xây dựng kế hoạch thực thi pháp luật, các dich vụ cứu
hỏa và cứu hộ, kiểm soát động vật, vận tải công cộng và các dịch vụ thiết yếu
khác. Các thành phố lớn có thể còn cung cấp các nhà trợ giúp, vận hành các
bệnh viện công và quản lý các chương trình phúc lợi xã hội do thành phố, bang
hoặc chính quyền liên bang tài trợ. Nhiều thành phố còn sở hữu hoặc điều hòa
các tiện ích công cộng như nước, điện, khí thiên nhiên và viễn thông.
2.2.3. Các chính quyền quận đặc biệt

Theo Cục Điều tra Dân số của Mỹ, có trên một phần ba các thực thể
chính quyền ở Mỹ được gọi là các chính quyền quận đặc biệt. Những chính
quyền này hoạt động độc lập với các chính quyền địa phương và thường được


thiết lập để phục vụ một mục đích riêng trong phạm vi một vùng địa lý cụ thể.
Các thí dụ gồm có:


Bảo vệ nguồn nước và tài nguyên thiên nhiên;



Phòng ngừa hỏa hoạn;



Cung cấp nước;




Các dịch vụ cấp cứu;



Vận tải.
Những người lãnh đạo các thực thể chính quyền này có thể được bầu
hoặc được chỉ định. Quyền của các chính quyền quận đặc biệt thay đổi rất lớn,
nhưng nhiều thực thể có cơ quan đề ra các luật lệ và cơ quan thuế. Nói chung,
hoạt động của họ được tài trợ bởi thuế bán hàng đặc biệt hoặc thuế tài sản thu
được trong phạm vi khu vực thuộc quyền hạn của họ hoặc bởi các lệ phí đánh
vào những người sử dụng các dịch vụ của họ.

3.

Ưu điểm và nhược điểm của chính quyền địa phương Mỹ.
a. Ưu điểm
-

Các chính quyền địa phương có tính tự độc lập cao và có tính tổ chức

đa dạng
- Trong mỗi khu định cư có các quận (hạt) và thị trấn, hình thành theo các
lộ trình phát triển khác nhau hầu đáp ứng các nhu cầu hành chính khác biệt.


-

Trực tiếp đáp ứng các loại nhu cầu cho người dân, cung ứng mọi thứ từ


lực lượng cảnh sát và lính cứu hoả đến luật lệ, qui định về vệ sinh, y tế, giáo
dục, giao thông công cộng và gia cư.
- Chính quyền chịu trách nhiệm trước công dân. Công dân có thể thay đổi
chính quyền thông qua các cuộc bầu cử.
b. Nhược điểm
- Chính quyền tiểu bang là định chế có ảnh hưởng lớn nhất trên đời sống
thường nhật của người dân Mỹ. Mỗi tiểu bang đều có hiến pháp, chính quyền và
luật lệ riêng. Đôi khi có những khác biệt lớn trong luật và thủ tục hành chính
giữa các tiểu bang liên quan đến những vấn đề như quyền sở hữu, tội phạm, y tế
và giáo dục.. . Gây khó khăn cho những người khác bang nếu không nắm rõ các
bước thủ tục.
- Các bộ tộc người da đỏ được xem là "các dân tộc độc lập bên trong một
quốc gia" được hưởng quyền tự trị dưới thẩm quyền liên bang, nhưng không
hoàn toàn thoát khỏi ảnh hưởng của tiểu bang. Hàng trăm luật lệ, sắc lệnh hành
pháp và vụ án đã làm thay đổi vị trí của các bộ tộc đối với chính quyền tiểu
bang, nhưng vẫn giữ hai bên tách biệt nhau. Khả năng điều hành chính quyền
của các bộ tộc là khác nhau, từ một hội đồng gọn nhẹ quản lý tất cả sự vụ của bộ
tộc cho đến một bộ máy hành chính cồng kềnh và phức tạp với các ban ngành
khác nhau. Các bộ tộc có quyền tự thành lập chính quyền với thẩm quyền đặt
vào tay các hội đồng bộ tộc, chủ tịch hội đồng được dân bầu, hoặc những thủ
lĩnh tôn giáo. Quyền công dân (và quyền bầu cử) thường được giới hạn chặt chẽ
trong vòng những người có nguồn gốc da đỏ.
- Công việc điều hành các chính quyền cực kỳ phức tạp và khó khăn khi mà
mỗi bang đều có luật riêng. Có nguy cơ xảy ra lạm quyền cao.


III.

CHÍNH QUYỀN ĐỊA PHƯƠNG Ở Việt NAM
1. Cơ cấu tổ chức

- Cấp Chính quyền địa phương gồm hai phân hệ cơ quan – cơ quan quyền
lực nhà nước ở địa phương (Hội đồng nhân dân) và cơ quan hành chính nhà
nước ở địa phương (Uỷ ban nhân dân) (Hiến pháp VN có hiệu lực từ ngày
01/01/2014).
- Chính quyền địa phương bao gồm 4 phân hệ cơ quan tương ứng đó là:
+ Cơ quan nhà nước tối cao trung ương (Quốc hội, Chính phủ, Toà án
Nhân dân tối cao, Viện Kiểm sát nhân dân tối cao).
+ Cơ quan quyền lực nhà nước ở địa phương (Hội đồng nhân dân các
cấp).
+ Cơ quan hành chính nhà nước ở địa phương (Uỷ ban nhân dân các cấp).
+ Cơ quan tư pháp (Toà án nhân dân các cấp) và cơ quan kiểm sát (Viện
kiểm sát nhân dân các cấp).
- Chính quyền địa phương được sử dụng để chỉ tổ chức và hoạt động của
hai cơ quan là Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân. chính quyền địa phương
được tổ chức ở 3 cấp tương ứng đối với các đơn vị hành chính sau đây:
+ Tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương (gọi chung là cấp tỉnh).
+ Huyện, quận, thị xã, thành phố thuộc tỉnh (gọi chung cấp huyện).
+ Xã, phường, thị trấn (gọi chung cấp xã).
a) Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh


Đây là chính quyền của các địa phương cấp tỉnh và thành phố trực thuộc
trung ương.
Ủy ban Nhân dân cấp tỉnh có từ 11 đến 17 thành viên, gồm Chủ tịch, các
Phó Chủ tịch, 1 ủy viên thư ký và các ủy viên khác. Thường trực Ủy ban Nhân
dân cấp tỉnh gồm Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, và ủy viên thư ký. Người đứng
đầu chính quyền địa phương cấp tỉnh là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân. Trên danh
nghĩa, vị trí này do Hội đồng Nhân dân tỉnh quyết định bằng bầu cử theo hình
thức bỏ phiếu. Chủ tịch Ủy ban Nhân dân tỉnh thường đồng thời là một Phó Bí
thư Tỉnh ủy. Chủ tịch Ủy ban Nhân dân của hai thành phố trực thuộc trung ương

lớn nhất là Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh sẽ đồng thời là Ủy viên Ban Chấp
hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam.
*Bộ máy giúp việc
Bộ máy giúp việc của chính quyền địa phương cấp tỉnh gồm Văn phòng ủy
ban nhân dân và các sở, ban, ngành, chia thành các khối:
+ Khối tổng hợp: Văn phòng ủy ban nhân dân, Sở Kế hoạch và Đầu tư, Sở
Nội vụ (trước kia là Ban Tổ chức chính quyền).
+ Khối nội chính: Sở Tư pháp, Ban Thanh tra. Ngoài ra, các cơ quan sau
đây chịu sự chỉ đạo theo ngành dọc, mà không trực thuộc ủy ban nhân dân:
Công an tỉnh, Tòa án Nhân dân, Viện Kiểm sát Nhân dân, Bộ Chỉ huy quân sự
tỉnh.
+ Khối lưu thông phân phối: Sở Thương mại, Sở Tài chính (trong đó có
Cục thuế, Kho bạc Nhà nước). Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành chịu
sự chỉ đạo theo ngành dọc, mà không trực thuộc ủy ban nhân dân.


+ Khối nông lâm nghiệp: Sở Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Sở Tài
nguyên và môi trường, Sở Thủy sản.
+ Khối công nghiệp: Sở Xây dựng, Sở Công nghiệp, Sở Giao thông vận tải
(hoặc Giao thông Công chính), Sở Bưu chính, Viễn thông, Sở Khoa học và công
nghệ (trong đó có Cục Tiêu chuẩn, đo lường, chất lượng).
+ Khối văn hóa xã hội: Sở Giáo dục và Đào tạo, Sở Văn hóa, Thể thao và
Du lịch, Sở Y tế, Sở Lao động, Thương binh và Xã hội, Ủy ban Dân số, Gia
đình và Trẻ em.
*Chi ngân sách
+ Chi thường xuyên: Các hoạt động sự nghiệp kinh tế, giáo dục, đào tạo, y
tế, xã hội, văn hoá, thông tin, thể dục thể thao, sự nghiệp khoa học, công nghệ và
môi trường, các hoạt động sự nghiệp khác do các cơ quan cấp tỉnh quản lý;
Quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội, phần giao cho cấp tỉnh; Hoạt động
của các cơ quan nhà nước, cơ quan Đảng cộng sản Việt Nam và các tổ chức

chính trị - xã hội cấp tỉnh; Tài trợ cho các tổ chức xã hội, xã hội - nghề nghiệp
cấp tỉnh theo quy định của pháp luật; Thực hiện các chính sách xã hội do cấp
tỉnh quản lý; Thực hiện các chương trình quốc gia do Chính phủ giao cho cấp
tỉnh quản lý; Trợ giá theo chính sách của Nhà nước; Trả lãi tiền vay và nợ gốc
cho đầu tư theo quy định trong Luật Ngân sách Nhà nước; Các khoản chi phí
khác theo quy định của Luật pháp.
+ Chi đầu tư phát triển: Đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng
kinh tế - xã hội do cấp tỉnh quản lý; Đầu tư và hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp
nhà nước.
+Chi bổ sung quỹ dự trữ tài chính.


+Chi hỗ trợ tài chính cho chính quyền cấp dưới.
Chính quyền địa phương cấp tỉnh dựa vào các nguồn thu sau để thực hiện
những trách nhiệm nói trên:
*Thuế:
Tiền cho thuế đất; Tiền cho thuê và tiền bán nhà ở thuộc sở hữu nhà nước;
Lệ phí trước bạ; Các khoản phí, lệ phí và các khoản thu khác nộp vào ngân sách
cấp tỉnh theo quy định của Chính phủ.
*Các nguồn thu khác:
Thu từ hoạt động xổ số kiến thiết; Viện trợ không hoàn lại của các tổ chức,
cá nhân ở nước ngoài trực tiếp cho cấp tỉnh theo quy định của pháp luật; Huy
động của các tổ chức, cá nhân để đầu tư xây dựng các công trình kết cấu hạ tầng
theo quy định của Chính phủ; Đóng góp tự nguyện của các tổ chức, cá nhân ở
trong và ngoài nước cho ngân sách cấp tỉnh; Thu kết dư ngân sách cấp tỉnh; Các
khoản thu khác theo quy định của pháp luật.
b). Ủy ban Nhân dân cấp huyện
Đây là chính quyền của các địa phương cấp huyện, quận, thành phố trực
thuộc tỉnh, thị xã.
- Ủy ban Nhân dân cấp huyện có từ 9 đến 13 thành viên, gồm Chủ tịch, 23 Phó Chủ tịch và các ủy viên. Thường trực Ủy ban Nhân dân cấp huyện gồm

Chủ tịch, các Phó Chủ tịch, và ủy viên thư ký. Người đứng đầu Ủy ban Nhân
dân cấp huyện là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân, trên danh nghĩa là do Hội đồng
Nhân dân huyện sở tại lựa chọn. Thông thường, Chủ tịch Ủy ban Nhân dân
huyện sẽ đồng thời là một Phó Bí thư Huyện ủy.


- Các cơ quan giúp việc của chính quyền địa phương cấp huyện thông
thường gồm các phòng, ban trực thuộc: Văn phòng ủy ban nhân dân, Phòng Tài
chính - Kế hoạch, Phòng Lao động - Thương binh và Xã hội, Phòng Tài nguyên
- Môi trường, Phòng Kinh tế và Hạ tầng, Phòng Nông nghiệp và Phát triển nông
thôn, Phòng Tư pháp, Phòng Giáo dục và Đào tạo, Phòng Văn hóa - Thông tin,
Phòng Dân tộc, Phòng Y tế, Thanh tra huyện, Phòng Nội vụ, Phòng Nội vụ, Ban
Quản lý các Dự án đầu tư và Xây dựng cơ bản.
Một số cơ quan nhà nước ở cấp huyện như Chi cục Thuế, Chi cục Thống
kê, Huyện đội, Công an huyện, v.v... không phải là cơ quan của chính quyền địa
phương cấp huyện mà là cơ quan của chính quyền trung ương đặt tại huyện
(đứng chân trên địa bàn huyện).

c). Ủy ban Nhân dân cấp xã
Đây là chính quyền của các đơn vị hành chính cấp xã, thị trấn, phường. Ủy
ban Nhân dân cấp xã là cấp chính quyền địa phương cấp cơ sở, gần dân nhất ở
Việt Nam.
- Ủy ban Nhân dân cấp xã có từ 4 đến 5 thành viên, gồm Chủ tịch, 2 Phó
Chủ tịch, 1 ủy viên quân sự và 1 ủy viên công an. Người đứng đầu Ủy ban Nhân
dân cấp xã là Chủ tịch Ủy ban Nhân dân do do Hội đồng Nhân dân của xã, thị
trấn hay phường đó bầu ra bằng hình thức bỏ phiếu kín. Thông thường, Chủ tịch
Ủy ban Nhân dân xã, thị trấn hay phường sẽ đồng thời là một Phó Bí thư Đảng
ủy của xã, thị trấn hay phường đó. Ủy ban Nhân dân cấp xã hoạt động theo hình
thức chuyên trách và không chuyên trách.



- Bộ máy giúp việc của Ủy ban Nhân dân cấp xã có các công chức; Tư
pháp - Hộ tịch, Địa chính - Xây dựng, Tài chính - Kế toán, Văn phòng - Thống
kê, Văn hóa - Xã hội, Chỉ huy Trưởng quân sự, Trưởng công an.
2.Ưu nhược điểm
Chính quyền địa phương đóng vai trò quan trọng trong việc tổ chức thực
hiện các đường lối chủtrương, chính sách của Đảng và pháp luật vào đời
sống.Nói cách khác, hệ thống chính quyền địa phương bảo đảm cho các quyền
và nghĩa vụ cơ bản của công dân được thực hiện trên thực tế.
*Hoạt động chính quyền địa phương còn bộc lộ một số hạn chế sau:
1. Tổ chức chính quyền địa phương thiếu sự chủ động, sáng tạo trong quản lý.
2. Cấp xã vẫn chưa phát huy được vai trò của cấp chính quyền cơ

sở trong thực

tiễn. Cấp xã là cấp chính quyền cơ sở nhưng không có khả năng đáp ứng các
dịch vụ công do thiếu hụt ngân sách cũng như đội ngũ cán bộ công chức chuyên
môn.
3. Bộ máy cồng kềnh, nhiều tầng nấc do mô hình chính quyền ba cấp cùng với sự

tăng lên về số lượng đơn vị ở mỗi cấp. Do đó dẫn đến không tiết kiệm chi phí
quản lý.
4. Do hoạt động tập thể nên sẽ đùn đẩy trách nhiệm trong quản lý cũng như dẫn

đến tình trạng tham nhũng, lạm quyền, quan liêu.
IV. So sánh chính quyền địa phương Hoa Kỳ và Việt Nam.

Giống nhau

Việt Nam

Hoa Kỳ
- Phân chia lãnh thổ theo đơn vị hành
chính.


Kh
ác nhau


hình
tổ
chức.

Chủ
quyền
.

- Đều do dân bầu ra các cơ quan đại diện.
Thể hiện ý chí, nguyện vọng, nhu cầu của
người dân.
-Chính quyền
-Chính quyền
địa phương theo
địa phương theo
nguyên tắc phân
nguyên tắc xã hội
quyền.
chủ nghĩa.
-CQĐP tự quản
- CQĐP đặt

không có đại diện
dưới sự giám sát
của chính quyền
chặt chẽ giữa Trung
trung ương hay chính
ương với địa
quyền bang. Cách
phương, giữa chính
thức tổ chức và quản
quyền cấp trên đối
lý do mỗi địa phương
với cấp dưới và chịu
tự quy định nên tổ
sự lãnh đạo trực tiếp
chức và thẩm quyền
toàn diện của cấp ủy
mỗi mỗi chính quyền
đảng địa phương.
cũng đa dạng, không
theo khuôn mẫu.
-Ở mỗi cấp
-Chức năng
hành chính lãnh thổ,
quản lý các CQĐP
cả ở thành thị lẫn
nói chung, chính
nông thôn đều thành
quyền tự quản địa
lập CQĐP, vừa đại
phương nói riêng

diện cho địa
thường giao cho một
phương, vừa đại
Bộ chuyên trách ở
diện cho nhà nước
Trung ương, có nơi
Trung ương, tạo
là Bộ nội vụ, có nơi
thành hệ thống thứ
là Bộ về CQĐP quản
bậc trực thuộc trên
lý.
dưới.
-Mỗi bang đều
có hiến pháp riêng,
có chủ quyền riêng
nhưng vẫn trong
khuôn khổ của hiến
pháp toàn bang.

- Không có
quyền lập pháp.


V.

Vận dụng các bài học kinh nghiệm của chính quyền địa phương Hoa Kỳ vào
cải cách hành chính tại Việt Nam.
Trong thời gian tới, chúng ta có thể rút ra một số bài học kinh nghiệm về tổ
chức chính quyền địa phương ở Mỹ để vận dụng vào điều kiện cụ thể của Việt

Nam, cụ thể là:
Thứ nhất, sự lãnh đạo, chỉ đạo kiên quyết của Đảng cầm quyền. Từ kinh
nghiệm CCHC của một số quốc gia nêu trên, ta thấy rằng sở dĩ việc tổ chức,
thực hiện CCHC tại các nước này thành công là nhờ sự kiên quyết của Đảng
cầm quyền mà đại diện là Tổng thống, Thủ tướng, Chủ tịch nước... tùy theo thể
chế chính trị tại mỗi quốc gia. Phải có quyết tâm và sự lãnh đạo quyết liệt từ
ngay cấp cao nhất của hệ thống chính trị thì cải cách mới có thể thành công.
Thứ hai, cải cách bắt đầu từ thay đổi nhận thức. Cần tạo được sự đồng
thuận, thống nhất trong quan điểm và nhận thức về cải cách của lãnh đạo và đội
ngũ cán bộ, công chức trong các cơ quan công quyền và người dân về chủ
trương, đường lối cải cách do Đảng cầm quyền lãnh đạo. CCHC làm thay đổi
nhận thức về vai trò và chức năng của nhà nước (trong bối cảnh thế giới liên tục
biến động và phát triển) từ quản lý sang hỗ trợ và phục vụ. Mục tiêu của cải
cách là lấy yêu cầu của người dân, cộng đồng và doanh nghiệp làm cơ sở cho
những quyết sách của nhà nước với phương châm phục vụ là công khai, minh
bạch và thuận lợi. Nhà nước trong giai đoạn tiếp theo nên tập trung vào 4 loại
chức năng cơ bản: điều tiết kinh tế, giám sát thị trường, quản lý xã hội và cung
ứng một phần dịch vụ công. Ngoài ra, cùng với việc tinh giản bộ máy, giảm số
lượng cán bộ, công chức là nâng cao năng lực chuyên môn, trách nhiệm với
công việc, tinh thần thái độ phục vụ người dân và chế độ đãi ngộ tương xứng và
minh bạch. Đây là tổng hợp một số các giải pháp từ nhận thức đến quan điểm và
những quy tắc, phương thức tổ chức hoạt động nhằm từng bước chuyển đổi vai


trò của nhà nước để thích hợp với yêu cầu mới của một xã hội đang phát triển
không ngừng và có xu thế hội nhập rất cao.
Thứ ba, cải cách cần được tiến hành một cách kiên trì, lâu dài và đồng bộ,
toàn diện trong toàn bộ hệ thống chính trị và hành chính. Tại quốc gia có nhiều
điểm tương đồng với Việt Nam về thể chế chính trị là Trung Quốc, cải cách
được tiến hành toàn diện tại các cơ quan lập pháp, hành pháp, tư pháp, trong đó

CCHC tại cơ quan hành pháp giữ vai quan trọng.
Thứ tư, xây dựng, đào tạo đội ngũ công chức nhà nước đủ năng lực, có khả
năng đáp ứng được các yêu cầu ngày càng cao trong giai đoạn mới. Kinh
nghiệm CCHC của các nước trên thế giới cho thấy việc xây dựng được đội ngũ
cán bộ, công chức nhà nước đủ năng lực chuyên môn, tinh thần thái độ, có trách
nhiệm trong thực hiện công vụ có vai trò rất quan trong trong thành công của cải
cách. Nhu cầu cần đáp ứng của xã hội ngày càng cao và đa dạng, vì vậy đội ngũ
cán bộ, công chức cần được thường xuyên đào tạo, nâng cao trình độ, nâng cao
năng lực thực hành, kỹ năng giải quyết các vấn đề mới mà thực tiễn luôn đặt ra.
Việc đưa ra các quyết sách phù hợp với từng ngành, từng địa phương, với từng
hoàn cảnh và điều kiện, trên cơ sở các mục tiêu chung, đòi hỏi cán bộ, công
chức phải có năng lực phù hợp và liên tục được tăng cường.
Xây dựng đội ngũ cán bộ công chức phù hợp với yêu cầu phát triển là việc
làm lâu dài, bắt đầu tư khâu tuyển dụng cán bộ, công chức cho đến đào tạo, phát
triển, đề bạt hay khen thưởng cần hợp lý, rõ ràng, minh bạch. Kinh nghiệm của
nhiều quốc gia cho thấy, chế độ đãi ngộ, thưởng phạt hợp lý là một động lực rất
lớn giúp cho cán bộ, công chức hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. Quan tâm
đến chính sách đãi ngộ đối với cán bộ, công chức, trước hết là chế độ lương,
thưởng và các điều kiện bảo đảm cho cán bộ công chức toàn tâm và có trách
nhiệm với công việc và đồng thời hoàn thiện hệ thống thể chế trong nền công


vụ, bảo đảm rõ ràng về thẩm quyền, tính trách nhiệm đối với từng vị trí, chức
danh.
Thứ năm, tăng cường đầu tư xây dựng, phát triển cơ sở kỹ thuật hạ tầng
phục vụ nền hành chính quốc gia. Trong thời đại internet, cùng với việc khoa
học kỹ thuật phát triển như vũ bão là xu thế hội nhập quốc tế thì tăng cường
đầu tư xây dựng, phát triển cơ sở kỹ thuật hạ tầng phục vụ nền hành chính cần
được coi như một trong các giải pháp quan trọng hàng đầu để nâng cao hiệu
quả, hiệu lực của BMHC nhà nước.

Thứ sáu, vận dụng các bài học kinh nghiệm, tăng cường giao lưu hợp tác
quốc tế về CCHC. Các quốc gia tiến hành cải cách nền hành chính đều nghiên
cứu kinh nghiệm quốc tế về CCHC, mặc dù không có khuôn mẫu hay trình tự
nhất định cho CCHC của từng nước, tuy nhiên việc cử các tổ chức, cá nhân đi
nghiên cứu học tập CCHC tại các quốc gia đã tiến hành cải cách để về vận dụng
vào nước mình là việc làm rất cần thiết. Ngoài ra, có thể nghiên cứu kinh
nghiệm của Ai Cập khi đã kêu gọi được nguồn vốn quốc tế (cụ thể là từ Mỹ)
phục vụ CCHC và phát triển kinh tế.



×