Tải bản đầy đủ (.pdf) (107 trang)

Rèn kỹ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 trường tiểu học đồng xuân, thị xã phúc yên, tỉnh vĩnh phúc

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (1.11 MB, 107 trang )

2

TRƯỜNG ĐẠI HỌC SƯ PHẠM HÀ NỘI 2
KHOA GIÁO DỤC TIỂU HỌC

======

NGUYỄN THỊ HƯƠNG GIANG

RÈN KĨ NĂNG ĐỌC DIỄN CẢM CHO
HỌC SINH LỚP 5 TRƯỜNG TIỂU HỌC
ĐỒNG XUÂN, THỊ XÃ PHÚC YÊN,
TỈNH VĨNH PHÚC
KHÓA LUẬN TỐT NGHIỆP ĐẠI HỌC
Chuyên ngành: Phương pháp dạy học Tiếng Việt
ở Tiểu học

Người hướng dẫn khoa học
ThS. VŨ THỊ TUYẾT

HÀ NỘI - 2016
1


LỜI CẢM ƠN
Trong quá trình nghiên cứu khóa luận này tôi đã gặp rất nhiều khó khăn,
Nhưng dưới sự hướng dẫn tận tình của cô giáo – Vũ Thị Tuyết, tôi đã hoàn
thành khóa luận với đề tài: “Rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5
trường Tiểu học Đồng Xuân, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc”. Tôi xin
chân thành cảm ơn sự giúp đỡ nhiệt tình của cô. Đồng thời tôi cũng xin gửi
lời cảm ơn chân thành đến các thầy cô trong khoa Giáo dục Tiểu học –


trường Đại học Sư phạm Hà Nội 2. Tôi cũng xin gửi tới các thầy cô và học
sinh trường Tiểu học Đồng Xuân – thị xã Phúc Yên – tỉnh Vĩnh Phúc đã tạo
điều kiện thuận lợi cho tôi trong quá trình điều tra và thực nghiệm để hoàn
thành khóa luận này.
Tôi xin chân thành cảm ơn!

Sinh viên

Nguyễn Thị Hương Giang

2


BẢNG KÍ HIỆU VIẾT TẮT

NXB

: Nhà xuất bản

ĐHSP

: Đại học Sư phạm

SGK

: Sách giáo khoa

TV

: Tiếng Việt


T

: Tập

GV

: Giáo viên

HS

: Học sinh

Tr

: Trang

3


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU ........................................................................................................... 1
1. Lí do chọn đề tài......................................................................................... 1
2. Lịch sử vấn đề ............................................................................................ 2
3. Mục đích nghiên cứu.................................................................................. 4
4. Nhiệm vụ nghiên cứu ................................................................................. 4
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu ................................................................. 5
6. Phương pháp nghiên cứu ........................................................................... 5
7. Cấu trúc khóa luận ..................................................................................... 5
NỘI DUNG ....................................................................................................... 7

CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA HOẠT
ĐỘNG ĐỌC DIỄN CẢM TRONG GIỜ TẬP ĐỌC Ở TRƯỜNG .................. 7
TIỂU HỌC ........................................................................................................ 7
1.1. Cơ sở lí luận ............................................................................................ 7
1.1.1. Những hiểu biết cơ bản về việc đọc ................................................. 7
1.1.1.1. Đọc là gì? .................................................................................... 7
1.1.1.2. Ý nghĩa của việc đọc .................................................................. 8
1.1.1.3. Nhiệm vụ của dạy đọc ở Tiểu học ............................................ 10
1.1.2. Những hiểu biết cơ bản về đọc diễn cảm........................................ 11
1.1.2.1. Quan niệm về đọc diễn cảm ..................................................... 11
1.1.2.2. Bản chất của đọc diễn cảm ....................................................... 12
1.1.2.3. Đọc diễn cảm các văn bản nghệ thuật ...................................... 13
1.1.3. Cơ sở sinh lí học và tâm lí học của đọc diễn cảm .......................... 14
1.1.4. Cơ sở ngôn ngữ học của đọc diễn cảm ........................................... 16
1.1.5. Cơ sở giao tiếp của đọc diễn cảm ................................................... 21
1.1.6. Vai trò của đọc diễn cảm với sự hình thành và phát triển nhân cách
học sinh tiểu học ....................................................................................... 22
1.2. Cơ sở thực tiễn ...................................................................................... 24

4


1.2.1. Nội dung chương trình và phân bố thời lượng của phân môn Tập
đọc lớp 5.................................................................................................... 24
1.2.2. Thực trạng dạy học Tập đọc ở lớp 5 trường Tiểu học Đồng Xuân,
Phúc Yên, Vĩnh Phúc ................................................................................ 34
1.2.2.1. Thực trạng của việc dạy Tập đọc.............................................. 34
1.2.2.2. Thực trạng đọc diễn cảm của học sinh ..................................... 36
1.2.3. Nguyên nhân đọc sai, đọc chưa diễn cảm của học sinh trường Tiểu
học Đồng Xuân, Phúc Yên, Vĩnh Phúc .................................................... 37

CHƯƠNG 2. BIỆN PHÁP RÈN KĨ NĂNG ĐỌC DIỄN CẢM CÁC VĂN
BẢN NGHỆ THUẬT CHO HỌC SINH LỚP 5 TRƯỜNG TIỂU HỌC
ĐỒNG XUÂN, THỊ XÃ PHÚC YÊN, TỈNH VĨNH PHÚC .......................... 41
2.1. Luyện đọc thành tiếng ........................................................................... 41
2.1.1. Luyện chính âm .............................................................................. 41
2.1.1.1. Chữa lỗi phát âm bằng biện pháp luyện tập theo mẫu ............. 41
2.1.1.2. Chữa lỗi phát âm bằng biện pháp phân tích cấu âm ................. 42
2.1.1.3. Chữa lỗi phát âm bằng âm trung gian ...................................... 43
2.1.1.4. Phương pháp luyện theo mẫu kết hợp với phân tích cấu âm ... 44
2.1.2. Luyện cách ngắt, nghỉ hơi đúng...................................................... 46
2.1.3. Xác định giọng điệu tác phẩm ........................................................ 53
2.1.4. Luyện đọc đúng ngữ điệu ............................................................... 54
2.1.5. Thể hiện nét mặt và điệu bộ đúng với nhân vật trữ tình ................. 61
2.2. Thể hiện mối quan hệ giao tiếp với người nghe ................................... 62
2.3. Rèn kĩ năng đọc diễn cảm theo đặc trưng thể loại ................................ 64
2.3.1. Đọc diễn cảm các văn bản thơ ........................................................ 65
2.3.1.1. Đọc rõ tiếng, rõ lời và đúng chính âm ...................................... 65
2.3.1.2. Ngắt giọng biểu cảm ................................................................. 66
2.3.1.3. Ngữ điệu phù hợp ..................................................................... 67
2.3.2. Đọc các tác phẩm tự sự (truyện ngắn) ............................................ 68
2.3.3. Đọc diễn cảm các văn bản kịch ...................................................... 70

5


2.4. Tạo ra kích thích để học sinh đọc diễn cảm.......................................... 73
2.5. Sử dụng đồ dùng dạy học...................................................................... 75
2.6. Đọc diễn cảm trong các hoạt động khác .............................................. 75
2.7. Tổ chức luyện đọc diễn cảm ................................................................. 77
2.8. Một số bài tập luyện kĩ năng tập đọc cho học sinh tiểu học ................. 78

2.8.1. Bài tập luyện đọc thành tiếng ......................................................... 78
2.8.2. Bài tập dạy đọc hiểu........................................................................ 79
CHƯƠNG 3. THỰC NGHIỆM SƯ PHẠM ................................................... 85
KẾT LUẬN ..................................................................................................... 99
TÀI LIỆU THAM KHẢO ............................................................................. 100

6


MỞ ĐẦU
1. Lí do chọn đề tài
Tập đọc là một phân môn quan trọng, có ý nghĩa to lớn trong chương
trình môn Tiếng Việt ở Tiểu học. Đọc là hoạt động chuyển hóa chữ viết thành
âm thanh. Đọc là hoạt động giúp học sinh chiếm lĩnh được tri thức. Nó không
chỉ là công cụ để các em học tập môn Tiếng Việt mà còn là công cụ để học tốt
các môn học khác. Phân môn Tập đọc rèn cho học sinh kĩ năng đọc ngày càng
thành thạo, trau đồi vốn tiếng Việt, vốn văn học, mở rộng sự hiểu biết trong
cuộc sống, giáo dục mĩ cảm, bồi dưỡng tư tưởng tình cảm, tâm hồn cho học
sinh, làm cho học sinh yêu tiếng Việt, yêu cái đẹp. Mục tiêu của tiết Tập đọc
là học sinh hiểu nội dung và đọc diễn cảm bài tập đọc. Muốn đọc được diễn
cảm trước tiên phải đọc đúng.
Đọc đúng là đọc đúng chính âm, không đọc theo ngôn ngữ địa phương.
Ngoài ra đọc đúng còn có ý nghĩa là đọc đúng ngữ điệu, bao gồm lên giọng,
xuống giọng, nhấn giọng, ngắt nghỉ hơi đúng dấu câu, đúng chỗ, đúng giọng
đọc... Đọc đúng còn là đúng về ý nghĩa, nội dung từ, câu, đoạn, bài. Để giúp
cho bài đọc không khô khan giọng đọc của mỗi câu, mỗi bài, mỗi đoạn mang
một sắc thái riêng. Việc định ra được giọng đọc là kết quả của quá trình tìm
hiểu và cảm thụ bài. Do đó giáo viên không chỉ rèn cho các em đọc đúng, mà
còn phải giúp các em tìm hiểu nội dung của bài văn, thấy được giá trị, cái hồn
của tác phẩm. Một khi hiểu được nội dung của bài thì các em sẽ có giọng đọc,

ngữ điệu sẽ bộc lộ được cảm xúc của các em đối với bài học.
Đối với học sinh lớp 5, khi học phân môn Tập đọc, các em được làm
quen và tiếp xúc với nhiều loại văn bản khác nhau như: Văn bản nghệ thuật,
báo chí, khoa học... Trong văn bản nghệ thuật có cả trích đoạn, kịch, thơ, văn
xuôi... với số lượng chữ khá nhiều và yêu cầu cao hơn về tốc độ đọc tối thiểu

1


khoảng 120 tiếng/phút. Vậy làm thế nào để học sinh đọc đúng, đọc hay theo
yêu cầu của phân môn?
Theo chương trình Sách giáo khoa mới, bước luyện đọc đúng, đọc hay
cho học sinh đã được chú trọng hơn, tới hơn 1/2 thời lượng của tiết học dành
cho việc luyện đọc cho học sinh. Trong đó chủ yếu là công việc của các em
như: đọc thành tiếng, đọc thầm, đọc nối tiếp, đọc cá nhân, đọc theo nhóm...
Vậy người giáo viên phải làm gì, hướng dẫn học sinh như thế nào, sử
dụng vốn thời gian đó ra sao để đạt được kết quả tốt nhất khi dạy đọc cho các
em? Và giáo viên phải vận dụng phương pháp dạy học như thế nào để giúp
các em đạt được những yêu cầu cơ bản trên?
Để tìm lời giải đáp cho những thắc mắc này, chúng tôi quyết định chọn
vấn đề “Rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5 trường Tiểu học
Đồng Xuân, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc” làm đề tài nghiên cứu nhằm
tìm ra những biện pháp giúp học sinh đọc đúng, đọc hay, nâng cao chất lượng
tiết Tập đọc lớp 5.
2. Lịch sử vấn đề
Trong những năm 60, 70 của thế kỉ XX có rất nhiều giáo trình nói về đọc
diễn cảm. Các tác giả của các công trình nghiên cứu chia làm hai hướng. Một
hướng theo khuynh hướng ngữ văn, cho rằng nhiệm vụ chính của đọc diễn
cảm là nâng cao trình độ ngôn ngữ văn hóa của học sinh và làm cho các giờ
học tiếng mẹ đẻ trở nên sinh động. Còn hướng thứ hai đi theo khuynh hướng

nghệ thuật tâm lý. Họ cho rằng đọc diễn cảm là nghệ thuật đọc và cho rằng
nhiệm vụ hàng đầu là giáo dục thẩm mĩ.
Tác phẩm thể hiện khuynh hướng nghệ thuật – tâm lí điển hình nhất là
tác phẩm của E.V.Iagovixki Đọc diễn cảm là một phương tiện giáo dục thẩm
mĩ (Lêningrat 1963, xuất bản lần thứ hai). Đó là một tác phẩm nghiên cứu âm

2


thanh và ngữ điệu của ngôn ngữ trong các giờ học tiếng Nga (Maxcơva,
1959).
Quyển sách của L.A Gorbusina Đọc diễn cảm và kể chuyện của các thầy
giáo (Mát – cơ – va) dành cho thầy giáo cấp I, tác phẩm đề cập đến kĩ thuật
đọc, các quy tắc phát âm chuẩn mực, các thành phần của ngữ điệu, vấn đề đọc
diễn cảm và các hình thức kể chuyện khác nhau.
Tác giả Lê Phương Nga trong cuốn Phương pháp dạy học Tiếng Việt ở
Tiểu học (2006) NXB ĐHSP Hà Nội cho rằng: “Đọc diễn cảm ở đây được
hiểu là đọc hay, là một yêu cầu đặt ra khi đọc các ngôn ngữ văn chương hoặc
các yếu tố của ngôn ngữ văn chương.”
Đọc diễn cảm phản ánh cách hiểu các văn bản nghệ thuật và việc hiểu
những tác phẩm này chính là cơ sở để đọc diễn cảm. Vì vậy để đọc diễn cảm
trước hết phải xác định nội dung, ý nghĩa của bài đọc, sắc thái tình cảm, cảm
xúc, giọng điệu nói chung của bài.
Trong cuốn Phương pháp đọc diễn cảm (2007), NXB ĐHSP Hà Nội,
tác giả Hà Nguyễn Kim Giang đã khẳng định: "Đọc diễn cảm, hoạt động đọc
nói chung là hoạt động lao động sáng tạo. Đọc diễn cảm nói chung là một
quá trình tiếp nhận văn bản viết và quá trình thông báo, truyền đạt những văn
bản viết thành văn bản đọc. Đó là quá trình tái tạo, chuyển đổi nội dung ý
nghĩa nghệ thuật của văn bản thành âm thanh, nhịp điệu, tốc độ, sự ngừng
nghỉ và sắc thái thẩm mĩ, cảm xúc thẩm mĩ và thái độ thẩm mĩ của người đọc"

Trên tạp chí Văn học tuổi trẻ số 9/(2006) NXB GD, có đoạn viết:
"Muốn đọc diễn cảm một văn bản phải lựa chọn được giọng điệu, ngữ điệu
phù hợp với tình huống miêu tả, thể hiện được tình cảm, thái độ, đặc điểm của
nhân vật hay tình cảm, thái độ của tác giả với nhân vật và nội dung miêu tả."
Việc nghiên cứu phương pháp rèn luyện kĩ năng đọc diễn cảm cho học
sinh ở bậc Tiểu học không còn là vấn đề mới mẻ, nó đã được đề cập khá

3


nhiều trên các bài báo, tạp chí, trong các công trình khoa học và các cuốn sách
như: Rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh tiểu học – Nguyễn Trọng Hoàn,
Nguyễn Thị Thu Hương; Dạy học Tập đọc ở Tiểu học – Lê Phương Nga; Tìm
vẻ đẹp ở bài văn ở Tiểu học – Nguyễn Trí, Nguyễn Trọng Hoàn; trên tạp chí:
Dạy và học ngày nay (số 7/2008); Dạy học Tập đọc ở lớp 4 và việc hướng dẫn
học sinh đọc đúng chỗ ngắt giọng; hay Báo văn học và tuổi trẻ (số 9/ (123) –
2006); các cuốn Hỏi đáp về dạy học Tiếng Việt – Nguyễn Minh Thuyết; các
chuyên đề Rèn kĩ năng đọc diễn cảm của các giáo viên Tiểu học; các cuốn
khóa luận tốt nghiệp với đề tài “Rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh tiểu
học” – Phạm văn Cường: T.S Lê Lan Anh (hướng dẫn khoa học), “Rèn kĩ
năng đọc diễn cảm các văn bản nghệ thuật cho học sinh tiểu học” – Nguyễn
Thị Lý: Đỗ Huy Quang (hướng dẫn khoa học),...
Mỗi ý kiến, quan niệm, công trình nghiên cứu đều đề cập sâu sắc đến
một khía cạnh nhất định, tuy nhiên không có phương pháp nào là khuôn mẫu
và tuyệt đối cho mọi đối tượng học sinh.
3. Mục đích nghiên cứu
 Tìm hiểu sâu hơn về các biện pháp rèn đọc đúng, đọc hay cho
học sinh lớp 5 theo phương pháp dạy học mới.
 Đề xuất một số biện pháp góp phần nâng cao chất lượng đọc
đúng, đọc hay cho học sinh lớp 5 theo phương pháp dạy học mới.


4. Nhiệm vụ nghiên cứu
 Tìm hiểu cơ sở lí luận của đọc diễn cảm.
 Tìm hiểu thực trạng của dạy đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5
trường Tiểu học Đồng Xuân, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.

4


 Đề xuất một số biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh
lớp 5 trường Tiểu học Đồng Xuân, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
 Tổ chức dạy thử nghiệm một số giờ Tập đọc.
5. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu
5.1. Đối tượng nghiên cứu
Hoạt động dạy đọc trong giờ Tập đọc và biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn
cảm cho học sinh lớp 5 trường Tiểu học Đồng xuân, thị xã Phúc Yên, tỉnh
Vĩnh Phúc.
5.2. Phạm vi nghiên cứu
Đề tài này nghiên cứu kĩ năng đọc diễn cảm của học sinh lớp 5 trường
Tiểu học Đồng Xuân, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc.
6. Phương pháp nghiên cứu
 Phương pháp nghiên cứu lí thuyết
 Phương pháp nghiên cứu thực tiễn


Phương pháp quan sát, điều tra, khảo sát



Phương pháp phân tích




Phương pháp thống kê



Phương pháp hệ thống

 Phương pháp thực nghiệm

7. Cấu trúc khóa luận
Ngoài phần Mở đầu và phần Kết luận, phần Nội dung khóa luận gồm 3
chương:
Chương 1: Cơ sở lí luận và cơ sở thực tiễn của hoạt động đọc diễn cảm
trong giờ Tập đọc ở trường Tiểu học

5


Chương 2: Biện pháp rèn kĩ năng đọc diễn cảm cho học sinh lớp 5
trường Tiểu học Đồng Xuân, thị xã Phúc Yên, tỉnh Vĩnh Phúc
Chương 3: Thực nghiệm sư phạm

6


NỘI DUNG
CHƯƠNG 1. CƠ SỞ LÍ LUẬN VÀ CƠ SỞ THỰC TIỄN CỦA HOẠT
ĐỘNG ĐỌC DIỄN CẢM TRONG GIỜ TẬP ĐỌC Ở TRƯỜNG

TIỂU HỌC
1.1. Cơ sở lí luận
1.1.1. Những hiểu biết cơ bản về việc đọc
1.1.1.1. Đọc là gì?
Suốt thời gian học tập từ nhỏ đến lớn, học sinh sử dụng hoạt động đọc
nhiều nhất. Các em đọc bài học, đọc bài ghi, đọc sách giáo khoa, đọc truyện,
đọc bài tập, đọc sách báo, đọc báo cáo trong các cuộc hội thảo… Khi lớn lên,
học tập và hoạt động trong mỗi ngành nghề lại có hoạt động đọc khác nhau.
Có người nhìn vào tấm phim để đọc (bác sĩ nhìn vào tấm phim chụp X
quang), có người lại nhìn vào các hình vẽ, những con số để đọc đó là kiến trúc
sư, những kế toán, đọc trên bản vẽ kĩ thuật và bảng số liệu thống kê. Đó cũng
là hoạt động đọc, nhưng trong đề tài này chúng tôi đề cập đến đọc chữ, đọc
văn bản, xem xét đọc trong phân môn Tập đọc.
Có nhiều quan niệm, định nghĩa về đọc. Theo từ điển tiếng Việt: “Đọc là
hành động nhìn vào chữ hoặc kí hiệu, dấu hiệu để hiểu nội dung” [15;520].
Như vậy theo định nghĩa này đọc được hiểu theo nghĩa rộng, bao hàm cả đọc
chữ, đọc số liệu, bản vẽ…
Tác giả Nguyễn Trí cho rằng: “Đọc cũng là một quá trình vừa tạo cảm
xúc, vừa thể hiện tình cảm của mình với nhân vật, với bức tranh cuộc sống
hoặc với nội dung được nêu trong bài văn” [16,7]. Quá trình đọc gắn liền với
những biểu hiện cảm xúc của người đọc. Đọc là suy ngẫm để thấy được cái
hay trong ngôn từ.
Ông M.R.Lơvôp trong cuốn Cẩm nang dạy học tiếng Nga định nghĩa:
“Đọc là một dạng hoạt động ngôn ngữ, là quá trình chuyển dạng thức chữ

7


viết sang lời nói có âm thanh và thông hiểu nó (ứng với hình thức đọc thành
tiếng) là quá trình chuyển trực tiếp từ hình thức chữ viết thành các đơn vị

nghĩa không có âm thanh (ứng với đọc thầm).” Đây là một định nghĩa rất phù
hợp với dạy Tập đọc ở Tiểu học.
Sau khi xem xét các định nghĩa, quan niệm khác nhau về đọc, chúng tôi
nhận thấy định nghĩa thường nhấn mạnh những khía cạnh khác nhau của đọc.
Đọc không chỉ là “đánh vần”, phát âm thành tiếng theo đúng các kí hiệu chữ
viết, cũng không chỉ là quá trình nhận thức để có khả năng thông hiểu những
gì được đọc. Đọc chính là sự tổng hợp của hai quá trình đó. Như vậy hoạt
động đọc phải xem xét đồng thời hai mặt ngôn ngữ và tư duy. Định nghĩa của
viện sĩ M.R.Lơvôp đã xem xét việc đọc ở cả hai khía cạnh đó. Do vậy, chúng
tôi đã chọn và sử dụng định nghĩa này để làm cơ sở thực hiện đề tài.
Như vậy, đọc chính là biến hình thức chữ viết của văn bản thành hình
thức âm thanh để người đọc, người nghe hiểu được những điều mà tác giả nói
qua chữ viết.
1.1.1.2. Ý nghĩa của việc đọc
Đọc là một hoạt động của con người. Đọc không phải chỉ là hành động
nhận thức nội dung ý tưởng từ văn bản mà còn là hoạt động trực quan sinh
động giàu cảm xúc, có tính trực giác và khái quát trong nếm trải của con
người. Vì thế xuất hiện kinh nghiệm đọc và sự biến đổi cách thức và chất
lượng đọc. Đọc còn là hành động mang tính chất tâm lí, một hoạt động tinh
thần của độc giả, bộc lộ rõ năng lực văn hóa của từng người.
Những kinh nghiệm của đời sống, những thành tựu văn hoá, khoa học, tư
tưởng, tình cảm của các thế hệ trước và của cả những người đương thời phần
lớn đã được ghi lại bằng chữ viết. Nếu không biết đọc thì con người không
thể tiếp thụ nền văn minh của loài người, không thể sống một cuộc sống bình

8


thường, có hạnh phúc với đúng nghĩa của từ này trong xã hội hiện đại. Biết
đọc, con người đã nhân khả năng tiếp nhận lên nhiều lần, từ đây, người ta biết

tìm hiểu, đánh giá cuộc sống, nhận thức các mối quan hệ tự nhiên, xã hội, tư
duy. Biết đọc, con người sẽ có khả năng chế ngự một phương tiện văn hoá cơ
bản giúp họ giao tiếp được với thế giới bên trong của người khác, thông hiểu
tư tưởng, tình cảm của người khác. Đặc biệt khi đọc các tác phẩm văn
chương, con người không chỉ được thức tỉnh nhận thức mà còn rung động tình
cảm, nảy nở những ước mơ tốt đẹp, khơi dậy năng lực hành động, sức mạnh
sáng tạo cũng như được bồi dưỡng tâm hồn.
Không biết đọc, con người sẽ không có điều kiện hưởng thụ sự giáo dục
mà xã hội dành cho họ, không thể hình thành được một nhân cách toàn diện.
Đặc biệt trong thời đại bùng nổ thông tin thì biết đọc ngày càng quan trọng vì
nó sẽ giúp người ta sử dụng các nguồn thông tin. Đọc chính là học, học nữa,
học mãi, đọc để tự học, học cả đời.
Vì những lẽ trên, dạy đọc có một ý nghĩa to lớn ở Tiểu học. Đọc trở
thành một đòi hỏi cơ bản, đầu tiên đối với mỗi người đi học. Trước hết là trẻ
phải học đọc, sau đó trẻ phải đọc để học. Đọc giúp trẻ em chiếm lĩnh một
ngôn ngữ để dùng trong giao tiếp và học tập. Nó là công cụ để học tập các
môn học khác. Nó tạo ra hứng thú và động cơ học tập. Nó tạo điều kiện để
học sinh có khả năng tự học và tinh thần học tập cả đời. Nó là một khả năng
không thể thiếu được của con người trong thời đại văn minh.
Đọc một cách có ý thức cũng sẽ tác động tích cực tới trình độ ngôn ngữ
cũng như tư duy của người đọc. Việc dạy đọc sẽ giúp học sinh hiểu biết hơn,
bồi dưỡng ở các em lòng yêu cái thiện và cái đẹp, dạy cho các em biết suy
nghĩ một cách lôgic cũng như biết tư duy có hình ảnh. Như vậy, đọc có một ý
nghĩa to lớn còn vì nó bao gồm các nhiệm vụ giáo dưỡng, giáo dục và phát
triển.

9


1.1.1.3. Nhiệm vụ của dạy đọc ở Tiểu học

Tập đọc với tư cách là một phân môn của môn Tiếng Việt ở Tiểu học có
nhiệm vụ hình thành và phát triển năng lực đọc cho học sinh.
Tập đọc là một phân môn thực hành. Nhiệm vụ quan trọng nhất của nó là
hình thành năng lực đọc cho học sinh. Năng lực đọc được tạo nên từ bốn kĩ
năng cũng là bốn yêu cầu về chất lượng của “đọc”: đọc đúng, đọc nhanh (đọc
lưu loát, trôi chảy), đọc có ý thức (thông hiểu được nội dung những điều mình
đọc hay còn gọi là đọc hiểu) và đọc diễn cảm. Bốn kĩ năng này được hình
thành từ hai hình thức đọc: đọc thành tiếng và đọc thầm. Chúng được rèn
luyện đồng thời và hỗ trợ lẫn nhau. Sự hoàn thiện một trong những kĩ năng
này sẽ có tác động tích cực đến những kĩ năng khác. Ví dụ, đọc đúng là tiền
đề của đọc nhanh cũng như cho phép thông hiểu nội dung văn bản. Ngược lại,
nếu không hiểu điều mình đang đọc thì không thể đọc nhanh và diễn cảm
được. Nhiều khi khó nói được rạch ròi kĩ năng nào làm cơ sở cho kĩ năng nào,
nhờ đọc đúng mà hiểu đúng hay chính nhờ hiểu đúng mà đọc được đúng. Vì
vậy trong dạy đọc, không thể xem nhẹ yếu tố nào.
Nhiệm vụ thứ hai của dạy đọc là giáo dục lòng ham đọc sách, hình thành
phương pháp và thói quen làm việc với văn bản, làm việc với sách cho học
sinh. Làm cho sách được tôn kính trong trường học, đó là một trong những
điều kiện để trường học thực sự trở thành trung tâm văn hoá. Nói cách khác,
thông qua việc dạy đọc, phải làm cho học sinh thích thú đọc và thấy được khả
năng đọc là có lợi ích cho các em trong cả cuộc đời, thấy được đó là một
trong những con đường đặc biệt để tạo cho mình một cuộc sống trí tuệ đầy đủ
và phát triển.
Vì việc đọc không thể tách rời khỏi những nội dung được đọc nên bên
cạnh nhiệm vụ rèn kĩ năng đọc, giáo dục lòng yêu sách, phân môn Tập đọc
còn có nhiệm vụ:

10



 Làm giàu kiến thức về ngôn ngữ, đời sống và kiến thức văn học cho
học sinh.
 Phát triển ngôn ngữ và tư duy cho học sinh.
 Giáo dục tư tưởng, đạo đức, tình cảm, thị hiếu thẩm mĩ cho học sinh.
1.1.2. Những hiểu biết cơ bản về đọc diễn cảm
1.1.2.1. Quan niệm về đọc diễn cảm
Đọc diễn cảm là một kĩ năng được đặt trong phân môn Tập đọc được đề
cập đến từ bậc Tiểu học (lớp 4) và kéo dài đến THPT (lớp 12). Ở Tiểu học thì
đọc diễn cảm được đặt ra đối với học sinh lớp 4, 5 khi học sinh đã có thể hiểu
được nội dung của đoạn văn mà mình học, hiểu được hàm ý trong câu giá trị
nghệ thuật của văn bản văn học và có sự liên hệ với thực tế đời sống. Vì đọc
diễn cảm nằm trong hoạt động đọc nói chung nên nó cũng là hoạt động lao
động và sáng tạo.
Đọc diễn cảm là một quá trình, bao gồm quá trình tiếp nhận văn bản và
quá trình thông báo, truyền đạt những văn bản viết thành văn bản đọc. Đó là
quá trình tái tạo chuyển đổi nội dung ý nghĩa nghệ thuật của văn bản thành âm
thanh, nhịp điệu, tốc độ sự ngừng nghỉ và sắc thái thẩm mĩ, cảm xúc thẩm mĩ
và thái độ thẩm mĩ của người đọc. Ngoài ra đọc diễn cảm còn bao gồm quá
trình hoạt động ngôn ngữ và văn học, quá trình tâm sinh lí và sư phạm, quá
trình thông tin và giao tiếp.
Tác giả Lê Phương Nga – Đặng Kim Nga trong cuốn Phương pháp dạy
Tiếng Việt ở Tiểu học cho rằng: “Đọc diễn cảm ở đây được hiểu là đọc hay,
là một yêu cầu đặt ra khi đọc những văn bản văn chương hoặc các yếu tố
ngôn ngữ văn chương”.
Tác giả Hà Nguyễn Kim Giang trong cuốn Phương pháp đọc diễn cảm,
cho rằng: “Đọc diễn cảm là làm nổi bật đặc điểm, cảm xúc thẩm mĩ và đời

11



sống tinh thần của tác phẩm, tạo ra mối quan hệ xúc động riêng giữa người
đọc và tác phẩm”.
Từ những đặc điểm trên, đọc diễn cảm đã đảm bảo tính chân thực và
màu sắc của cá nhân trong cảm thụ thể hiện được cái hồn của bài văn. Đọc
diễn cảm đã tận dụng các hình thức biểu hiện của người đọc, thống nhất được
nội tâm và sự thể hiện, từ đó chinh phục được người nghe.
Vì vậy có thể hiểu ngắn gọn đọc diễn cảm như sau:
Đọc diễn cảm là cách sử dụng giọng đọc có kèm theo cử chỉ, điệu bộ,nét
mặt để truyền đạt những ý nghĩ, tư tưởng, tình cảm của tác giả gửi gắm trong
tác phẩm và cả những ý nghĩ, thái độ, tâm trạng, cảm xúc của người đọc đến
với người nghe.
1.1.2.2. Bản chất của đọc diễn cảm
Việc đọc nói chung và đọc diễn cảm là biến hình thức chữ viết của văn
bản thành hình thức âm thanh của tiếng nói, là làm cho người nghe hiểu được
ý của người viết. Các nhà ngôn ngữ học đã đưa ra định nghĩa sau đây về đọc
diễn cảm.
Đọc diễn cảm cũng là một nghệ thuật có đặc điểm riêng, nó không lặp
lại người khác, không chỉ truyền đạt trung thành, máy móc bài văn mà còn ghi
đậm dấu ấn cá nhân. Đọc như thế sẽ gây được chấn động tâm hồn trên cơ sở
những mĩ cảm ngôn ngữ văn học và khả năng biểu diễn. Lối đọc này sẽ có sức
hấp dẫn, lôi cuốn người nghe và làm sáng tỏ thêm nội dung, ý nghĩa của tác
phẩm văn chương. Rõ ràng đọc diễn cảm mang đầy đủ tính nghệ thuật của nó.
Đọc diễn cảm là hình thức đặc biệt của đọc văn chương. Đặc biệt nó
vượt qua việc đọc những tín hiệu ngôn ngữ, từ kí hiệu chữ viết sang kí hiệu
âm thanh tạo ra năng lực đọc văn.

12


Đọc diễn cảm là hình thức riêng của việc đọc văn có sự tham gia bổ

sung, hỗ trợ của năng lực diễn đạt bằng cử chỉ, điệu bộ, tâm thế, dáng vẻ,
giọng điệu, ngữ điệu, âm sắc, màu sắc của cảm xúc ngôn ngữ. Cho nên đọc
diễn cảm là một nghệ thuật. Nghệ thuật đọc diễn cảm đòi hỏi phải có một quá
trình rèn luyện lâu dài và liên tục.
Vấn đề mối quan hệ qua lại giữa đọc diễn cảm với đọc biểu diễn nghệ
thuật rất phức tạp vì ngay trong nghệ thuật biểu diễn đọc có hai khuynh
hướng: một số nghệ sĩ diễn xuất thiên về biểu diễn, một số khác lại sử dụng
phong cách của người kể chuyện.
Từ những điều trình bày trên ta có thể khái quát lại về bản chất của đọc
diễn cảm như sau:
+ Đọc diễn cảm là hoạt động lao động sáng tạo
+ Là biểu diễn nghệ thuật đọc
+ Truyền đạt mọi cái hay cho người nghe
+ Phát huy màu sắc của tác phẩm
+ Đó là một phương pháp sư phạm và là một khoa học
1.1.2.3. Đọc diễn cảm các văn bản nghệ thuật
Đọc các văn bản nghệ thuật hay các tác phẩm văn chương theo quan
niệm của chúng tôi là giải quyết vấn đề tương quan của các cấu trúc tồn tại
trong tác phẩm. Trước hết là cấu trúc ngôn ngữ, thứ đến là cấu trúc hình
tượng thẩm mĩ, sau nữa là cấu trúc ý nghĩa.
Trong cấu trúc ngôn ngữ, đọc để tìm hiểu nắm bắt các loại thông tin,
thông tin thực hiện đời sống và thông tin thẩm mĩ. Thông tin đời sống gợi ra
sự đa dạng trong kinh nghiệm sống của từng độc giả. Thông tin thẩm mĩ trong
cấu trúc ngôn ngữ bao gồm những từ “đắt”, những lời hay, những đoạn hấp
dẫn vừa trong sáng vừa mới mẻ.

13


Có thể nói từ cấu trúc ngôn ngữ đến cấu trúc hình tượng thầm mĩ là quá

trình chuyển biển “hóa sinh” từ nội dung hiện thực đến hình thức nghệ thuật,
từ cuộc sống thực đến sự sáng tạo ra một đời sống ảo để người đọc thể
nghiệm những giá trị nhân sinh.
Vì thế ngay từ cấu trúc cụ thể trong ngôn ngữ tư tưởng và định hướng tư
tưởng sáng tạo đã có mặt, góp phần quyết định giá trị đích thực của tác phẩm
nghệ thuật.
Sự lĩnh hội tác phẩm văn chương thông qua hoạt động đọc bao giờ cũng
xen lẫn vào đó thiên hướng chủ quan, không thể loại trừ “cái tôi” của người
đọc ra ngoài quá trình tiếp nhận. Cấu trúc ý nghĩa của tác phẩm văn chương là
cấu trúc mở, “là” kết cấu vẫy gọi, sự tham gia sáng tạo của mọi người. Vì vậy
văn chương là một loại hình nghệ thuật ngôn từ, là một quá trình phát hiện và
khám phá nội dung ý nghĩa xã hội, con người, thời đại.
1.1.3. Cơ sở sinh lí học và tâm lí học của đọc diễn cảm
Muốn giải quyết vấn đề cần phải dạy đọc diễn cảm, nhất thiết phải chú ý
đến vấn đề tâm lí học và sinh lí học.
Thực tế trong các giờ dạy đọc hiện nay cho thấy chỉ có thể dạy đọc một
cách diễn cảm cho một số học sinh có năng khiếu mà thôi. Nhà trường hiện
nay là nhà trường chung cho tất cả con em chúng ta và chưa có một văn bản
nào đưa ra vấn đề chia học sinh ra làm hai loại: loại có năng khiếu và loại
không có năng khiếu. Nhưng thực tế trong giờ thực hành lại có sự phân chia
đó. Thường thường một lớp học chỉ một số em biết đọc diễn cảm, còn đa số
các em khác thì không biết đọc diễn cảm và thầy cô giáo cũng chỉ chú trọng
tới một vài em có năng khiếu đó.
Vì vậy một vấn đề cấp bách được đặt ra là có thể đọc diễn cảm cho tất cả
các em học sinh được không, và có cần thiết phải làm điều đó không?

14


Không nên phủ nhận một sự thật là có những trẻ em có năng khiếu và

những học sinh không có năng khiếu. Tâm lí học hiện đại thừa nhận có sự
khác nhau về năng lực của học sinh, nhưng không cho điều đó là hiện tượng
bẩm sinh. Những đặc điểm bẩm sinh chỉ có thể là những đặc điểm về tâm lí
học giải phẫu, tức là những tư chất làm cơ sở cho sự phát triển của tài năng,
chính tài năng lại là kết quả của sự phát triển. Tài năng không chỉ được thể
hiện trong quá trình hoạt động mà điều chủ yếu là nó được hình thành ngay
trong quá trình hoạt động đó.
Tâm lí học hoạt động học tập cũng đã chỉ ra rằng những điều kiện bẩm
sinh về tài năng chỉ có thể thuộc về sinh lí học giải phẫu, tức đó chỉ là những
tư chất làm cơ sở cho sự phát triển tài năng, năng khiếu. Mặt khác tài năng
phần lớn là do quá trình rèn luyện thích hợp mà thành và chính quá trình hoạt
động của con người đã hình thành nên tài năng. Khi nói về đặc điểm của quá
trình sáng tạo nghệ thuật trong đó bao gồm cả việc dạy đọc văn, người ta
thường nói đến vai trò của trực giác. Trong tâm lí học hiện đại, trực giác được
hiểu như là một hình thức đặc biệt của quá trình tư duy, khác với hình thức tư
duy logic có vỏ bọc bằng ngôn ngữ dù chỉ là ngôn ngữ bên trong. Quá trình tư
duy được gắn liền với cái mà Páp-lốp gọi là: “Dấu vết rõ ràng của nhận thức”.
Sự tư duy bình thường sẽ được diễn ra trong khuôn khổ của vùng nhận thức
đó. Bên ngoài vùng nhận thức đó cũng có những quá trình được diễn ra không
có sự kiểm tra của nhận thức vì thế kết quả của tư duy này có tính chất bất
ngờ, không được tính toán trước. Trong thực tế tài năng bất ngờ của giây phút
sáng tạo là kết quả của sự chuẩn bị trước thậm chí là kết quả của một quá
trình tư duy lâu dài và căng thẳng. Như vậy, nếu như yếu tố trực tiếp của sáng
tạo không chịu sự tác động của nhận thức thì quá trình chuẩn bị trực giác của
tư duy phải hoàn toàn do tác động của con người và giáo dục. Có thể nói:
“Trực giác là tư duy không có dấu vết rõ ràng của nhận thức”.

15



Các nhà nghiên cứu phương Tây cho rằng trực giác là bước nhảy vọt của
cảm tính, là bước sóng xuất thần, người ta gọi trực giác – tổng giác (tổng
nhận thức con người). Họ diễn đạt trực giác không phải là trở về cái đã có mà
là đạt đến cái mới cao hơn nhận thức và không thể diễn đạt bằng lời. Trực
giác là sự sáng tạo bởi có cái mới bằng sức mạnh tổng hợp của con người.
Páp-lốp nói: “Tôi thấy rằng cần phải hiểu trực giác như vậy tức là con
người chỉ nhớ kết quả cuối cùng còn toàn bộ con đường mà nó đã đi để đến
kết quả đó, đã chuẩn bị cho kết quả đó lúc này nó chưa ý thức được”.
Như vậy trực giác có vai trò quan trọng trong đọc diễn cảm, nó cũng là
một yếu tố có tính quyết định trong việc đọc diễn cảm diễn ra trong một
khoảng thời gian ngắn. Một lần nữa chúng ta có thể khẳng định, những đặc
điểm thuộc về tâm lí cá nhân như năng khiếu, thiên tài không phải hoàn toàn
do bẩm sinh mà là kết quả của một quá trình học tập, hoạt động rèn luyện. Vì
thế, có thể dạy và nhất thiết cần phải dạy cho trẻ ở mọi lứa tuổi đọc diễn cảm.
Kĩ năng đọc diễn cảm, sự hoàn thiện ngôn ngữ của con người sẽ được hình
thành trong quá trình đọc diễn cảm.
1.1.4. Cơ sở ngôn ngữ học của đọc diễn cảm
a. Ngữ điệu của lời nói
Trong khi nói về nghệ thuật đọc, người ta thường xác định rằng đó là
nghệ thuật của ngữ điệu. Sự tồn tại của các ngữ điệu đa dạng khác nhau đã
cho phép người ta phân biệt lời nói diễn cảm với lời nói không diễn cảm.
“Người nói cần phải biết sử dụng thành thạo những phương tiện không có tính
ngôn ngữ nhưng lại rất quan trọng về mặt tâm lí để biểu hiện ý nghĩ. Trước
hết đó là ngữ điệu”. Thế nào là ngữ điệu?
Theo nghĩa rộng, ngữ điệu là sự thống nhất của một tổ hợp các phương
tiện siêu đoạn (siêu âm đoạn tính) có quan hệ tương tác lẫn nhau được sử

16



dụng ở bình diện câu như cao độ (độ cao thấp của âm thanh), cường độ (độ
lớn, nhỏ, mạnh, yếu của âm thanh), tốc độ (độ nhanh chậm, ngắt nghỉ), trường
độ (độ dài ngắn của âm thanh) và âm sắc.
Theo nghĩa hẹp, ngữ điệu là sự thay đổi giọng nói, giọng đọc, là sự lên
cao hay hạ thấp giọng nói, giọng đọc. Ngữ điệu là yếu tố gắn chặt với lời nói,
yếu tố tham gia tạo thành lời nói. Ngữ điệu được sử dụng để biểu thị ý nghĩa
và phạm trù ngữ pháp cũng như các sắc thái cảm xúc biểu cảm.
Theo tâm lí học thì ngữ điệu của lời nói là hệ thống âm thanh của câu nói
chung. Ngữ điệu bao gồm tất cả các dấu hiệu âm thanh phức tạp: sự thay đổi
của giọng nói cơ bản, độ vang to, âm sắc, độ dài. Ngoài ra còn có những chỗ
nghỉ hơi, những chỗ ngắt câu. Ngữ điệu biểu thị mối quan hệ tình cảm, ý chí
của con người trong quá trình giao tiếp với nhau nhưng không phải tất cả
những tính chất quan trọng của ngữ điệu đều được xem là cơ sở của sự diễn
cảm. Ngữ điệu không những diễn tả mối quan hệ tình cảm, ý chí của con
người mà còn được xác định bởi những mối quan hệ đó. Chính mối quan hệ
giao tiếp này đã góp phần xác định ngữ điệu của người đọc, có thể sôi nổi
hơn, đam mê hơn, có thể gần gũi thống thiết, bi lụy, âu sầu hơn… Người bắt
chước ngữ điệu, trở nên nực cười bởi vì ngữ điệu xuất hiện tự nhiên nhờ mối
quan tâm đầy đủ và hiểu biết của người đọc với đặc trưng cơ bản của tác
phẩm văn học.
Chúng ta không nên nghĩ đến nó, không nên quan tâm đến nó. Nhưng sẽ
có phương pháp tìm kiếm ngữ điệu khi nhiệm vụ đọc một đoạn văn nào đó đặt
ra cho chúng ta chứ không phải chúng ta đặt ra cho nó.
b. Cơ sở về âm thanh của ngôn ngữ khi đọc
Mục đích của dạy đọc cần hướng tới là đọc diễn cảm đó cũng chính là
nội dung của luyện đọc thành tiếng. Đọc đúng được thì mới có đọc diễn cảm,
vì vậy đọc đúng trước hết là đọc đúng chính âm, để dạy đọc đúng chúng ta

17



cần có hiểu biết về chính âm.
Chính âm là các chuẩn mực phát âm của một ngôn ngữ có giá trị và hiệu
lực về mặt xã hội. Chính âm sẽ quy định nội dung luyện phát âm ở Tiểu học.
Hiện nay, trong trường học chưa có văn bản quy định về chuẩn chính âm.
Điều này làm cho việc xác định nội dung đọc thành tiếng ở Tiểu học gặp
nhiều khó khăn, không tránh khỏi những lúng túng khi xác định nội dung đọc
đúng, đọc diễn cảm.
Vấn đề đặt ra là phải giải quyết như thế nào những nét khác biệt trên
bình diện ngữ âm giữa các phương ngữ, một hiện tượng có liên quan trực tiếp
đến việc xác định chuẩn chính âm. Trong bốn thập kỉ nay, giới Việt ngữ học
có nhiều quan điểm khác nhau về chuẩn mực ngữ âm tiếng Việt, trong đó ý
kiến cho rằng nên lấy phương ngữ Bắc Bộ (chuẩn là Thủ đô Hà Nội) làm cơ
sở để xác định chuẩn mực ngữ âm tiếng Việt đồng thời bổ sung một số ngữ
âm tích cực của các phương ngữ khác. Đây là quan điểm được nhiều người
tán thành. Hiện nay trong trường học, một cách tự nhiên, hệ thống ngữ âm
được phản ánh trên chữ viết được coi là hệ thống ngữ âm chuẩn mực của
tiếng Việt hiện tại. Đó là cách phát âm lấy phương ngữ Bắc Bộ (tiêu biểu là
tiếng Hà Nội) bổ sung thêm ba phụ âm đầu của miền Trung, những âm được
biểu hiện trên chữ viết bằng các con chữ tr, s, r và hai vần ươu, ưu. Đây là
cách phát âm có sự khu biệt âm vị học tối đa của chữ viết để khắc phục những
âm đã mất đi hoặc đã bị biến dạng của tiếng địa phương.
c. Hoạt động ngôn ngữ
Khoa học hiện đại coi ngôn ngữ là một trong những hình thức hoạt động
của con người “hoạt động ngôn ngữ” còn những lời nói riêng biệt được gọi là
“những hành động nói năng”. Trong khoa học nghiên cứu những loại phát
sinh, ngôn ngữ xuất hiện và phát triển như một phương tiện để thông báo, một
phương tiện dùng để tác động đến những người xung quanh. Khi một đứa trẻ

18



nói từ “bố” thì từ đó không những chỉ dùng để gọi một người nào đó, mà còn
muốn người đó làm cho một việc gì cụ thể. Tùy theo từng hoàn cảnh cụ thể,
từ “bố” có nghĩa là: “Bố ơi, dạy con tập xe” hay “Bố ơi, đưa con đi học”…
Mục đích rõ ràng của hoạt động lời nói được xác định bằng những cách
phân chia sự nhấn giọng trong câu, bởi tính đa dạng của ngữ điệu, bởi sắc thái
nhịp điệu của giọng, tức là bởi tất cả những phương tiện bởi lời nói diễn cảm.
Ngoài ra trong khi trả lời và trong khi học thuộc lòng, học sinh thường máy
móc hoặc đọc lúng túng. Thói quen này của học sinh cần phải được khắc
phục. Cần phải làm sao cho khi đọc bài văn, học sinh phải truyền đạt được nội
dung đã được tiếp thu một cách cụ thể (như tư tưởng, hình ảnh, sự đánh giá và
ý định của tác giả), làm cho người nghe có thể hiểu được những điều đã nói
trong văn bằng những hình ảnh cụ thể, nghĩa là làm cho người đọc giao tiếp
với người nghe một cách chân thực và có mục đích rõ ràng. Đây là một thủ
thuật rất quan trọng, có tính chất tích cực, một mặt nó nâng cao được tính linh
hoạt và diễn cảm của ngôn ngữ, mặt khác là cho người nghe thêm chú ý và dễ
ghi nhớ.
d. Ngôn ngữ và tư duy
Tư duy là một quá trình tâm lí, có tính xã hội về sự tìm tòi và phát triển
những cái mới, là quá trình phản ánh thực tiễn một cách gián tiếp và khái quát
trong quá trình phân tích và tổng hợp, tư duy gắn một cách hữu cơ với ngôn
ngữ.
Tư duy và ngôn ngữ có mối quan hệ đặc biệt trong quá trình hoạt động
của ngôn ngữ bên trong (ngôn ngữ câm). Đặc điểm của nó là những cấu âm
ẩn kín mà từ đó những sự kích thích yếu ớt của vận động được chuyển vào
não để tư duy bình thường.
Thông thường người ta chia tư duy ra thành tư duy hình tượng và tư duy
khái niệm. Trong thực tế cả hai loại tư duy này có mối quan hệ lẫn nhau. Nó


19


×