Tải bản đầy đủ (.doc) (105 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CHẤT LƯỢNG CÔNG tác KIỂM TRA ĐẢNG VIÊN, tổ CHỨC ĐẢNG có dấu HIỆU VI PHẠM của ủy BAN KIỂM TRA các cấp ở ĐẢNG bộ THÀNH PHỐ hải PHÒNG GIAI đoạn HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (478.58 KB, 105 trang )

DANH MỤC CHỮ VIẾT TẮT
Chữ viết đầy đủ
Ban Chấp hành
Ban Thường vụ
Dấu hiệu vi phạm
Đoàn Kiểm tra
Năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu
Kiểm tra, giám sát
Kiểm tra đảng viên
Tổ chức đảng
Thẩm tra xác minh
Trong sạch vững mạnh
Tổ chức cơ sở đảng
Uỷ ban Kiểm tra
Vững mạnh toàn diện
Xây dựng Đảng

Chữ viết tắt
BCH
BTV
DHVP
ĐKT
NLLĐ, SCĐ
KT,GS
KTĐV
TCĐ
TTXM
TSVM
TCCSĐ
UBKT
VMTD


XDĐ


MỤC LỤC
MỞ ĐẦU
Chương 1. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ

THỰC TIỄN CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC
KIỂM TRA ĐẢNG VIÊN, TỔ CHỨC ĐẢNG
CÓ DẤU HIỆU VI PHẠM CỦA ỦY BAN
KIỂM TRA CÁC CẤP THUỘC ĐẢNG BỘ
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
Công tác KTĐV, tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm và
những vấn đề cơ bản về chất lượng công tác KTĐV, tổ
chức đảng có dấu hiệu vi phạm của ủy ban kiểm tra các
cấp thuộc Đảng bộ thành phố Hải Phòng
1.2.
Thực trạng chất lượng và một số kinh nghiệm tiến
hành công tác kiểm tra đảng viên, tổ chức đảng có dấu
hiệu vi phạm của ủy ban kiểm tra các cấp thuộc Đảng
bộ thành phố Hải Phòng
Chương 2. YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP TĂNG
CƯỜNG NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG CÔNG
TÁC KIỂM TRA ĐẢNG VIÊN, TỔ CHỨC
ĐẢNG CÓ DẤU HIỆU VI PHẠM CỦA ỦY BAN
KIỂM TRA CÁC CẤP THUỘC ĐẢNG BỘ
THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG TRONG GIAI
ĐOẠN HIỆN NAY
2.1.
Sự phát triển của tình hình nhiệm vụ và yêu cầu tăng

cường nâng cao chất lượng công tác kiểm tra đảng
viên, tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm của ủy ban
kiểm tra các cấp thuộc Đảng bộ thành phố Hải
Phòng trong giai đoạn hiện nay
2.2.
Những giải pháp tăng cường nâng cao chất lượng công
tác kiểm tra đảng viên, tổ chức đảng có dấu hiệu vi
phạm của ủy ban kiểm tra các cấp thuộc Đảng bộ thành
phố Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay
KẾT LUẬN
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC

Trang
3

13

1.1.

13

30

49

49

58
88

90
97


MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Kiểm tra, giám sát là chức năng lãnh đạo của Đảng, một bộ phận quan
trọng của công tác XDĐ, bảo đảm cho đường lối, chủ trương, chính sách của
Đảng được xác định đúng và chấp hành triệt để, đồng thời là biện pháp hữu
hiệu khắc phục bệnh quan liêu, hành chính, giữ nghiêm kỷ luật Đảng; nâng
cao chất lượng đội ngũ cán bộ, đảng viên; góp phần nâng cao NLLĐ, SCĐ
của TCĐ. Kiểm tra TCĐ cấp dưới, đảng viên khi có DHVP nhằm kết luận rõ
đúng sai, xác định rõ vi phạm (nếu có) cuả TCĐ, đảng viên để xem xét, xử lý
kịp thời, giữa nghiêm kỷ luật của đảng, giúp TCĐ, đảng viên được kiểm tra
thấy rõ ưu điểm để phát huy, khuyết điểm vi phạm để có biện pháp khắc phục,
sửa chữa; giúp TCĐ quản lý đảng viên được kiểm tra thấy rõ trách nhiệm của
mình, rút ra bài học kinh nghiệm trong việc quản lý, giáo dục và KT, GS đảng
viên, góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, xây dựng TCĐ
TSVM, xây dựng đơn vị VMTD.
Thực tiễn hơn 80 năm xây dựng và hoạt động của Đảng ta đã khẳng
định: Công tác KT, GS có vai trò hết sức quan trọng trong công tác XDĐ.
Thông qua việc thường xuyên KT, GS khâu tổ chức thực hiện các nghị quyết,
quyết định của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước để phát huy ưu
điểm, phòng ngừa khắc phục sai lầm, khuyết điểm; KT, GS công tác, năng lực
và phẩm chất của cán bộ, đảng viên nhằm xây dựng TCĐ, cơ quan Nhà nước
và đội ngũ cán bộ ngày càng TSVM. Tại Hội nghị lần thứ 3 (khoá XI), BCH
Trung ương tiếp tục nhấn mạnh: KT, GS là những chức năng lãnh đạo của
Đảng, lãnh đạo mà không KT, GS coi như không lãnh đạo và chuyển thẩm
quyền ban hành hướng dẫn về công tác KT. GS do BCH Trung ương quyết
định (trước đây Bộ Chính trị quyết định).

Nhận thức đúng vị trí, vai trò của công tác KTĐV, TCĐ có DHVP đối
với việc nâng cao NLLĐ, SCĐ của cấp ủy, TCĐ. Những năm qua cấp uỷ,
BTV các cấp ở Đảng bộ thành phố Hải Phòng đã quan tâm lãnh đạo, chỉ đạo
các đảng uỷ, UBKT các cấp quán triệt, triển khai tổ chức thực hiện nghiêm

3


các nghị quyết, chỉ thị, quy định của Đảng về công tác KT, GS nói chung và
KTĐV, TCĐ có DHVP nói riêng. Dưới sự, lãnh đạo, chỉ đạo của đảng uỷ,
UBKT các cấp, công tác KTĐV, TCĐ có DHVP của các đảng uỷ trực thuộc
Thành ủy Hải Phòng trong những năm qua đã có nhiều chuyển biến, tiến bộ
tích cực, ngày càng đi vào nền nếp, trực tiếp góp phần xây dựng TCĐ TSVM,
đơn vị VMTD, hoàn thành tốt mọi nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên, trước yêu
cầu phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh và công tác XDĐ,
trên thực tế công tác KTĐV, TCĐ có DHVP là một vấn đề hết sức khó khăn,
nhạy cảm nên trong quá trình lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện đã bộc lộ
không ít hạn chế, bất cập cả về mặt nhận thức, trách nhiệm và nội dung, hình
thức, cách thức tiến hành. NLLĐ, SCĐ của một số đảng uỷ, UBKT còn có
những hạn chế; chất lượng, hiệu quả công tác KTĐV, TCĐ có DHVP của
UBKT các cấp chưa cao; vẫn còn không ít đảng viên, TCĐ vi phạm kỷ luật
Đảng, pháp luật Nhà nước….
Ủy ban kiểm tra các cấp đặt dưới sự lãnh đạo trực tiếp của cấp ủy cùng
cấp; chủ trì phối hợp với các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp ủy cùng cấp
tham mưu, giúp cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo và quán triệt, tổ chức thực hiện công tác
kiểm tra, giám sát; xem xét, xử lý kỷ luật và giải quyết tố cáo, khiếu nại kỷ luật
đảng theo Điều 32, Điều lệ Đảng; tham mưu, giúp cấp ủy, ban thường vụ kết luận
các cuộc kiểm tra, đánh giá các cuộc giám sát; sơ kết, tổng kết thực hiện công tác
kiểm tra, giám sát; hướng dẫn các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp uỷ cùng
cấp, ban cán sự đảng, đảng đoàn trực thuộc cấp ủy, hướng dẫn cấp ủy, tổ chức

đảng cấp dưới về công tác kiểm tra, giám sát, kỷ luật đảng; chỉ đạo, hướng dẫn,
kiểm tra, giám sát ủy ban kiểm tra cấp dưới về nghiệp vụ, kiện toàn ủy ban kiểm
tra, tổ chức bộ máy cơ quan ủy ban kiểm tra, xây dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra.
Để xây dựng cấp ủy, TCĐ các cấp ở Đảng bộ thành phố Hải Phòng
TSVM, có NLLĐ, SCĐ cao đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ phát triển kinh tế, văn
hóa, xã hội, quốc phòng, an ninh … và khắc phục những hạn chế, khuyết điểm
trong công tác xây Đảng theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4 Khóa XI, vấn
4


đề có ý nghĩa quan trọng và cấp thiết hiện nay là nghiên cứu tìm ra giải pháp
nâng cao chất lượng công tác KTĐV, TCĐ có DHVP của UBKT các cấp. Vì
vậy, đề tài: “Chất lượng công tác kiểm tra đảng viên, tổ chức đảng có dấu hiệu
vi phạm của ủy ban kiểm tra các cấp ở Đảng bộ Thành phố Hải Phòng giai
đoạn hiện nay” mà tác giả lựa chọn làm luận văn thạc sĩ là vấn đề cơ bản, có ý
nghĩa cấp thiết cả về lý luận, thực tiễn hiện nay.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
Trong những năm gần đây, có nhiều công trình nghiên cứu của nhiều
nhà khoa học, cán bộ giảng dạy trong các học viện, nhà trường về công tác
kiểm tra, giám sát nói chung và CTKT đảng viên, TCĐ có DHVP nói riêng.
* Nhóm công trình nghiên cứu về công tác kiểm tra, giám sát và nâng
cao chất lượng công tác kiểm tra đảng viên, tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm.
“Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra, giám sát trong đảng
bộ khối các cơ quan Trung ương”, Trương Tấn Sang, Tạp chí Kiểm tra, số 5
năm 2009. Tác giả chỉ rõ: để làm tốt công tác KT, GS, trong chương trình, kế
hoạch KT, GS của cấp uỷ, UBKT các cấp phải có trọng tâm, trọng điểm, sát
với đặc điểm tình hình của các cơ quan, cần tập trung vào các lĩnh vực, địa
bàn dễ phát sinh vi phạm. Qua KT, GS kịp thời phát huy ưu điểm, uốn nắn,
khắc phục thiếu sót, khuyết điểm của cán bộ, đảng viên từ khi mới manh nha
để chủ động phòng ngừa, ngăn chặn không để xảy ra vi phạm kéo dài ảnh

hưởng đến tình hình nội bộ trong các cơ quan, đơn vị.
“Một số giải pháp nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác kiểm tra,
giám sát ở đảng bộ cơ sở trong quân đội hiện nay”, Bùi Quang Cường, Tạp
chí Giáo dục lý luận chính trị quân sự, số 5 (117), năm 2009. Tác giả đã
luận giải khái quát vị trí, tầm quan trọng của công tác KT, GS ở đảng bộ cơ
sở trong quân đội, những ưu điểm và khuyết điểm, hạn chế của công tác
KT, GS ở đảng bộ cơ sở trong quân đội theo tinh thần Nghị quyết 147NQ/ĐU và chỉ thị 316/CT của Đảng uỷ Quân sự Trung ương. Chỉ rõ
nguyên nhân chủ yếu của những hạn chế, khuyết điểm và đưa ra năm giải

5


pháp cơ bản nhằm nâng cao hơn nữa chất lượng, hiệu quả công tác KT, GS
ở các đảng bộ cơ sở trong quân đội hiện nay.
“Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra ở các TCCSĐ Trường sĩ quan
chỉ huy kỹ thuật Thông tin”, Lê Văn Cơ, Luận văn Thạc sĩ XDĐ, Học viện
Chính trị quân sự, năm 2003. Sau khi phân tích vai trò ý nghĩa tác dụng của
công tác kiểm tra của đảng; vai trò công tác kiểm tra và trách nhiệm của đảng
uỷ cùng UBKT các cấp đối với công tác kiểm tra; tác giả khái quát những ưu,
khuyết điểm và những nguyên nhân của những ưu, khuyết điểm của công tác
kiểm tra ở các TCCSĐ Trường Sĩ quan chỉ huy kỹ thuật Thông tin; chỉ ra năm
yêu cầu và bốn giải pháp cơ bản để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra ở
các TCCSĐ Trường Sĩ quan chỉ huy kỹ thuật Thông tin.
“Nâng cao năng lực công tác kiểm tra, giám sát của chi uỷ các chi bộ
đại đội quản lý học viên ở Trường Sĩ quan Lục quân 2 hiện nay” Nguyễn Văn
Doanh, Luận văn Thạc sĩ XDĐ, Học viện Chính trị quân sự, năm 2008. Tác
giả luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về năng lực KT, GS của chi uỷ các
chi bộ đại đội quản lý học viên ở Trường Sĩ quan Lục quân 2. Đánh giá những
ưu điểm, hạn chế, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh; đề xuất bốn giải
pháp nâng cao năng lực tiến hành công tác KT, GS của các chi uỷ đại đội

được tiến hành chủ động có hiện quả.
“Nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác KT, GS góp phần thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Đại hội X của Đảng”, Nguyễn Văn Chi, Tạp chí Kiểm tra,
số 5, năm 2006, tác giả đã đề cập một số vấn đề quan trọng đối với việc nâng
cao hiệu quả công tác KT, GS của cấp uỷ các cấp hiện nay. Khái quát những
đóng góp quan trọng của cấp uỷ và UBKT các cấp trong công tác XDĐ. Để
nâng cao chất lượng, hiệu quả công tác KT, GS, tác giả khẳng định: “Cấp uỷ
các cấp phải tích cực, chủ động và đích thân trực tiếp chỉ đạo các cuộc kiểm tra
của mình theo kế hoạch đề ra. Qua mỗi cuộc kiểm tra phải có đánh giá, rút kinh
nghiệm để phục vụ kịp thời công tác lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ”.
“Công tác kiểm tra của đảng uỷ các hệ đào tạo cán bộ chỉ huy tham mưu
cấp chiến thuật, chiến dịch ở Học viện Lục quân giai đoạn hiện nay”, Nguyễn
Nguyện, Luận văn Thạc sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị quân sự, năm
6


2005. Tác giả đã làm rõ những đặc điểm nổi bật mang tính chất đặc thù của
Đảng uỷ các Hệ đào tạo cán bộ chỉ huy tham mưu cấp chiến thuật, chiến dịch ở
Học viện Lục quân, xác định những vấn đề có tính nguyên tắc trong nâng cao
chất lượng, hiệu quả hoạt động kiểm tra của đảng uỷ các hệ đào tạo cán bộ Chỉ
huy tham mưu cấp chiến thuật, chiến dịch ở Học viện Lục quân. Trên cơ sở phân
tích những ưu điểm và hạn chế trong lãnh đạo chỉ đạo, tổ chức thực hiện kiểm
tra của đảng uỷ các hệ, tác giả đã rút ra năm kinh nghiệm và đề xuất các giải
pháp nâng cao chất lượng công tác kiểm tra của đảng uỷ các Hệ đào tạo cán bộ
chỉ huy tham mưu cấp chiến thuật, chiến dịch ở Học viện Lục quân.
“Công tác kiểm tra, giám sát của đảng uỷ các hệ, tiểu đoàn quản lý học
viên ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay”, Phạm Quang Thanh, Luận văn
thạc sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị, năm 2010. Tác giả đã phân tích
làm rõ tình hình, đặc điểm, yêu cầu, nhiệm vụ của các đảng uỷ hệ, nhiệm vụ
công tác KT, GS của các đảng uỷ hệ, tiểu đoàn quản lý học viên ở Trường Sĩ

quan Chính trị. Phân tích làm rõ nội hàm quan niệm về công tác KT, GS, chỉ
rõ mục đích, chủ thể, lực lượng tiến hành, đối tượng và nội dung, hình thức
thực hiện công tác KT, GS của các đảng uỷ hệ, tiểu đoàn quản lý học viên ở
Trường Sĩ quan Chính trị. Xác định những vấn đề có tính nguyên tắc, đánh
giá những ưu điểm, hạn chế, khuyết điểm và rút ra kinh nghiệm trong tiến
hành công tác KT, GS; dự báo các yếu tố tác động, xây dựng tiêu chí đánh giá
và đề xuất các giải pháp trong tiến hành công tác KT, GS của các đảng uỷ hệ,
tiểu đoàn quản lý học viên ở Trường Sĩ quan Chính trị hiện nay.
Ngoài ra còn có một số công trình tiêu biểu như: “Nâng cao chất
lượng kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm của ủy ban kiểm tra huyện
ủy ở các tỉnh duyên hải miền trung hiện nay”, Nguyễn Thế Tư, Luận án tiến
sỹ khoa học chính trị, Chuyên ngành Xây dựng đảng, năm 2004. “Công tác
kiểm tra của Thành ủy Hà Nội trong giai đoạn hiện nay”, Lê Tiến Hào, Luận
án tiến sỹ khoa học chính trị chuyên ngành Xây dựng đảng năm 2004.“Công
tác kiểm tra, giám sát của Đảng bộ tỉnh Bình Thuận trong giai đoạn hiện nay
theo tư tưởng Hồ Chí Minh”, Nguyễn Hoàng Minh, Luận văn Thạc sỹ khoa
học chính trị, chuyên ngành Hồ Chí Minh học năm 2011.
7


Từ các góc độ nghiên cứu và cách tiếp cận, các công trình, đề tài khoa học
trên đã tập trung phân tích, làm rõ cơ sở lý luận, thực tiễn; đề xuất các giải pháp
chủ yếu về công tác KT, GS của các TCCSĐ nói chung, công tác KTĐV, TCĐ
khi có DHVP nói riêng, đây là tư liệu, tài liệu quý để tác giả nghiên cứu kế thừa
có chọn lọc trong thực hiện đề tài. Tuy nhiên đến nay chưa có công trình nào
nghiên cứu, luận giải một cách có hệ thống, sâu sắc về vấn đề nâng cao chất lượng
công tác KTĐV, TCĐ khi có DHVP của UBKT Thành uỷ Hải Phòng. Vì vậy đề
tài mà tác giả đã chọn nghiên cứu không trùng lắp với bất kỳ công trình khoa học,
các đề tài luận văn, luận án đã được công bố.
*Nhóm công trình nghiên cứu về công tác của ủy ban kiểm tra và

công tác kiểm tra đảng viên, tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm.
"Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát, góp phần thực hiện
thắng lợi Nghị quyết Trung ương 4 (khóa XI) trong Đảng bộ Quân đội", Lê
Hữu Đức, Tạp chí Quốc phòng toàn dân, số 11 (64), năm 2012. Tác giả đã luận
giải vị trí, vai trò của công tác kiểm tra, giám sát trên cơ sở đã được quán triệt
sâu sức Nghị quyết Trung ương 4 (Khóa XI), và những nguyên nhân ưu,
khuyết điểm, hạn chế của các TCĐ, đảng viên trong quân đội, đưa ra năm giải
pháp cơ bản để nâng cao chất lượng công tác KT, GS trong Đảng bộ Quân đội.
“Bàn về chất lượng công tác kiểm tra và kỷ luật của Đảng” Phạm Thị
Ngạn, Tạp chí Kiểm tra, số 7, năm 2006, tác giả đã đưa ra khái niệm về chất
lượng công tác KT, GS. Sau khi phân tích kỹ hơn về nội hàm khái niệm, tác
giả đã đưa ra sáu tiêu chí đánh giá chất lượng công tác KT, GS. Tác giả cho
rằng: chất lượng của sáu tiêu chí trên chịu ảnh hưởng của nhiều yếu tố chủ
quan và khách quan; trong đó yếu tố chủ quan giữ vai trò quyết định. Đặc
biệt, tác giả đề xuất năm giải pháp nhằm nâng cao chất lượng của từng tiêu
chí và đó là cách thức nhanh nhất để nâng cao chất lượng công tác kiểm tra.
“Làm tốt nhiệm vụ giám sát, góp phần phát hiện và khắc phục khuyết
điểm khi mới manh nha”, Tô Quang Thu, Tạp chí Kiểm tra, số 11 năm 2006,
bài viết đã đề cập 5 biện pháp nâng cao chất lượng công tác giám sát. Trong
đó, tác giả nhấn mạnh cấp uỷ đảng các cấp phải nhận thức sâu sắc, trực tiếp
xây dựng chương trình, kế hoạch, nội dung, đối tượng giám sát và trực tiếp
8


đôn đốc thực hiện; thường xuyên bám sát thực tiễn, bám sát cơ sở, nắm chắc
các nguồn thông tin để có đủ dữ liệu cần thiết cho việc xem xét, đánh giá, dự
báo hành vi sai phạm và ngăn ngừa ngay từ khi mới manh nha; chú trọng xây
dựng đội ngũ cán bộ kiểm tra có đủ phẩm chất, năng lực, uy tín, gương mẫu,
kiên quyết đấu tranh chống tiêu cực, hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao.
"Nâng cao chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của các đảng uỷ trung,

lữ đoàn thuộc Quân khu 4 hiện nay", Ngô Xuân Cầm, Luận văn Thạc sĩ khoa
học chính trị, Học viện Chính trị quân sự, năm 2011. Tác giả đã luận giải những
vấn đề cơ bản về lý luận và thực tiễn chất lượng công tác KT, GS; đánh giá thực
trạng chất lượng và rút ra một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng công tác KT,
GS của các đảng ủy trung, lữ đoàn thuộc Quân khu 4. Đồng thời, tác giả đã xác
định các yêu cầu và đề xuất 5 giải pháp nâng cao chất lượng công tác KT, GS
của các đảng ủy trung, lữ đoàn thuộc Quân khu 4 hiện nay.
“Nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra đảngbviên và tổ chức đảng cấp
dưới khi có dấu hiệu vi phạm của uỷ ban kiểm tra đảng uỷ các trung, lữ đoàn
đủ quân ở Quân khu 1 giai đoạn hiện nay”, Bùi Thế Đăng, Luận văn Thạc sĩ
khoa học chính trị, Học viện Chính trị quân sự, năm 2005. Tác giả làm rõ về tổ
chức hoạt động của UBKT đảng uỷ các trung, lữ đoàn đủ quân ở Quân khu 1;
phân tích hiện tượng DHVP của đảng viên và TCĐ, đưa ra quan niệm và tiêu
chí đánh giá hiệu quả công tác KTĐV, TCĐ cấp dưới khi có DHVP. Từ phân
tích thuận lợi, khó khăn tác động, tác giả đã đưa ra một trong những yêu cầu
nâng cao hiệu quả công tác kiểm tra đối với UBKT đảng uỷ các trung, lữ đoàn
đủ quân ở Quân khu 1 khi KTĐV và TCĐ cấp dưới khi có DHVP là: Nâng cao
tính giáo dục, phòng ngừa trong tiến hành công tác KTĐV, TCĐ khi có DHVP.
Tác giả đề xuất năm giải pháp đồng bộ nhằm nâng cao hiệu quả công tác
KTĐV, TCĐ có DHVP kỷ luật ở các trung, lữ đoàn đủ quân ở Quân khu 1.
"Hoạt động của uỷ ban kiểm tra đảng uỷ các trung đoàn đủ quân ở
Binh đoàn Hương Giang trong giai đoạn hiện nay", Nguyễn Công Dân, Luận
văn Thạc sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị quân sự, năm 2006.
“Hoạt động của uỷ ban kiểm tra đảng uỷ cơ sở thuộc Binh chủng Đặc
công hiện nay”, Trần Tất Thắng, Luận văn Thạc sĩ khoa học chính trị, Học viện
9


Chính trị quân sự, năm 2006. Tác giả đã phân tích làm rõ ưu điểm, hạn chế,
khuyết điểm, chỉ rõ những nguyên nhân ưu, khuyết điểm và những kinh

nghiệm trong quá trình tổ chức và thực hiện nhiệm vụ KT, GS của UBKT đảng
uỷ cơ sở thuộc Binh chủng Đặc công. Đề xuất 05 giải pháp nâng cao hiệu quả
hoạt động của UBKT đảng uỷ cơ sở thuộc Binh chủng Đặc công hiện nay.
"Chất lượng công tác kiểm tra, giám sát của uỷ ban kiểm tra đảng uỷ
các cấp ở Đảng bộ Học viện Hậu cần giai đoạn hiện nay", Nguyễn Văn Bắc,
Luận văn Thạc sĩ khoa học chính trị, Học viện Chính trị quân sự, năm 2012.
Tác giả đề cập tới chất lượng, vị trí, vai trò của ủy ban kiểm tra các cấp ở
Đảng bộ Học viện Hậu cần, khái quát những ưu, khuyết điểm, nguyên nhân,
đưa ra năm yêu cầu, sáu giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng công tác kiểm
tra, giám sát của UBKT các cấp ở Học viện Hậu cần giai đoạn hiện nay.
Các công trình khoa học trên đây nghiên cứu về công tác KT, GS của
Đảng, của cấp ủy, tổ chức đảng các cấp trong và ngoài quân đội dưới nhiều
góc độ với đối tượng, nội dung, phạm vi nghiên cứu khác nhau. Đây là nguồn
tài liệu quý giá để tác giả tham khảo, kế thừa có chọn lọc trong quá trình xây
dựng luận văn tốt nghiệp của mình. Tuy nhiên, đến nay chưa có công trình
nào nghiên cứu một cách đầy đủ, hệ thống về: chất lượng công tác KTĐV,
TCĐ có DHVP của UBKT các cấp thuộc Đảng bộ thành phố Hải Phòng. Đề
tài tác giả lựa chọn không trùng lặp với các công trình, đề tài, luận văn, luận
án đã được nghiệm thu công bố, bảo vệ.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài.
* Mục đích nghiên cứu: Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận,
thực tiễn và đề xuất giải pháp tăng cường nâng cao chất lượng công tác KTĐV,
TCĐ có DHVP của của UBKT các cấp thuộc Đảng bộ thành phố Hải Phòng giai
đoạn hiện nay.
* Nhiệm vụ nghiên cứu
- Làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn công tác KTĐV,
TCĐ có DHVP và chất lượng KTĐV, TCĐ có DHVP của UBKT các cấp
thuộc Đảng bộ thành phố Hải Phòng.

10



- Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân ưu điểm, hạn chế,
khuyết điểm và rút ra một số kinh nghiệm trong triển khai thực hiện các nội
dung công tác KTĐV, TCĐ có DHVP của UBKT các cấp thuộc Đảng bộ
thành phố Hải Phòng.
- Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp tăng cường nâng cao
chất lượng KTĐV, TCĐ có DHVP của UBKT các cấp thuộc Đảng bộ thành
phố Hải Phòng trong giai đoạn hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu: Chất lượng công tác KTĐV, TCĐ có DHVP của
UBKT các cấp thuộc Đảng bộ thành phố Hải Phòng giai đoạn hiện nay.
* Phạm vi nghiên cứu: Nghiên cứu, khảo sát thực tế hoạt động lãnh đạo,
chỉ đạo và tổ chức tiến hành công tác KTĐV, TCĐ có DHVP của UBKT các
cấp thuộc Đảng bộ thành phố Hải Phòng. Các tư liệu, số liệu, điều tra, khảo sát
chủ yếu từ tháng 11/2010 đến tháng 11/2014.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu của đề tài
* Cơ sở lý luận, thực tiễn
- Cơ sở lý luận của đề tài: Là hệ thống lý luận chủ nghĩa Mác - Lênin,
tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm, đường lối, nghị quyết, chỉ thị, quy định
của BCH Trung ương, Bộ Chính trị, Ban Bí thư, của Thành ủy Hải Phòng;
hướng dẫn của UBKT Trung ương về công tác xây dựng, chỉnh đốn Đảng,
công tác KT, GS và kỷ luật Đảng và về KTĐV, TCĐ có DHVP nói riêng.
- Cơ sở thực tiễn: Thực tiễn lãnh đạo, chỉ đạo và tổ chức thực hiện công
tác KTĐV, TCĐ có DHVP của UBKT các cấp thuộc Đảng bộ Thành phố Hải
Phòng. Các báo cáo tổng kết công tác XDĐ, công tác KT, GS, các số liệu điều
tra, khảo sát của tác giả tại UBKT các cấp tại Đảng bộ thành phố Hải Phòng
* Phương pháp nghiên cứu
Trên cơ sở phương pháp luận duy vật biện chứng của chủ nghĩa Mác Lênin, Tư tưởng Hồ Chí Minh đề tài sử dụng tổng hợp các phương pháp
nghiên cứu khoa học chuyên ngành và liên ngành, chú trọng các phương pháp:

Lôgíc - lịch sử; phân tích - tổng hợp; quy nạp và diễn dịch; nghiên cứu lý luận,

11


tổng kết thực tiễn, thống kê, so sánh, điều tra xã hội học; trao đổi, tọa đàm với
cán bộ lãnh đạo, quản lý của các cấp uỷ UBKT và xin ý kiến chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của đề tài góp phần làm sáng tỏ cơ sở lý luận, thực tiễn
nâng cao chất lượng công tác KT, GS, cung cấp cơ sở khoa học để Thành uỷ,
UBKT Thành ủy và đảng uỷ, UBKT các cấp ở Đảng bộ thành phố Hải Phòng lãnh
đạo, chỉ đạo, tiến hành và nâng cao chất lượng công tác KTĐV, TCĐ có DHVP.
Đề tài có thể được sử dụng làm tài liệu phục vụ cho việc nghiên cứu
học tập môn CTĐ,CTCT ở các học viện, nhà trường; nhất là các Trường
chính trị tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương.
7. Kết cấu của đề tài
Kết cấu của đề tài gồm: Phần Mở đầu; 2 chương (4 tiết); kết luận; danh
mục tài liệu tham khảo và phụ lục.

12


Chương 1
NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CHẤT
LƯỢNG CÔNG TÁC KIỂM TRA ĐẢNG VIÊN, TỔ CHỨC ĐẢNG CÓ
DẤU HIỆU VI PHẠM CỦA ỦY BAN KIỂM TRA CÁC CẤP THUỘC
ĐẢNG BỘ THÀNH PHỐ HẢI PHÒNG
1.1. Công tác kiểm tra đảng viên, tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm
và những vấn đề cơ bản về chất lượng công tác kiểm tra đảng viên, tổ
chức đảng có dấu hiệu vi phạm của ủy ban kiểm tra các cấp thuộc Đảng

bộ thành phố Hải Phòng
1.1.1. Ủy ban kiểm tra các cấp và công tác kiểm tra đảng viên, tổ
chức đảng có dấu hiệu vi phạm của ủy ban kiểm tra các cấp thuộc Đảng bộ
thành phố Hải Phòng
* Khái quát về thành phố Hải Phòng
Hải Phòng là thành phố duyên hải nằm ở hạ lưu của hệ thống sông Thái
Bình thuộc đồng bằng sông Hồng, phía Bắc và Đông Bắc giáp tỉnh Quảng Ninh,
phía Tây Bắc giáp tỉnh Hải Dương, phía Tây Nam giáp tỉnh Thái Bình và phía
Đông là biển Đông với đường bờ biển dài 125km, nơi có 5 cửa sông lớn là Bạch
Đằng, Cửa Cấm, Lạch Tray, Văn Úc và sông Thái Bình. Diện tích tự nhiên là
1.507,57 km2, Tính đến tháng 12/2011, dân số Hải Phòng là 1.907.705 người,
trong đó dân cư thành thị chiếm 46,1% và dân cư nông thôn chiếm 53,9%, là
thành phố đông dân thứ 3 ở Việt Nam, sau Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh.
Hải Phòng là thành phố trực thuộc Trung ương - là đô thị loại 1 cấp
quốc gia gồm 7 quận, 6 huyện ngoại thành và 2 huyện đảo với 223 xã,
phường và thị trấn. Hải Phòng có cảng biển lớn nhất ở Miền Bắc, một đầu
mối giao thông quan trọng với hệ thống giao thông thuỷ, bộ, đường sắt, hàng
không trong nước và quốc tế, là cửa chính ra biển của thủ đô Hà Nội và các
tỉnh phía Bắc; trên hai hành lang - một vành đai hợp tác kinh tế Việt Nam Trung Quốc. Trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội vùng châu thổ sông
Hồng, Hải Phòng được xác định là một cực tăng trưởng của vùng kinh tế
động lực phía Bắc (Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh); là Trung tâm kinh tế khoa học - kĩ thuật tổng hợp của Vùng duyên hải Bắc Bộ và là một trong
13


những trung tâm phát triển của Vùng Kinh tế trọng điểm Bắc Bộ và cả nước
(Quyết định 1448 /QĐ-TTg ngày 16/9/2009 của Thủ tướng Chính phủ).
Hướng đến mục tiêu phát triển bền vững, mục tiêu của Chiến lược là đến
năm 2020 đưa Hải Phòng phát triển nhanh, bền vững, để cơ bản trở thành thành
phố công nghiệp theo hướng hiện đại. Để đạt được mục tiêu này, định hướng
trong thời gian tới là tập trung huy động mọi nguồn lực của các thành phần kinh

tế, phát huy lợi thế về vị trí địa lý, gắn liền với chuyển dịch cơ cấu kinh tế một
cách hợp lý, hợp tác chặt chẽ với Vùng kinh tế trọng điểm Bắc bộ và cả nước.
Tuy nhiên, với đà suy giảm của nền kinh tế hiện nay nhất là sự “đóng
băng” của thị trường bất động sản liên quan đến thị trường vốn (đặc biệt thị
trường tín dụng đen) gây ra những bất ổn cho đời sống xã hội, đang làm nảy sinh
(lộ diện) những vi phạm của cán bộ đảng viên, nhất là cán bộ đảng viên có chức
quyền, trong lĩnh vực quản lý dự án, đất đai, tài chính… Kịp thời nắm bắt, đánh
giá vấn đề này, sau hội nghị kiểm điểm theo tinh thần Nghị quyết Trung ương 4
(khóa XI) của thành phố, BTV Thành ủy yêu cầu cấp ủy các cấp tăng cường hơn
nữa việc KT, GS nhất là KT, GS việc thực hiện chỉ thị, nghị quyết của Đảng, tập
trung kiểm tra những nơi làm chưa tốt để uốn nắn, chỉ đạo, với những đơn vị làm
tốt thì nhân rộng điển hình; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ chính trị của địa
phương, đơn vị, chủ đề năm của cấp ủy. Cấp ủy các cấp chỉ đạo UBKT các cấp
nghiêm túc, khẩn trương triển khai các cuộc KT, GS đối với những đảng viên,
TCĐ đã có kết luận sau hội nghị kiểm điểm, làm rõ các DHVP và có những hình
thức xử lý kỷ luật thích đáng, đảm bảo tính kỷ cương, kỷ luật đảng.
Ngay sau Đại hội Đảng các cấp, Đại hội XIV Đảng bộ thành phố, Đại hội
Đảng toàn quốc lần thứ X, Thành ủy, cấp uỷ các cấp đã kịp thời xây dựng, ban
hành chương trình công tác KT, GS toàn khoá của cấp uỷ, ban hành quy chế làm
việc của UBKT cấp mình, kiện toàn nhân sự UBKT, đồng thời chỉ đạo và tổ
chức thực hiện nhiệm vụ, chương trình KT, GS theo hướng đảm bảo thiết thực
và hiệu quả, xác định nhiệm vụ KT, GS theo Điều 30, Điều lệ Đảng là nhiệm vụ
trung tâm, thường xuyên trong công tác lãnh đạo của cấp ủy; nội dung KT, GS
tập trung việc tổ chức quán triệt, triển khai thực hiện Nghị quyết Đại hội Đảng
toàn quốc lần thứ XI, Nghị quyết Đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ XIV…
14


* Ủy ban kiểm tra các cấp ở Đảng bộ Thành phố Hải Phòng.
Đảng bộ Hải Phòng hiện có 111.785 đảng viên (tính đến tháng 4 năm

2015) sinh hoạt tại 35 đảng bộ trực thuộc Thành uỷ gồm 15 đảng bộ quận, huyện;
02 đảng bộ khối; 11 đảng bộ cấp trên cơ sở; 7 đảng bộ cơ sở (trong đó có 04 đảng
bộ được giao quyền cấp trên cơ sở); 1442 TCCSĐ (đảng bộ cơ sở là 585, chi bộ
cơ sở là 857); 6254 TCĐ trực thuộc đảng bộ cơ sở. Tổng số uỷ viên Thành uỷ là
55 đồng chí, cán bộ thuộc diện Thành uỷ quản lý có 420 đồng chí.
UBKT các cấp được tổ chức từ đảng ủy cơ sở trở lên theo hệ thống dọc
từ trên xuống gồm: UBKT Thành ủy (gồm 11 thành viên), UBKT quận
(huyện) ủy, đảng ủy khối, đảng ủy cấp trên cơ sở (gồm 35 UBKT với 175
thành viên) và 585 UBKT đảng ủy cơ sở với 1775 thành viên; Đồng chí chủ
nhiệm UBKT là Thường vụ cấp ủy cùng cấp, đồng chí phó chủ nhiệm thường
trực là cấp ủy viên cùng cấp (Phụ lục số 1).
Chức năng của UBKT các cấp theo Điều lệ Đảng gồm:
Nghiên cứu đề xuất với cấp ủy lãnh đạo, chỉ đạo công tác KT, GS đối
với các tổ chức đảng trực thuộc; Giúp cấp ủy cùng cấp chỉ đạo, hướng dẫn
cấp ủy, UBKT cấp dưới về công tác KT, GS; Thực hiện KT, GS đảng viên,
TCĐ theo điều 32 Điều lệ Đảng.
Nhiệm vụ của UBKT các cấp được xác định theo điều 32 Điều lệ
Đảng:
KTĐV, kể cả cấp ủy viên cùng cấp khi có DHVP tiêu chuẩn đảng viên,
tiêu chuẩn cấp ủy viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên.
Kiểm tra TCĐ cấp dưới khi có DHVP trong việc chấp hành Cương lĩnh
chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên tắc tổ chức của
Đảng; kiểm tra việc thực hiện nhiệm vụ kiểm tra và thi hành kỷ luật trong Đảng.
Giám sát cấp ủy viên cùng cấp, cán bộ diện cấp ủy cùng cấp quản lý và
TCĐ cấp dưới về việc thực hiện chủ trương, đường lối, chính sách của Đảng, nghị
quyết của các cấp ủy và đạo đức lối sống theo quy định của BCH Trung ương.
Xem xét, kết luận những trường hợp vi phạm kỷ luật, quyết định hoặc
đề nghị cấp uỷ thi hành kỷ luật.
Giải quyết tố cáo đối với TCĐ và đảng viên; giải quyết khiếu nại về kỷ luật Đảng.
15



Kiểm tra tài chính của cấp ủy cấp dưới và của cơ quan tài chính cấp ủy cùng cấp.
Quyền hạn của UBKT các cấp.
Uỷ ban kiểm tra làm việc dưới sự lãnh đạo, chỉ đạo của cấp uỷ, BTV
cấp uỷ cùng cấp. Trường hợp giữa UBKT và BTV cấp uỷ, cấp uỷ cùng cấp có
ý kiến khác nhau trong thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của UBKT theo quy
định của Điều lệ Đảng thì phải chấp hành kết luận, quyết định của BTV cấp
uỷ, cấp uỷ, đồng thời báo cáo UBKT cấp trên. Trường hợp UBKT cấp trên có
ý kiến khác với ý kiến của cấp uỷ, BTV cấp uỷ cấp dưới thì báo cáo cấp uỷ
cùng cấp xem xét, quyết định. Trường hợp UBKT Trung ương có ý kiến khác
với tỉnh uỷ, thành uỷ, đảng uỷ trực thuộc Trung ương thì báo cáo Ban Bí thư,
Bộ Chính trị xem xét, quyết định.
Uỷ ban kiểm tra cấp trên hướng dẫn cấp uỷ và các TCĐ cấp dưới về
công tác KT, GS, kỷ luật đảng; chỉ đạo, hướng dẫn, KT, GS UBKT cấp dưới
về công tác KT, GS, kỷ luật đảng.
Kết luận số 72-KL/TW ngày 17/5/2010 của Bộ Chính trị về Chiến lược
công tác KT,GS của Đảng đến năm 2020 đã quyết định mở rộng quyền hạn
của UBKT các cấp theo hướng: UBKT cấp trên được quyền chỉ đạo, hướng
dẫn cấp ủy, TCĐ cấp dưới về công tác KT,GS. Quyết định đình chỉ các chức
vụ trong Đảng, đình chỉ sinh hoạt Đảng, đình chỉ sinh hoạt cấp ủy đối với cấp
ủy viên cấp dưới theo thẩm quyền xử lý kỷ luật Đảng. Quyết định thu hồi,
hủy bỏ các quyết định của cấp ủy, TCĐ cấp dưới trái với quy định của Đảng
và quy định của cấp ủy cấp trên về công tác KT,GS. Khi phát hiện đảng viên,
TCĐ vi phạm kỷ luật Đảng, pháp luật Nhà nước, UBKT yêu cầu cơ quan
pháp luật xem xét, giải quyết theo quy định của pháp luật.
Mối quan hệ của UBKT các cấp.
Với cấp ủy (BTV) cùng cấp: Ủy ban kiểm tra làm việc dưới sự lãnh đạo
của cấp ủy (BTV) cùng cấp; chấp hành nghiêm chỉnh các quy định của Điều
lệ Đảng về chức năng, nhiệm vụ và quyền hạn của UBKT; định kỳ báo cáo

với cấp ủy chương trình, kế hoạch, kết quả thực hiện nhiệm vụ KT, GS, kỷ
luật đảng và thực hiện các nghị quyết, chỉ thị, quyết định, quy định của cấp ủy

16


về công tác KT, GS, kỷ luật đảng, về quy chế làm việc của UBKT và các
nhiệm vụ do cấp ủy (BTV) giao; chịu sự KT, GS của cấp ủy (BTV) .
Với ủy ban kiểm tra cấp trên trực tiếp: Ủy ban kiểm tra làm việc dưới
sự chỉ đạo, hướng dẫn, KT, GS của UBKT cấp trên về phương hướng, nhiệm
vụ, nghiệp vụ công tác KT, GS và thi hành kỷ luật trong Đảng. Chịu sự đôn
đốc, KT, GS của UBKT cấp trên về thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của UBKT
theo quy định của Điều lệ Đảng. Khi cần thiết, UBKT cấp trên trực tiếp chỉ đạo
giải quyết một số vấn đề cụ thể trong việc thực hiện nhiệm vụ công tác KT, GS
và thi hành kỷ luật trong Đảng của UBKT cấp dưới. Phối hợp với ban tổ chức
của cấp ủy cùng cấp và cấp ủy cấp dưới chuẩn bị nhân sự UBKT theo hướng
dẫn của UBKT cấp trên; giúp cấp ủy ban hành quy chế làm việc của UBKT;
kiện toàn cơ quan UBKT.
* Công tác KTĐV, tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm kỷ luật.
- Quan niệm.
Kiểm tra TCĐ cấp dưới và đảng viên có DHVP là một trong những
nhiệm vụ thường xuyên, trọng tâm của UBKT các cấp được quy định tại Điều
lệ Đảng, nhằm xem xét, kết luận đảng viên, TCĐ vi phạm (nếu có) tiêu chuẩn
đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên, thực hiện nhiệm vụ đảng viên; trong việc
chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị, kết luận,
các nguyên tắc tổ chức của Đảng và Pháp luật của Nhà nước (đối với TCĐ);
xử lý kịp thời nếu có vi phạm đến mức phải xử lý.
Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ
tịch Hồ Chí Minh đặc biệt coi trọng công tác KT, GS và quan tâm lãnh đạo,
chỉ đạo công tác KTĐV, TCĐ có DHVP. Ngày 06-3-1956, Bộ Chính trị có

Nghị quyết 04 -NQ/TW, trong đó có xác định về nhiệm vụ và quyền hạn Ban
Kiểm tra Trung ương là: thường xuyên kiểm tra các đảng bộ, các cơ quan trực
thuộc Trung ương Đảng, các cơ quan chính quyền, trong các đoàn thể nhân
dân và các cấp bộ đảng ở địa phương về những việc mà cấp uỷ đảng và đảng
viên thuộc những tổ chức đó chống lại hoặc làm sai Điều lệ và kỷ luật của
Đảng. Điều lệ Đảng từ Đại hội III đến Đại hội V của Đảng chỉ quy định
KTĐV làm trái hoặc vi phạm, không quy định kiểm tra TCĐ có vi phạm hoặc
17


làm trái. Đến Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII, xuất phát từ yêu cầu của
tình hình xây dựng và phát triển của Đảng trong thời kỳ đổi mới; trước tác
động tiêu cực của xã hội, tình trạng vi phạm trong Đảng ngày càng gia tăng,
với tính chất ngày càng nghiêm trọng, Điều lệ Đảng đã quy định UBKT các
cấp có nhiệm vụ: "Kiểm tra TCĐ cấp dưới khi có DHVP trong việc chấp hành
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên
tắc tổ chức của Đảng". Từ đó đến nay, kiểm tra TCĐ cấp dưới khi có DHVP là
một nhiệm vụ quan trọng, trực tiếp và thường xuyên của UBKT các cấp [30,
tr.14].
Thực tiễn công tác kiểm tra từ nhiệm kỳ Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ
VIII đến nay đã khẳng định, việc quy định và giao nhiệm vụ cho UBKT các
cấp kiểm tra TCĐ cấp dưới khi có DHVP là phù hợp với yêu cầu của việc thực
hiện nhiệm vụ chính trị và công tác XDĐ trong thời kỳ đổi mới.
Ngày 16-10-1948, BTV Trung ương Đảng ra quyết định thành lập Ban
Kiểm tra Trung ương, tuy chưa quy định cụ thể về KTĐV, nhưng đã quy định
Ban Kiểm tra Trung ương có nhiệm vụ điều tra và báo cáo cho Trung ương
những việc như: Đường lối chỉ đạo của Trung ương có đúng và sát không? việc
thi hành nghị quyết, chỉ thị của Trung ương trong toàn Đảng như thế nào?
những việc bất thường xảy ra ở các cấp, các ngành; tình hình cán bộ ở các cấp
thế nào? Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ II của Đảng quy định nhiệm vụ của

Ban Kiểm tra là: "Xem xét tư cách và cách làm việc của các đảng viên, chống
nạn quan liêu, hủ hoá, lạm dụng chức vụ..." [57, tr.16]. Đại hội đại biểu toàn
quốc lần thứ III của Đảng (ban kiểm tra được gọi là UBKT) quy định nhiệm vụ
của UBKT là: "Kiểm tra những vụ đảng viên làm trái Điều lệ, kỷ luật của
Đảng, trái với đạo đức cách mạng và pháp luật của Nhà nước..." [25, tr.19].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IV của Đảng quy định: "Kiểm tra đảng viên
(kể cả cấp uỷ viên cùng cấp) chấp hành Điều lệ Đảng, nhằm vào việc chấp
hành nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, chấp hành kỷ luật của Đảng và
pháp luật Nhà nước, tư cách đảng viên..." [28, tr.27].
Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ V của Đảng quy định: "Kiểm tra
những vụ đảng viên (kể cả cấp uỷ viên cùng cấp) vi phạm Điều lệ Đảng, nhằm
18


vào những vụ vi phạm nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng, vi phạm kỷ luật
của Đảng và pháp luật Nhà nước, tư cách đảng viên..."[28, tr.24]. Đại hội đại
biểu toàn quốc lần thứ VI của Đảng quy định: "KTĐV (kể cả cấp uỷ viên cùng
cấp) chấp hành Điều lệ Đảng, nhằm vào việc chấp hành nguyên tắc tổ chức và
sinh hoạt Đảng, chấp hành kỷ luật của Đảng và pháp luật Nhà nước, tư cách
đảng viên" [28, tr.24]. Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng quy
định: "KTĐV (kể cả cấp uỷ viên cùng cấp) chấp hành nguyên tắc tổ chức và
sinh hoạt Đảng, giữ gìn phẩm chất đạo đức cách mạng của đảng viên" [29,
tr.15]. Từ Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VIII đến Đại hội lần thứ XI của
Đảng quy định: "KTĐV, kể cả cấp uỷ viên cùng cấp khi có DHVP tiêu chuẩn
đảng viên, tiêu chuẩn cấp uỷ viên và trong việc thực hiện nhiệm vụ đảng viên"
[30, tr.15]
Như vậy, từ khi Ban Kiểm tra Trung ương (sau này là UBKT) được
thành lập đến nay, đều có nhiệm vụ điều tra, xem xét hoặc KTĐV. Nhiệm vụ
của UBKT các cấp về KTĐV luôn được Đảng ta bổ sung, sửa đổi để đáp ứng
với yêu cầu của từng giai đoạn cách mạng. Từ Đại hội VIII của Đảng đến

nay, Đảng ta sửa đổi nhiệm vụ của UBKT các cấp là KTĐV khi có DHVP.
KTĐV khi có DHVP là nhiệm vụ của UBKT các cấp nhằm xem xét, kết luận
đảng viên có hoặc không có vi phạm; luôn được xác định là một nhiệm vụ
trọng tâm của UBKT các cấp. Quy định này có ý nghĩa quan trọng và phù hợp
với yêu cầu của nhiệm vụ chính trị và công tác XDĐ trong tình hình mới.
Quyết định kiểm tra khi có DHVP đối với TCĐ cấp dưới hoặc đảng
viên là việc TCĐ có thẩm quyền căn cứ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn, các
quy định của Đảng, đề nghị của cán bộ kiểm tra hoặc đơn vị thuộc cơ quan
UBKT để ban hành quyết định kiểm tra khi có DHVP.
Từ sự phân tích trên có thể quan niệm: Kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới
khi có dấu hiệu vi phạm là việc tổ chức đảng có thẩm quyền kiểm tra khi tổ
chức đảng có biểu hiện không tuân theo, không làm hoặc làm trái quy định để
xem xét, đánh giá, kết luận có hay không có vi phạm trong việc chấp hành
Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, nghị quyết, chỉ thị của Đảng, các nguyên
tắc của Đảng, pháp luật của Nhà nước.
19


Kiểm tra đảng viên khi có dấu hiệu vi phạm là việc tổ chức đảng có
thẩm quyền kiểm tra khi đảng viên có biểu hiện không tuân theo, không làm
hoặc làm trái quy định để xem xét, đánh giá, kết luận có hay không có vi
phạm tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên và trong việc thực hiện
nhiệm vụ đảng viên.
Khi chưa được cấp có thẩm quyền kiểm tra, kết luận thì các hành vi có
biểu hiện sai trái của tổ chức đảng, đảng viên chỉ được coi là "có dấu hiệu vi
phạm". Sự khác nhau giữa kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên khi có
dấu hiệu vi phạm và kiểm tra chấp hành: Kiểm tra chấp hành được tiến hành
thường xuyên hoặc theo định kỳ nhằm làm rõ ưu điểm để phát huy, thiếu sót,
khuyết điểm để uốn nắn, sửa chữa, khắc phục; điều chỉnh những hạn chế, bất
cập, yếu kém trong chỉ đạo, tổ chức thực hiện của tổ chức đảng cấp dưới và

đảng viên hoặc nhằm phân tích chất lượng của tổ chức đảng, đảng viên. Kiểm
tra khi có dấu hiệu vi phạm chỉ được tiến hành kiểm tra khi đã phát hiện, có
cơ sở xác định có dấu hiệu vi phạm, nội dung kiểm tra theo nội dung phát
hiện dấu hiệu vi phạm, cụ thể hơn nội dung kiểm tra chấp hành; qua kiểm tra,
kết luận tổ chức đảng, đảng viên có vi phạm hay không có vi phạm, vi phạm
đến mức phải xử lý hay không đến mức phải xử lý.
Mục đích KTĐV, TCĐ có DHVP nhằm ngăn chặn kịp thời, không để
khuyết điểm trở thành vi phạm lớn, vi phạm ít nghiêm trọng trở thành nghiêm
trọng, vi phạm của một người trở thành vi phạm của nhiều người.
Chủ thể kiểm tra ĐV, TCĐ cấp dưới khi có DHVP là UBKT các cấp ở
Đảng bộ Thành phố Hải Phòng; khi cần thiết, cấp ủy kiểm tra.
Đối tượng kiểm tra ĐV dưới khi có DHVP: Đảng viên khi có dấu hiệu vi
phạm, trước hết là cấp uỷ viên cùng cấp, đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp uỷ
cùng cấp quản lý; khi cần thiết kiểm tra đảng viên do tổ chức đảng cấp dưới
quản lý.
Đối tượng kiểm tra TCĐ cấp dưới khi có DHVP: Tổ chức đảng cấp dưới
là đối tượng kiểm tra của uỷ ban kiểm tra gồm tổ chức đảng do cấp uỷ, ban
thường vụ cấp uỷ cùng cấp lập ra và cấp uỷ, tổ chức đảng thuộc phạm vi lãnh
đạo, quản lý của cấp uỷ cùng cấp; trước hết là cấp dưới trực tiếp, khi cần thiết thì
20


kiểm tra tổ chức đảng cấp dưới cách nhiều cấp. Khi kiểm tra tổ chức đảng cấp
dưới khi có dấu hiệu vi phạm có thể kết hợp kiểm tra đảng viên là thành viên của
tổ chức đảng đó.
Lực lượng tham gia: cấp ủy TCĐ các cấp, cán bộ, đảng viên, các cơ quan
ban ngành của cấp ủy, UBND các cấp và các đoàn thể, tổ chức chính trị xã hội.
Nội dung kiểm tra TCĐ cấp dưới khi có DHVP:
Đối với đảng viên có biểu hiện không thực hiện hoặc thực hiện không
đúng quy định về thực hiện nhiệm vụ đảng viên (quy định tại Điều 2 của Điều

lệ Đảng); tiêu chuẩn đảng viên, tiêu chuẩn cấp ủy viên (quy định tại Điều 12
của Điều lệ Đảng);
Đối với TCĐ có biểu hiện không thực hiện hoặc thực hiện không đúng
quy định về chấp hành Cương lĩnh chính trị, Điều lệ Đảng, chủ trương, nghị
quyết, chỉ thị, quy định của Đảng, của cấp uỷ cấp trên và cấp mình; pháp luật
của Nhà nước; Việc chấp hành nguyên tắc tập trung dân chủ, quy chế làm
việc, chế độ công tác, thực hiện dân chủ trong Đảng, giữ gìn đoàn kết nội bộ;
Việc thực hành tiết kiệm, phòng, chống tham nhũng, lãng phí; Việc quản lý,
giáo dục, rèn luyện phẩm chất, đạo đức, lối sống của cán bộ, đảng viên. Việc
tuyển dụng, quy hoạch, luân chuyển, đào tạo, đề bạt, bố trí, sử dụng cán bộ…
Công tác kiểm tra TCĐ cấp dưới và đảng viên khi có DHVP có ý
nghĩa, tác dụng: Kết luận rõ đúng, sai, xác định rõ vi phạm (nếu có) của TCĐ,
đảng viên để xem xét, xử lý kịp thời, giữ nghiêm kỷ luật đảng; bảo đảm cho
Cương lĩnh, Điều lệ, nghị quyết, chỉ thị, các nguyên tắc tổ chức của Đảng,
pháp luật của Nhà nước được chấp hành nghiêm chỉnh.
Giúp cho TCĐ, đảng viên được kiểm tra thấy được ưu điểm để phát
huy; thiếu sót, hạn chế, yếu kém, khuyết điểm, vi phạm (nếu có) để khắc
phục, sửa chữa. Giúp TCĐ quản lý đảng viên thấy rõ trách nhiệm của mình,
rút ra bài học kinh nghiệm trong việc quản lý, giáo dục và KT, GS đảng viên,
góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên, xây dựng TCĐ TSVM.
Giúp cho công tác KT, GS có chất lượng, hiệu quả cao, tiết kiệm công
sức và tiền của, góp phần cải cách hành chính trong hoạt động của Đảng; đấu
tranh phòng, chống quan liêu, tham nhũng, lãng phí, tiêu cực.
21


Giúp TCĐ, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể chính trị - xã
hội thấy được những hạn chế, bất cập trong trong lãnh đạo, chỉ đạo, quản lý, điều
hành và trong hoạt động của mình; thấy được những quy định không còn phù hợp
hoặc còn thiếu để sửa đổi, bổ sung theo thẩm quyền hoặc kiến nghị cấp có thẩm

quyền sửa đổi, bổ sung, ban hành mới các quy định cho chặt chẽ, đầy đủ, phù hợp
với tình hình thực tế.
Căn cứ, phương pháp phát hiện dấu hiệu vi phạm đối với tổ chức đảng
cấp dưới và đảng viên.
Căn cứ phát hiện dấu hiệu vi phạm:
Chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của cấp ủy, tổ chức đảng, uỷ ban
kiểm tra, chi bộ; chương trình, kế hoạch công tác năm của cấp ủy, tổ chức
đảng, ủy ban kiểm tra và các đơn vị trong cơ quan uỷ ban kiểm tra (đối với
cấp Trung ương và cấp tỉnh, thành ủy, đảng ủy trực thuộc Trung ương). Chức
trách, nhiệm vụ của cấp ủy viên, thành viên của tổ chức đảng, thành viên uỷ
ban kiểm tra được phân công phụ trách, của cán bộ kiểm tra được phân công
theo dõi lĩnh vực, địa bàn.
Quy định của Bộ Chính trị, cấp ủy các cấp về phân cấp quản lý cán bộ.
Các thông tin, tài liệu, báo cáo, phản ánh về dấu hiệu vi phạm của tổ chức
đảng cấp dưới và đảng viên được thu thập, phát hiện từ các nguồn sau: Báo
cáo kết quả công tác kiểm tra, giám sát, thanh tra, điều tra, kiểm toán, kiểm
điểm của các cấp uỷ, tổ chức đảng, tổ chức nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các
đoàn thể chính trị - xã hội. Báo cáo tự phê bình và phê bình của tổ chức đảng
và đảng viên; báo cáo kết quả bình xét, phân tích chất lượng đảng viên, tổ
chức đảng.Báo cáo, kiến nghị của cấp uỷ, tổ chức đảng cấp dưới; tố cáo,
khiếu nại, kiến nghị, phản ảnh, góp ý của đảng viên và quần chúng. Kết quả
khảo sát, thăm dò, thống kê, phân tích, tổng hợp dấu hiệu vi phạm đối với cấp
ủy, tổ chức đảng và đảng viên của ủy ban kiểm tra các cấp. Phản ánh của các
phương tiện thông tin đại chúng đã qua khảo sát, nắm tình hình bước đầu và
các nguồn thông tin khác

22


Phương pháp phát hiện dấu hiệu vi phạm: Cấp ủy viên, thành viên tổ

chức đảng, thành viên uỷ ban kiểm tra được phân công phụ trách, cán bộ kiểm
tra được phân công theo dõi lĩnh vực, địa bàn phát hiện dấu hiệu vi phạm
thông qua:
Nghiên cứu, thu thập thông tin, tài liệu, hiện vật về dấu hiệu vi phạm
của tổ chức đảng cấp dưới hoặc đảng viên thông qua các nguồn thông tin nêu
tại căn cứ phát hiện dấu hiệu vi phạm. Thực hiện việc giám sát thường xuyên
đối với cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới và đảng viên; dự các cuộc họp, hội nghị
của cấp ủy, tổ chức đảng cấp dưới.
Nghiên cứu thông tin, tài liệu, hiện vật thu thập qua các cuộc kiểm tra
và do tổ chức, cá nhân có liên quan cung cấp. Tham gia các đoàn kiểm tra,
giám sát, đoàn công tác của cấp uỷ, các cơ quan tham mưu, giúp việc của cấp
uỷ cùng cấp hoặc cấp dưới; tham gia các đoàn thanh tra, kiểm tra, giám sát,
của các tổ chức nhà nước; trao đổi trực tiếp đối với tổ chức đảng hoặc đảng
viên; kết quả thực hiện chất vấn tại các kỳ họp của cấp ủy, Quốc hội, hội đồng
nhân dân, các tổ chức chính trị - xã hội các cấp. Kết quả giám sát chuyên đề;
báo cáo kiểm tra của cấp ủy, tổ chức đảng và ủy ban kiểm tra đối với tổ chức
đảng cấp dưới và đảng viên.
- Điều kiện, phương pháp xác định dấu hiệu vi phạm
Điều kiện để xác định dấu hiệu vi phạm: Tổ chức đảng cấp dưới hoặc
đảng viên được xác định là có dấu hiệu vi phạm khi nội dung thông tin, tài
liệu, hiện vật phản ánh về dấu hiệu vi phạm đã có căn cứ, cơ sở thể hiện rõ:
Tên, địa chỉ, thời điểm, nội dung dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng
cấp dưới hoặc họ tên, địa chỉ, thời điểm, nội dung dấu hiệu vi phạm của đảng
viên. Tên, địa chỉ, thời điểm, nội dung dấu hiệu vi phạm của tổ chức đảng cấp
dưới có liên quan hoặc họ tên, địa chỉ, thời điểm, nội dung dấu hiệu vi phạm
của đảng viên có liên quan. Trường hợp nội dung dấu hiệu vi phạm đã có cơ

23



sở nhưng đối tượng vi phạm chưa rõ thì căn cứ vào các quy định hiện hành
của Đảng và Nhà nước để xác định, làm rõ đối tượng có dấu hiệu vi phạm.
Phương pháp xác định dấu hiệu vi phạm: Cán bộ kiểm tra được phân
công theo dõi lĩnh vực, địa bàn căn cứ các thông tin, tài liệu, hiện vật về
DHVP của TCĐ cấp dưới và đảng viên đã phát hiện và nhận được để tiến
hành phân tích, sàng lọc, phân loại, tổng hợp những thông tin có đủ căn cứ, cơ
sở, điều kiện xác định DHVP. Đối chiếu nội dung thông tin, tài liệu, hiện vật
về DHVP đã phát hiện với các quy định cụ thể của Đảng, Nhà nước, Mặt trận
Tổ quốc và các đoàn thể chính trị - xã hội có liên quan trực tiếp đến đối tượng
và nội dung DHVP. Xây dựng và báo cáo đề xuất việc kiểm tra khi có DHVP
trình thường trực UBKT hoặc UBKT xem xét, quyết định kiểm tra hay không
kiểm tra (đối với cấp huyện và tương đương trở xuống).
- Điều kiện quyết định kiểm tra khi có dấu hiệu vi phạm.
Báo cáo đề xuất quyết định kiểm tra của cán bộ kiểm tra (đối với cấp
huyện và tương đương trở xuống), của vụ (thuộc Cơ quan UBKT Trung
ương) hoặc phòng (thuộc cơ quan UBKT cấp tỉnh ủy, thành ủy, đảng ủy trực
thuộc Trung ương) hoặc do Bộ Chính trị, Ban Bí thư, ban thường vụ, thường
trực cấp ủy giao UBKT cùng cấp có đủ cơ sở để xác định cấp ủy, TCĐ cấp dưới,
đảng viên có DHVP và các tài liệu liên quan.
Việc phát hiện, xác định DHVP của TCĐ cấp dưới hoặc đảng viên bảo
đảm đúng nguyên tắc, thẩm quyền, quy trình, thủ tục theo quy định của Đảng.
Các quy định của Đảng, Nhà nước, Mặt trận Tổ quốc, các đoàn thể
chính trị - xã hội, quy định của cơ quan, đơn vị còn hiệu lực thi hành tại thời
điểm TCĐ cấp dưới hoặc đảng viên thực hiện hành vi vi phạm quy định đó.
Tình hình cụ thể về hoạt động, sinh hoạt của TCĐ, đảng viên dự kiến được
kiểm tra và tình hình, điều kiện thực tế của UBKT, năng lực cán bộ kiểm tra.
- Thẩm quyền quyết định kiểm tra khi có DHVP của UBKT các cấp ở
Đảng bộ thành phố Hải phòng

24



TCĐ có thẩm quyền quyết định kiểm tra khi có DHVP đối với TCĐ
cấp dưới hoặc đảng viên là thường trực UBKT hoặc UBKT (nơi không có
thường trực UBKT).
UBKT cấp ủy cấp tỉnh, huyện và tương đương quyết định kiểm tra: Cấp
ủy viên cùng cấp (trừ các đồng chí là cán bộ thuộc diện cấp trên quản lý) và
đảng viên là cán bộ thuộc diện cấp ủy tỉnh, huyện và tương đương quản lý
theo quy định của cấp ủy tỉnh, huyện và tương đương về phân cấp quản lý cán
bộ. Các TCĐ cấp dưới, trước hết là cấp dưới trực tiếp.
UBKT Đảng ủy cơ sở quyết định kiểm tra: Đảng viên, trước hết là cấp
ủy viên cùng cấp (nhưng không phải là cán bộ thuộc diện cấp trên quản lý);
đảng viên là cán bộ thuộc diện đảng ủy cơ sở quản lý theo quy định về phân
cấp quản lý cán bộ của cấp ủy huyện, quận và tương đương. Các TCĐ cấp
dưới trực thuộc đảng ủy cơ sở.
1.1.2. Những vấn đề cơ bản về chất lượng công tác kiểm tra đảng
viên, tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm của ủy ban kiểm tra các cấp ở Đảng
bộ thành phố Hải Phòng
* Quan niệm và yếu tố cấu thành chất lượng công tác kiểm tra đảng
viên, tổ chức đảng có dấu hiệu vi phạm của ủy ban kiểm tra các cấp ở Đảng
bộ thành phố Hải Phòng
- Quan niệm chất lượng công tác KTĐV, TCĐ có DHVP là kết tinh giá
trị của các hoạt động lãnh đạo, chỉ đạo, tổ chức triển khai thực hiện nhiệm vụ
KTĐV và TCĐ khi có DHVP của cấp ủy các cấp và được thực hiện bằng các
nội dung, hình thức, quy trình, cách tổ chức kiểm tra của UBKT các cấp;
được biểu hiện ở năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu của cấp ủy, TCĐ, UBKT,
ở phẩm chất, năng lực và vai trò tiền phong gương mẫu, ý thức tự giác của
đội ngũ cán bộ, đảng viên; ở kết quả lãnh đạo cơ quan, đơn vị, địa phương
thực hiện thắng lợi mọi nhiệm vụ được giao, đảng bộ trong sạch, vững mạnh,
có năng lực lãnh đạo, sức chiến đấu cao.


25


×