Tải bản đầy đủ (.doc) (99 trang)

LUẬN văn THẠC sĩ CHẤT LƯỢNG CÔNG tác PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN là NGƯỜI dân tộc KHƠ ME ở các ĐẢNG bộ xã TỈNH bạc LIÊU HIỆN NAY

Bạn đang xem bản rút gọn của tài liệu. Xem và tải ngay bản đầy đủ của tài liệu tại đây (475.15 KB, 99 trang )

MỤC LỤC
Trang
MỞ ĐẦU
Chương 1

4
CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG

13

VIÊN LÀ NGƯỜI DÂN TỘC KHMER CỦA CÁC
ĐẢNG BỘ XÃ Ở TỈNH BẠC LIÊU - NHỮNG VẤN
ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Các đảng bộ xã và chất lượng công tác phát triển

13

đảng viên là người dân tộc Khmer của các đảng bộ
xã ở tỉnh Bạc Liêu
1.2. Thực trạng và một số kinh nghiệm nâng cao chất

32

lượng công tác phát triển đảng viên là người dân tộc
Khmer của các đảng bộ xã ở tỉnh Bạc Liêu
Chương 2

PHƯƠNG HƯỚNG, YÊU CẦU VÀ NHỮNG GIẢI

50



PHÁP CƠ BẢN NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG
CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN LÀ
NGƯỜI DÂN TỘC KHMER CỦA CÁC ĐẢNG BỘ
XÃ Ở TỈNH BẠC LIÊU HIỆN NAY

2.1. Những yếu tố tác động và phương hướng yêu cầu

51

nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng viên là
người dân tộc Khmer của các đảng bộ xã hiện nay
2.2. Những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng công

61

tác phát triển đảng viên là người dân tộc Khmer của
các đảng bộ xã ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay
KẾT LUẬN

83

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

86

PHỤ LỤC

90



2
BẢNG CHỮ VIẾT TẮT

CHỮ VIẾT ĐẦY ĐỦ

CHỮ VIẾT TẮT

Công nghiệp hóa, hiện đại hóa

CNH, HĐH

Công tác phát triển đảng viên

CTPTĐV

Đội ngũ đảng viên

ĐNĐV

Hệ thống chính trị

HTCT

Năng lực lãnh đạo

NLLĐ

Tổ chức cơ sở đảng


TCCSĐ

Sức chiến đấu

SCĐ

Xây dựng Đảng

XDĐ


3
MỞ ĐẦU
1. Lý do chọn đề tài
Trong suốt quá trình lãnh đạo cách mạng Đảng ta luôn coi trọng
CTPTĐV, chăm lo xây dựng ĐNĐV, coi đó là nhiệm vụ cơ bản, thường xuyên,
là vấn đề có tính quy luật trong công tác XDĐ, có ý nghĩa quyết định đến sự
sống còn của Đảng, sự thành bại của cách mạng. Chỉ thị 52-CT/TW, ngày 21
tháng 01 năm 2002 của Bộ Chính trị chỉ rõ: Kết nạp đảng viên là nhiệm vụ quan
trọng, thường xuyên, có tính quy luật trong công tác XDĐ nhằm tăng cường
thêm sức mạnh chiến đấu và bảo đảm sự kế thừa, phát triển của Đảng. Đảng là
một cơ thể chính trị xã hội sống, có quá trình hình thành, phát triển và đào thải
riêng. Vì vậy, CTPTĐV là đòi hỏi tự nhiên, là quy luật tất yếu nhằm để bù đắp
số lượng giảm đi và tạo thêm sinh lực cho Đảng, bảo đảm sự kế thừa, tạo thêm
nhân tố mới trong việc nâng cao chất lượng ĐNĐV.
Để có ĐNĐV đủ số lượng, cơ cấu hợp lý, từng đảng viên có chất lượng
tốt, đảm bảo sự lãnh đạo của Đảng trên tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội,
trong các tổ chức của hệ thống chính trị từ Trung ương đến cơ sở, trong các
thành phần dân tộc, giai cấp, tầng lớp, các nhóm dân cư, lứa tuổi... phải đặc biệt
coi trọng kết nạp đảng viên, nhất là những nơi có ít và chưa có đảng viên. Đây là

phương hướng phát triển đảng viên được Đảng ta chỉ ra và nhất quán thực hiện
trong suốt quá trình XDĐ và lãnh đạo cách mạng.
TCCSĐ nói chung, các đảng bộ xã ở tỉnh Bạc Liêu nói riêng có vị trí, vai trò
rất quan trọng trong hệ thống tổ chức và hoạt động của Đảng. Đảng bộ xã là nơi
trực tiếp gắn bó với nhân dân, là cầu nối giữa Đảng với dân, là hạt nhân chính trị
lãnh đạo ở xã, nơi trực tiếp đưa đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp
luật của Nhà nước vào cuộc sống; đồng thời là nơi trực tiếp tiến hành các hoạt động
xây dựng nội bộ Đảng, nơi trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên và tiến
hành công tác phát triển đảng, sàng lọc đảng viên.
Nhận thức rõ được vị trí, vai trò, tầm quan trọng đó, những năm qua cấp
ủy, tổ chức đảng các cấp ở tỉnh Bạc Liêu luôn coi trọng và quan tâm CTPTĐV,


4
nhất là CTPTĐV là người dân tộc Khmer. Do đó CTPTĐV đã đạt được những
kết quả quan trọng, số lượng đảng viên là người dân tộc Khmer ngày càng tăng,
tuyệt đại đa số đảng viên là người dân tộc Khmer đã phát huy tốt vai trò tiền
phong gương mẫu, góp phần cải thiện cơ cấu và nâng cao chất lượng ĐNĐV của
các đảng bộ, tạo điều kiện thuận lợi để các đảng bộ xã lãnh đạo thực hiện thắng
lợi các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, quốc phòng, an ninh, hoàn thành
mục tiêu, nhiệm vụ công cuộc đổi mới ở địa phương.
Tuy nhiên, CTPTĐV là người dân tộc Khmer của các đảng bộ xã ở tỉnh
Bạc Liêu còn bộc lộ những hạn chế, bất cập nhất định cả về nhận thức, trách
nhiệm của các tổ chức, các lực lượng; nội dung, hình thức, biện pháp chưa thật
sát hợp, có lúc, có nơi còn chạy theo số lượng đơn thuần, coi nhẹ, hạ thấp chất
lượng, tiêu chuẩn đảng viên hoặc xem nhẹ CTPTĐV là người dân tộc Khmer;
hẹp hòi, định kiến, tuyệt đối hóa tiêu chuẩn đảng viên.
Hiện nay, tình hình thế giới, khu vực và trong nước đang có những diễn biến
nhanh chóng, phức tạp, khó lường. Các thế lực đang đẩy mạnh chiến lược “diễn biến
hòa bình”, bạo loạn lật đổ hòng phá hoại Đảng, phá hoại công cuộc đổi mới trên đất

nước ta, trong đó các thế lực thù địch lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo để thực hiện
âm mưu đó. Trước yêu cầu xây dựng các đảng bộ xã ở tỉnh Bạc Liêu thực sự trong
sạch, vững mạnh cả về chính trị, tư tưởng và tổ chức, đủ sức lãnh đạo thực hiện
thắng lợi các nhiệm vụ chính trị, đang đặt ra những yêu cầu mới đối với CTPTĐV là
người dân tộc Khmer của các đảng bộ xã ở tỉnh Bạc Liêu.
Vì vậy, nghiên cứu góp phần làm sáng tỏ lý luận, thực tiễn và đề xuất
những giải pháp để nâng cao chất lượng CTPTĐV là người dân tộc Khmer của
các đảng bộ xã ở tỉnh Bạc Liêu là vấn đề có ý nghĩa lý luận, thực tiễn và mang
tính cấp thiết.
2. Tình hình nghiên cứu liên quan đến đề tài
CTPTĐV là một nhiệm vụ quan trọng, là một trong những nội dung then
chốt của công tác XDĐ. Trong những năm qua Đảng ta đã có nhiều nghị quyết,


5
chỉ thị và có nhiều cơ quan, cán bộ khoa học, cán bộ lãnh đạo, quản lý nghiên
cứu về CTPTĐV với nhiều góc độ khác nhau, tiêu biểu:
* Những công trình nghiên cứu về nâng cao chất lượng TCCSĐ cấp xã.
“Công tác vận động giáo dân của tổ chức cơ sở đảng (cấp xã) đồng bằng
Bắc Bộ nước ta hiện nay”, Luận án tiến sĩ lịch sử của Hoàng Mạnh Điền, Học
viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2001). Luận án đã phân tích
thực trạng công tác vận động giáo dân của TCCSĐ (cấp xã) đồng bằng Bắc Bộ,
chỉ ra những đặc điểm đặc thù và xác định yêu cầu đề xuất những giải pháp cơ
bản tăng cường công tác vận động giáo dân của các TCCSĐ (cấp xã) ở đồng
bằng Bắc Bộ hiện nay.
“Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng cấp xã ở tỉnh Vĩnh Long hiện
nay” (2002), Luận văn thạc sĩ khoa học lịch sử, chuyên ngành XDĐ Cộng sản
Việt Nam của Nguyễn Văn Bé Tư. Theo tác giả chất lượng của TCCSĐ cấp xã
là chất lượng lãnh đạo xây dựng HTCT ở cơ sở vững mạnh, chống quan liêu,
tham nhũng, lãng phí, cửa quyền, ức hiếp nhân dân, lãnh đạo hoàn thành các

nhiệm vụ kinh tế, văn hóa - xã hội, quốc phòng - an ninh và thực hiện có hiệu
quả xây dựng đảng bộ theo nghị quyết, Điều lệ Đảng. Trên cơ sở phân tích thực
trạng, nguyên nhân của thực trạng, tác giả đã đề xuất một số giải pháp nâng cao
chất lượng các đảng bộ cấp xã hiện nay.
“Chất lượng các đảng bộ xã vùng đồng bằng tỉnh Thanh Hóa giai đoạn
hiện nay” (2004), Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành XDĐ Cộng
sản Việt Nam của Lê Xuân Thành. Tác giả luận văn đã đưa ra quan niệm về chất
lượng và các tiêu chí đánh giá chất lượng, đánh giá thực trạng chất lượng các
đảng bộ xã vùng đồng bằng tỉnh Thanh Hóa, đề xuất những giải pháp chủ yếu
nhằm nâng cao chất lượng các đảng bộ xã vùng đồng bằng tỉnh Thanh Hóa hiện
nay.
“Chất lượng các đảng bộ xã có đồng bào theo đạo thiên chúa ở miền
Đông Nam Bộ hiện nay”, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị của Phạm Thanh
Kiều, Học viện Chính trị - Hành chính quốc gia Hồ Chí Minh (2008). Luận án


6
đã luận giải làm rõ vai trò, chức năng, đặc điểm của các xã có đồng bào theo đạo
thiên chúa, phân tích những vấn đề cơ bản về chất lượng các đảng bộ xã có đồng
bào theo đạo thiên chúa ở miền Đông Nam Bộ. Trên cơ sở đánh giá thực trạng,
nguyên nhân, luận án đã xác định mục tiêu, phương hướng, đề xuất những giải
pháp chủ yếu nâng cao chất lượng các đảng bộ xã có đồng bào theo đạo thiên
chúa ở miền Đông Nam Bộ đến năm 2020.
Dương Trung Ý, Nâng cao chất lượng đảng bộ xã trong thời kỳ đẩy mạnh
công nghiệp hóa, hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn, Nxb CTQG, H, 2012.
Tác giả đã luận giải làm rõ yêu cầu nhiệm vụ đặt ra đối với các đảng bộ xã trong
thời kỳ đẩy mạnh CNH, HĐH nông nghiệp, nông thôn; thực trạng chất lượng
các đảng bộ xã và đề xuất những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng các
đảng bộ xã giai đoạn hiện nay.
* Những công trình nghiên cứu về nâng cao chất lượng CTPTĐV.

Lê Văn Lượng (2002), Nâng cao chất lượng công tác phát triển đảng
viên trong thanh niên các dân tộc thiểu số ở nông thôn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn
hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành XDĐ Cộng sản
Việt Nam. Luận văn đã phân tích đặc điểm của CTPTĐV và đối tượng đoàn
viên, thanh niên các dân tộc thiểu số ở nông thôn tỉnh Lạng Sơn; luận giải những
vấn đề cơ bản về nâng cao chất lượng CTPTĐV trong thanh niên các dân tộc
thiểu số; đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân, xác định phương hướng,
yêu cầu, đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng CTPTĐV trong
thanh niên các dân tộc thiểu số ở nông thôn tỉnh Lạng Sơn giai đoạn hiện nay.
Nguyễn Chí Tính (2004), Nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên ở các
đảng bộ xã tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học
chính trị, chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Tác giả đã đi sâu
phân tích vai trò, đặc điểm của đội ngũ đảng viên hoạt động ở các đảng bộ xã
tỉnh An Giang hiện nay, đánh giá đúng thực trạng chất lượng đội ngũ đảng viên
và chỉ ra những yêu cầu mới về chất lượng đội ngũ đảng viên. Xác định phương


7
hướng và đề xuất một số giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng đội ngũ đảng
viên ở các đảng bộ xã tỉnh An Giang trong giai đoạn hiện nay.
Nguyễn Văn Chất (2005), Nâng cao chất lượng giáo dục rèn luyện
đảng viên là học viên người dân tộc thiểu số đào tạo cán bộ chính trị cấp
phân đội ở Học viện Chính trị Quân sự trong giai đoạn hiện nay, Luận văn
thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành XDĐ Cộng sản Việt Nam. Tác giả
luận văn đã đi sâu phân tích đặc điểm của đảng viên là học viên người dân tộc
thiểu số với những nét đặc trưng về văn hóa, phong tục, tập quán, cá tính, tâm
lý. Trên cơ sở đánh giá thực trạng chất lượng giáo dục rèn luyện đảng viên là
học viên, luận văn đã đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng
giáo dục rèn luyện đảng viên là học viên người dân tộc thiểu số đào tạo cán
bộ chính trị cấp phân đội ở Học viện Chính trị hiện nay.

Lê Văn Cương (2005), Công tác phát triển đảng viên trong nữ thanh niên
dân tộc thiểu số của các đảng bộ xã miền núi tỉnh Thanh Hóa trong giai đoạn
hiện nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành XDĐ Cộng sản
Việt Nam. Luận văn đã phân tích vai trò của xã và đảng bộ xã miền núi tỉnh
Thanh Hóa, đặc điểm, vai trò của nữ thanh niên dân tộc thiểu số. Luận giải
những vấn đề cơ bản về lý luận CTPTĐV trong nữ thanh niên dân tộc thiểu số;
trên cơ sở đánh giá thực trạng, phân tích nguyên nhân, xác định phương hướng,
yêu cầu, đề xuất những giải pháp cơ bản tăng cường CTPTĐV trong nữ thanh
niên dân tộc thiểu số của các đảng bộ xã miền núi tỉnh Thanh Hóa giai đoạn hiện
nay.
Nguyễn Thị Ngọc Loan (2006), Chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ
chuyên trách ở các phường thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay, Luận văn thạc
sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành xây dựng Đảng Cộng sản Việt Nam. Trong
đề tài này, tác giả đã đi sâu phân tích làm rõ cơ sở lý luận và thực tiễn của vai
trò chất lượng đội ngũ đảng viên của các đảng bộ phường thành phố Hà Nội giai
đoạn hiện nay. Từ đó, xác định phương hướng và đề xuất những giải pháp chủ


8
yếu góp phần nâng cao chất lượng đội ngũ đảng viên là cán bộ chuyên trách của
các phường thành phố Hà Nội giai đoạn hiện nay.
Nguyễn Văn Hào (2013), Đẩy mạnh công tác phát triển đảng viên trong
thanh niên của các đảng bộ xã ở Thành phố Đà Nẵng giai đoạn hiện nay, Luận
văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành XDĐ Cộng sản Việt Nam. Tác giả
đã phân tích làm rõ đặc điểm, nhiệm vụ của các đảng bộ và CTPTĐV của các
đảng bộ xã ở Thành phố Đà Nẵng, đề xuất những giải pháp đẩy mạnh CTPTĐV
trong thanh niên của các đảng bộ xã ở Thành phố Đà Nẵng.
Ngoài ra, trên phạm vi cả nước còn có một số công trình khoa học, luận
văn thạc sĩ, luận án tiến sĩ, sách, các bài báo viết nghiên cứu về nâng cao chất
lượng đảng viên, xây dựng ĐNĐV như: Nguyễn Văn Giang, Nâng cao chất

lượng đảng viên là người theo đạo ở các tỉnh vùng đồng bằng sông Hồng trong
giai đoạn hiện nay, Luận án tiến sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành XDĐ Cộng
sản Việt Nam, Học viện Chính trị Hồ Chí Minh, 2003. Ban Tổ chức Trung ương
- Tạp chí XDĐ, Nâng cao chất lượng tổ chức cơ sở đảng và đảng viên, 2004,
T1. Ban Tổ chức Trung ương - Tạp chí XDĐ, Nâng cao chất lượng tổ chức cơ
sở đảng và đảng viên - 2005 - T2. Hà Sơn Long (2006), Xây dựng đội ngũ đảng
viên là người dân tộc thiểu số ở các đảng bộ xã tỉnh Cao Bằng giai đoạn hiện
nay, Luận văn thạc sĩ khoa học chính trị, chuyên ngành XDĐ Cộng sản Việt
Nam, Học viện CTQG Hồ Chí Minh. Ban Tổ chức Trung ương - Tạp chí XDĐ,
Phát triển đảng viên ở “Thủ đô gió ngàn” - 2013 – T33. Ban Chấp hành Trung
ương - Tạp chí Cộng sản, Xây dựng đội ngũ cán bộ vùng dân tộc thiểu số - 2014
- T21. Ban Tổ chức Trung ương - Tạp chí XDĐ, Xây dựng đội ngũ cán bộ cơ sở
người Khmer các tỉnh Tây Nam Bộ - 2014 – T35. Ban Chấp hành Trung ương Tạp chí Cộng sản, Bắc Ninh nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của
tổ chức cơ sở đảng và chất lượng đảng viên - 2014 – T14.
Các công trình khoa học, luận văn, luận án nêu trên của các cơ quan,
các tác giả đã đi sâu phân tích những vấn đề lý luận, thực tiễn chất lượng


9
đảng viên và xây dựng ĐNĐV, đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao chất
lượng ĐNĐV nói chung hoặc một đối tượng đảng viên cụ thể.
Ngoài ra còn một số bài báo đăng trên các tạp chí chuyên ngành, một số
cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ khoa học đề cập đến CTPTĐV và xây dựng,
giáo dục rèn luyện ĐNĐV.
Nhìn tổng quát, trong những năm qua các công trình nghiên cứu có liên
quan đến đề tài luận văn đã công bố. Những công trình đó đã dựa chắc vào học
thuyết Mác - Lênin về chính đảng cách mạng của giai cấp công nhân, tư tưởng
Hồ Chí Minh về Đảng và XDĐ, quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về xây
dựng, chỉnh đốn Đảng nói chung và CTPTĐV nói riêng, để luận giải những vấn
đề cơ bản về lý luận, thực tiễn CTPTĐV, đưa ra quan niệm về chất lượng, phân

tích thực trạng, nguyên nhân, đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao chất
lượng CTPTĐV và xây dựng ĐNĐV.
Tuy nhiên, do đối tượng, mục tiêu, nhiệm vụ, nội dung, phạm vi, phương
pháp nghiên cứu của mỗi công trình khác nhau. Do đó, cho đến nay chưa có
công trình nào đi sâu nghiên cứu một cách cơ bản hệ thống, toàn diện, cụ thể về
chất lượng CTPTĐV là người dân tộc Khmer của các đảng bộ xã ở tỉnh Bạc
Liêu hiện nay.
3. Mục đích, nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
* Mục đích:
Luận giải làm rõ những vấn đề cơ bản về lý luận, thực tiễn và đề xuất
những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng CTPTĐV là người dân tộc Khmer
của các đảng bộ xã ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
* Nhiệm vụ:
Nghiên cứu những vấn đề cơ bản về chất lượng CTPTĐV là người dân
tộc Khmer của các đảng bộ xã ở tỉnh Bạc Liêu.
Đánh giá đúng thực trạng, chỉ rõ nguyên nhân và rút ra một số kinh
nghiệm nâng cao chất lượng CTPTĐV là người dân tộc Khmer của các đảng bộ
xã ở tỉnh Bạc Liêu.


10
Xác định yêu cầu và đề xuất những giải pháp cơ bản nâng cao chất lượng
CTPTĐV là người dân tộc Khmer của các đảng bộ xã ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
4. Đối tượng, phạm vi nghiên cứu của đề tài
* Đối tượng nghiên cứu:
Chất lượng CTPTĐV là người dân tộc Khmer của các đảng bộ xã ở tỉnh
Bạc Liêu.
* Phạm vi nghiên cứu:
Luận văn tập trung nghiên cứu chất lượng CTPTĐV là người dân tộc
Khmer của các đảng bộ xã ở tỉnh Bạc Liêu. Phạm vi điều tra khảo sát là các xã

có đông đồng bào dân tộc Khmer: xã Hưng Hội, huyện Vĩnh Lợi; xã Vĩnh Bình,
huyện Hòa Bình và xã Lộc Ninh, huyện Hồng Dân. Các tư liệu, số liệu phục vụ
nghiên cứu đề tài giới hạn từ năm 2005 đến nay.
5. Cơ sở lý luận, thực tiễn và phương pháp nghiên cứu đề tài
* Cơ sở lý luận:
Cơ sở lý luận của luận văn là những nguyên lý cơ bản của chủ nghĩa
Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, các quan điểm, đường lối của Đảng về
XDĐ; Điều lệ Đảng và văn kiện Đại hội toàn quốc lần thứ XI của Đảng; các
nghị quyết, chỉ thị, quy định của Ban Chấp hành Trung ương, Bộ Chính trị,
Ban Bí thư và Ban Tổ chức Trung ương; các nghị quyết, chỉ thị, hướng dẫn
của tỉnh ủy và ban tổ chức tỉnh ủy Bạc Liêu về CTPTĐV và xây dựng ĐNĐV.
Luận văn có kế thừa, tham khảo kết quả nghiên cứu của các công trình khoa
học có liên quan.
* Cơ sở thực tiễn:
Hiện thực CTPTĐV là người dân tộc Khmer của các đảng bộ xã ở tỉnh
Bạc Liêu; tham khảo các tài liệu, số liệu trong các báo cáo tổng kết về công tác
XDĐ, CTPTĐV của huyện ủy và ban tổ chức các huyện ủy, của tỉnh ủy và ban
tổ chức tỉnh ủy Bạc Liêu từ năm 2005 đến nay và các số liệu điều tra, khảo sát
của tác giả.
* Phương pháp nghiên cứu:


11
Trên cơ sở phương pháp luận chủ nghĩa Mác - Lênin, đề tài sử dụng tổng
hợp các phương pháp nghiên cứu của khoa học chuyên ngành và liên ngành,
trong đó chú trọng các phương pháp: logic và lịch sử, phân tích, tổng hợp, thống
kê, so sánh, điều tra khảo sát, tổng kết thực tiễn và phương pháp xin ý kiến
chuyên gia.
6. Ý nghĩa của đề tài
Kết quả nghiên cứu của luận văn cung cấp thêm cơ sở khoa học giúp cho

các cấp ủy, đảng bộ, chi bộ của các xã, phường, thị trấn của tỉnh Bạc Liêu trong
lãnh đạo, chỉ đạo CTPTĐV là người dân tộc Khmer hiện nay.
Đề tài có thể sử dụng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu, giảng dạy,
học tập môn XDĐ ở các học viện, nhà trường trong và ngoài quân đội.
7. Kết cấu của luận văn
Kết cấu của luận văn gồm: Mở đầu, 2 chương (4 tiết), kết luận, danh mục
tài liệu tham khảo và phụ lục.


12
Chương 1
CHẤT LƯỢNG CÔNG TÁC PHÁT TRIỂN ĐẢNG VIÊN
LÀ NGƯỜI DÂN TỘC KHMER CỦA CÁC ĐẢNG BỘ XÃ
Ở TỈNH BẠC LIÊU - NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN

1.1. Các đảng bộ xã và chất lượng công tác phát triển đảng viên là
người dân tộc Khmer của các đảng bộ xã ở tỉnh Bạc Liêu
1.1.1. Các đảng bộ xã và công tác phát triển đảng viên là người dân tộc
Khmer của các đảng bộ xã ở tỉnh Bạc Liêu
* Khái quát về tỉnh Bạc Liêu.
Bạc Liêu là tỉnh thuộc bán đảo Cà Mau miền đất cực Nam của Tổ quốc.
Cách thành phố Hồ Chí Minh 280 km, thành phố Cần Thơ 110 km về phía Bắc và
cách thành phố Cà Mau 67 km về phía Nam. Phía Bắc giáp các tỉnh Hậu Giang và
Kiên Giang, Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Sóc Trăng, Tây và Tây Nam giáp tỉnh
Cà Mau, Đông và Đông Nam giáp biển Đông. Bạc Liêu có diện tích tự nhiên
2.570 km2, bằng 1/16 diện tích vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Có bờ biển dài
56 km, với các cửa biển quan trọng như: Gành Hào, Cái Cùng, Nhà Mát, là nơi
trung chuyển hàng hóa của nhiều cơ sở kinh tế trong và ngoài tỉnh.
Theo số liệu thống kê dân số tỉnh Bạc Liêu năm 2010 là 867.750 người,
bằng 5,02% dân số vùng Đồng bằng sông Cửu Long và gần bằng 1% dân số cả

nước. Mật độ dân số trung bình là 338 người/km 2. Về giới tính, dân số nam
chiếm 49,85%, nữ chiếm 50,15%. Dân số khu vực thành thị là 26,53%, khu vực
nông thôn là 73,47%. Tỷ lệ tăng dân số tự nhiên là 1,22%. Trong các dân tộc
sinh sống ở Bạc Liêu, người kinh có 779.910 người, chiếm 89,87%; người
Khmer có 67.625 người, chiếm 7,79%; người Hoa 20.215 người, chiếm 2,34%,
còn lại là các dân tộc khác.
Bạc Liêu hiện có 06 huyện và 01 thành phố thuộc tỉnh gồm: huyện Vĩnh
Lợi, Hòa Bình, Hồng Dân, Phước Long, Đông Hải, Giá Rai và thành phố Bạc


13
Liêu; có 64 đơn vị cấp xã (xã, phường, thị trấn). Trong đó, có 07 phường, 07 thị
trấn và 50 xã.
Kinh tế, xã hội ở Bạc Liêu những năm gần đây có sự phát triển. Tốc độ
tăng trưởng GDP bình quân giai đoạn 2006 - 2010 là 11,57%/năm. Cơ cấu kinh
tế có sự chuyển dịch đúng hướng, các ngành phi nông nghiệp phát triển nhanh
theo hướng hiện đại hóa nông nghiệp, nông thôn để thu hút lao động, nâng cao
mức sống nhân dân. Văn hóa, xã hội có nhiều tiến bộ, đời sống vật chất và tinh
thần của nhân dân được nâng lên rõ rệt, hạ tầng cơ sở điện, đường giao thông,
trường học, trạm y tế... đã được đầu tư xây dựng đồng bộ.
Các dân tộc thiểu số trên địa bàn tỉnh phần lớn sống đan xen trong cộng
đồng, chung sống thuận hòa, cùng nhau lao động, sản xuất, phát triển kinh tế, xã
hội, nâng cao đời sống. Tuy nhiên, do điều kiện tự nhiên, phong tục tập quán, trình
độ phát triển không đồng đều nên người dân tộc Khmer phần đông có đời sống khó
khăn hơn các dân tộc khác. Người Hoa tập trung nhiều ở các đô thị, hoạt động sản
xuất công nghiệp, tiểu thủ công nghiệp và buôn bán có mức thu nhập khá hơn.
Trong khi đó người Khmer sinh sống tập trung ở các phum, sóc, ở vùng sâu, vùng
xa, đời sống gặp nhiều khó khăn. Những năm gần đây, nhờ chương trình 134,
chương trình 135 đã được đầu tư nhiều công trình phục vụ sản xuất và dân sinh nên
cuộc sống của đồng bào Khmer đã được nâng lên rõ rệt, tỷ lệ hộ nghèo người dân

tộc Khmer năm 2000 là 72% đến năm 2010 giảm xuống còn 26%, cơ bản được giải
quyết về nhà ở, đất sản xuất và việc làm.
Tuy nhiên, tình hình kinh tế, xã hội của tỉnh Bạc Liêu vẫn còn nhiều khó
khăn, chậm phát triển so với các tỉnh bạn trong khu vực. Đời sống một bộ phận
nhân dân cũng còn nghèo, đặc biệt là vùng sâu, vùng căn cứ kháng chiến cũ,
vùng đồng bào dân tộc Khmer. Khoảng cách giàu nghèo ở vùng nông thôn so
với thành thị ngày càng tăng; số lao động không có việc làm và việc làm không
ổn định, nhất là một tỉnh thế mạnh chủ yếu là sản xuất nông nghiệp nhưng trước
tình hình sản xuất nông nghiệp đang gặp rất nhiều khó khăn như hiện nay là


14
những vấn đề nan giải đang đặt ra đối với cấp ủy, chính quyền cần phải giải
quyết.
Mặt khác, HTCT ở cơ sở tuy đã được thường xuyên củng cố, xây dựng,
nhưng chưa thật hiệu quả, chưa đáp ứng được yêu cầu của tình hình mới. Chất
lượng TCCSĐ và đảng viên còn nhiều hạn chế, là một tỉnh có đông đồng bào
dân tộc Khmer sinh sống nhưng tổ chức đảng và đảng viên là người Khmer ít,
chất lượng thấp. Bên cạnh đó, tình hình trong dân tộc Khmer nổi lên một số vấn
đề nhạy cảm, phức tạp, một số đối tượng lợi dụng vấn đề dân tộc, tôn giáo phản
động, chống phá Đảng và nhà nước ta, chúng mốc nối, cài cắm lực lượng ngầm,
lôi kéo, mua chuộc, dụ dỗ đồng bào trong dân tộc Khmer khiếu kiện, vượt biên
qua biên giới Campuchia trái phép, kích động đấu tranh đòi lại cái gọi là “Nhà
nước Khmer Krôm”, gây rối an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội ở địa
phương.
Những đặc điểm trên đây là cơ sở thực tiễn quan trọng để xác định đúng
nội dung, yêu cầu và đề xuất những giải pháp chủ yếu nâng cao chất lượng
CTPTĐV là người dân tộc Khmer của các đảng bộ xã ở tỉnh Bạc Liêu hiện nay.
* Đặc điểm tình hình dân tộc Khmer các xã ở tỉnh Bạc Liêu.
Đồng bào dân tộc Khmer ở tỉnh Bạc Liêu có 66.954 người, chiếm gần

7,66% dân số toàn tỉnh, đa số đồng bào sinh sống tại các xã, ấp vùng sâu, vùng
xa, có đời sống kinh tế khó khăn. Đồng bào dân tộc Khmer có phong tục, tập
quán và đặc trưng văn hóa riêng, góp phần tạo nên bản sắc văn hóa đa dạng ở Bạc
Liêu.
Các xã có đông đồng bào dân tộc Khmer sinh sống như: xã Hưng Hội của
huyện Vĩnh Lợi; xã Vĩnh Bình của huyện Hòa Bình; xã Lộc Ninh của huyện
Hồng Dân.
Dân tộc Khmer có truyền thống văn hóa lâu đời. Trong quá trình phát
triển, văn hóa dân tộc Khmer đã định hình và phản ánh thực tế văn hóa phong
phú và đa dạng của nhiều thế hệ người Khmer. Đó là việc hình thành và phát


15
triển hệ thống chữ viết, phong tục, tập quán, lối sống, tôn giáo, tín ngưỡng và lễ
nghi của dân tộc mình.
Đặc trưng nổi bật trong lối sống của đồng bào dân tộc Khmer là hình thức tổ
chức cư trú theo phum, sóc. Phum, sóc là những đơn vị cư trú trong tổ chức xã hội
cổ truyền của đồng bào dân tộc Khmer, ràng buộc nhau bởi các quan hệ về phong
tục, tập quán, lễ nghi mà ngôi chùa là trung tâm điều khiển. Theo truyền thống,
việc quản lý phum, sóc thuộc về một Ban quản trị mà người đứng đầu được gọi là
“Mê phum”, “Mê sóc”. Những thành viên trong Ban quản trị được nhân dân tuyển
chọn trong số những người đàn ông lớn tuổi, có uy tín, có trình độ học vấn, hiểu
biết phong tục, tập quán của cộng đồng và có tinh thần trách nhiệm cao đối với
người dân. Trách nhiệm của Ban quản trị, Mê phum, Mê sóc là thay mặt nhân dân
trong phum, sóc điều hành các công việc chung của phum, sóc, quan hệ với các
cộng đồng bên ngoài; đặc biệt là quan hệ với nhà chùa. Chùa Khmer là ngôi nhà
chung của đồng bào dân tộc Khmer, nơi họ gửi gắm hầu như trọn vẹn niềm tin, sự
kính trọng vào Đức Phật, mà hiện thân trực tiếp là các vị Hòa thượng, Thượng tọa,
Đại đức, nhà sư… Đối với mỗi người dân Khmer, những sinh hoạt nghi lễ trong
nhà chùa có ý nghĩa đặc biệt quan trọng về tâm linh. Mỗi người có thể ít nhiều hoặc

không tham gia các công việc của xã, ấp, nhưng không thể không tham gia công
việc của nhà chùa, vì lợi ích tinh thần của họ hầu như gắn bó với chùa nhiều hơn là
gắn bó với xã, ấp. Mặc dù đang sống trong một xã hội hiện đại với nhiều nét đổi
thay do công cuộc đổi mới đất nước đem lại, song các thiết chế văn hóa, xã hội cổ
truyền vẫn đang ảnh hưởng và chi phối cuộc sống hằng ngày của người dân
Khmer.
Trong lối sống của đồng bào dân tộc Khmer nổi bật là tính cộng đồng, tinh
thần đoàn kết, tương thân tương ái, đùm bọc, giúp đỡ lẫn nhau; đồng bào luôn
cần cù trong lao động sản xuất, chịu thương, chịu khó.
Được sự quan tâm của Đảng và nhà nước, nhất là từ khi thực hiện Chỉ thị
68-CT/TW, ngày 18/4/1991 của Ban Bí thư (khóa VI) về công tác ở vùng đồng
bào dân tộc Khmer, Nghị quyết Trung ương 7 (khóa IX) về công tác dân tộc, các


16
chương trình mục tiêu quốc gia 134, 135… nên đời sống mọi mặt trong đồng
bào dân tộc Khmer có sự thay đổi rõ rệt, trình độ dân trí được nâng cao đáng kể,
đẩy lùi các hủ tục lạc lậu. Trong đó, đi đầu là lực lượng thanh niên trẻ họ không
những hăng hái trong lao động sản xuất, phát triển kinh tế mà còn tích cực trong
các phong trào của Đoàn, của Hội. Từ những chủ trương, đường lối của Đảng,
chính sách pháp luật của Nhà nước, ngày nay đồng bào dân tộc Khmer luôn mở
rộng giao lưu về văn hóa - xã hội, làm ăn kinh tế và đồng bào đang tiếp cận dần
với nền kinh tế thị trường. Nhiều tấm gương, mô hình sản xuất, kinh doanh giỏi
là người dân tộc Khmer xuất hiện. Điều đó chứng tỏ đồng bào dân tộc Khmer ở
tỉnh Bạc Liêu đã và đang phát huy tính tích cực, chủ động, sáng tạo của mình
trong công cuộc đổi mới xây dựng đất nước.
Đời sống vật chất được nâng lên, góp phần làm cho đời sống tinh thần
trong đồng bào dân tộc Khmer thêm phong phú. Họ rất phấn khởi, tin tưởng vào
Đảng và chính quyền, do vậy đồng bào đã tham gia tích cực vào các tổ chức
chính trị - xã hội, như Đoàn thanh niên, Hội phụ nữ, Hội nông dân…, các đoàn

viên, hội viên ngày càng có xu hướng tích cực phấn đấu vào Đảng.
* Các đảng bộ xã ở tỉnh Bạc Liêu - Đặc điểm, vai trò, chức năng, nhiệm
vụ.
Đặc điểm:
Với dân số thuộc vào loại thấp nhất Đồng bằng sông Cửu Long, Bạc Liêu
là đảng bộ có số đảng viên tương đối ít. Số đảng bộ xã cũng chiếm tỷ lệ thấp so
với TCCSĐ toàn tỉnh (18,6%). Tuy nhiên, số lượng đảng viên nông thôn lại
chiếm tỷ lệ khá cao. Theo số liệu thống kê của Ban Tổ chức Tỉnh ủy Bạc Liêu
cuối năm 2013, toàn tỉnh có 344 TCCSĐ với 20.254 đảng viên. Trong đó, chỉ có
50 đảng bộ xã, với 8.391 đảng viên, chiếm tới 41,42% tổng số đảng viên toàn
tỉnh.
Tất cả 50 xã ở tỉnh Bạc Liêu đều thành lập đảng bộ theo quy định và có số
lượng đảng viên trên 30 đồng chí, trực thuộc đảng bộ xã đa số là các chi bộ ấp,
cách sắp xếp các chi bộ tương đối hợp lý theo địa bàn ấp, liên ấp, khu dân cư,


17
một số chi bộ đông đảng viên có chia tổ đảng, không có thành lập đảng bộ bộ
phận dưới các đảng bộ xã.
Ở các đảng bộ xã, số lượng đảng viên cũng không đồng đều và do đó số
chi bộ trực thuộc cũng rất khác nhau. Đa số đảng viên ở các đảng bộ xã có tuổi
đời trẻ (bình quân là 32,7 tuổi), hăng hái trong lao động sản xuất và nhiệt tình
trong công tác, tuổi đời đảng viên mới kết nạp cũng ngày càng trẻ hóa. Đây là
những điều kiện thuận lợi để đảng viên ở các đảng bộ xã đi đầu trong tiếp nhận
tiến bộ khoa học, kỹ thuật và hướng dẫn nông dân áp dụng vào phát triển sản
xuất.
Trình độ học vấn của các đảng viên ở các đảng bộ xã thấp hơn so với
trình độ học vấn của đảng viên ở các loại hình TCCSĐ khác. Tuy nhiên, đặc
điểm nổi bật của ĐNĐV ở các xã là không có đảng viên mù chữ. Dù trình độ khi
mới kết nạp của đảng viên ngày càng nâng cao và tuổi đời ngày càng trẻ hóa,

nhưng nhìn chung trình độ, năng lực của ĐNĐV ở xã còn hụt hẫng so với nhu
cầu phát triển của xã hội, một bộ phận đảng viên, đặc biệt là đảng viên Khmer
còn có khó khăn về đời sống.
ĐNĐV và các tổ chức đảng trực thuộc của các đảng bộ xã là tương đối
thuần nhất: phần lớn đảng viên là nông dân và cán bộ tham gia trực tiếp hoặc
gián tiếp công tác đảng, nhà nước, đoàn thể ở xã và cán bộ ấp. Số đảng bộ có
đảng viên là người dân tộc Khmer không nhiều (3,12%). Một số lượng rất nhỏ
đảng viên là cán bộ nghỉ hưu, mất sức (0,2%), gốc tôn giáo (0,51%). Trong số
551 chi bộ thuộc 50 đảng bộ xã thì có tới 489 (89%) chi bộ ấp và liên ấp, số còn
lại là chi bộ cơ quan và trường học, một số chi bộ khu dân cư nằm ở địa bàn ven
quốc lộ có đặc thù tương đối khác tạo nên sự đa dạng trong hoạt động lãnh đạo
của các đảng bộ xã. Các đảng bộ xã thực hiện nhiệm vụ lãnh đạo phát triển kinh
tế nông nghiệp, nông thôn với cơ cấu kinh tế phong phú, đa dạng, kinh tế nông
nghiệp giữ vai trò chủ yếu. Kinh tế công nghiệp, thương nghiệp, dịch vụ trên các
địa bàn xã còn nhỏ bé.
Chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ xã:


18
Các đảng bộ xã ở tỉnh Bạc Liêu là loại hình TCCSĐ ở xã, có chức năng,
nhiệm vụ theo Quy định số 95-QĐ/TW, ngày 03/3/2004 của Ban Bí thư Trung
ương Đảng về chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ, chi bộ cơ sở xã. Theo quy định
này, chức năng, nhiệm vụ của đảng bộ xã được cụ thể hóa thành những điểm
chủ yếu sau:
Chức năng: Đảng bộ cơ sở xã ở tỉnh Bạc Liêu là hạt nhân chính trị, lãnh đạo
thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, xây dựng HTCT ở xã vững mạnh, nông thôn
giàu đẹp, văn minh; không ngừng nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân
dân, động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với Nhà nước.
Nhiệm vụ:

Thứ nhất, lãnh đạo việc thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, an
ninh, quốc phòng.
Trong lãnh đạo phát triển kinh tế - xã hội, các đảng bộ xã lãnh đạo toàn diện,
tức là các đảng bộ xã xác định nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội và lãnh đạo tổ
chức thực hiện. Nhiệm vụ trọng tâm của các đảng bộ xã là tạo môi trường thuận lợi
để phát triển sản xuất, kinh doanh, dịch vụ, nâng cao đời sống vật chất và tinh thần
cho nhân dân; động viên nhân dân làm tròn nghĩa vụ đối với nhà nước; xây dựng
nông thôn mới giàu đẹp, văn minh. Lãnh đạo chính quyền thực hiện đúng chức
năng quản lý nhà nước, chăm lo phát triển sự nghiệp văn hóa, giáo dục, y tế, bảo vệ
môi trường, thực hiện các chính sách an sinh xã hội.
Lãnh đạo thực hiện nhiệm vụ quốc phòng toàn dân và chính sách hậu
phương quân đội, giữ vững an ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội; ngăn chặn
và đẩy lùi các tệ nạn xã hội.
Thứ hai, lãnh đạo công tác tư tưởng.
Các đảng bộ xã tiến hành công tác tư tưởng trong đảng bộ và lãnh đạo
công tác tư tưởng trong nhân dân; xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh ở
khu dân cư, xóm ấp và trong từng gia đình, tuyên truyền và nhân rộng các nhân
tố tích cực trên mọi lĩnh vực. Tuyên truyền và vận động cho nhân dân hiểu và


19
chấp hành đúng đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà
nước và các nhiệm vụ của địa phương; kịp thời nắm bắt tâm tư, nguyện vọng
của các tầng lớp nhân dân để giải quyết hoặc báo cáo lên cấp trên giải quyết.
Lãnh đạo đấu tranh chống các quan điểm sai trái, những hành vi nói, viết và làm
trái đường lối, chủ trương, nghị quyết của Đảng, pháp luật của Nhà nước; chống
tư tưởng cơ hội, bảo thủ và các hủ tục lạc hậu; chống các biểu hiện suy thoái về
tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống trong một bộ phận cán bộ, đảng viên.
Thứ ba, lãnh đạo công tác tổ chức, cán bộ.
Các đảng bộ xã lãnh đạo xây dựng chính quyền, các tổ chức trong HTCT,

các đơn vị kinh tế, sự nghiệp ở cơ sở vững mạnh; tiến hành các khâu của công
tác cán bộ, xây dựng và thực hiện quy hoạch, kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán
bộ, tích cực tạo nguồn cán bộ tại chỗ. Xây dựng quy chế về công tác tổ chức,
cán bộ; quản lý và kiểm tra việc thực hiện chính sách đối với cán bộ cơ sở; đề
xuất ý kiến trong việc lựa chọn, giới thiệu cán bộ tham gia các cơ quan của
Đảng, chính quyền, đoàn thể ở cấp trên và cán bộ chủ chốt ở cơ sở do cấp trên
quản lý.
Thứ tư, lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân.
Các đảng bộ xã lãnh đạo xây dựng Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân
ở xã vững mạnh, thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ theo quy định của pháp luật và
điều lệ của mỗi đoàn thể. Thực hiện tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước về xây
dựng khối đại đoàn kết toàn dân, phát huy quyền làm chủ của nhân dân, về công tác
dân tộc, tôn giáo. Lãnh đạo Mặt trận Tổ quốc và các đoàn thể nhân dân tham gia xây
dựng, bảo vệ đường lối, chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước và
các nhiệm vụ của địa phương.
Thứ năm, xây dựng tổ chức đảng.
Các đảng bộ xã tiến hành các hoạt động XDĐ; đề ra nhiệm vụ, giải pháp
xây dựng đảng bộ, chi bộ trong sạch, vững mạnh, gắn liền với việc xây dựng,
củng cố HTCT ở cơ sở, nâng cao NLLĐ, SCĐ của TCCSĐ; thực hiện đúng
nguyên tắc tổ chức và sinh hoạt đảng. Giáo dục, rèn luyện ĐNĐV; xây dựng kế


20
hoạch và biện pháp quản lý, phân công nhiệm vụ và tạo điều kiện để đảng viên
hoàn thành nhiệm vụ, làm tốt nhiệm vụ động viên, khen thưởng, kỷ luật đảng
viên và công tác tạo nguồn, phát triển đảng viên. Xây dựng cấp ủy và bí thư cấp
ủy đảm bảo tiêu chuẩn về phẩm chất, năng lực, thực sự là trung tâm đoàn kết,
hoạt động có hiệu quả. Cấp ủy thường xuyên kiểm tra tổ chức đảng và đảng viên
chấp hành kỷ luật của Đảng, pháp luật của Nhà nước và quy định của Bộ Chính
trị về những điều đảng viên không được làm.

Vai trò của các đảng bộ xã:
Vai trò của các đảng bộ xã ở tỉnh Bạc Liêu xuất phát từ luận điểm khoa
học của chủ nghĩa Mác - Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh, quan điểm của Đảng ta
về vai trò của TCCSĐ và được kiểm nghiệm, khẳng định. C. Mác, F.Ăngghen,
V.I. Lênin cho rằng: TCCSĐ là nền tảng của Đảng và hạt nhân chính trị ở cơ sở;
là nơi quản lý, giáo dục, rèn luyện đảng viên; nơi Đảng thực hiện các nhiệm vụ
tuyên truyền, giác ngộ quần chúng công nhân, nông dân, lãnh đạo họ đấu tranh
chống giai cấp tư sản, bọn áp bức, bóc lột, giành chính quyền, xây dựng chủ
nghĩa xã hội. Như vậy, theo quan điểm của các nhà kinh điển Mác - Lênin, vai
trò hạt nhân chính trị của TCCSĐ được thể hiện trên hai phương diện: đối với
bản thân Đảng, TCCSĐ là nền tảng của Đảng; đối với xã hội, TCCSĐ là hạt
nhân chính trị của các cơ sở xã hội.
Chủ tịch Hồ Chí Minh kế thừa, phát triển luận điểm nêu trên phù hợp với
nước ta, Người viết: “Để lãnh đạo cách mạng, Đảng phải mạnh. Đảng mạnh là
do chi bộ tốt, chi bộ tốt là do các đảng viên đều tốt” [31, tr. 113]. Đồng thời,
khẳng định vai trò TCCSĐ, đặc biệt là chi bộ đối với sự vững mạnh của Đảng và
thắng lợi của cách mạng, là nơi trực tiếp giáo dục, rèn luyện đảng viên.
Trong suốt quá trình xây dựng và trưởng thành, Đảng ta luôn quan tâm
đặc biệt đến các TCCSĐ. Bởi vậy, các TCCSĐ luôn giữ vai trò là nền tảng và là
hạt nhân lãnh đạo chính trị, bảo đảm cho đường lối, chính sách của Đảng được
cụ thể hóa và thực hiện thắng lợi. Điều lệ Đảng Cộng sản Việt Nam (khóa XI)
chỉ rõ: “TCCSĐ (chi bộ cơ sở, đảng bộ cơ sở) là nền tảng của Đảng, là hạt nhân
chính trị ở cơ sở” [21, tr. 35].


21
Thực tiễn cách mạng nước ta đã chứng minh vai trò đặc biệt quan trọng
của TCCSĐ, nhất là trong giai đoạn đổi mới hiện nay thì vai trò của TCCSĐ,
trong đó có các đảng bộ xã trong cả nước nói chung và ở tỉnh Bạc Liêu nói riêng
lại càng quan trọng.

Các đảng bộ xã ở tỉnh Bạc Liêu là nền tảng của Đảng ở nông thôn, là loại
hình tổ chức chiếm phần lớn tổ chức đảng và đảng viên của đảng bộ tỉnh, là nơi
trực tiếp quản lý, giáo dục, rèn luyện và phát triển ĐNĐV ở nông thôn. Các
đảng bộ xã là hạt nhân chính trị ở xã, trực tiếp lãnh đạo giai cấp nông dân thực
hiện các đường lối, chủ trương của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước,
nhất là đường lối phát triển nông nghiệp, xây dựng nông thôn mới; có vai trò
quan trọng trong xây dựng khối đại đoàn kết toàn dân, thế trận an ninh nhân dân,
quốc phòng toàn dân, là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, nắm bắt tâm tư, nguyện
vọng chính đáng của nông dân để phản ánh với Đảng. Nơi nhân dân cung cấp cho
Đảng nguồn lực, tố chất mới để tăng cường số lượng và chất lượng ĐNĐV cho
Đảng, nhất là trong đồng bào dân tộc Khmer ở Bạc Liêu.
* Quan niệm CTPTĐV là người dân tộc Khmer của các đảng bộ xã.
Trong hoạt động thực tiễn, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác - Lênin
đồng thời với việc khẳng định sức mạnh của tổ chức đã chỉ rõ cốt lõi của việc
tạo dựng tổ chức chính là phát triển đảng viên và xây dựng ĐNĐV.
Quán triệt và vận dụng sáng tạo học thuyết Mác - Lênin về XDĐ, đặc biệt
khi bàn về CTPTĐV, Hồ Chí Minh khẳng định: Đảng “cũng ở trong xã hội”, Đảng
là một cơ thể sống, tồn tại và phát triển theo quy luật khách quan, có hấp thu, có
đào thải. Đảng phải có một số lượng đảng viên nhất định mới hình thành nên tổ
chức đảng, sự nghiệp cách mạng của Đảng là sự nghiệp vĩ đại, lâu dài phải do
nhiều thế hệ chiến sĩ cộng sản tham gia gánh vác. Đảng phải liên hệ mật thiết với
quần chúng, phải không ngừng nâng cao chất lượng lãnh đạo, sức chiến đấu tương
xứng với đòi hỏi khách quan của tình hình nhiệm vụ. NLLĐ và SCĐ chỉ có thể
trên cơ sở số lượng, chất lượng ĐNĐV tương ứng. Do đó, Đảng phải thường xuyên
làm tốt CTPTĐV.


22
Tư tưởng xuyên suốt trong quan điểm của Hồ Chí Minh về phát triển
đảng viên là coi trọng chất lượng cùng với việc xác định đúng tiêu chuẩn đảng

viên, có phương hướng lựa chọn và những quy định chặt chẽ về điều kiện, thủ
tục kết nạp quần chúng vào Đảng, Người cho rằng: Đảng mạnh không chỉ do số
lượng đảng viên quyết định, số lượng đảng viên chỉ trở thành sức mạnh khi nó
đạt được những yêu cầu về chất lượng, sức mạnh của Đảng không chỉ phụ thuộc
vào số lượng, thành phần giai cấp của đảng viên mà chính là ở chất lượng đảng
viên.
Từ phân tích trên, có thể hiểu: CTPTĐV là người dân tộc Khmer của các
đảng bộ xã ở tỉnh Bạc Liêu là tổng thể các hoạt động của cấp ủy, tổ chức đảng,
các tổ chức của HTCT ở địa phương, bao gồm quá trình giới thiệu, lựa chọn,
giáo dục, bồi dưỡng, rèn luyện thử thách, kết nạp những quần chúng ưu tú là
người dân tộc Khmer vào Đảng; được tiến hành theo những nguyên tắc, quy
trình nhất định nhằm xây dựng, phát triển ĐNĐV có số lượng và cơ cấu hợp lý,
chất lượng ngày càng cao, góp phần nâng cao NLLĐ, SCĐ của các đảng bộ xã
đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ cách mạng trong giai đoạn hiện nay.
Quan niệm đã chỉ rõ:
Mục đích của CTPTĐV là người dân tộc Khmer để bổ sung số lượng đảng
viên trẻ, đảng viên là người dân tộc Khmer, tăng tỷ lệ lãnh đạo cho các chi bộ,
đảng bộ, góp phần xây dựng các đảng bộ xã trong sạch, vững mạnh.
Chủ thể tiến hành CTPTĐV là người dân tộc Khmer là hệ thống cấp ủy,
tổ chức đảng, từ Tỉnh ủy, Huyện ủy, đến đảng ủy xã, chi bộ ấp, trong đó các cấp
ủy, TCCSĐ trực tiếp tiến hành theo chức năng, phạm vi, nội dung quy định theo
Điều lệ Đảng và các chỉ thị, nghị quyết, quy định hướng dẫn của Đảng về
CTPTĐV.
Lực lượng tham gia CTPTĐV là người dân tộc Khmer của các đảng bộ xã
bao gồm các tổ chức trong HTCT ở xã, tổ chức quần chúng và đội ngũ cán bộ,
đảng viên ở cơ sở.


23
Đối tượng của CTPTĐV là những quần chúng ưu tú là người dân tộc

Khmer đang sinh sống tại địa bàn các xã ở tỉnh Bạc Liêu.
Phương châm, phương hướng: tích cực, thận trọng, coi trọng chất lượng,
không chạy theo số lượng đơn thuần, phát triển đảng phải đi đôi với củng cố tổ
chức đảng; giữ vững bản chất giai cấp công nhân, chăm lo bồi dưỡng kết nạp
những quần chúng ưu tú đủ điều kiện kết nạp vào Đảng, tập trung vào đối tượng
người dân tộc Khmer là cán bộ xã, ấp, giáo viên các trường học, đội ngũ y bác sĩ và
nhân viên các trạm y tế xã, đoàn viên, hội viên tiêu biểu của các đoàn thể, người có
uy tín và lực lượng cốt cán trong đồng bào dân tộc Khmer, các chức sắc, chức việc
và ban quản trị các chùa khmer thể hiện sự mẫu mực, có nhận thức tốt về Đảng, có
động cơ phấn đấu trong sáng, liên tục.
Nội dung quy trình phát triển đảng viên là người dân tộc Khmer của các
đảng bộ xã theo các bước: Xây dựng kế hoạch phát triển đảng viên mới là người
dân tộc Khmer; tạo nguồn, bồi dưỡng, rèn luyện nguồn, tổ chức bồi dưỡng kiến
thức về Đảng cho quần chúng ưu tú; giới thiệu quần chúng ưu tú vào Đảng; thực
hiện nghiêm các thủ tục, lập hoàn chỉnh hồ sơ phát triển đảng viên; xác minh thẩm
tra lý lịch đối tượng kết nạp Đảng, lấy ý kiến nhận xét của các tổ chức đoàn thể; chi
bộ, đảng bộ xét đề nghị kết nạp đảng viên; cấp ủy cấp trên chuẩn y kết nạp quần
chúng ưu tú là người dân tộc Khmer vào Đảng; đồng thời tiếp tục theo dõi, giáo
dục, bồi dưỡng, rèn luyện đảng viên dự bị và xét công nhận đảng viên chính
thức. Các nội dung quy trình phát triển đảng viên được tiến hành thường xuyên,
liên tục, mỗi nội dung có vị trí, vai trò nhất định, song giữa chúng có mối quan
hệ biện chứng tác động ảnh hưởng lẫn nhau và cùng tác động ảnh hưởng đến
chất lượng, hiệu quả CTPTĐV là người dân tộc Khmer của các đảng bộ xã ở
tỉnh Bạc Liêu. Vì vậy, CTPTĐV là người dân tộc Khmer của các đảng bộ xã ở
tỉnh Bạc Liêu phải chú ý thực hiện đầy đủ, có chất lượng các bước, các khâu cụ
thể, phù hợp.
Hình thức, biện pháp: Tiến hành bằng nhiều hình thức, biện pháp như:
Thông qua hoạt động của các cấp ủy, tổ chức đảng, các tổ chức, các lực lượng,



24
nhất là Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh, mở các lớp bồi dưỡng đối
tượng đảng, quản lý, giáo dục rèn luyện nguồn kết nạp thông qua hoạt động thực
tiễn, phân công đảng viên theo dõi, kèm cặp giúp đỡ quần chúng, kết hợp chặt
chẽ tuyên truyền giáo dục của đảng viên, tổ chức đảng với quá trình tự tu dưỡng
rèn luyện phấn đấu của quần chúng.
* Vai trò CTPTĐV là người dân tộc Khmer của các đảng bộ xã ở tỉnh
Bạc Liêu.
Một là, CTPTĐV là người dân tộc Khmer góp phần tăng cường số lượng,
không ngừng nâng cao NLLĐ và SCĐ của các đảng bộ xã ở tỉnh Bạc Liêu. Phát
triển đảng viên là một nội dung trong xây dựng ĐNĐV, là khâu then chốt trong
XDĐ; phát triển đảng viên là xây dựng đội ngũ của những người lãnh đạo, lực
lượng nòng cốt thực hiện nhiệm vụ chính trị ở cơ sở. Đây là nhân tố quan trọng
làm tăng số lượng, chất lượng, có cơ cấu hợp lý ĐNĐV của các đảng bộ xã, góp
phần nâng cao NLLĐ và SCĐ của các đảng bộ, chi bộ ở các xã nhằm đảm bảo
đủ sức lãnh đạo cách mạng trong tình hình mới.
Hai là, công tác phát triển ĐNĐV là người dân tộc Khmer của các đảng
bộ xã góp phần tạo nguồn đội ngũ cán bộ cho từng địa phương, tạo ra hạt nhân
cho phong trào quần chúng ở xã, ấp, trẻ hóa đội ngũ cán bộ cơ sở và xây dựng
đội ngũ cán bộ của các đảng bộ xã có chất lượng đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ
chính trị của địa phương.
Ba là, CTPTĐV là người dân tộc Khmer góp phần quan trọng tăng
cường sự lãnh đạo của Đảng đối với đồng bào Khmer, xây dựng nền tảng của
Đảng ở địa bàn nông thôn. Đội ngũ cán bộ là người dân tộc Khmer ở các đảng
bộ xã là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, là lực lượng trung gian đưa đường lối,
chủ trương, chính sách của Đảng, pháp luật của Nhà nước đến với nhân dân;
đồng thời cũng là người tổ chức cho nhân dân thực hiện thắng lợi nhiệm vụ cách
mạng của Đảng, của dân tộc. Không chỉ là cầu nối giữa Đảng với nhân dân, đội
ngũ cán bộ là người dân tộc Khmer của các đảng bộ xã còn có vai trò trung tâm
đoàn kết, khai thác, tập hợp mọi nguồn lực, trí tuệ của đảng viên và quần chúng,



25
tổ chức và phát huy sức mạnh tập thể, động viên mọi người ra sức thực hiện tốt
nhiệm vụ chính trị.
Bốn là, CTPTĐV là người dân tộc Khmer ở các xã của tỉnh Bạc Liêu góp
phần quan trọng nâng cao chất lượng ĐNĐV của các đảng bộ xã. Làm tốt
CTPTĐV là người dân tộc Khmer góp phần bổ sung số lượng đảng viên trẻ,
những người có trình độ, kiến thức, những người năng động, nhạy bén, sáng tạo
dám nghĩ, dám làm, dám chịu trách nhiệm, từ đó khắc phục tình trạng “lão hóa
đảng” ở các đảng bộ, chi bộ. Đẩy lùi những quan niệm bảo thủ, trì trệ, duy ý chí,
lối làm việc theo tập quán và tâm lý tộc người trong một bộ phận cán bộ, đảng
viên người dân tộc Khmer, góp phần nâng cao tầm trí tuệ của Đảng bộ, làm cho
Đảng bộ các xã phát triển theo kịp sự phát triển chung trong toàn tỉnh.
* Đặc điểm CTPTĐV là người dân tộc Khmer của các đảng bộ xã ở tỉnh
Bạc Liêu.
Thứ nhất, đối tượng công tác phát triển đảng của các đảng bộ xã ở tỉnh
Bạc Liêu khá đa dạng và không đồng đều. Đối tượng công tác phát triển đảng
viên là người dân tộc Khmer trên địa bàn tỉnh Bạc Liêu là cán bộ, đoàn viên,
hội viên các đoàn thể và người dân Khmer đang sinh sống, lao động, công tác
ở các xã. Do đặc thù về tập quán và điều kiện sinh sống của người dân Khmer
nên đối tượng thành phần rất đa dạng tùy thuộc vào địa bàn cư trú, trình độ học
vấn, hoạt động nghề nghiệp, vị thế xã hội trong cộng đồng, người dân tộc
Khmer có thể có vị trí, chỗ đứng khác nhau trong cộng đồng xã hội của mình:
có những người là chức sắc tôn giáo, có những người là trưởng tộc, đứng đầu
một dòng họ, có những người là cán bộ ấp, xã, đa số còn lại là những người
dân bình thường. Những người có vị thế xã hội cao trong cộng đồng dân tộc
Khmer thường được đồng bào rất kính trọng và có uy tín cao.
Thứ hai, công tác giáo dục, bồi dưỡng, tạo nguồn, phân công cán bộ,
đảng viên giúp đỡ quần chúng phấn đấu trở thành đảng viên của các chi bộ,

đảng bộ gặp nhiều khó khăn. Trình độ học vấn của đồng bào dân tộc Khmer còn
thấp, nhất là ở vùng sâu, vùng xa ít có điều kiện học tập thuận lợi để nâng cao


×